Văn Sao Tục Biên

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>68. Thư trả lời cư sĩ Lý Đức Minh</B> (hai lá thư)
(năm Dân Quốc 24 - 1935, ông này vốn có tên là Bỉnh Nam<SUP><B>(94)</B></SUP>)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Ngạn ngữ có câu: "Thiên hạ bổn thái bình, duy nhân tự nhiễu chi" (thiên hạ vốn thái bình, chỉ có con người tự khuấy rối). Người trí dùng trí để khuấy, kẻ ngu dùng dục để quậy. Mối họa do lòng dục khuấy nhiễu tuy khốc liệt, nhưng người ta còn biết được. Sự khuấy nhiễu của trí nếu chẳng phải là bậc tri kiến vượt trội sẽ chẳng thể biết được! Đã chẳng biết là khuấy nhiễu, lại ngược ngạo coi đó là đức. Đấy chính là cội nguồn gây nên đại loạn cho nước ta từ thuở mới có trời đất đến nay! Học thuyết gây lầm lạc cho con người thật đáng sợ sâu xa. Văn Vương ân trạch thấm đến xương khô không biết mấy trăm năm, nhưng phong tục giết người để tuẫn táng<SUP><B>(95)</B></SUP> phổ biến khắp thiên hạ, Mục Công là vua hiền của nước Tần còn giết một trăm bảy mươi bảy người để tuẫn táng. Ba vị họ Tử Xa<SUP><B>(96)</B></SUP> cũng chẳng vì là hiền thần của đất nước mà được miễn! Còn những kẻ chẳng hiền bèn giết chóc nhiều hơn nữa, sao nỡ nói đến!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ khi Phật pháp truyền qua phương Đông, nêu thật rành rẽ sự lý nhân quả luân hồi, những kẻ "ngoảnh mặt về phía Nam xưng Trẫm" thuộc những đời sau cũng chẳng dám làm. Dẫu ông vua bạo ác vẫn cứ muốn làm như vậy, quyết chẳng dám coi đó là vẻ vang cũng như cho là giết càng nhiều càng sang! Nếu như cõi đời không có Phật pháp, nhân dân ai được sống trọn hết tuổi thọ ư? Do vậy, tôi nói: <I>"Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh"</I>. Ông Châu An Sĩ nói: <I>"Nhân nhân tri nhân quả, đại trị chi đạo dã. Nhân nhân bất tri nhân quả, đại loạn chi đạo dã"</I> (Ai nấy biết nhân quả là đạo để thịnh trị vậy. Ai cũng chẳng biết nhân quả đấy chính là đường lối đại loạn). Họ Trình, họ Châu<SUP><B>(97)</B></SUP> thiên tư cao trỗi, ăn trộm nghĩa lý từ kinh Phật để giải thích kinh điển Nho giáo, lại sợ người ta học Phật, nên đặc biệt xướng lên dị nghĩa, cho là nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi do đức Phật đã nói đó thật ra đâu có chuyện ấy, chẳng qua Phật mượn những chuyện ấy để lừa dối ngu phu, ngu phụ tuân phụng Phật giáo đấy thôi! Hơn nữa, con người chết đi, thân xác đã hư mất, thần hồn cũng phiêu tán, dù có băm - vằm - xay - giã, còn có chỗ nào để làm? Hơn nữa, thần hồn đã phiêu tán, còn có người nào để thác sanh nữa đây?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chuyện ấy là chuyện nông cạn nhất trong đạo Phật, nhưng lại là chuyện quan trọng nhất cho quốc gia xã hội. Họ đã đề xướng nhân quả luân hồi là hư vọng, sai lầm thì thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để răn, khư khư ôm xuông "chánh tâm thành ý" để làm cái gốc dạy dân, giữ yên đất nước, chẳng biết nếu không có nhân quả luân hồi thì chánh tâm thành ý và không chánh tâm thành ý có khác biệt chi đâu, bất quá chỉ là hư danh mà thôi! Nếu đã thật sự là không có thì còn ai bận tâm đến cái hư danh ấy? Trong giới Lý Học từ đấy trở đi, không kẻ nào chẳng lén lút xem kinh Phật, nhưng không một ai chẳng bài bác Phật pháp. Do chẳng đề xướng nhân quả nên ngược ngạo coi căn bản để trị quốc, trị dân, trị tâm là bàn xằng, thấy bậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mấy trăm năm qua vẫn còn duy trì được, vẫn còn có lễ giáo trên hình thức. Đến khi gió Âu dần dần thổi sang Đông, hoàn toàn ngả rạp theo gió Âu. Do không có căn bản nhân quả luân hồi nên mới thành phóng túng, quái quỷ, xa xỉ, tà vạy, không gì chẳng làm. Bản tâm của họ Trình, họ Châu thời ấy chính là [muốn] nhờ chuyện hủy Phật để bảo vệ đạo Nho, nhưng chẳng biết hủy Phật lại trở thành hủy Nho. Như hiện nay, Ngũ Kinh, Tứ Thư đã trở thành sách bị cấm đoán, trường học dù lớn hay nhỏ đều không cho học [những sách ấy]. Đấy là chứng cớ rõ ràng! Nho và Thích vốn cùng nguồn, [bọn Lý Học] cho là tâm tánh khác hẳn với thân hình, mưu tính diệt trừ tâm tánh nhưng thân hình bị diệt trước! Nếu hai ông ấy có thiêng, sẽ chẳng cho những gì chính mình đã nói là đúng, sẽ hối hận còn không kịp! Những lời lẽ ấy tợ hồ xa cách nhưng thật ra rất gần gũi, người đọc sách nếu không hiểu rõ ràng chỗ quan yếu này thì xem kinh Phật cũng sanh lòng tín ngưỡng, đọc những sách báng Phật bên Lý Học cũng sanh lòng tín ngưỡng, Lý và Dục đánh lộn trong cùng một tâm, tự lợi và lợi tha bị chướng ngại lớn lao! Do vậy, tôi nói đại lược mối tệ ấy, mong ông hãy suy xét thì những điều tương tự sẽ đều hiểu hết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trang Hậu Trạch tuổi đã sáu mươi lăm, muốn thờ ông Tăng chỉ biết cơm cháo làm thầy, nên đặt pháp danh [cho ông ta] là Đức Phù, nghĩa là: Dùng nhân quả báo ứng, tín nguyện niệm Phật để làm pháp tự giúp mình, giúp người, khiến cho hết thảy những người đồng hàng khi sống làm bậc thánh hiền, mất đi sanh về thế giới Cực Lạc. Ông Phương Trưởng Long, tên tự là Hàn Tuyền, dùng tấm lòng trong sạch không bon chen, cạnh tranh để nhuần thấm hết thảy nên có pháp danh là Đức Trạch.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một chữ Chiến quan hệ rất sâu, ranh giới giữa lòng ham muốn của con người và thiên lý nếu chẳng tận lực chiến đấu thì lý bị lòng dục che lấp, khiến cho lý ắt bị ẩn, lòng ham muốn tỏ rõ vậy. Khổng Tử [nói] <I>"tứ thập [nhi] bất hoặc"</I> (bốn mươi tuổi không lầm lẫn) chính là [nói về] lúc lý thắng, dục bị khuất phục. <I>"Thất thập sở dục bất du củ"</I> (bảy mươi tuổi lòng ham muốn chẳng ra ngoài khuôn khổ) chính là thiên hạ thái bình, trọn không có chiến sự vậy! Khổng Tử nói: <I>"Ngã chiến tắc khắc"</I> (ta đánh trận ắt thắng). Khổng Tử suốt đời chưa hề nắm binh quyền, sao dám nói "ta đánh trận ắt thắng?" Đấy chính là ý chỉ nhỏ nhiệm của Khổng Tử nhằm dạy con người <I>"chế ngự ý niệm để thành thánh hiền"</I> vậy! Do vậy, đặt pháp danh là Đức Khắc. Thánh nhân rủ áo khoanh tay trị thiên hạ, điều cốt yếu chỉ là "vô dục". Vô dục thì không phải chiến đấu, có dục thì phải chiến đấu dài dài cho đến khi ta lẫn người đều chết hết, tấm lòng mới chịu nguội lạnh. Nếu không, ắt sẽ mong người khác chết để riêng ta còn sống, quyết chẳng nghĩ đến sự thảm khốc của chiến tranh để tạm ngừng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vu Bái Lâm nếu biết "pháp môn Tịnh Độ của đức Như Lai là trận mưa dầm cam lộ cho chúng sanh trong chín giới", có thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tự hành, dạy người thì một người xướng, trăm người hòa, nhìn nhau [bắt chước nhau] làm lành đông đảo lắm. Vì thế, đặt cho [ông ta] pháp danh là Đức Lâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông nói [bản thân] là người ở trọ, sợ không có người kế thừa. Nay bốn người này chính là những người có quê quán ở đấy, hãy nên bảo họ đem pháp môn này truyền bá vĩnh viễn. Quang giúp cho ông một tay, đem bốn mươi đồng tiền hương kính<SUP><B>(98)</B></SUP> của bọn họ hoàn toàn dùng làm chi phí gởi sách khiến cho ông và bọn họ mỗi người có cái để bắt chước theo, chuyện tự hành, dạy người sẽ có căn cứ. Tôi sẽ liệt kê một danh sách [để gởi sách đi], phàm những bộ sách lớn và nghĩa lý sâu xa, hàm súc, bốn người [các ông] mỗi người giữ một phần; phàm những sách người thông thường cũng đọc được thì tùy tiện tặng cho người ta cũng như đem cho các tù nhân. Nhưng phải thiết tha dặn họ cung kính, chớ nên giống như người bình thường đọc các sách Nho trọn chẳng cung kính tí nào, ngõ hầu được lợi ích, chẳng đến nỗi chuốc lấy tội khinh nhờn, ô uế. Chuyện này hãy xem trong bài viết về "kính trọng sách, tiếc giấy chữ", ở đây không viết cặn kẽ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Đã nhận được thư của ông và Huệ Tu v.v... từ trước, nhưng do Hoằng Hóa Xã nói: Có hai trăm cuốn Kỹ Lộ Chỉ Quy<SUP><B>(99)</B></SUP> (chỉ bảo đường rẽ) của ông Đức Khắc còn chưa gởi tới nên chưa viết thư trả lời. Ngày hôm qua, sách gởi ấy được gởi đến, Quang mục lực không đủ nên xem sơ qua hai ba bài, cảm thấy hay lắm bèn gắng sức xem ba bốn lần. Cả cuốn sách đều hay, nhưng có ba chỗ lầm lẫn, chẳng thể không nói rõ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trang năm mươi tám, dòng tám và chín, <I>"Sức Chung Tân Lương, Hoằng Hóa Xã ở Tô Châu tặng đọc"</I>, đây là một cuốn sách nhỏ nên cũng không phiền cho lắm. Trang sáu mươi hai, hàng thứ hai: <I>"Các sách Khuyến Thế Bạch Thoại Văn, Sơ Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ Nam, Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải Thích, Sức Chung Tân Lương, Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao v.v... Hoằng Hóa Xã ở Tô Châu đều tặng đọc"</I>. Những sách này đều tặng đọc thì chi phí in sách lấy đâu ra? Hiện nay người học Phật thật đông, nếu đều là tặng miễn phí thì ai chẳng muốn thỉnh? Sao không coi kỹ mà lưu thông theo giá vốn, cần thỉnh bao nhiêu thì giao cho bấy nhiêu. Lưu thông nửa giá hoặc tặng không sẽ bị hạn chế. Nếu đều là sách tặng xem thì đừng nói không có nguồn tiền để in sách, ngay cả thợ in sách và đóng sách không biết phải dùng đến bao nhiêu người mới giải quyết được chuyện này. Chuyện này do thầy Minh Đạo lo toan, Quang hoàn toàn chẳng cho chuyện lưu thông nửa giá hay hoàn toàn biếu tặng là đúng! Có người có học vấn nhưng tương đối khá giả, yêu cầu bao nhiêu bộ sách lớn ấy thì cũng chỉ tính nửa giá. Quyền biếu tặng là tại nơi ta, chứ không phải nơi người, tùy theo ý ta mà tặng. Nếu công khai mà còn có hạn chế, người ta không đọc kỹ thì cũng khó ứng phó.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng đấy vẫn là chuyện thuộc về phương diện tiền bạc, nếu người ta trách móc, cũng có thể rút lại chương trình ấy, không đáng phải bận tâm! Chỉ có trang ba mươi hai, dòng tám và chín, <I>"từ Huệ Viễn Đại Sư đời Tấn cho đến gần đây nhất là Ấn Quang đại sư vẫn còn tại thế"</I>, mười hai chữ này tôi cảm thấy thật quá thất cách. Đức Khắc [viết như vậy] với dụng ý đề cao thầy, nhưng chẳng biết đã dựng [cái đích] cho mọi mũi tên cùng bắn vào. Mười hai chữ ấy nên đổi thành <I>"Từ Huệ Viễn đại sư đời Tấn cho đến Thiện Đạo, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích, Tỉnh Am, Triệt Ngộ</I> (Triệt Ngộ chính là ngài Mộng Đông, hiện thời ở An Huy có người tên Mộng Đông, cho nên chỉ dùng tên Triệt Ngộ) <i>đều là những vị có học vấn nhất"</I>. Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, dẫu biết lợi ích của pháp môn Tịnh Độ, sao lại có thể kể vào số những vị Tổ Sư trên đây! Vì chẳng biết do ông Đức Khắc tự viết, người hiện thời sẽ nói là ông ta làm theo ý Quang, người ta ắt sẽ cho Quang mạo nhận là bậc thông gia, muốn được kể ngang hàng với Sơ Tổ của Liên Tông thì Quang mắc tội lỗi về mặt nhân cách chẳng thể tưởng tượng được! May là nỗ lực xem hết cuốn sách, chứ nếu không, sẽ không có cách gì thâu thập được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất cử nhất động của chúng ta đều giữ bổn phận, người ta sẽ không để ý hủy báng. Nếu có chút khí phận khoe khoang, tiếm vị, vượt phận thì không những kẻ thổi lông tìm vết sẽ đều cất giọng công kích, phê bình, mà ngay cả bậc quân tử đức dầy cũng sẽ vì chuyện này mà coi thường. Xin hãy bảo với Đức Khắc sửa đổi ba chỗ ấy, mà cũng không phải thêm nhiều dòng, chỉ là thêm vài chữ nơi dòng tám và chín trong trang ba mươi hai, bởi hàng kế tiếp còn có mười một chỗ trống. Sách này được lưu thông, thật sự có lợi ích lớn lao. Quang cũng không phải là người khách trọ lâu ngày trong cõi thế. Khi tôi mất rồi, phàm là đệ tử của tôi chỉ nên y theo lời dạy tu trì, đừng liên miên lan man, đem tôi là một bức tượng đất đi thếp vàng ròng, đấy là đem phàm lạm thánh, chính mình và Quang đều mắc tội lỗi. Hãy đọc những bức thư gởi cho Phan Đối Phù và Mã Khế Tây trong bộ Văn Sao.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(94) Vị này chính là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, thầy của hòa thượng Tịnh Không. Theo Tuyết Lư Lão Nhân Sự Lược trong Tuyết Lư Lão Nhân Tịnh Độ Tuyển Tập, cụ Lý Bỉnh Nam tên thật là Lý Diễm, tự là Bỉnh Nam, hiệu Tuyết Lư, pháp hiệu Đức Minh, biệt hiệu là Tuyết Tăng, hay Tuyết Tẩu, quê ở huyện Tế Nam, tỉnh Sơn Đông.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(95) Tuẫn táng: Đây là một phong tục mê tín của cổ Trung Hoa, chôn người sống theo người chết để người chết có người hầu hạ, bảo vệ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(96) Tử Xa là một họ rất cổ của đất Tần. Thời Tần Mục Công, có ba vị đại phu cùng được coi là hiền thần, cùng thuộc họ Tử Xa là Tử Xa Yểm Tức, Tử Xa Trọng Hành và Tử Xa Kiềm Hổ. Cả ba vị này đều bị vương thất nhà Tần hạ lệnh giết tuẫn táng theo Tần Mục Công.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(97) Tức Trình Di và Châu Hy, những người sáng lập ra Tống Nho, chủ trương Lý Học.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(98) Theo thông lệ, người xin quy y dâng lên vị thầy truyền giới một món tiền cúng dường gọi là "tiền hương kính" với ý nghĩa cúng cho thầy có tiền mua nhang đèn thờ Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(99) Kỹ Lộ Chỉ Quy là tác phẩm của ông Chiến Đức Khắc, được tổ Ấn Quang và cư sĩ Lý Bỉnh Nam cùng giám định. Nội dung biện định nên theo tôn giáo nào, vì sao nên học Phật, ai là người có thể học Phật, rồi nêu bật phương pháp tu học Phật pháp thiết yếu nhất chính là pháp môn Niệm Phật. Đồng thời nêu rõ cách thức hành trì pháp môn Niệm Phật và chuẩn bị cho việc lâm chung như thế nào.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>69. Thư trả lời tiên sinh Trịnh Quán Tịnh</B>
(năm Dân Quốc 20 - 1931 – đính kèm nguyên văn thư hỏi)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước kia con đọc bài văn "kính tiếc giấy chữ" [của lão pháp sư], văn từ, nghĩa lý chánh xác, quả thật là phương thuốc mầu nhiệm để cứu chữa thói tệ đương thời. Theo như trong bài Công Quá Cách của Văn Đế (Văn Xương Đế Quân) có nói: "Dùng giấy có chữ bọc kinh, lót mõ, [phạm] năm mươi lỗi". Trước kia, con gởi thư hỏi tiên sinh Nhiếp Vân Đài: "Nếu dùng giấy báo để tập luyện thư pháp, viết xong đốt đi, có mắc tội khinh nhờn hay chăng? Có nên dùng để bọc kinh điển hay không?" Tiên sinh lại dạy rằng: "Bỉ nhân cũng không tránh khỏi, nhưng cũng chẳng dám nói lời quyết đoán, xin hãy hỏi bậc cao tăng đại đức" v.v... Lại nữa, trước kia, cư sĩ Phạm Cổ Nông đã đáp lời hỏi của bỉ nhân như sau: "Kính tiếc giấy chữ thì dường như là đối với những văn tự trong báo chí, phải phân biệt xem có phải là kinh truyện của thánh hiền, có đáng để tôn trọng hay không v.v..." Những thứ giấy có chữ thông thường dùng để bao kinh sách, tập luyện thư pháp có được hay chăng? Kính xin lão pháp sư quyết đoán một lời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra, trong bài Công Quá Cách của Văn Xương Đế Quân có nói: "Đưa con đi xuất gia phạm năm mươi lỗi", nhưng kinh Phật cực lực tán dương công đức xuất gia thù thắng. Do Văn Xương Đế Quân quy y, tin tưởng Tam Bảo, từng được Phật thọ ký, sao lại nói lời ấy rất mâu thuẫn với ý chỉ trong kinh như thế, cũng rất mong cầu lão pháp sư phán định.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dùng giấy có chữ để bọc kinh hay lót mõ chẳng những là khinh nhờn giấy có chữ mà còn là khinh nhờn kinh điển, khinh nhờn đạo tràng! Ông là người đọc sách mà còn phải hỏi người khác chuyện này mấy lần ư? Dùng giấy báo để luyện viết chữ cũng không phải là không được, nhưng chớ nên viết bừa xóa loạn. Viết bừa xóa loạn sẽ trở thành thiếu ý thành kính. Ông Cổ Nông nói xét theo giá trị của chữ viết trên báo cũng gần hợp lẽ, nhưng ai dùng cái tâm ấy? Kinh truyện của thánh hiền đâu có chữ nào đặc biệt không dùng đến những chữ thông thường! Công Quá Cách nói <I>"đưa con em đi xuất gia mắc lỗi"</I> là nhằm ngăn ngừa thói tệ <I>"kẻ ác do ác tâm ruồng bỏ con em mà vẫn muốn được tiếng tốt"</I>, chứ không phải là chuyện cha - con, anh - em cùng phát Bồ Đề tâm đưa nhau đi xuất gia mà cũng bị tội. Tri kiến của ông hạn hẹp, chẳng hiểu biết viên dung, nên mỗi chuyện trong thế gian đều phải hỏi người khác nhiều lượt mà vẫn chẳng thể giải quyết được! Vì sao vậy? Do có Ngã Chấp. Tuy người khác đã giải mối nghi này cho ông, ông lại do lời giải thích mà sanh nghi, Ngã Chấp chẳng bỏ thì làm sao theo lời người ta cho được? Mấy câu nói ấy người hiểu rõ lý cố nhiên chẳng cần phải bận lòng suy tính, vì vốn đã tự hiểu rõ rồi. Nếu ông dùng tâm tư ấy để học Phật pháp thì suốt đời cũng chẳng thể vượt ra lối mòn tình tưởng phân biệt được!</P>
<span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>70. Thư trả lời cư sĩ Du Hữu Duy</B>
(năm Dân Quốc 26 - 1937)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đọc thư ông gởi đến, văn từ lẫn ý nghĩa đều hay, không thể thay đổi được, nên chẳng ghi lời phê. Ông hai mươi mốt tuổi, biết làm văn làm thơ, chính là đời trước có thiện căn, nhưng hãy nên khiêm tốn náu mình, đừng cậy thông minh khinh người, học vấn càng rộng rãi, càng cảm thấy không đủ thì sự thành tựu sau này sẽ khó thể suy lường được! Mười năm trước, pháp sư Đế Nhàn có một đồ đệ tên Hiển Ấm là người cực thông minh, xuất gia năm mười bảy, mười tám tuổi, nhưng khí lượng quá nhỏ, không chịu thua kém một chút nào! Lần đầu tiên giảng Tiểu Tòa<SUP><B>(100)</B></SUP> xong, lễ sư phụ, sư phụ trọn chẳng chê ông ta giảng không hay, chỉ nói âm thanh quá nhỏ. Do một câu nói ấy liền ngã bệnh, mà ngài Đế Nhàn là người một mực làm cho ông ta thường sanh tâm hoan hỷ. Vì thế, [Hiển Ấm] tánh kiêu ngạo tăng trưởng hằng ngày, hằng tháng. Sau này, qua Nhật Bản học Mật Tông, những bài viết nhằm hoằng dương Mật Tông của ông đều gởi đăng trên tờ lâm san của Thượng Hải Cư Sĩ Lâm. Ông tự đặt mình vào vị trí cao cả, cho rằng chỉ có ta là cao. Sau đó về nước, đến chùa Quán Tông<SUP><B>(101)</B></SUP> thăm thầy. Ngài Đế Nhàn nói: "Ông thanh danh rất lớn, tiếc là chưa thật sự dụng công, hãy nên bế quan ba năm để dụng công thì mới nên". Ông ta vừa nghe câu nói ấy như dao cứa tim, ngay bữa ấy liền sanh bệnh. Ngày hôm sau ôm cơn bệnh đi qua Thượng Hải Cư Sĩ Lâm, được hơn một năm liền mất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông ta mất không lâu, Quang đến chùa Thái Bình ở Thượng Hải, một thành viên của Cư Sĩ Lâm là Châu Thạch Tăng đến thăm, hỏi tình hình lúc Hiển Ấm mất, [ông Châu] nói: "Hồ đồ! Phật chẳng niệm được, mà chú cũng chẳng niệm được". Đấy chính là hạng đại pháp sư hiển mật viên thông, tự cảm thấy trong đời không có ai sánh bằng, do không tự lượng, cậy vào huệ căn đời trước, thành ra mới hai mươi hai, hai mươi ba tuổi đã đoản mạng, chết thành con quỷ hồ đồ, chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Nếu như Hiển Ấm chẳng tự cao, khiêm tốn náu mình thì những học giả Trung Quốc chưa chắc trỗi hơn ông ta được! Quang thương Hiển Ấm do đó mà chết nên lấy chuyện xe trước [bị đổ] để làm gương cho ông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện thời, Quang đã khổ không thể nói nổi, mục lực lẫn tinh thần đều không đủ, hằng ngày đã có người đến [hỏi han], lại còn thư tín bốn phương, đừng nói chi chuyện trả lời, chỉ đọc [không thôi] cũng phải mất nhiều công sức. Quang ở Phổ Đà từ năm Quang Tự 19 (1893) cho đến năm Dân Quốc thứ năm (1916), hơn hai mươi năm khá yên vui, suốt năm không ai đến thăm, không một lá thư nào gởi đến. Từ năm Dân Quốc thứ sáu (1917), ông Vương Ấu Nông đem một lá thư in ra mấy ngàn bản, ông Từ Úy Như đem ba lá thư in ra mấy ngàn bản, rồi năm sau lại in Văn Sao. Từ đấy, một người truyền hư, vạn người truyền thật. Lại do chẳng tự lượng, khắc in các sách để mong lợi người. Hai mươi năm qua, đúng là chuyên bận bịu vì người khác, nay đã già rồi, mong bế quan làm kế lánh phiền. Đối với công khóa sớm tối, ngoài việc theo cả chùa thực hiện công khóa ra, mỗi tối niệm thêm chú Đại Bi năm mươi lượt, hoặc hai mươi lăm lượt. Ngoài ra, hễ lúc nào rảnh thì niệm Phật, chẳng nhớ số, bởi nhớ số tốn sức.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông có thời gian rộng rãi, sức lực mạnh mẽ, hãy nên nỗ lực nghiên cứu, tu trì pháp Tịnh Độ. Đây chính là đại pháp để phàm phu liễu sanh tử ngay trong đời này. Pháp này nếu không có túc căn thì đừng nói là người tầm thường không thể thấu hiểu triệt để, ngay cả bậc cao nhân lỗi lạc triệt ngộ tự tâm thâm nhập kinh tạng cũng quá nửa là không thể thấu hiểu triệt để được! Do họ chẳng biết đây là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp, đều cứ chiếu theo nghĩa lý của các pháp môn thông thường nên chẳng chịu tin. Hoặc là có người tin, nhưng sợ chuyên hoằng dương Tịnh Độ, người ta sẽ coi thường mình, vì thế chẳng chịu đề xướng. Phải biết: Tu bất luận pháp môn nào, nếu Phiền Hoặc chưa đoạn, chắc chắn không liễu được sanh tử. Chỉ có một pháp này, chỉ cần đầy đủ tín nguyện liền có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Ông chớ nên coi qua loa, mà phải đọc kỹ nghĩ chín mới biết lời Quang không lầm!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện nay, người giảng kinh cũng không ít, nhưng mỗi người tùy theo ý mình, ông nên tự tu trì ở chỗ [cư sĩ Giang] Dịch Viên, đến khi đã có chủ ý rồi, chẳng ngại gì tùy hỷ [tham dự] giảng tòa của các pháp sư. Ông phải tự thương mình, Quang mến ông, nên chỉ có lần này là viết hai trang, sau này cũng không rảnh rỗi để răn dạy nhiều lần được nữa đâu!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(100) Giảng Tiểu Tòa là một hình thức tập giảng. Trong một buổi giảng Tiểu Tòa chỉ có thầy và các đồng học tham dự hầu rút kinh nghiệm diễn giảng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(101) Chùa Quán Tông thuộc thành phố Ninh Ba, vốn có tên là Thập Lục Quán Đường, được xây dựng vào thời Nguyên Phong (1078-1085) đời Bắc Tống, vốn là nơi tỳ-kheo Giới Nhiên tu quán tưởng Niệm Phật, quyên mộ dựng ra chùa này, gồm hơn mười sáu gian. Ngài Đế Nhàn trụ trì chùa này từ năm 1912, đổi tên chùa thành Quán Tông, biến thành một đạo tràng chuyên hoằng dương Thiên Thai Tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>71. Thư trả lời Niệm Tây đại sư</B>
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhận được thư, thấy một mực dùng những lời lẽ “đem phàm lạm thánh” để khen ngợi, khôn ngăn hổ thẹn, nên để đó không trả lời. Thêm vào đó, công việc bận bịu, tinh thần lẫn mục lực đều chẳng đủ, nên dùng biện pháp [làm lơ] ấy. Tiếp đó, nghĩ tọa hạ thiên tư thông minh, mẫn tiệp, chẳng học Giáo mà chăm tu Tịnh nghiệp, ắt tương lai có thể kế thừa được các tổ sư Khuông Lô<SUP><B>(102)</B></SUP> để lợi ích khắp các chúng sanh, vì thế, viết thư trả lời. Những câu hỏi trong thư nếu nói tường tận thì quá tốn bút mực. Do vậy, đối với lá thư gốc liền ghi vắn tắt vài chữ bên cạnh, nhưng mắt già lòa quáng, làm bẩn tờ hoa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ nhất, Bảo Vương Luận<SUP><B>(103)</B></SUP> do pháp sư Phi Tích<SUP><B>(104)</B></SUP> đời Đường trước tác. Liên Tông Bảo Giám<SUP><B>(105)</B></SUP> ghi chép theo những lời ngoa truyền. Bảo Vương Luận chia thành ba quyển, trong nguyên bản mỗi quyển gồm bảy môn. Hiện thời quyển trung chỉ có sáu môn là vì người mắt sáng đời sau đã lược bỏ môn <I>"niệm Phật ít được lợi ích như niệm Phật nhiều"</I> (Đây là tên gọi dựa theo ý tưởng<SUP><B>(106)</B></SUP>). Trộm nghĩ pháp sư Phi Tích thông hiểu rộng rãi kinh tạng và các sách vở. Thời ấy, chắc có kẻ ngụy tạo ra sách có thuyết ấy, pháp sư vì lòng đại bi chưa xét tường tận nên trích dẫn. Người lưu truyền [Bảo Vương Luận] sau này sợ kẻ vô tri đâm ra hiểu lầm, nên đặc biệt lược bỏ đi, thật là thích đáng đến cùng cực! Liên Trì đại sư cũng bác thuyết ấy. Có ai niệm [câu ấy] thì vẫn có công đức, nhưng chẳng được ngờ nghệch cho rằng niệm một câu Phật hiệu ấy vượt trỗi công đức của người khác niệm [sáu chữ danh hiệu Phật] suốt cả đời, như thế là lầm lẫn lớn, làm người khác bị lầm chẳng cạn! Nếu một người mỗi ngày niệm mười vạn câu, niệm trọn một trăm năm, cũng chẳng bằng số lượng [các vị Phật] trong một câu ấy. Kẻ ngu tưởng đấy là nghĩa lý chân thật, đâm ra khơi gợi cái tâm mong ngóng, lười nhác, biếng trễ của họ. Bỏ đoạn văn ấy đi có công đức lớn lao! Những nghĩa khác chẳng cần phải nói tường tận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bảo Vương Luận nằm trong sách Tịnh Độ Thập Yếu. Nay tôi đem bản được in trong năm ngoái gởi đi, chắc là được đại lợi ích vậy. Bản khắc gỗ từ trước đến nay đều là bản trích lược do môn nhân của ngài Ngẫu Ích đại sư là Thành Thời biên soạn. Do văn quá nhiều khó lưu thông, nên đặc biệt trích lược. Nhưng đại sư Thành Thời thông minh hơn người, quá tùy tiện, đọc đến đâu trích lược đến đó, cũng chẳng duyệt lại, nên đến nỗi trong bản ấy sai sót tầng tầng lớp lớp. Có chỗ từ ngữ chẳng diễn tả được ý, có chỗ khẩu khí sai lầm, tán loạn, có chỗ văn từ và ý nghĩa hoàn toàn mâu thuẫn (trong Tây Phương Hiệp Luận, trang bốn mươi, dòng thứ sáu, bỏ mất hai chữ Dụng thì văn và nghĩa hoàn toàn trái nghịch. Trong kinh (tức kinh Bát Châu Tam Muội) này, hễ dùng với nghĩa là Dĩ thì đều viết thành Dụng. Sư Thành Thời không suy xét, bỏ chữ Dụng đi<SUP><B>(107)</B></SUP>). Nếu chịu đọc lại lần nữa, quyết chẳng đến nỗi để sai sót đáng tiếc như thế. Hơn nữa, lược bớt quá nhiều, chỉ còn được hơn hai phần năm [nguyên tác]. Vì thế, lúc đầu Quang bảo ông Từ Úy Như tìm kiếm để khắc in; sau này may mắn mười thứ<SUP><B>(108)</B></SUP> [kinh luận đã được chọn vào Tịnh Độ Thập Yếu] đều tìm được, nên đặc biệt đem in ra một vạn bộ. Xin hãy đọc lời Tựa của Quang sẽ tự biết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ hai, nguyên văn ghi: <I>"Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏ"</I>, cổ đức giải thích: <I>"Niệm lớn tiếng thì thấy được thân đức Phật lớn; niệm nhỏ tiếng thì thấy được thân đức Phật nhỏ"</I>, cũng có thể giải thích là: <I>"Niệm với cái tâm lớn thì thấy được thân đức Phật lớn; dùng đại Bồ Đề tâm niệm Phật thì sẽ thấy được Ứng Thân thắng diệu của Phật, hoặc Báo Thân"</I> (đây là thuyết của Quang). Lời này trích từ sách khác, chứ không sao lục trực tiếp từ kinh Đại Tập<SUP><B>(109)</B></SUP> ra. Quang sanh ra liền bị bệnh mắt, ngoài bốn mươi tuổi chẳng thể thường xem kinh. Vì thế, chưa thể đọc hết toàn bộ Đại Tạng. Kể từ năm Dân Quốc thứ bảy (1918) đến nay, suốt ngày bận bịu trả lời thư, đúng là không rảnh rỗi để xem kinh. Nay mục lực yếu đến tột cùng, có lúc còn phải thức đêm để lo tiếp chuyện bút mực ban ngày, khổ sở hết sức. Tính năm sau ẩn dật vĩnh viễn, chuyên trì Phật hiệu cho hết tuổi thừa!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Niệm Phật há nên chấp chặt vào lề lối nhất định, cổ nhân lập ra phương pháp giống như tiệm thuốc có đủ các loại thuốc. Cách dùng của chúng ta là phải phù hợp với tinh thần, khí lực và thiện căn xưa kia của chính mình. Niệm Phật lớn tiếng hoặc nhỏ tiếng, hoặc [niệm] Kim Cang, hoặc niệm thầm, không cách nào chẳng được. Hễ hôn trầm chẳng ngại gì niệm lớn tiếng để đẩy lùi cơn hôn trầm tán loạn thì cũng được. Nếu thường niệm lớn tiếng ắt sẽ đến nỗi bị bệnh. Đừng nói người thông thường chớ nên thường [niệm] như vậy, dẫu người hết sức khỏe mạnh cũng chớ nên thường như thế. Trong một ngày, hễ nóng thì bỏ bớt áo, lạnh thì mặc thêm áo, há nên đối với một pháp niệm Phật để liễu sanh tử lại chấp chết cứng [vào một pháp] nhất định, chẳng chọn lấy pháp thích nghi, há có còn được gọi là "biết pháp" hay chăng? Lại còn có người đề xướng lần chuỗi nhớ số, cách này vừa có lợi vừa có điều tệ. Lợi là mỗi một câu niệm, lần một hạt, chẳng dễ dãi lướt qua thì tâm dễ quy về một mối. Điều tệ là khi tịnh tọa mà lần chuỗi thì tâm ắt khó an định được, lâu ngày sẽ thành bệnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, tinh thần con người mỗi người mỗi khác, há nên chấp vào một pháp, chẳng biết điều chỉnh theo mỗi việc ư? Phàm là mọi người cùng nhau tu trì nên căn cứ theo tinh thần của mọi người để liệu định riêng biệt. Cá nhân tu trì cũng phải chiếu theo tinh thần của chính mình mà định. Đâu có pháp chết cứng buộc mọi người đều phải tuân thủ ư? Sau khi dùng tinh thần đến tột cùng rồi, nếu không lui sụt, lười nhác, ắt sẽ đổ bệnh. Lượng theo sức mình mà làm sẽ có ích, không bị tổn hại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hoằng Hóa Xã ở tệ xứ mang tánh chất lo liệu thay cho người khác, những kinh sách đã in đều tính giá tiền theo giấy mực và công thợ in, những khoản chi phí ấn loát khác và các chi phí cần dùng đều chẳng tính vào [giá] sách, cũng có khi hoàn toàn biếu không hay tính tiền một nửa, nhưng chỉ là một số ít. Nay đem những sách quan trọng mới được in gần đây gởi cho tọa hạ mỗi thứ một phần. Sau này, nếu lại muốn thỉnh sẽ căn cứ theo danh mục mà tính toán giá cả để thỉnh từ Hoằng Hóa Xã, cũng đừng có thuận tay gởi thư cho Quang nữa! Từ mùa Đông năm ngoái, phàm với những thư gởi đến, Quang đều nói: "Từ rày đừng nên gởi thư đến nữa. Gởi đến nhất định không trả lời, cũng chẳng chấp thuận việc giới thiệu người khác [xin] quy y [với Quang] để khỏi nhọc nhằn quá mức đến nỗi mù mắt và hao tổn tánh mạng". Xem những câu hỏi của tọa hạ, đa phần là do chẳng biết suy xét tường tận mà ra. Nếu suy xét kỹ càng hơn, ắt chẳng cần phải hỏi người khác! Những lời [tọa hạ] trước sau khen ngợi [Quang], đáng tiếc là văn chương tuy hay nhưng dùng lầm chỗ vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(102) Khuông Lô, còn gọi là Khuông Sơn, hay Lô Sơn, ở thành phố Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Theo truyền thuyết, vào thời Châu có bảy anh em họ Khuông đến ẩn cư tại đây, rồi về sau cùng thành tiên bay đi. Chỗ ở của họ bèn biến thành ngọn núi cao, nên núi mang tên ấy. Núi dài đến 36km, bề ngang gần 20km, mặt Bắc nhìn xuống sông Dương Tử, mặt Nam nhìn xuống hồ Thẩm Dương, ngọn cao nhất là Hán Dương cao đến 1.417m. Do chung quanh là nước nên núi lúc nào cũng mờ mờ ảo ảo trong sương mù nên Phật giáo Trung Hoa thường dùng từ ngữ <i>"Lô Sơn chân diện mục"</I> để ví cho bản lai diện mục của tự tâm. Sơ Tổ Huệ Viễn đã mở liên xã tu Tịnh Độ trên ngọn núi này.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(103) Bảo Vương Luận, gọi đủ là Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận, do Phi Tích đại sư soạn vào năm Thiên Bảo nguyên niên (742). Sư coi Niệm Phật tam-muội là vua của các tam-muội cho nên gọi Niệm Phật tam-muội là Bảo Vương tam-muội. Nội dung bộ luận này đề xướng vạn thiện đồng quy, ba đời đều cùng tu Niệm Phật. Luận này dẫn chứng rất nhiều kinh sách Tịnh Độ, dung thông những tư tưởng của Pháp Hoa, Bát Nhã, Đại Bảo Tích, Đại Tập, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận v.v... Sách này được ngài Ngẫu Ích đưa vào trong Tịnh Độ Thập Yếu vào năm Vạn Lịch 36 (1608) đời Minh Thần Tông.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(104) Phi Tích (không rõ năm sanh, năm mất, nguyên quán): Là một vị cao tăng đời Đường, học vấn cao trỗi, kiến thức siêu việt, thông hiểu các học thuyết Nho Gia, Mặc Tử, tinh thông văn chương. Sư thường nghiên cứu Luật tông, sau tu Mật giáo, chứng ngộ khá nhiều. Vĩnh Thái nguyên niên (765) đời Đường Đại Tông, Sư phụng chiếu cùng mười sáu vị như Lương Phần v.v... tham dự đạo tràng dịch kinh của đại hành giả Mật Tông Bất Không, dịch được các kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã, Mật Nghiêm Kinh... Tuy thế, Sư đặc biệt chú trọng đề xướng Tịnh Độ nên đã soạn luận Bảo Vương Tam Muội. Ngoài ra còn soạn Thệ Vãng Sanh Tịnh Độ Văn.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(105) Liên Tông Bảo Giám, tác phẩm của ngài Ưu Đàm Phổ Độ chùa Đông Lâm soạn vào đời Nguyên. Tác phẩm này còn có tên là Lô Sơn Liên Tông Bảo Giám, Lô Sơn Ưu Đàm Bảo Giám, Lô Sơn Bảo Giám Niệm Phật Chánh Nhân, hay Niệm Phật Bảo Giám. Ngài Phổ Độ tự xưng là đồ tôn chánh truyền của Sơ Tổ Huệ Viễn, kế thừa tư tưởng Bạch Liên Tông của ngài Từ Chiếu Tử Nguyên đời Nam Tống. Sư thâu thập những kinh điển, sử truyện liên quan đến Niệm Phật tam-muội. Sư cảm thán trước hiện tượng quá nhiều người xưng là Liên Tông, nhưng chẳng hiểu được ý tổ Huệ Viễn cũng như lãnh hội ý chỉ của tổ Tử Nguyên, hiểu biết tà vạy, diễn dịch sai lạc pháp môn Tịnh Độ. Vì thế, qua tác phẩm này, Sư muốn hoằng dương giáo nghĩa Tịnh Độ chân chánh, đả phá những tà thuyết, nhất là trong lúc ấy, tà giáo Bạch Liên cố ý lập lờ với Liên Tông nên pháp môn Tịnh Độ bị triều Nguyên cấm đoán. Sách chia ra nhiều chương, mỗi chương gồm lời nhận định chung, dẫn những kinh luận trọng yếu và hành trạng, ngôn giáo của các vị cổ đức. Tác phẩm này khi được dâng lên Nguyên Thành Tông, nhà vua đã đích thân duyệt xét và cho phép ấn hành.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(106) Đây là dị thuyết cho rằng nếu niệm danh hiệu ba mươi sáu vạn ức mười một vạn chín ngàn năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật thì dẫu niệm ít vẫn có công đức lớn lao không thua gì niệm liên tục sáu chữ hồng danh Di Đà. Thậm chí không cần liên tục niệm Phật, mỗi ngày chỉ niệm vài câu này là đủ rồi! Chư Tổ Sư Tịnh Độ như các vị Liên Trì, Ngẫu Ích đều bác thuyết này vì nếu cứ nghĩ như vậy sẽ sanh tâm phân biệt Phật nhiều, Phật ít, không thể nhất tâm, cũng như sẽ lười nhác không chịu niệm Phật liên tục chẳng gián đoạn!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(107) Để dễ hiểu ý Tổ, xin trích nguyên văn Tây Phương Hiệp Luận của ông Viên Hoằng Đạo đời Minh: <I>"Nhất Bát Châu Tam Muội kinh: Phật cáo Bạt Đà Hòa Bồ Tát: Nhược sa môn, bạch y, sở văn Tây Phương A Di Đà Phật sát, thường niệm bỉ phương Phật, bất đắc khuyết giới, nhất tâm niệm, nhược nhất nhật trú dạ, nhược thất nhật thất dạ, quá thất nhật dĩ hậu, kiến A Di Đà Phật, ư giác bất kiến, ư mộng trung kiến chi. Thí như mộng trung sở kiến, bất tri trú, bất tri dạ, diệc bất tri nội, diệc bất tri ngoại, bất <B>dụng</B> tại minh trung cố bất kiến, bất <B>dụng</B> hữu sở tế ngại cố bất kiến. Như thị Bạt Đà Hòa Bồ Tát, tâm đương tác thị niệm"</I> (một là như trong kinh Bát Châu Tam Muội có nói: Phật bảo Bạt Đà Hòa Bồ Tát: "Nếu hàng sa môn hoặc kẻ bạch y nghe nói về cõi Tây Phương của Phật A Di Đà, thường niệm đến đức Phật ở phương ấy, giữ giới chẳng được thiếu sót, nhất tâm niệm, thì hoặc trong một ngày đêm hoặc trong bảy ngày bảy đêm, sau bảy ngày sẽ thấy Phật A Di Đà, nếu khi tỉnh không thấy thì sẽ được thấy trong mộng. Ví như những gì được thấy trong mộng chẳng biết là ngày, chẳng biết là đêm, cũng chẳng biết bên trong, cũng chẳng biết bên ngoài, chẳng vì ở trong tối tăm mà chẳng thấy, chẳng vì bị che lấp ngăn ngại mà chẳng thấy. Như thế đó Bạt Đà Hòa Bồ Tát, tâm nên niệm như thế"). Tổ Ấn Quang giải thích hai chữ "dụng" ở đây phải hiểu là chữ "dĩ". Do không chú ý nên sư Thành Thời đã lược bỏ hai chữ Dụng này đi.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(108) Tịnh Độ Thập Yếu gồm mười tác phẩm gộp lại: A Di Đà Kinh Yếu Giải (của ngài Ngẫu Ích soạn), Vãng Sanh Tịnh Độ Sám Nguyện Nghi, Vãng Sanh Tịnh Độ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn (hai cuốn này đều do ngài Tuân Thức đời Tống soạn), Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sơ Tâm Tam Muội Môn (do ngài Thành Thời soạn), Thọ Trì Phật Thuyết A Di Đà Kinh Hạnh Nguyện Nghi (cũng do ngài Thành Thời soạn), Tịnh Độ Thập Nghi Luận (do ngài Trí Khải soạn vào đời Tùy), Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận (của ngài Phi Tích đời Đường soạn), Tịnh Độ Hoặc Vấn (do ngài Thiện Ngộ đời Nguyên soạn), Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ (do ngài Diệu Hiệp soạn vào đời Minh), Tây Trai Tịnh Độ Thi (do ngài Phạm Kỳ đời Nguyên trước tác), Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận (do ngài Truyền Đăng soạn vào đời Minh) và Tây Phương Hiệp Luận (do cư sĩ Viên Hoằng Đạo soạn vào đời Minh).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(109) Kinh Đại Tập (Mahā-Samnipāta-Sūtra), có tên gọi đầy đủ là Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, chính là tổng tập của các kinh thuộc hệ thống Đại Tập Bộ. Vào năm thứ 16 sau khi thành đạo, đức Phật tập hợp tất cả các Bồ Tát và long thiên quỷ thần trong mười phương cõi nước, giảng cho họ nghe pháp tạng thậm thâm về mười sáu thứ đại bi, ba mươi hai thứ nghiệp v.v… chủ yếu tuyên giảng về Lục Ba La Mật của Đại Thừa và tánh Không của pháp, cũng như các giáo nghĩa, đà-la-ni trong Mật giáo và những chuyện hộ pháp của các vị Phạm Thiên, long chúng v.v… Ngoài phương diện xiển dương tánh Không ra, kinh này mang đậm sắc thái Mật giáo. Toàn kinh chia làm mười bảy phẩm, gồm sáu mươi quyển. Từ phẩm thứ nhất đến phẩm 11 do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Bắc Lương, phẩm 12 do ngài Trí Nghiêm và Bảo Vân cùng dịch vào đời Lưu Tống (phẩm Bảo Kế Bồ Tát này còn có bản dịch khác mang tên Vô Tận Ý Bồ Tát Kinh), phẩm 13 do ngài Đàm Vô Sấm dịch, phẩm 14, 15, 16 do ngài Na Liên Đề Da Xá dịch. Ba phẩm này còn được dịch với các tên khác là Đại Thừa Đại Phương Đẳng Đại Tập Nhật Tạng Kinh, Đại Thừa Đại Phương Đẳng Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh, Đại Thừa Tu Di Tạng Kinh. Phẩm 17 tập hợp những kinh về Lục Độ do ngài An Thế Cao dịch. Ngoài ra, kinh này còn có nhiều bản dịch khác tương đồng như: Phẩm 1 và phẩm 2 tương ứng với Đại Ai Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn. Phẩm 3 tương ứng với Bảo Nữ Sở Vấn Kinh cũng do ngài Trúc Pháp Hộ dịch. Phẩm 5 tương ứng với Hải Ý Bồ Tát Sở Vấn Tịnh Ấn Pháp Môn Kinh do ngài Duy Tịnh dịch vào đời Bắc Tống. Phẩm 6 tương ứng với Vô Ngôn Đồng Tử Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch. Phẩm 8 tương ứng với Đại Tập Hư Không Tạng Bồ Tát Sở Vấn Kinh do ngài Bất Không dịch vào đời Đường. Phẩm 9 tương ứng với Bảo Tinh Đà La Ni Kinh do ngài Ba La Phả Mật Đa dịch vào đời Đường. Phẩm 10 tương ứng với Bảo Kế Bồ Tát Sở Vấn Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch. Phẩm 11 tương ứng với A Sai Mạt Bồ Tát Kinh cũng do ngài Trúc Pháp Hộ dịch.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>72. Thư trả lời cư sĩ Châu Bá Tù</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhận được thư từ hôm trước, nhưng gần đây công việc khá bận rộn, nên trả lời thư trễ nãi. May là cả nhà ông vẫn tu trì như cũ, thật là mừng rỡ, an ủi lắm. Mấy năm nay tai họa xảy ra quá thường xuyên, thật đáng nguội lạnh cõi lòng, nói chung là do lòng người ngày càng bại hoại mà ra! Những phương cách giúp cho nạn nhân có cái để gầy dựng lại cuộc sống về sau đều là các phương cách quan trọng để cứu giúp trong lúc ngặt nghèo, nhưng cách này không phải là thường có. Nay để làm chuyện thường có, đặc biệt lập ra một pháp, mong hãy thường truyền bá thì lợi ích vô cùng. Hiện thời là lúc tình thế đại hoạn nạn, bất luận phú quý hay nghèo hèn, già, trẻ, trai, gái đều nên niệm thánh hiệu "Nam mô A Di Đà Phật" và niệm "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát" để làm căn cứ phòng ngừa tai họa. Phàm đao binh, nước, lửa, ôn dịch, sâu rầy, hạn hán, lụt lội, thổ phỉ, cường đạo, và các tai họa ngoài ý muốn, bệnh tật do oán nghiệp, oan gia gặp gỡ v.v... nếu có thể chí thành niệm Phật và niệm Quán Thế Âm chắc chắn sẽ gặp dữ hóa lành. Dẫu là do định nghiệp tạo thành, cũng có thể giảm nhẹ, chẳng đến nỗi khốc liệt quá mức. Những tai họa ấy chẳng phân biệt phú quý hay nghèo hèn. Nhưng người phú quý xem ra còn khó chịu đựng hơn kẻ nghèo hèn; do vậy, chớ nên vì ta phú quý rồi coi thường, [cũng như] vì ta nghèo hèn bèn mặc kệ, chẳng lập kế đề phòng sẵn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, pháp Niệm Phật đối với chuyện sống lẫn chết của con người đều có lợi ích. Thế gian chỉ biết đến lợi ích của việc trợ niệm khi lâm chung, chẳng biết cái lợi ích khuyên niệm khi sanh nở, đến nỗi rất nhiều mẹ con phải chịu vô lượng khổ, hoặc đến nỗi mất mạng, không cách gì cứu được! Nữ nhân nếu có thể thường niệm thánh hiệu Phật và Quán Âm từ nhỏ thì về sau chắc chắn chẳng bị nỗi khổ gặp tai biến trong khi sanh nở. Hoặc vừa cấn thai liền niệm, hoặc ba bốn tháng trước khi sanh bèn niệm, hoặc đang sanh nở mới bắt đầu niệm, đều được an nhiên sanh nở. Nếu sanh khó đến cùng cực và sắp mất mạng, chịu niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, chắc chắn lập tức được an nhiên sanh nở. Đừng nói lúc ấy lõa lồ bất tịnh, nếu niệm sợ mắc tội lỗi! Phải biết Quán Âm Bồ Tát đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ. Ví như thấy con cái té vào lửa, nước, hầm xí, gọi cha mẹ để cầu cứu, cha mẹ quyết chẳng vì chúng nó y phục không chỉnh tề, thân thể chẳng sạch sẽ mà bỏ mặc không cứu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tâm cứu chúng sanh của Bồ Tát sâu xa thiết tha hơn lòng thương yêu con cái của cha mẹ trong cõi đời, đúng là gấp cả trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa lần! Do vậy, phụ nữ khi sanh nở có thể niệm rõ ràng danh hiệu của Bồ Tát chính là diệu pháp tối thượng cực kỳ linh nghiệm, hữu hiệu vậy. Chẳng những không có tội lỗi mà còn khiến cho cả mẹ lẫn con đều được gieo đại thiện căn. Nghĩa này do đức Phật Thích Ca đã dạy trong kinh Dược Sư, chứ không phải do Bất Huệ bịa đặt. Phàm những ai có niệm thì không một ai chẳng được an nhiên sanh nở. Gần đây người bị sanh khó quá nhiều, một phần là do nghiệp chướng đời trước, một phần là do đời này chẳng biết tiết dục mà ra. Bồ Tát cứu khổ cố nhiên chẳng tính đến người ấy [bị nạn] do nhân như thế nào, đều bình đẳng cứu giúp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc bình thường niệm Phật, tuy đi - đứng - nằm - ngồi đều có thể niệm, nhưng lúc ngủ chỉ nên niệm thầm trong tâm, chớ nên niệm ra tiếng. Nếu lúc tỉnh giấc, áo mũ hãy còn chưa chỉnh tề, tay lẫn mặt còn chưa rửa ráy, súc miệng, và khi tắm gội, tiêu tiểu, và đến những nơi ô uế chẳng sạch, chỉ nên niệm thầm trong tâm, đừng niệm ra tiếng. Trong những lúc, những chỗ ấy, công đức niệm thầm giống với công đức niệm lúc bình thường. Niệm ra tiếng chẳng hợp nghi thức. Còn lúc sanh nở nhất định phải niệm ra tiếng rõ ràng, chớ nên niệm thầm trong tâm, bởi niệm thầm sức cảm ứng nhỏ nhoi. Lại vì lúc ấy phải dùng sức đẩy đứa con ra, nếu niệm thầm trong tâm, do vì bế khí sẽ có thể thành bệnh! Không riêng gì sản phụ phải niệm rõ tiếng mà những người chăm sóc ở bên cạnh cũng đều phải niệm rõ tiếng. Dẫu cho người nhà ở chỗ khác cũng vẫn có thể niệm cho sản phụ ấy. Nếu pháp này được truyền bá, thế gian sẽ vĩnh viễn không có nỗi khổ vì sanh sản, và nỗi khổ cả mẹ lẫn con đều chết vì sanh nở.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">[Phải] biết Phật pháp lợi khắp hết thảy, Phật là cha mẹ đại từ bi, là trời của các vị trời, là bậc thánh của chư thánh, do tâm đại Bồ Đề lợi khắp hết thảy chúng sanh nên được viên mãn thành tựu. Trong đời có kẻ nói giọng cao xa "chán nghe chuyện nhân quả báo ứng và pháp siêng gắng tu trì", chỉ lấy "hết thảy đều là không, hết thảy chẳng chấp" làm bùa hộ thân, chẳng biết đã chấp "hết thảy đều là không, hết thảy chẳng chấp" thì đã chẳng phải là ý nghĩa "hết thảy đều là không, hết thảy chẳng chấp" rồi! Huống chi kẻ ấy mượn cớ đó để lấp liếm dấu vết lười nhác, biếng trễ, chẳng chuyên chú thật tu, chỉ là "bàn xuông, tranh cao", đến khi nghiệp báo đã chín muồi, Diêm lão (vua Diêm La) sẽ dâng đồ cúng dường tối thượng cho kẻ "hết thảy chẳng chấp, hết thảy đều là không" ấy. Không biết trong lúc ấy, [kẻ đó] còn có thể “đều là không, đều chẳng chấp” được hay chăng? Chúng ta nên kính nhi viễn chi đối với những kẻ ấy, để khỏi phải nhận sự cung kính cúng dường tối thượng của Diêm lão vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>73. Thư trả lời cư sĩ Đường Năng Thành</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hôm qua nhận được thư, biết nỗi thảm do thổ phỉ gây ra tại Tứ Xuyên, khôn ngăn người ta phải than dài sườn sượt. Tôi thường nói: <I>"Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân trị thiên hạ, để Phật độ chúng sanh"</I>. Từ đời Tống, họ Trình, họ Châu do đọc kinh Đại Thừa nhà Phật, thân cận bậc thiện tri thức Thiền Tông, biết đại khái nghĩa lý <I>"toàn sự chính là lý, hết thảy duy tâm"</I>, liền chấp bừa vào ý kiến của chính mình, chấp lý bỏ sự để làm ra vẻ chính mình kiến thức cao siêu, quá sợ người đời sau biết được [do đâu] họ có được [kiến giải ấy] nên đem lòng đen tối báng Phật, nói nhân quả báo ứng, lục đạo luân hồi do đức Phật đã dạy chính là căn cứ để lừa dối bọn ngu phu ngu phụ tin thờ giáo pháp của Ngài, chứ thật ra không có chuyện ấy. Con người chết rồi, hình hài đã mục nát, thần hồn cũng phiêu tán; dẫu có chém, chặt, xay, giã thì lấy gì để làm? Lại do thần hồn đã tiêu tan rồi, có ai để thác sanh nữa đây? Từ đấy trở đi, phàm là nhà Nho hễ kẻ nào hiểu biết cao xa thì ai nấy đều lén xem kinh Phật, nhưng đều cực lực báng Phật; kẻ hiểu biết thấp kém bèn hùa theo người khác dấy lên kiến giải điên đảo, từ sống đến chết chẳng được lợi ích nơi Phật pháp, từ sống đến chết thường tạo nghiệp báng Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Học thuyết của họ Trình, họ Châu vừa được lưu hành thì Nho gia vâng giữ như khuôn vàng thước ngọc, còn chuyện họ Trình, họ Châu trái nghịch tiên thánh (thánh nhân Nho giáo) thì cả cõi đời không ai chịu nói đến! Sau này, nhà Nho nào nói ngược với Trình, Châu sẽ không thể đứng vững được trong khoảng trời đất. Do vậy, nhà Nho chẳng dám nói nhân quả luân hồi, nói ra sẽ bị người ta công kích. Lại muốn sau này lỡ ra có thành tựu, muốn được dự vào Hương Hiền Từ (miếu thờ bậc hiền tài trong làng) hay trong Văn Miếu, nếu nói đến nhân quả luân hồi thì hai đằng đều tuyệt vọng! Từ đấy, hoàn toàn thủ tiêu căn bản trị quốc bình thiên hạ, cậy xuông vào "chánh tâm thành ý" để trị [thiên hạ]. Phải biết: Nếu có nhân quả luân hồi thì kẻ chưa thể chánh tâm thành ý vẫn gắng sức làm. Không có nhân quả luân hồi thì chỉ có bậc đại hiền mới có thể chánh tâm thành ý; còn những kẻ khác do không có gì để sợ hãi, không có gì để mong mỏi, lẽ đâu lại khăng khăng chánh tâm thành ý hay sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trình - Châu đề xướng chánh tâm thành ý là do học được diệu nghĩa của Phật pháp, nhưng để phô tỏ cái trí của chính mình, bèn ngược ngạo cực lực chê trách Phật. Như vậy là họ đã chánh tâm thành ý nơi chỗ không quan trọng, khẩn yếu, hoàn toàn chẳng mảy may nào chánh tâm thành ý nơi chỗ quan trọng, khẩn yếu lớn lao! Dùng đây để tạo thành cái danh cho chính mình, di hại cho thiên hạ đời sau. Gần đây tai họa liên tục xảy ra, dân không lẽ sống, đều là do chất độc của học thuyết Tống Nho bạo phát, ông có biết hay chăng?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niệm Phật, tụng kinh thì lấy sự chí thành làm gốc, có xướng tán hay không chẳng quan hệ gì! Còn với chuyện tụng một quyển kinh Pháp Hoa, rất tốt, nhưng đối với người bận bịu và già cả, hãy nên thường tụng Tịnh Độ Ngũ Kinh thì sẽ hiểu biết đại lược nguyên do của pháp môn Tịnh Độ. Niệm Phật thì phải trong tâm niệm cho rành rẽ, miệng niệm cho rành rẽ, tai nghe cho rành rẽ, từ sáng đến tối niệm thì từ sáng đến tối nghe, so với những kẻ tham niệm nhiều, tham niệm nhanh nhưng hồ đồ không rõ ràng, công hiệu khác xa lắm! Nay gởi cho ông một gói Tịnh Độ Ngũ Kinh, ai có lòng tin, có thể cung kính thì tặng cho họ những cuốn còn dư ra. Chớ dùng cách đọc sách Nho để xem kinh Phật thì mới được lợi ích, tránh khỏi tội khiên. Nếu không, cái tội khinh nhờn sẽ lớn hơn công đức đọc tụng đấy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>74. Thư trả lời cư sĩ Tịnh Chi</B>
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Buổi tối hôm trước nhận được thư, do mục lực không đủ nên chẳng xem được. Trong hai ngày nay lại do phải lo toan chuyện khác không rảnh rỗi nên quên mất. Buổi chiều, ngẫu nhiên kiểm thấy mới biết là muốn thỉnh sách và có gởi chi phí cho Quang, liền bảo Hoằng Hóa Xã gởi sách theo đúng số lượng. Ngoài ra còn [nhờ họ] gởi giùm cho Quang thêm bốn gói sách nữa. Quang già rồi, mục lực không đủ, một mực chẳng quan tâm đến chuyện bên ngoài, cũng chẳng có môn đình pháp phái, mặc ai nói hay kể dở, Quang cũng chẳng muốn quan tâm đến. Ông đã thờ Quang làm thầy, chẳng ngại gì nói cách điều hòa các pháp môn cho ông nghe. Hãy nên dùng cái tâm chí công chí chánh, dùng ngôn ngữ chí công chí chánh để khuyên dụ thì là phước cho pháp môn vậy. Nếu do sự kính yêu của chính mình [mà làm] thì hoàn toàn không có chút gì đáng bàn nữa! Khiến cho người khác bất mãn hoàn toàn hủy báng thiện tri thức, tạo nghiệp địa ngục thì vốn nhằm hòa hợp pháp môn lại đâm ra trở thành kéo bè kết lũ những người cùng ý kiến [với mình] để công kích những người khác ý kiến [với ta], đâm ra hộ pháp trở thành hoại pháp, tâm tốt chẳng đạt được quả báo tốt vậy! Nếu như vậy thì ông thấy người ta là kẻ đáng thương xót, người ta cũng thấy ông là kẻ đáng thương xót, ngay cả bậc cao tăng đáng tôn trọng chí cao vô thượng tuyệt đối chẳng thể dị nghị gì được cũng trở thành kẻ đáng thương luôn!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vậy, Khổng Tử dạy kẻ chánh tâm thành ý thì phải trí tri (thấu hiểu cặn kẽ), [muốn] trí tri thì phải cách vật (trừ khử vật dục). Không “cách vật” thì giống như đeo kính màu xanh, đỏ v.v... phàm những màu được thấy đều chẳng phải là màu thật sự của nó. Do có tư dục làm chủ nên chết chìm vào một bên, chẳng thấy chân lý của sự việc, thấy điều đúng của người khác trở thành sai! Phàm đối với những chuyện trị thế tu đạo đều nên lấy lời này làm khuôn phép, đừng coi là hủ bại rồi xem thường!</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>75. Thư trả lời cư sĩ Giang Cảnh Xuân</B> (hai lá thư)
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Cầu cơ<SUP><B>(110)</B></SUP> chính là tác dụng của linh quỷ. Chúng xưng là vị Phật này, vị Bồ Tát nọ, vị tiên kia đều là giả mạo danh các ngài. Nếu chân tiên ngẫu nhiên giáng cơ thì sợ rằng trong trăm ngàn trường hợp chẳng được lấy một, huống gì là Phật, Bồ Tát! Dùng cầu cơ để đề xướng Phật pháp tuy có lợi ích nho nhỏ, nhưng về căn bản đã sai lầm! Người học Phật chân chánh quyết chẳng nhờ vào cách này để đề xướng Phật pháp, vì sao vậy? Vì đấy là tác dụng của quỷ thần. Nếu có linh quỷ thông minh thì họa may còn chẳng đến nỗi làm hỏng chuyện, chứ nếu là một con quỷ hồ đồ giáng cơ, ắt sẽ làm hỏng chuyện lớn! Người ta do lời giáng cơ bị hỏng chuyện lớn liền nói Phật pháp sai lầm, thì đề xướng kiểu ấy chính là đầu mối để phá diệt Phật pháp! Ông cho là bị mất lợi ích, hỏi có tội hay không tội thì biết ông hoàn toàn chẳng biết chân nghĩa của Phật pháp, đáng than thở quá đỗi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong thời Đạo Quang - Hàm Phong (1821-1861) nhà Thanh, tại phủ Quảng Tín, tỉnh Giang Tây có một viên Hàn Lâm[30] tên là Từ Khiêm, tự Bạch Phảng. Người ấy sống đến chín mươi sáu tuổi, lúc mất thiên nhạc vang lừng trên không, ấy là sanh lên trời vậy! Ông ta không biết đến pháp môn Tịnh Độ, đối với địa vị Phật, Bồ Tát, trời, hay tiên, ông ta đều chẳng phân biệt rõ ràng! Một vị lão tăng ở Phổ Đà là môn nhân nhỏ tuổi nhất của ông ta đã kể cho Quang nghe câu chuyện này thật tường tận. Ông ta có trước tác cuốn Hải Nam Nhất Chước (một giọt nước Hải Nam), [trong sách ấy] coi quyển trung, quyển hạ ngụy tạo của Tâm Kinh giống như Tâm Kinh, lại chép lời giáng cơ cầu mưa ở Tứ Xuyên, [trong ấy] nói Quán Âm quỳ trong điện Ngọc Đế[31] cầu mưa. Đủ biết lời cơ nói xằng tán nhảm và tri kiến của ông ta đều là tà - chánh chẳng phân!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông cho rằng "không cầu cơ sẽ đánh mất lợi ích", chẳng biết cái họa của việc ấy là có thể đến nỗi diệt pháp ư? Từ Khiêm là người chuộng điều thiện tin Phật, nhưng thật sự chẳng hiểu rõ Phật lý, chẳng thích làm quan, ở nhà dạy người làm lành, cũng tự cầu cơ, dạy đệ tử của chính mình cầu cơ. Mọi người đều chẳng biết cội nguồn của cầu cơ và cội nguồn của Phật. Đương thời, một vị Cử Nhân ở Nam Xương (tỉnh Giang Tây) cũng có hành vi giống như Từ Khiêm. Môn nhân của ông Cử Nhân này cầu cơ khám bệnh tại tỉnh thành rất linh. Mẹ quan Tuần Phủ mắc bệnh, thuốc men vô hiệu, có người thưa ông X... đó cầu cơ khám bệnh linh lắm; do vậy, bèn mời đến thăm bệnh. Kê toa, uống thuốc vào người bệnh chết ngay. Vội vàng đem toa thuốc cho thầy lang coi, thì ra trong ấy có vị thuốc công phạt. Do vậy, bắt ông ta đến hỏi. Ông ta thưa: "Đây chính là do thầy tôi là ông Y... dạy". Vì thế, quan Tuần Phủ bắt đền thầy ông ta, bảo: "Ngươi dối đời hại người", giết chết thầy ông ta. Từ Khiêm nghe chuyện ấy, răn dạy bọn môn đồ từ rày đừng cầu cơ nữa!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông cho "không cầu cơ thì pháp thiếu duyên", trong tâm chấn động sôi sục, chẳng biết cái họa của cầu cơ lớn tầy trời, công đức khuyên người của nó chẳng thể bù đắp được! Bậc chánh nhân quân tử quyết chẳng bước vào đàn tràng ấy. Cuối đời Minh, ở Tô Châu có một người cầu cơ, có bảy tám môn đồ. Một ngày nọ, cơ giáng nói Phật pháp, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, so với những gì cơ đã nói trước kia hoàn toàn khác hẳn. Sau đấy, lại giáng cơ giống như vậy hơn hai mươi lần nữa, sau cùng mới lại nói "cầu cơ chính là tác dụng của quỷ thần, ta là vị X... đó, sau này sẽ không đến nữa, các ông chớ nên cầu cơ nữa!" Chuyện ấy được chép trong Tây Phương Xác Chỉ[32].
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm đầu Dân Quốc (1911), ở Hương Cảng có người cầu cơ, nói là đại tiên Hoàng Xích Tùng [giáng cơ] xem bệnh cực linh. Có kẻ trọn chẳng còn lẽ sống, cầu vị tiên ấy dạy cho một phương thuốc. Thuốc ấy cũng là tùy tiện nói ra một loại nào chẳng quan trọng lắm, nhưng hễ uống vào liền lành bệnh. Hoàng Tiểu Vỹ hâm mộ đến học, học được cách [cầu cơ] nhưng hễ vịn cơ, cơ liền không chạy. Người khác hỏi thì cơ dạy niệm kinh Kim Cang bao nhiêu biến đó rồi lại vịn cơ, làm theo thì cũng rất linh. Nhân đó, thường khai thị pháp môn Niệm Phật. Bọn ông Vỹ liền muốn lập đạo tràng Niệm Phật, cơ dạy: "Nên để ba năm nữa rồi mới lập". Ba năm sau, bốn năm người bọn họ lên Thượng Hải thỉnh kinh sách, năm sau đến quy y, lập ra Đa Đa Phật Học Xã, đem chương trình niệm Phật gởi cho tôi: Niệm Phật xong, niệm Quán Âm, Thế Chí xong, lại niệm thêm một vị tên là Đa Đa Ha Bồ Tát. Quang hỏi: "Làm sao có được danh hiệu ấy?" Bọn họ bèn thuật lai lịch, nói là trước kia cơ xưng là đại tiên Hoàng Xích Tùng[33], sau dạy tu pháp môn Tịnh Độ, đến cuối cùng mới cho biết rõ gốc gác là Đa Đa Ha Bồ Tát, lại răn vĩnh viễn không được cầu cơ nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hai chuyện này do một người đệ tử sưu tập những pháp ngữ Tịnh Độ, [soạn thành sách] đặt tên là Tịnh Độ Tập Yếu[34], Quang bảo đem hai chuyện ấy ghi kèm vào đằng sau. Nay gởi cho ông ba bản, đọc rồi sẽ tự biết (với Đa Đa Ha Bồ Tát, Quang bảo họ lập riêng một điện để thờ phụng, chớ nên kèm thêm vào nghi thức Niệm Phật để khỏi làm cho người khác nghe rồi dị nghị). Dự vào liên xã niệm Phật thì một là phải bôn ba, hai là phải bỏ công chuyện hiện thời. Ở nhà tùy phần tùy sức niệm Phật, lợi ích rất lớn. Mỗi tháng một lần hoặc hai lần, đề xướng diễn thuyết trong liên xã khiến cho mọi người biết được pháp tắc, lợi ích, còn lúc bình thường cần gì cứ phải hằng ngày đến liên xã niệm Phật? Đây chính là ý kiến chánh của Quang kể từ khi lập Niệm Phật Lâm Xã đến nay.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đệ tử Phật há nên kỷ niệm những thánh đản của Đạo Giáo? Nếu nói là [thói quen] thế tục lưu truyền khó dứt thì vẫn nên lấy niệm Phật làm chánh. [Thần thánh trong] Đạo Giáo thuộc về thiên, tiên, quỷ thần, là một trong ba thứ đó. Vì họ niệm Phật chính là để tăng trưởng thiện căn xuất thế cho họ, tiêu diệt ác nghiệp đời trước cho họ. Ông chẳng thấy trong lời hồi hướng khóa sáng có câu: <I>"Hồi hướng hộ pháp chúng long thiên, thủ hộ già lam chư thánh chúng"</I> (hồi hướng cho các trời rồng hộ pháp, các vị thánh gìn giữ, bảo vệ nhà chùa) đó ư? Phương Nam thường đọc là Tam Bảo, còn phương Bắc thường đọc là "hộ pháp", hợp với ý nghĩa hơn. Thiên, tiên, quỷ thần đều xếp vào hàng hộ pháp. Vì hàng long thiên hộ pháp mà niệm Phật là đúng với chánh lý. Nếu niệm những kinh ngụy tạo như kinh Ngọc Hoàng<SUP><B>(116)</B></SUP> v.v... sẽ trở thành tà kiến.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật pháp suy vi đều là do tục tăng chẳng biết Phật pháp, dùng những kinh ngụy tạo như Huyết Bồn Kinh, Thọ Sanh Kinh để làm đạo trọng yếu nhằm cầu tiền tài. Từ đấy, những "Phật sự" như phá huyết hồ, phá địa ngục, hoàn tiền thọ sanh, gởi kho v.v... ngày thấy càng nhiều. Tuy lừa được tiền của kẻ ngu, nhưng lại khiến cho người có học vấn hiểu rõ lý lẽ thế gian nhưng chẳng biết chân lý Phật pháp hủy báng. Tục tăng chỉ cốt được tiền, chẳng đoái hoài cái họa hoại diệt Phật pháp sâu xa của những loại "Phật sự" ấy. Nếu gặp kẻ có chân tri chánh kiến đem chi phí làm những thứ "Phật sự" ấy để [dùng vào việc] niệm Phật thì lợi ích lớn lắm!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Thư chuẩn bị xong, pháp danh của hai mươi bốn người mỗi tên đều ghi ra giấy riêng. Quy y tuy dễ dàng, nhưng chớ nên vẫn giữ chương trình của ngoại đạo. Quang mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, chẳng thể khai thị nhiều. Nay gởi hai mươi bốn cuốn Gia Ngôn Lục, mỗi người một cuốn, ba mươi tờ "Một Bức Thư Gởi Khắp", mỗi người một tờ, số còn dư tùy ý đem tặng, ba bản Tịnh Độ Tập Yếu, ba cuốn Sức Chung Tân Lương, hai loại này dùng để giúp cho việc đề xướng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hãy nên bảo với bọn họ: Đã quy y Phật pháp làm đệ tử Phật, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, giữ tâm lành, nói lời lành, làm chuyện lành, hành như vậy mới là đệ tử Phật thật sự. Nếu miệng tuy niệm Phật, nhưng tấm lòng chẳng lành sẽ tương phản với khí phận của Phật, chẳng thể được lợi ích thật sự nơi niệm Phật! Hãy nên thường xem Gia Ngôn Lục thì tất cả lợi ích của pháp môn sẽ đều biết rõ từng điều. Thêm nữa, Một Lá Thư Gởi Khắp chính là nghi thức, quy cách giản tiện để tu trì hằng ngày. Bài văn ấy văn từ tuy thiển cận, nhưng lý thật thâm sâu, hãy nên dùng làm của báu gia truyền vĩnh viễn. Những điều khác đã nói tường tận trong Gia Ngôn Lục, ở đây không viết cặn kẽ nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(110) Nguyên văn là "phù cơ" (thường bị đọc trại thành "phò cơ"), tức là hình thức "vịn cơ bút". Cơ bút ở Trung Hoa thường được làm có hình dáng giống như cái giỏ, trang trí đẹp đẽ, trên thành giỏ có một cái mỏ nhọn khắc hình chim loan, nên đôi khi còn gọi là "phù loan". Mỗi lần cầu cơ, hai người "phù cơ" (thường gọi là "đồng tử" hay "thanh đồng") sẽ nâng hai bên cái giỏ, dịch chuyển cho mỏ chim loan viết chữ xuống mâm gạo hay mâm cát.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(111) Hàn Lâm Viện là một cơ cấu được thiết lập từ thời Đường, thoạt đầu chỉ nhằm tuyển chọn những người có tài văn chương, nghệ thuật, tri thức quảng bác làm cố vấn cho triều đình. Nhưng từ đời Đường Huyền Tông trở đi, Hàn Lâm Viện trở thành một cơ quan trọng yếu chuyên trách soạn thảo những chiếu chỉ, chế văn cơ mật cho hoàng đế. Những người làm việc trong cơ quan này được gọi chung là Hàn Lâm Học Sĩ, hay gọi tắt là Hàn Lâm. Thật ra, có hai loại: Hàn Lâm Học Sĩ chuyên soạn công văn, chế, chiếu. Còn Hàn Lâm Cung Phụng lo giữ sổ sách và công việc hành chánh trong cơ quan. Chữ Hàn Lâm Viện của cổ Trung Hoa có ý nghĩa hoàn toàn khác biệt với chữ Hàn Lâm Viện hiện thời.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(112) Ngọc Đế, gọi đầy đủ là Ngọc Hoàng Thượng Đế, theo tín ngưỡng dân gian là một vị thần tối cao chưởng quản chư thiên và muôn loài trong toàn thể vũ trụ, thường được Nho Gia xưng tụng là Hạo Thiên Thượng Đế. Tuy thế, trong Đạo Giáo, Ngọc Đế vẫn thấp hơn Tam Thanh (Thái Thanh, Thượng Thanh, và Ngọc Thanh), vì được coi như một vị tôn thần được Tam Thanh sanh ra để thay các Ngài chưởng quản vũ trụ. Theo Ngọc Hoàng Bản Hạnh Tập, vương tử của Quang Minh Diệu Quốc bỏ ngôi vua, tu theo đạo của Tam Thanh trong núi Hương Nghiêm trở thành chân tiên. Đạo Giáo xưng tặng Ngọc Đế mỹ hiệu "Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Chí Chân Ngọc Hoàng Thượng Đế". Trong Phật pháp, Ngọc Hoàng Thượng Đế chính là Đế Thích trong Dục Giới. Như vậy, địa vị của Ngọc Hoàng Thượng Đế còn thấp hơn Đại Phạm Thiên Vương rất nhiều, có lẽ nào Quán Thế Âm Bồ Tát quỳ trong điện Linh Tiêu cầu Thượng Đế hạ chiếu làm mưa!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(113) Tây Phương Xác Chỉ là tập sách ghi chép những lời giáng cơ của Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát, do Thường Nhiếp kết tập. Theo đó, vào cuối đời Minh, bọn ông Tưởng Vô Hủ gồm tám người thích tu Tiên thường tụ tập lại cùng nhau cầu cơ. Một ngày nọ, có một vị tiên giáng xuống, dạy họ niệm Nam Mô Phật, họ bèn xưng Nam Mô Phật, vị ấy bảo niệm Phật không phải chỉ niệm bằng miệng xuông như thế, rồi dần dần chỉ dạy họ tu pháp môn Tịnh Độ, trừ bỏ tâm ham muốn trường sanh bất tử, cũng như đả phá những thói hư tật xấu của họ. Tám người này về sau đều thành những hành nhân Tịnh Độ tinh tấn. Những lời dạy của Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát về Tịnh Độ hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của chư Tổ Tịnh Độ, đả phá mạnh mẽ tệ nạn cầu cơ nên rất được Phật môn Trung Hoa coi trọng. Tây Phương Xác Chỉ cũng được đưa vào Tục Tạng Kinh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(114) Đại tiên Hoàng Xích Tùng: Trong hệ thống thần thánh của Đạo Giáo không thấy liệt kê tên vị này. Theo truyền thuyết, năm Quang Tự 23 (1897), tại Hoa Nam, dân tình khốn khổ, bệnh dịch lan tràn, nên các đàn cầu cơ cầu tiên cho thuốc chữa bệnh rất thịnh hành. Có một vị giáng cơ tự xưng tên là đại tiên Hoàng Xích Tùng, thường cho thuốc rất linh nghiệm. Từ đó, hình thành tín ngưỡng thờ phụng Hoàng Đại Tiên. Do vị này tự xưng lúc sống là một thầy lang nên tranh thờ thường vẽ một vị trung niên mặc y phục theo kiểu thầy lang thời Mãn Thanh. Miếu thờ đầu tiên được thành lập ở thôn Nẫm Cương, thuộc huyện Nam Hải, tỉnh Quảng Đông, đặt tên là Phổ Độ Đàn, rồi dần dần phổ biến sang Hương Cảng và Đài Loan.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(115) Tịnh Độ Tập Yếu là một tác phẩm do cư sĩ Khổ Hạnh biên soạn, cư sĩ Phan Huệ Thuần và Thiệu Huệ Viên tu đính, Ấn Quang đại sư giám định, được chia thành ba phần: Phần đầu giải thích, biện định pháp môn Tịnh Độ, phần thứ hai trích thuật những pháp ngữ Tịnh Độ của chư Tổ Sư đại đức, phần cuối cùng là nghi thức niệm Phật và trích lục một số kinh sách chủ yếu của Tịnh Độ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(116) Kinh Ngọc Hoàng, còn gọi là Thánh Nguyên Giác Chân Kinh, hoặc chỉ gọi gọn là Hoàng Kinh, là một bộ kinh điển chủ yếu của Đạo Giáo, nội dung tán dương Ngọc Đế và thuật những sự tích xưa kia của ông ta.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>76. Thư trả lời cư sĩ X...</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Con người sống trong thế gian, quý ở chỗ giữ bổn phận. Phàm hết thảy những kẻ phát điên phát cuồng thậm chí thường hay sanh lòng bi quan, thường muốn tự sát, đều là do chẳng tu thật hạnh, muốn được đại hạnh phúc, mọi chuyện đều như ý, tài, sắc, danh vị đều hơn người. Nếu đời trước tu trì có si phước, được thỏa lòng mong mỏi ấy, bèn kiêu ngạo, xa xỉ, dâm dật, không gì chẳng làm. Cái họa như thế so với chuyện tự sát còn nặng gấp vạn lần! May là chưa đạt được, nên còn chưa đến nỗi khốc liệt như thế. Ông muốn tiêu phiền não ấy, hãy nên mọi chuyện đều giữ phận, chẳng nên dấy lên mảy may vọng niệm nào muốn vượt ngoài bổn phận!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tùy duyên làm việc, nếu làm tôi tớ của người khác, ắt phải tận hết chức phận tôi tớ của ta, chẳng lấy đó làm thẹn, và ôm giữ tấm lòng "ta vốn chẳng có tư cách làm tôi tớ, nay được làm tôi tớ, ta phải tận hết chức phận làm tôi tớ của ta", chẳng sanh tâm hợm mình khinh người. Chủ nhân biết đến ta, ta cũng chẳng vui. Chủ nhân không biết, ta cũng chẳng bực. Ta trọn hết phận ta, biết hay không mặc người! Tâm không so đo, lòng không uất ức. Làm tôi tớ như thế, chủ sẽ tôn kính như thầy, chẳng dám coi như tôi tớ. Nếu vì ta khéo tận hết chức phận tôi tớ của ta, người khác chẳng dám coi ta là tôi tớ, kính trọng ta như thầy, ta vẫn chẳng khởi cái tâm tự cao tự đại, biết tớ hay thầy đều là giả danh, tận hết chức phận của ta mới là thật hạnh. Chỉ sợ hạnh chẳng xứng với danh, mặc kệ người ta đãi ngộ [như thế nào]. Bậc đại nhân thời cổ tuy gặp lúc cùng quẫn chẳng thể sống được, cũng chẳng có ý niệm lo buồn, uất hận, dẫu cho sang quý như bậc thiên tử, giàu trùm thiên hạ, vẫn giữ thái độ như kẻ nông phu nơi rẫy bái. Đấy gọi là <I>"phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất"</I> (phú quý chẳng phóng túng, nghèo hèn chẳng đổi dời [ý chí], oai vũ chẳng khuất phục), nên người quân tử vì vậy luôn thản nhiên, thảnh thơi! Nếu không, kẻ tiểu nhân cứ thường phải lo nghĩ!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông muốn cầu Quang trừ căn bệnh của ông, nhưng đối với những chữ [ông dùng] trong lá thư này, đúng là phải dần dần châm chước mà xem mới hiểu được đó là chữ gì, mới hiểu thư nói về ý gì. Do vậy, Quang biết ông chí lớn, ăn nói lớn lối, chứ tuyệt đối chẳng chú trọng tận lực làm. Nếu yên phận chẳng khoe khoang, nào chịu nêu ra yêu cầu lớn nhất, dùng những chữ hết sức khó nhận biết này, khiến cho người khác phải tốn khá nhiều tâm tư để đọc thư của mình, vì mình lập cách giải quyết nỗi sầu muộn cho mình! Nếu ông có địa vị lớn thì hết thảy những lời phê phán không biết sẽ choáng lộn, cầu kỳ đến đâu! Như chữ viết của ông Phùng Mộng Hoa, viết mười bức thư có đến chín bức người khác chẳng nhận biết được toàn bộ mặt chữ, đến nỗi con chết, cháu chết, đứa cháu nuôi để nối dòng cũng chết, quá nửa là do chữ viết vậy. Ông đừng coi đó là điều lạ lùng, đặc biệt!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm viết chữ phải sao cho người ta vừa nhìn liền hiểu ngay thì mới là cái tâm của vị đại quân tử vừa lợi người vừa tự lợi. Ông Phùng gởi thư cho Quang, Quang phí rất nhiều công phu chỉ nhận được [mặt chữ] tám phần. Quang viết lại cho ông ta, nói: "Thư của ông Quang chỉ đọc được tám phần, nhưng cũng hiểu ý. Nếu là người không thông thạo mặt chữ cho lắm thì sẽ bị hư chuyện không ít! Mong từ rày đừng dùng kiểu đó nữa để mong lợi khắp mọi người". Về sau, ông ta viết thư cho Quang, dùng lối chữ Khải, Quang cho rằng ông ta đã đổi thói quen. Hỏi tới người khác thì ra ông ta vẫn giữ nguyên thói cũ. Ông đã phẫn chí muốn tự sát, sợ rằng những gì Quang nói ông chẳng cho là đúng!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước kia một sĩ quan là người huyện Phiền Trĩ tỉnh Sơn Tây, họ Tục, do quốc gia chẳng được thái bình, đến lăng của Tôn Trung Sơn (Tôn Văn) mổ bụng, được người khác cứu nên chưa chết. Một đệ tử nghĩ là ông ta do đau lòng cho đất nước nên tự sát, liền đặc biệt khuyên ông ta đến Tô Châu quy y. Ông ta ở Tô Châu nhiều ngày, vợ con cũng đi theo. Một bữa nọ, dẫn con gái và đứa hầu đi theo, đứa con gái đã lên mười, đứa hầu đã gần ba mươi. Ông ta trò chuyện với Quang, đứa con gái và đứa hầu chơi giỡn. Ông ta quở mắng, đứa con gái không nghe, liền nổi giận quát mắng. Chúng hơi yên lặng được một khắc, lại nghịch giỡn. Quang hiểu ông ta chỉ biết uất đời, chứ hoàn toàn chẳng có tài giữ yên cõi đời. Chỉ có một bé gái ở chỗ Quang mà còn không kiềm giữ được, huống chi là cầm quân! Chẳng thể dạy con cái làm sao huấn luyện binh sĩ được? Nói chuyện này, sợ ông chẳng cho lời Quang nói là đúng, nên mới nêu ra một chứng cớ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay gởi cho ông một bộ An Sĩ Toàn Thư, một cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn (văn chương lẫn nghĩa lý đều chu đáo đến cùng cực), một cuốn Gia Ngôn Lục, một cuốn Tọa Hoa Chí Quả<SUP><B>(117)</B></SUP>, một cuốn Cảm Ứng Thiên Trực Giảng, một bộ Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, hễ lắng lòng đọc ắt sẽ mong thật hành. Đừng đọc theo kiểu cưỡi ngựa vùn vụt xem đèn, thì mọi chuyện trước kia sẽ giống như đã chết từ hôm qua, mọi sự từ rày sẽ giống như được sanh trong hôm nay. Phàm những tập khí trước kia chẳng để chớm lên trong tâm nữa, ngõ hầu mong thành thánh thành hiền. Tiến thêm nữa là niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì liễu sanh thoát tử siêu phàm nhập thánh, mãi mãi lìa các khổ, thường hưởng pháp lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều không đủ, bất luận ông nghĩ là đúng hay sai cũng đừng gởi thư đến nữa, cũng như chẳng chấp thuận ông giới thiệu người khác đến quy y. Nếu thỉnh kinh nơi Hoằng Hóa Xã cũng đừng gởi kèm thơ cho Quang. Gởi riêng hay gởi kèm đều chẳng trả lời vì chẳng có mục lực lẫn tinh thần để thù tiếp. Cổ nhân nói: <I>"Bậc quân tử tận lực thực hành thì được một câu nói tốt lành sẽ thọ dụng suốt đời không hết. Nếu chẳng chăm chú tận tụy thực hành, dẫu đọc hết sách vở thế gian, đối với chính mình vẫn vô ích!"</I> Như rồng thật hễ được một giọt nước liền có thể làm mưa khắp cả thế giới; rồng đất dẫu ngâm trong nước cũng chẳng khỏi cái họa táng thân!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(117) Tọa Hoa Chí Quả là một tác phẩm tập hợp những chuyện về quả báo do Vương Đạo Đỉnh (Tọa Hoa chủ nhân) biên soạn vào thời Hàm Phong nhà Thanh. <P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>77. Thư trả lời cư sĩ Giang Hữu Bằng</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài Đại Học Tán (ca ngợi sách Đại Học) rất hay, nhưng Quang có mắt như mù, sư Đức Sâm suốt hai ba năm lo việc tài sản nhà chùa ở Giang Tây<SUP><B>(118)</B></SUP>, mệt nhọc đã thành bệnh, chẳng dám dụng tâm. Người trong Hoằng Hóa Xã không có công phu học thức ấy, chẳng thể đứng in giùm những trước tác của cha ông được! Khi đã gom thành sách, hãy tự đứng ra in. Nay đem bài tán này và những bản thảo trước đây gởi lại để khỏi bị thất lạc. Hữu Trinh giữ lòng trinh, nhưng vẫn còn chú ý đến thuốc men, đáng gọi là kẻ si! Những hành động sợ hãi, băn khoăn cho sự đói lạnh ấy đều là do vọng tâm "đang hưởng phước mà không biết là có phước" gây nên. Nếu chịu nghĩ: Giả sử ta sanh vào nhà nghèo túng, suốt ngày quanh năm bận bịu cơm áo mà vẫn khó được thỏa nguyện thì chẳng muốn làm người nữa hay chăng?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cổ nhân nói:
<p style="padding-left: 56px;">Tha kỵ tuấn mã, ngã kỵ lư.
Tồn tế tư lượng ngã bất như.
Hồi đầu hựu kiến thôi xa hán.
Tỷ thượng bất túc, hạ hữu dư
<BR>Tạm dịch:
<BR><I>(Người cưỡi ngựa, ta cưỡi lừa,
Xét soi cho kỹ, ta thua xa người
Ngoảnh đầu thấy gã đẩy xe,
Nhìn lên thua kém, dưới ai bằng mình?)</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đây lời đề thơ cho bức tranh Hành Lạc. Trong bức tranh ấy, phía trước là một người cưỡi ngựa, ở giữa là một người cưỡi lừa, phía sau là một người đẩy xe. Nếu Hữu Trinh hiểu được ý này, nhất tâm cầu sanh Tây Phương, sẽ lành bệnh si, chánh trí mở mang thì mới đáng gọi là Huệ Trinh. Nếu không, sẽ thành Si Trinh! Trinh đã kèm theo si thì sanh về Tây Phương cũng chẳng dễ dàng đâu! Chịu uống phương thuốc này thì may mắn lắm!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về giấc mộng của ông thì chính là do tâm ông biến hiện, không dính dáng chi đến Quang! Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, làm sao hiện trong giấc mộng của người khác cho được? Nghi vấn của Du Hữu Phương và những gì nói trong mộng phù hợp với những gì đã được viết trong thư Quang, đấy là Bồ Tát chỉ dạy ông ta hòng sanh chánh kiến. Kinh dạy: <I>"Nên hiện thân nào để độ được, liền hiện thân ấy để thuyết pháp"</I>, núi, sông, cây, cỏ, cầu, bến, đường, nẻo, người, ngựa, binh, tướng, không gì chẳng tùy cơ mà hiện! Nếu nói đấy chẳng phải là Bồ Tát hiện mà chắc là do Quang hiện thì núi, sông, cây, cỏ, cầu, bến, đường, nẻo, người, ngựa, binh, tướng cũng có thể hiện mộng cho người, có lý ấy hay chăng? Ông đừng có si dại tưởng là Quang. Nếu si dại cho là Quang sẽ thành ra "đem phàm lạm thánh", thì ông lẫn Quang đều mắc tội chẳng cạn đâu, nhớ kỹ nhé!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Căn bệnh lắc đầu của cha ông chính là dấu vết cho thấy chẳng thể lành bệnh, nhưng do niệm Phật sẽ có thể được lành bệnh. Ông muốn cụ được hết bệnh hoàn toàn thì cũng có cách. Ông cùng Huệ Trinh và vợ ông ba người chí thành niệm Quán Âm cầu gia bị. Nếu thật sự chí thành, chắc chắn cụ có thể lành bệnh vì cha con có sẵn mối liên quan bẩm sanh. Năm Dân Quốc thứ 10 (1921), ông Hoàng Hàm Chi và vợ ăn chay trường, bà mẹ tám mươi mốt tuổi, khuyên cụ ăn chay, cụ không mở miệng. Dọn thức ăn chay, cụ không nuốt thức ăn, chỉ ăn cơm trắng. Quang dạy họ sám hối thay cho mẹ, chưa đầy một tháng, cụ liền ăn chay trường. Do mối liên quan bẩm sanh, hễ chí thành ắt sẽ cảm động được Phật, Bồ Tát!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(118) Do chánh quyền huyện Cám Châu (tỉnh Giang Tây) toan biến chùa Thọ Lượng thành khu chợ búa, rồi họ mượn tiếng xây dựng đường xá, toan phá ngôi chùa này thành bình địa, nhân sĩ địa phương cậy thầy Đức Sâm lập cách cứu vãn, do thầy Đức Sâm đã từng trụ ở chùa Thọ Lượng một thời gian. Xin coi chi tiết nơi bài Sớ Thuật Duyên Khởi Trùng Hưng Chùa Thọ Lượng trong phần Tạp Trước và bài "So sánh sự tổn hại và lợi ích giữa được và không được trợ niệm" của thầy Đức Sâm trong phần Phụ Lục, sách Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>78. Thư trả lời cư sĩ Trác Trí Lập</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Con người và trời đất cùng xưng là Tam Tài, chẳng phải là chuyện xuông, mà ắt phải có công tham dự, giúp đỡ sự sanh trưởng, thì mới chẳng thẹn! Nếu không, thịt đi thây chạy, suốt đời ô uế trời đất, sao có thể gọi là Tam Tài cho được? Nếu lãnh hội được ý này, đem [áp dụng vào việc] dạy dỗ bọn trẻ, ắt sẽ có thể tận tâm kiệt lực, đem tài năng ra dạy dỗ, trước hết lấy đạo đức làm gốc, rồi mới đến văn chương là ngọn. Thường luôn giảng nói hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, khiến cho chúng nó biết đạo làm người, khởi tâm, động niệm, cư xử, nói năng đều thuần thiện, tạo thành cơ sở có thể dự vào bậc thánh. Kinh Dịch nói: <I>"Mông dĩ dưỡng chánh, thánh công dã"</I> (dạy cho bọn trẻ nhỏ lẽ chánh, công lao [bằng với công lao] của bậc thánh nhân vậy) tức là nói về điều này. Nếu có thể dùng cái tâm này để dạy người thì học vấn lẫn phẩm đức của chính mình ngày càng tươi sáng, con người sẽ được cảm hóa, chẳng đợi phải đốc thúc, quở trách mong cho họ sẽ thuận theo. Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm. Hiện thời nước loạn, dân khốn đốn, anh em cùng một nhà đánh nhau, tranh đua muốn tàn hại lẫn nhau, dân không lẽ sống đều do cha mẹ trong gia đình không khéo dạy, thầy giáo trong nhà trường không khéo dạy, đến nỗi kẻ có thiên tư quen thói làm xằng, đứa không có thiên tư cam lòng làm kẻ giặc bướng bỉnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông giữ được tấm lòng "gốc chánh, nguồn trong" để làm chuyện vun trồng nhân tài, tức là chẳng có địa vị mà nắm quyền cai trị, chẳng lên tòa mà thuyết pháp vậy, còn vui nào hơn? Đối với việc niệm Phật, nào có trở ngại chi? Sáng - chiều tùy sức xưng niệm. Ngoài ra, [những lúc] chẳng cần vận dụng tâm tư, hễ thuận tiện bèn niệm, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha sẽ tự được vãng sanh. Nếu cứ nói: "Bận rộn cày cấy sẽ dễ niệm Phật", chẳng biết lúc bận rộn cày cấy, do khổ sở nên chắc chắn chẳng thể niệm được. Ông nghĩ như vậy đều là chẳng chú trọng tự phản tỉnh, là tình kiến "đứng núi này thấy núi nọ cao hơn", chứ không phải là chánh trí thấu hiểu sâu xa tự tâm, hiểu thấu triệt để nguyên nhân trong thế gian vậy. Ông chỉ nên "đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành" kiêm dùng tín nguyện trì danh để cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều ấy để tự hành, dạy người, dẫu chẳng có thể thành tựu lớn lao, nhưng cũng có thể chẳng thẹn làm người, chẳng thẹn làm thầy, đội trời đạp đất vậy!</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>79. Thư gởi cho cư sĩ Lý Huệ Trừng bàn về chuyện [xử trí] tro thiêu hóa kinh và tiền vãng sanh</B>
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chuyện đốt kinh [cũ rách] tuy có công đức, nhưng chúng tôi chẳng dám đề xướng, bởi kẻ thô tâm thì nhiều, họ thường đốt lẫn với tro giấy vàng mã. Tro giấy vàng mã đem bán cho người buôn tro, họ sẽ lược tro giấy để giữ lại những mảnh thiếc đem bán, chẳng khác gì vứt tro kinh ấy vào đống rác hay chăng? Ai chịu cẩn thận dùng riêng vật dụng khác để thiêu, rồi đem tro ấy bỏ trong sông cái, biển cả hay chăng? Quang lúc mới xuất gia thấy [khi nhà chùa làm lễ] phóng Mông Sơn<SUP><B>(119)</B></SUP>, đốt ngân phiếu, trong ấy có kèm thêm tiền vãng sanh (in chú Vãng Sanh giống như đồng tiền nên gọi là Vãng Sanh Tiền). Lúc thiêu thì đốt rồi cầm trên tay, khi lửa cháy đến tay không cầm được nữa bèn vứt đi, thường là chưa cháy hết, mỗi tờ có nhiều chữ chưa cháy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm Quang Tự thứ mười sáu (1890), tại chùa Long Tuyền ở Bắc Kinh, buổi sáng ra khỏi cửa chùa, thấy trong đống giấy đã đốt để tiễn cô hồn trong lễ Phóng Diệm Khẩu hồi đêm có xấp tiền Vãng Sanh dày độ hai tấc, chỉ cháy một nửa, Quang nhặt lấy bỏ trong sọt đựng giấy chữ. Nếu tro ấy bị kẻ hầu quét dọn thì có khác gì bị quăng trong đống rác hay chăng? Do vậy, biết rằng: Bất luận cách nào cũng đều cần phải có người cẩn thận để làm. Nếu người phô trương làm thì chưa được lợi ích mà đã bị họa trước! Mấy năm trước, chùa Thái Bình bán giùm kinh Kim Cang viết bằng chữ son<SUP><B>(120)</B></SUP> cho Tô Châu Ẩn Bần Hội thuộc chùa Linh Ẩn ở Tô Châu, hòa thượng Chân Đạt nghe Quang nói bèn thôi, chẳng bán nữa. Nếu có người tặng cho kinh Kim Cang viết bằng chữ son, bất tất phải đốt trong khi làm Phật sự, sợ rằng không có người chú tâm cẩn thận để lo toan thì sẽ mắc phải tội trên đây!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hãy nên ở chỗ thanh tịnh trong nhà, dùng một cái nồi lớn hoặc một cái chậu sắt Tây to, phía dưới lót giấy thiếc, đặt kinh lên trên, phía trên lại phủ giấy thiếc để khỏi bị bay lung tung. Chờ khi lửa tắt, thu lấy tro ấy chứa trong đãy vải mới, bên trong lại bỏ thêm cát sạch, hoặc đá sạch, ngói sạch, bỏ nơi chỗ sâu trong sông hay biển, để khỏi mắc lỗi. Nếu chẳng bỏ thêm cát đá bên trong, [đãy tro] sẽ nổi lên không chìm, lại trôi tấp vào bờ, rốt cuộc bị ô uế. Đốt kinh mà dụng tâm như vậy ắt có công đức, ắt chẳng bị tội khiên. Nếu không, tôi chẳng dám nói!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những kẻ đốt kinh kia, có ai không đốt lẫn với giấy vàng bạc? Ở phương Nam giấy vàng bạc tốt, người ta chẳng chịu đốt trên đất. Ở Bắc Kinh giấy vàng bạc xấu tệ, các chùa đều chẳng biết kính tiếc chữ. Hễ người ta làm Phật sự, thường hay đem sớ văn đốt trên đường trước cửa nhà, hoàn toàn chẳng dùng đồ chứa đựng. Người, thú giày xéo, lỗi ấy chẳng nhỏ! Tập quen thành thói, đáng đau xót thay! Đối với chuyện này, về phần chúng ta nên thầm lặng tự giữ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như khăn vuông lót tay để lễ Phật của nữ nhân ở phương Nam có in danh hiệu của Phật, Bồ Tát, trên đó có đóng dấu các chùa, trải lên đất để lễ Phật, hoặc dùng để lót ngồi. Phong tục xấu xa này lưu truyền khắp xa gần. Năm Quang Tự hai mươi mốt (1895), ở chùa A Dục Vương, Quang thấy một phụ nữ dùng miếng vải ấy để lót ngồi, do đấy, bèn nói với vị điện chủ điện Xá Lợi, điện chủ nói: "Đấy là phong tục của vùng này", có ý cho rằng Quang lắm chuyện! Vì thế, trong Phổ Đà Chí có nói đến tội lỗi ấy, không biết có ai chịu lưu tâm hay chăng?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế gian chẳng biết có bao chuyện chẳng thể suy xét đến tận cùng, do đã thành thói quen, ai cũng cho là có lý. Như người ăn mặn cho kẻ ăn chay là không tốt lành, bất lợi cho con cháu; nếu ăn chay trường sẽ làm cho con cháu đoạn tuyệt! Rốt cuộc có kẻ tin theo, chẳng bằng lòng cho cha mẹ ăn chay trường. Những lời ngoa truyền ấy trọn khắp các nơi. Lại nữa, hễ có người sanh nở thì có kẻ niệm Phật trọn chẳng dám gần. Lại có người chẳng nhìn người chết, chẳng nhìn cô dâu mới cưới, cũng như phá địa ngục, phá huyết hồ, trả tiền Thọ Sanh. Những chuyện vô lý ấy, những ông sư phàm tục vì cầu lợi bèn làm cho người ta, kẻ vô tri vì để tiêu tội bèn bỏ tiền mời người làm, còn đối với pháp môn Niệm Phật thật sự được lợi ích lại coi thường!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vào năm Dân Quốc 18 (1929), Long Tử Tu, Bộc Thu Thừa tính dùng một ngàn sáu hay một ngàn bảy trăm đồng để làm một hội Thủy Lục<SUP><B>(121)</B></SUP> tại Bảo Hoa Sơn, nói với Quang. Quang bảo đem tiền ấy để tổ chức Niệm Phật Thất, bọn họ liền bỏ đi không làm, chỉ dùng mấy trăm đồng để niệm Phật. Nếu Quang tán thành họ làm đàn Thủy Lục thì hai người [mỗi người] đều phải tốn hơn tám trăm đồng, đủ thấy người thế gian phần nhiều thích chuyện náo nhiệt phô trương, chứ không phải là chân thật cầu siêu cho người đã khuất và phổ độ cô hồn! Giấy vàng bạc cũng chớ nên bỏ, mà cũng không nhất định phải thiêu bao nhiêu. Cần biết: Đây là thứ dùng để cứu giúp cô hồn, chứ Phật Bồ Tát và người vãng sanh trọn chẳng dùng đến. Cũng là nhờ Phật lực, pháp lực, tâm lực mà biến ít thành nhiều. Nếu mỗi người đều được một tờ thì dù số đến ngàn vạn vạn tờ cũng chẳng thể trọn khắp được vì cô hồn và quỷ thần trọn khắp hư không vậy! Nếu biết nghĩa "biến ít thành nhiều" thì cái tâm cứu tế cô hồn cũng trọn hết, mà cũng không mắc lỗi quá sức phung phí. Ấy là do lòng ai nấy chí thành làm thì tâm lực trọn khắp, của cải trong cõi âm cũng được trọn khắp theo!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(119) Mông Sơn Thí Thực là một khoa nghi thí thực cho cô hồn. Mông Sơn nay thuộc huyện Danh Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Vào đời Tống, có Bất Động Thượng Sư sống trên núi này, được thế gian xưng tặng là Cam Lộ đại sư. Để phổ tế cô hồn, Sư tập hợp những điểm chánh yếu trong khoa nghi Du Già Diệm Khẩu và các kinh phổ thí cô hồn trong Mật Tạng soạn thành khoa Mông Sơn Thí Thực. Khoa nghi này thường được các chùa tụng niệm vào khóa chiều một cách đơn giản, phẩm vật cúng thí thường chỉ là gạo muối hay cháo. Cận đại, Hưng Từ pháp sư đề xướng thêm vào đấy sáu phen khai thị, nên khoa nghi mới này được gọi là Đại Mông Sơn Thí Thực để phân biệt với khoa nghi Mông Sơn thường dùng. Trong Đại Mông Sơn Thí Thực, phải lập pháp đàn, thờ tượng Phật, bày nhiều hương hoa, vật cúng, gạo trắng, nước trong, cung thỉnh vị Tăng có phẩm đức thuyết pháp khai thị. Trước đàn chánh bày đài cô hồn và thờ bài vị của các vong linh trong mười phương pháp giới. Sau khi dâng hương bèn dùng vải vàng bọc quanh đài cô hồn để quỷ thần tụ vào đó lễ bái, nghe pháp thọ thực, không bị chướng ngại. Giờ cử hành pháp sự thường vào hai giờ Tuất và Hợi.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(120) Đây là một tục lệ kỳ quặc của Phật môn Trung Hoa vùng Hoa Nam. Kinh Kim Cang viết bằng chữ son thường được đốt trong các pháp sự cầu siêu để thí cho quỷ thần. Ẩn Bần Hội (hội giúp đỡ người nghèo) gây quỹ bằng cách nhờ các chùa bán loại kinh Kim Cang viết bằng chữ son này.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(121) Thủy Lục là pháp hội thí thực cho ngạ quỷ cũng như hết thảy những sinh vật sống trên đất, dưới nước nhằm cứu bạt các loài quỷ. Theo Thích Môn Chánh Thống, quyển 4: <I>"Gọi tên là Thủy Lục là do ý nghĩa chư tiên đến ăn trong các dòng nước, quỷ đến ăn nơi đất sạch"</I>. Duyên khởi của pháp hội này là do Tiêu Diễn (Lương Vũ Đế) mộng thấy thần tăng dạy lập trai hội nhằm phổ tế quần linh trong lục đạo tứ sanh. Vua bèn cầu cao tăng đọc khắp các kinh điển, y theo chuyện A Nan gặp quỷ Diện Nhiên, thiết lập pháp hội thí thực bình đẳng, soạn ra khoa nghi. Theo Phật Tổ Thống Ký, pháp hội Thủy Lục đầu tiên được cử hành tại chùa Kim Sơn vào năm Thiên Giám thứ tư (505) đời Hậu Lương. Về sau khoa nghi này thất truyền. Đến niên hiệu Hàm Thuần đời Đường, pháp sư Đạo Anh chùa Pháp Hải tại Trường An được dị nhân chỉ điểm, tìm lại được khoa nghi bèn tổ chức và lưu truyền pháp hội này.</P
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>80. Thư giới thiệu sử dụng xà-phòng Tam Tinh làm bằng chất béo thực vật</B>
(năm Dân Quốc 18 - 1929)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nỗi thảm sát kiếp trong cõi đời gần đây [đúng là] xưa nay chưa từng nghe đến; xét đến cội nguồn, phần nhiều là do sát sanh ăn thịt mà ra. Muốn cứu vãn, nếu không từ đề xướng nhân quả báo ứng khiến cho hết thảy mọi người cùng phát cái tâm "dân như người ruột thịt, vật giống hệt như ta", đều cùng kiêng giết ăn chay, sẽ không thể có cách nào đạt hiệu quả cho được! Ngoài chuyện ăn thịt ra, phàm với những chuyện gì có thể dấy động cơ duyên giết chóc đều phải lập cách sửa đổi. Như do từ chuyện [chế biến] xà-phòng mà sát sanh thì cũng không thể kể hết được số. Bởi lẽ, xà-phòng dùng mỡ [động vật] mới khử được hờm. Những thứ chất béo khác không có tánh ngưng kết, hoặc tuy có tánh ngưng kết nhưng đều mắc quá. Vì vậy, đều dùng mỡ bò để làm. Bò là loài gia súc có công lớn đối với con người; do điều này, chúng bị giết không thể tính toán được, thật là một chuyện đáng ngậm ngùi lắm!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mấy năm trước, cư sĩ Châu Văn Minh và một vị Tăng ở Phổ Đà sáng chế một loại xà-phòng làm bằng dầu thực vật, Quang đã từng thuyết minh căn cội của nó, báo với tứ chúng, hầu như được hết thảy thiện tín tán thành, chấp thuận. Tiếc là nguồn vốn không bao nhiêu, chẳng đầy mấy tháng bèn lỗ vốn, phải đình chỉ. Sau này xưởng xà-phòng và nến Nam Dương làm kèm thêm xà-phòng bằng dầu thực vật, do giá thành cao nhưng lợi tức kém nên cũng lại đình chỉ. Ba bốn năm trước, thường có Phật giáo đồ từ phương xa gởi thư hỏi Quang chỗ bán, muốn mua về dùng. Cũng có người muốn đứng làm đại lý bán lại. Quang thường đem chuyện ấy ghim trong lòng, mong có người phát tâm "cứu sanh mạng, ngăn giết" lại làm xà-phòng bằng chất béo thực vật để cởi gỡ mối lo buồn kín đáo của tôi thì còn may mắn nào hơn!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tháng Mười năm ngoái, Tổng Lý (giám đốc) của Trung Quốc Hóa Học Công Nghiệp Xã tại Thượng Hải là Phương Dịch Tiên cùng mẹ và vợ đến quy y. Quang hỏi: "Ông có làm xà-phòng hay không?" Thưa: "Có làm ạ!" Quang dặn nên làm xà-phòng bằng chất béo thực vật. Ông ta thưa: "Vâng", chỉ nói: "Xà-phòng bằng chất béo thực vật giá thành khá cao. Nếu để giá cao, người ta không chịu dùng. Do vậy, các xưởng chế tạo xà-phòng đều chẳng chịu làm. Đã vâng lời thầy dạy, sẽ thỏa nguyện thầy, nhưng nếu không nghiên cứu nhiều cách sẽ không thể được. Khoảng giữa Xuân và Hạ năm sau sẽ có thể làm ra được sản phẩm". Đến đầu tháng Ba năm nay, ông ta đến gặp Quang, nói: "Xà-phòng bằng chất béo thực vật thì khuôn và đồ đựng đều chế tạo ổn thỏa rồi, nhưng phòng xưởng chưa đủ dùng, hiện đang xây cất, đến giữa tháng Tư sẽ có thể bán ra được". Quang nghe xong, khôn ngăn mừng rỡ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mạnh Tử có nói: <I>"Thỉ nhân khủng duy bất thương nhân, hàm nhân duy khủng thương nhân"</I> (Người chế tạo mũi tên chỉ sợ chẳng làm người khác bị thương, người chế tạo áo giáp chỉ sợ người khác bị thương). Cùng là kiếm lời, nhưng từ bi hay tàn nhẫn, tội hay phước khác biệt lớn lắm! Chỉ một hành động này không biết đã bớt giết bao nhiêu sanh mạng. Đúng là <I>"nghệ dã nhi tấn hồ đạo hỹ"</I> (nghề nghiệp là để tăng tấn đạo vậy). Mong sao hết thảy mọi người cùng hàng với tôi đều dùng loại xà-phòng bằng dầu thực vật này thì hết thảy những xưởng chế tạo xà-phòng bằng mỡ động vật phải đổi sang làm xà-phòng bằng dầu thực vật ngõ hầu được mọi người chiếu cố, quyết chẳng vì giá thành của xà-phòng bằng mỡ động vật rẻ hơn mà chẳng chịu thay đổi. Quang già rồi, tinh thần ngày càng giảm, việc thù tiếp ngày càng nhiều, sau Thu sẽ náu mình ẩn kín mãi mãi. Sợ rằng có lẽ các Phật giáo đồ đồng hàng với tôi tại các tỉnh không biết nên tôi bảo ông ta in ra bảng giá để mọi người đều biết.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>81. Thư gởi cư sĩ Minh Quang</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn bình thường nhất nhưng cao sâu nhất trong Phật pháp. Nếu không phải đời trước sẵn đủ huệ căn, quả thật khó thể sanh chánh tín sâu xa. Đừng nói nhà Nho chẳng dễ sanh lòng tin, ngay cả bậc tri thức thông Tông thông Giáo cũng thường dựa theo ý nghĩa trong Tông - Giáo để luận định, phán đoán, đến nỗi đối với pháp "khiến cho hàng phàm phu sát đất chưa đoạn Phiền Hoặc mà được liễu sanh thoát tử siêu phàm nhập thánh ngay trong đời hiện tại" chẳng thể nghĩ bàn này họ chẳng những không chịu tự tu mà còn chẳng chịu dạy người khác tu, vì họ chẳng biết pháp này chính là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp, cứ lấy giáo nghĩa của Tông - Giáo làm chuẩn, nên mới phạm những lỗi lầm ấy. Nếu thoạt đầu họ liền biết được nghĩa này thì lợi ích lớn lắm. Người thông minh phần nhiều chú trọng "hiểu lý để ngộ cái tâm", chẳng biết niệm Phật chính là đường tắt để hiểu lý ngộ tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu có thể niệm niệm tương ứng thì sẽ tự hiểu được lý, ngộ được tâm. Dẫu chưa làm được, bèn cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, so với những kẻ "hiểu được lý, ngộ được tâm, nhưng chưa đoạn Phiền Hoặc, vẫn cứ luân hồi sanh tử, trọn không có lúc thoát ra", thì [sự khác biệt giữa] trời và đất đã chẳng đủ để sánh ví sự hay và dở. Huống chi đã vãng sanh liền thân cận Phật Di Đà và thánh chúng, sẽ đích thân chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn, há nào phải chỉ hiểu được lý, ngộ được tâm mà thôi ư! Pháp môn Tịnh Độ chỉ có bậc Thượng Thượng Căn và ngu phu ngu phụ mới được lợi ích thật sự, còn kẻ thông minh thông Tông thông Giáo phần nhiều do chí lớn, ăn nói lớn lối, chẳng chịu cậy vào Phật từ lực, cứ dốc chí cậy vào đạo lực của chính mình, cam lòng nhường cho ngu phu ngu phụ sớm dự vào dòng thánh! Có lẽ trong quý ấp có kẻ mang kiến giải như vậy cho nên tôi mới nói sơ lược nguyên do.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đã muốn quy y thì nay đặt cho ông pháp danh là Khế Quang. Tiếng Phạn "A Di Đà", cõi này dịch là Vô Lượng Thọ, hay cũng dịch là Vô Lượng Quang. Nếu có thể nhất tâm niệm Phật, thì chính là lấy Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm. Nếu có thể tâm tâm tương ứng thì nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân, cực bình thường nhưng cực huyền diệu. Nếu có thể tin nhận thì đáng gọi là bậc đại trượng phu lỗi lạc. Quang do túc nghiệp, sanh ra liền bị bệnh mắt, may còn được thấy bầu trời hơn bảy mươi năm. Nay thì mắt hết sức yếu lòa, cự tuyệt hết thảy những chuyện thù tiếp bút mực. Sợ ông bị dao động, bị thuyết phục bởi những kẻ đề xướng hướng dẫn thuộc những tông khác, nên đặc biệt nói đại lược hai nghĩa đặc biệt và thông thường, ngõ hầu chẳng đến nỗi biến khéo thành vụng, cầu thăng lên đâm ra đọa xuống!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hãy nên thường xem Tịnh Độ Ngũ Kinh sẽ biết pháp môn Tịnh Độ là pháp môn Tổng Trì để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Nếu vẫn chưa bị thuyết phục, hãy nên thường xem Tịnh Độ Thập Yếu thì mọi thứ nghi ngờ sẽ tiêu tan, vầng trăng nhất tâm rạng ngời. Văn Sao tuy ngôn từ vụng về, chất phác, nhưng đã nêu tỏ đại lược về duyên do của Thiền và Tịnh, cũng như những điều có ích cho luân thường trong cuộc sống hằng ngày, cũng có thể giúp cho việc tự lợi, lợi tha.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>82. Thư gởi cư sĩ Tự Giác</B>
(năm Dân Quốc 16 - 1927)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chuyện trong thiên hạ có lý nhất định, chứ không có sự nhất định. Hãy nên dùng lý để định đoạt sự, dùng sự để luận lý, ngõ hầu phù hợp thiên lý, tình người thì mới nên. Mạnh Tử dạy: <I>"Nam nữ thọ thọ bất thân vi lễ"</I><SUP><B>(122)</B></SUP> (Nam nữ trao và nhận [đồ vật], chẳng đụng chạm nhau, đó là lễ), [nhưng lại cũng] nói: <I>"Tẩu nịch bất viện vi sài lang"</I> (Chị dâu chết đuối không cứu thì là loài lang sói). Trong lúc ấy, cố nhiên chẳng thể tuân theo lễ nghi trong lúc bình thường để luận được! Đứa con hiếu thờ cha mẹ không hề trái nghịch. Nếu cha mẹ mọc nhọt độc, còn phải dùng kim, dùi, dao, kim nạo để khêu, cắt, lại còn phải dùng hết sức nặn mủ đến khi thấy ra máu mới thôi, đấy cũng là chỗ thể hiện lòng hiếu. Nếu sợ là mạo phạm, ngỗ nghịch thì mạng sống của cha mẹ xong luôn! Nhưng chớ nên thấy có những người làm như vậy được cho là hiếu, để rồi cha mẹ không bị nhọt độc mà vẫn cứ khêu, cứ cắt như vậy sẽ trở thành đại nghịch bất đạo, trời sẽ nổi sấm xử tử.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh nguyệt của nữ nhân là cố tật của quá nửa đời người, xảy ra độ mấy ngày, sao lại vì thế liền ngưng niệm Phật? Lúc bình thường ắt phải hết sức sạch sẽ, chí thành, đến lúc ấy tuy thân thể chẳng thể hết sức sạch sẽ thì càng nên chí thành gấp bội. Trong đồ lót phải chêm thêm vải lót dầy, đừng để máu dơ chảy ra Phật đường. Hễ tay sờ vào phần dưới thân ắt phải rửa sạch. Nếu lễ bái không tiện thì ít lễ bái. Đối với việc niệm Phật, tụng kinh, cố nhiên dùng tâm hạnh chí thành cung kính thì công đức chẳng giảm bớt so với lúc bình thường. Do Phật là cha mẹ đại từ bi của hết thảy chúng sanh, trong lúc bệnh ấy phát ra, nếu chí thành niệm Phật thì Phật sẽ càng sanh lòng xót thương gấp bội!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như kẻ ngu chấp trước "hễ thân có bệnh chẳng sạch như vậy thì chẳng thể niệm Phật", [vậy thì] nếu con cái té trong hầm xí cũng chẳng thể gọi cha mẹ cầu cứu, có lẽ ấy hay chăng? Người niệm Phật nên đi, đứng, nằm, ngồi, tâm thường nghĩ nhớ. Lúc bình thời ở nơi sạch sẽ, hoặc lúc áo mũ chỉnh tề thì niệm ra tiếng hay niệm thầm đều được. Chỉ lúc ngủ, đại tiểu tiện, trần truồng tắm gội thì nên niệm thầm, chớ nên niệm ra tiếng. Nếu gặp tai nạn đao binh nước lửa thì ở bất cứ chỗ nào, trong bất cứ trạng thái nào đều nên niệm ra tiếng, vì niệm ra tiếng so với niệm thầm càng đắc lực hơn. Nếu khi nữ nhân sanh con, nên niệm ngay từ lúc chưa sanh và đến khi lâm bồn, tuy trần truồng chẳng sạch sẽ, vẫn nên niệm ra tiếng. Lúc ấy [là lúc] có liên quan đến tánh mạng, như té trong lửa nước cầu được cứu giúp, chẳng thể luận trên dáng vẻ chẳng đoan trang, ô uế, bất tịnh v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nữ nhân khó sanh chẳng phải là có oán thù với đứa con sắp sanh mà chính là oan gia đời trước, gây trở ngại hầu không sanh được, khiến cho bị đau khổ. [Sản phụ] niệm Phật và những người chăm sóc chung quanh đều cùng vì người ấy niệm Phật thì những kẻ oan gia kia nghe tiếng niệm Phật sẽ liền tháo lui, chẳng dám cản trở! Do vậy, càng phải nên dạy con gái niệm Phật từ nhỏ ngõ hầu diệt sẵn cái nạn này. Nếu là người lúc bình thường luôn niệm Phật chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi có sự nguy nan này. Dẫu là người lúc bình thường chẳng niệm Phật mà [lúc ấy] có thể chí tâm niệm thì chắc chắn cũng được dễ sanh! Kẻ ngu chấp lý hẹp hòi, cho là hễ đàn bà trong nhà sanh con thì cả nhà đều chẳng được cúng Phật, cũng chẳng được niệm Phật; nếu không, sẽ mắc tội! Đấy là chấp chết cứng vào toa thuốc để trị biến chứng, chỉ biết lẽ thường, chẳng biết quyền biến, đáng thương vậy thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông nên đem nghĩa này nói với những phụ nữ thân cận, láng giềng, thì công đức ấy lớn lắm, lại chẳng tốn kém mảy may, có thể gọi là "cứu người từ lúc chưa nguy". Nhưng cần phải phân biệt cặn kẽ, chớ nên cho rằng nữ nhân sanh con trần truồng, ô uế không trở ngại gì, [do vậy] lúc bình thường cũng trọn không kính sợ chi, chẳng cần phải sạch sẽ, thì lại chuốc tội chẳng cạn! Lúc bình thường phải noi theo lẽ thường. Lúc có kinh nguyệt và lúc sanh con chính là lúc "biến lý" (lý thay đổi). Hãy xét kỹ thí dụ do Mạnh Tử và Quang đã nói sẽ tự biết rõ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay gởi cho ông một bộ Văn Sao, một bộ An Sĩ Toàn Thư, một bộ Quán Âm Tụng, hai cuốn Thọ Khang Bảo Giám, xin hãy đọc kỹ. Văn Sao thì chẳng những tu trì Tịnh nghiệp có chỗ làm căn cứ nương tựa, ngay cả những cách xử thế, giữ thân, tề gia, dạy con v.v… đều có nêu rõ. Trong đời hiện thời, ắt cần phải sốt sắng đề xướng nhân quả báo ứng. Dạy con cố nhiên là nhiệm vụ trọng yếu, nhưng dạy con gái càng quan trọng hơn dạy con trai, bởi lẽ con người lúc bé thường ở bên mẹ, nếu mẹ hiền thì con cái cũng tự nhiên sẽ hiền. Do thường được un đúc nuôi dạy đã tập quen thành thói, đến khi lớn lên được cha dạy dỗ sẽ thuận chiều chỉ dạy, thật là dễ dàng. Đời hiện tại loạn đến mức như thế này đều là vì không có hai thứ khéo dạy trên đây mà nên nỗi! Quang không có sức cứu vãn kiếp vận, nhưng có tâm cứu đời, cho nên ở đây mới dài dòng một phen. Nếu chẳng cho lời bàn của lão tăng là viễn vông, hủ bại thì may mắn lắm thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(122) Câu nói này xuất phát từ sách Mạnh Tử, thiên Ly Số: <I>"Nam nữ thọ thọ bất thân, lễ dã. Tẩu nịch viện chi dĩ thủ giả, quyền dã"</I>. Sách Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích giảng: Nam nữ vâng giữ khuôn phép lễ kính, đạo đức, chẳng thể đích thân dùng tay chạm trực tiếp vào đồ vật, để da thịt khỏi bị đụng chạm nhau, đó là lễ. Nhưng nếu chị dâu chết đuối, em chồng cứu vớt bằng cách dùng tay kéo lên, đó là quyền biến.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>83. Thư trả lời cư sĩ Lưu Nhân Hàng bàn về chuyện hoằng dương nhân quả</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quang là một ông Tăng chỉ biết cơm cháo, sao lại khen ngợi quá mức khiến Quang hổ thẹn không chốn nương thân! Thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian dùng sự lý nhân quả để bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Người đời nay đa phần chẳng cho như vậy là đúng, cứ làm riêng theo cách mới, đến nỗi chú trọng cạnh tranh, xâm đoạt để mong tăng lớn thế lực, mở rộng lãnh thổ của ta, tàn sát lẫn nhau, trọn không ngưng dứt. Nhân họa đã khốc liệt, thiên tai lại giáng xuống. Vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống, đều vì chẳng coi nhân quả báo ứng là đúng mà ra! Cái gốc họa này vấn vít kết lại đã lâu, nay đã dần dần bộc phát. Nào phải do một hai người tuyên truyền mà có thể vãn hồi được ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nguyện rộng sâu của các hạ Quang khâm phục cùng cực. Nhưng Quang đã trở thành phế nhân, chẳng những không thể tương trợ, mà cũng chẳng thể khuyên người khác tương trợ. Vì sao vậy? Do không có tinh thần ăn nói và không có mục lực để viết chữ. Trộm cho rằng tuyên truyền trong lúc sắp đánh nhau hay lúc sắp đánh nhau, cái tâm quyết liệt của đôi bên hơi khó buông xuống ngay lập tức được! Vừa uổng tiền tàu xe, vừa bị nguy hiểm. Chẳng bằng dứt lo, quên duyên, nhất tâm lễ tụng, cầu Tam Bảo ngầm rủ lòng gia bị khiến cho những kẻ có quyền lực trong các nước diệt dứt ác niệm, phát khởi từ tâm. Nếu được cảm ứng, lợi ích ấy lớn lắm. Nếu chẳng thể cảm ứng nơi các nước thì cũng sẽ ngầm kết pháp duyên với người các nước, lợi ích ấy cũng chẳng nông cạn đâu!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>84. Thư trả lời cư sĩ Dương Phật Điển</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhận được thư, biết ông hằng ngày lễ tụng siêng năng, chuyên tinh, vui mừng, an ủi không chi sánh bằng! Bóng đen ông đã nói đó chẳng phải là bóng của Phật hay Bồ Tát mà cũng chẳng phải là bóng của oán gia đối đầu hiện ra. Vì Phật, Bồ Tát nếu đã hiện ắt sẽ sáng tỏ, thấy được mặt, mắt v.v... còn oan gia sẽ hiện tướng đáng sợ! Bóng ấy chính là cô hồn đã có duyên [với ông] trong đời trước, mong nhờ vào sức niệm Phật tụng kinh để được siêu sanh vào đường lành. Hãy nên sau khóa tụng vì họ hồi hướng, lại còn chuyên hồi hướng cho họ, khiến cho họ tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, nương Phật từ lực vãng sanh Tây Phương thì có ích cho họ, ngõ hầu chẳng phụ một phen họ khổ sở hiện bóng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nữa, phàm là người tu hành tâm phải có chủ ý, thấy cảnh giới tốt chẳng sanh hoan hỷ, thấy cảnh giới không tốt chẳng sanh sợ hãi. Được như thế thì các cảnh giới đã hiện đều trở thành duyên trợ đạo. Nếu không, chúng đều trở thành duyên chướng đạo. Thêm nữa, phàm là người tu hành đều nên lấy chí thành cung kính làm gốc, giữ lòng từ bi khiêm tốn. Lòng nghĩ, thân làm tuy chẳng thể hoàn toàn tương ứng với Phật, nhưng cần phải nỗ lực gắng công ngõ hầu chẳng trái nghịch tâm hạnh của Phật, thì mới đáng gọi là người tu hành thật sự, là đệ tử Phật thật sự.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>85. Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn (năm lá thư)</B>
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian. Lại phải cạn lòng thành, tột lòng kính, sanh tín, phát nguyện, niệm Phật cầu sanh Tây Phương để tu pháp xuất thế gian. Trong thế gian, học một tài, một nghề đều phải dốc hết toàn bộ tinh thần thì mới có thể thành được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay là phàm phu sát đất lại muốn ngay trong đời này siêu phàm nhập thánh liễu sanh thoát tử, há chẳng phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao nâng cao tinh thần mà thành được ư? Ý nghĩa của chữ Đức Chấn là như vậy đó. Nếu có thể mạnh mẽ dẹp dứt thì danh tương ứng với thật. Nếu không, chỉ là hữu danh vô thật! Đấy là do chính mình phạm lỗi không thể mạnh mẽ dứt dẹp, chứ không phải là Phật pháp chẳng thể lợi người vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Bệnh đã sắp phát ra, do nhờ Đại Sĩ che chở nên được lành, lẽ ra nên sốt sắng coi trọng việc ấy, tu trì pháp môn Tịnh Độ trọng yếu bậc nhất này, sao lại ơ hờ đi hỏi chuyện chẳng cần kíp? Rốt cuộc, chẳng qua cũng là cùng một điệu bộ với kẻ đi đường hỏi lối, [do vậy tôi] biết lòng tin các hạ đã nói ấy chỉ là lòng tin hời hợt bên ngoài, cái hạnh các hạ đã nói đó chính là hạnh vui chơi. Nếu thật sự lấy chuyện này làm chuyện bậc nhất trong đời người thì những gì được ẩn chứa bên trong sẽ lộ tướng ra bên ngoài, thoạt nhìn là biết ngay! Các hạ có câu hỏi thì đã phúc đáp, có yêu cầu [kinh sách] cũng đã gởi qua bưu điện. Quang già rồi, tinh lực chẳng đủ, từ rày chớ nên gởi thư tới nữa! Gởi đến sẽ không trả lời, một là do không rảnh rỗi để thù tiếp, hai là do bận bịu quá nhiều chuyện.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ nhất, Tâm Kinh<SUP><B>(123)</B></SUP> (bản dịch của ngài Huyền Trang) chính là bản dịch toát yếu, cho nên không có phần Chứng Tín Tự và phần kinh văn lưu thông. Nhưng bản dịch của ngài Bát Nhã<SUP><B>(124)</B></SUP> và Lợi Ngôn<SUP><B>(125)</B></SUP> đời Đường với bản dịch của ngài Thi Hộ đời Tống đều có cả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ hai, hết thảy kinh chú tuy có các loại do Phật nói hay Bồ Tát nói khác nhau, tuy do Bồ Tát nói nhưng cũng đã được Phật chứng minh thì đều có thể gọi là <I>"Phật thuyết"</I>. Ông cho đó là do đệ tử đức Phật trước thuật (người hỏi vốn dùng lầm chữ Trước thành chữ Bút), sao lại miệt thị kinh chú quá đáng vậy? Dùng cái tâm này để tụng kinh chú chắc chắn chẳng có sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ ba, Tu La (Asura), cõi này dịch là Phi Thiên, nghĩa là có phước báo trời nhưng không có đức của chư thiên. Do họ có phước nên cũng được xếp vào thiện đạo. Do họ sân hận, kiêu mạn, tranh đấu nên cũng bị xếp vào ác đạo, vì thiện - ác, tội - phước xen tạp vậy! Trong đời có kẻ tin Phật, nhưng thường lầm lạc tự nẩy sanh ý kiến, ôm lòng nghi báng. Nói về phần được của người ấy thì có gọi là bậc chánh tín, nhưng nói về chỗ mất của người ấy thì cũng gọi là kẻ tà mê.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ tư, Sa Bà (Sahā) là tên chung của tam thiên đại thiên thế giới,
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ năm, "kết già phu tọa" (ngồi kết già): Trước hết dùng chân phải đè lên đùi trái, dùng chân trái đè lên đùi phải, gọi là "già phu". Chữ Già (<B>跏</B>) vốn viết là chữ Gia (<B>加</B>), có nghĩa là hai mu bàn chân đâu vào nhau. Phu (<B>趺</B>) là mu bàn chân. Nhưng ngồi lâu thì có thể thay đổi trái và phải cho nhau, đừng chấp chặt phải luôn luôn như vậy. Nếu chẳng thể xếp cả hai chân thì chỉ cần dùng chân trái đè lên chân phải là được rồi. Cách này còn gọi là "bán gia" (thường đọc trại thành "bán già").
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ sáu, "giường to cao rộng" [được nói đến trong Bát Quan Trai Giới] chính là giường dây của tăng nhân hành hạnh Đầu Đà ở Tây Vực. Nước ta không theo cách này, chỉ là chớ nên ngồi trên giường, sập quý trọng hiếm đẹp mà thôi. Loại giường dây này giống như bộ cương ngựa ngày nay, dùng dây bện thành, có thể mở ra hay xếp lại được. Cao chẳng quá một thước sáu tấc, rộng chẳng quá bốn thước. Thước ở đây là thước đời Châu<SUP><B>(126)</B></SUP>, nhỏ hơn thước hiện thời hai tấc. Giường này không phải là giường để ngủ, mà là giường để tọa thiền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ bảy, "chỉ có đường tắt tu hành". Đây chính là giáo nghĩa, có thể chiếu theo văn tự để hiểu. "Y theo như cũ đi nhiễu", đây chính là ý nghĩa trong nhà Thiền, phải có chỗ ngộ thì mới biết triệt để được. Tào Lỗ Xuyên<SUP><B>(127)</B></SUP> tự cho là bậc đại thông gia thông Tông thông Giáo còn hiểu lầm ý này. Các hạ muốn tôi giảng ý nghĩa này, đúng là lời hỏi giỡn chơi! Các hạ hãy buông xuống hết thảy tri kiến thừa thãi, nhất tâm niệm Phật, niệm cho đến khi tâm lẫn Phật đều mất cả rồi, sẽ tự phát ra một tràng cười to, hoàn toàn hiểu rõ. Khi chưa đạt đến, dẫu người khác có giảng cho vẫn chẳng biết được! Ví như đã đến điện Hàm Nguyên<SUP><B>(128)</B></SUP>, mọi thứ trong điện ấy đều biết hết. Nếu vì người chưa đến đấy [mà nói] thì dù có nói rõ ràng, vẫn mờ mịt không biết y như cũ
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những câu nói trong nhà Thiền đều nhằm dạy người khác tham cứu. Nếu hiểu theo ý nghĩa văn tự thì chẳng những không được lợi ích, mà còn có thể coi "hiểu lầm" là ngộ, tội ấy cực lớn. Dẫu ngộ thật sự nhưng liễu sanh thoát tử vẫn còn cách xa lắm! Do kẻ ấy chỉ cậy vào tự lực, phải là sau khi đại ngộ rồi, phiền não, Hoặc nghiệp đoạn sạch không còn sót gì thì mới liễu được. Nếu không, chẳng do đâu mà liễu được! Pháp môn Niệm Phật nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Căn tánh của các hạ cũng chỉ có thể học theo cách tu trì của hàng ngu phu ngu phụ. Nếu lầm lẫn bắt chước thân phận của Tào Lỗ Xuyên thì chẳng những liễu sanh tử trọn chẳng có phần mà còn thật sợ rằng đọa lạc ba ác đạo ắt đã sẵn phần! Vì sao vậy? Do "chưa được bảo là được, do chưa chứng nói là chứng"; do vậy, hoại loạn Phật pháp, khiến cho chúng sanh lầm lạc, nghi ngờ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ tám, những sách như Văn Sao v.v.. gởi đi một gói, nếu chẳng hiềm là hèn kém, dở tệ, xin hãy đọc kỹ, hành theo, ngõ hầu chẳng uổng cuộc đời này và sự gặp gỡ này. Nếu cho là chẳng đáng để vào mắt thì hãy đem cho người thiếu mắt. Từ rày, chỉ nên bàn bạc, trình bày với ông [Phí] Phạm Cửu, đừng gởi thư cho Bất Huệ nữa, do tôi không đủ tinh thần thù tiếp.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Chuyện trong thế gian, có chuyện nên dùng lý để luận, có chuyện nên dùng tình để luận. Ông nói về chuyện của vị tên X... nọ cố nhiên nên dùng tình để luận, chớ nên cố chấp vào lẽ thường để đoán định. Sự việc xảy ra đã năm năm rồi, cũng không sợ người ta thấy nghe. Người ấy đã cùng với người tên Y... sống yên, chỉ nên để mặc. Nếu thật sự có lòng hiếu thảo, ắt sẽ thay cho người ấy lễ Phật sám hối, cầu cho người ấy giác ngộ. Lúc đến thăm hỏi nên khuyên người ấy niệm Phật, đây là dùng tình cảm. Nếu người ấy gặp khốn khó thì chẳng ngại gì châu cấp. Buôn bán trái lẽ để sống, không thể khuyên can được thì chuyện này lấy tình mẹ con làm chuẩn, chẳng thể luận theo lẽ thường! Còn đối với ông Y... ấy cũng chẳng được coi như kẻ oán cừu, kính nhi viễn chi mới là hợp lẽ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nam nữ tuy khác, tâm niệm vốn đồng. Trong đời, có những gã đàn ông trong nhà đã có thê thiếp, vẫn còn lang chạ với phụ nữ của người khác ở bên ngoài, con người ấy chẳng thể vì chuyện đó mà không coi ông ta là cha. Đối với người được cha thương yêu, tuy chẳng thể coi như là mẹ, nhưng cũng chớ nên xem như kẻ oán cừu. Coi như kẻ oán cừu tức là oán cừu cha! Sau này có thể dẫn đến những cử chỉ báo oán, hành hung, vì thế hãy nên kính nhi viễn chi! Sách Lễ Ký nói: <I>"Phụ mẫu chi sở ái diệc ái chi. Phụ mẫu chi sở kính diệc kính chi"</I> (Cha mẹ yêu mến gì thì ta cũng yêu mến nấy. Cha mẹ kính trọng gì thì ta cũng kính trọng nấy). Đối với chó, ngựa mà còn như thế huống gì là con người? Chỉ cần chẳng sanh phân biệt, tận hết lòng hiếu thảo của chính mình thì đối với thiên lý, tình người, lẫn Phật pháp đều có thể chẳng trái nghịch. Mong hãy đem ý này nói với người ấy. Người ấy sẽ trọn được lòng hiếu đôi bề, có thể khiến cho cha mẹ sanh lòng chánh tín, cầu sanh Tây Phương, lấy niệm Phật làm chuyện chánh. Chỉ nên quên đi chuyện cũ thì tình cảm mỗi ngày một thân thiết, lời nói sẽ nghe lọt tai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về phần cậu của ông, tôi đã bảo gởi Văn Sao, Gia Ngôn, Thống Kỷ, An Sĩ, Chánh Tín v.v… cùng một bưu kiện, nay sẽ gởi sách đi. Thư hôm trước của ông tôi cũng đã nhận được rồi. Cha mẹ ông đều một bề có tín tâm, nay hãy nên uyển chuyển khuyên dụ họ, khiến cho tín tâm của họ tăng trưởng, quả thật là ý nghĩa trọng yếu để người làm con, người làm Phật tử báo đền cội gốc vậy. Ông nói phần Biện Thể và Lợi Ích Về Mặt Pháp Do Nghe Chim Hót trong sách Di Đà Yếu Giải không rõ ràng, xin Quang giải thích; các giáo nghĩa thấu đạt lý rất sâu ấy há kẻ sơ tâm có thể hiểu rõ ngay được ư? [Nếu] giải thích, [người nghe] cũng phải đã có mấy phần hiểu rõ rồi thì mới được. Nếu không, phải tốn bao nhiêu bút mực mới có thể làm cho ông hiểu rõ ràng từng điều một? Ông hãy nên nhất tâm niệm Phật, sau hai ba năm, sẽ tự có cơ hội hiểu rõ ràng. Nếu muốn gấp hiểu rõ ràng ngay, hãy nên thỉnh một bộ Di Đà Yếu Giải Tiện Mông Sao<SUP><B>(129)</B></SUP>, lắng lòng đọc, họa chăng biết ngay. Nếu vẫn chưa thể hiểu rõ ngay thì cần phải trui luyện từ từ mới biết được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vào năm ngoái, Quang đã nhận lời cư sĩ Lý Viên Tịnh tu chỉnh các bộ Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa Chí. Năm ngoái đã nhờ ông Hứa Chỉ Tịnh lo đại cương, còn phần tu chỉnh đều giao cho Quang. Hơn một năm qua, do thư từ và các việc bộn bề, một bộ cũng chưa thể sửa xong. Trước kia chưa sắp chữ ngay nên có chậm trễ cũng không sao, nay Thanh Lương Chí đã sắp chữ, mà mới chỉ sửa được một nửa, thường là mười mấy bữa chẳng rảnh rỗi được một ngày. Vì thế, nay quyết cự tuyệt hết thảy chuyện thù tiếp để làm việc này. Nếu không, hai đằng đều chẳng được lợi ích. Từ rày, bất luận chuyện nào, người nào, cũng đều đừng gởi thư đến. Gởi đến cũng không trả lời. Nếu không, do chuyện này thúc bách cùng cực, khó được như pháp. Lưu truyền những bộ danh sơn chí trong thế gian há nên làm cho xong chuyện hay sao? Mong hãy đem lời này nói với hết thảy người quen biết, và cũng đừng giới thiệu người khác đến quy y!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Đứa con gái ấy sanh ra để đòi nợ, chết là xong nợ, không còn ngờ gì! Chỗ có người đã bị chết đuối ấy thường có người chết đuối, chính là chỗ được gọi là "quỷ kiếm người chết thay". Hãy nên ở nơi ấy lập một cái mốc gỗ, phía trên dùng một tấm sắt Tây trắng thật dày, khắc sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Chữ phải to để thấy được từ xa, phải tồn tại được lâu ngày thì sẽ dứt được cái họa ấy. Do lòng từ của người khắc những chữ ấy sẽ cảm được từ quang của Phật gia bị. Từ rày bảo đảm chắc chắn không còn cái họa ấy nữa. Do đây có thể thấy được sức từ bi của Phật chẳng thể nghĩ bàn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cách cầu siêu cho người đã khuất chỉ có niệm Phật thật là bậc nhất. Thí Thực trong đời nay đều là hình thức mà thôi; do vậy, chẳng bằng thỉnh Tăng niệm Phật, buổi tối phóng Mông Sơn sẽ có lợi ích thật sự. Kinh sám pháp sự của Đạo Gia thường là trộm lấy những danh nghĩa trong Phật pháp rồi bịa đặt ra! Tăng thí thực còn khó được lợi ích thật sự, thì đạo sĩ thí thực há độ được vong ư? Chẳng qua mượn chuyện này để dối người mà thôi! Bị oán quỷ dẫn đi, ước về sự thì tợ hồ chịu khuất, nhưng ước về nhân thì chẳng phải là khuất. Đối với những điều đã dạy trong quẻ xăm, há nên chấp chặt? Bởi sự có muôn vàn biến hóa, xăm chỉ có bấy nhiêu đó thôi! Ngay như lời giáng cơ còn có khi chẳng ứng nghiệm, huống chi là lời thơ trong quẻ xăm?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">[Nếu] vợ chồng ông bỏ con gái bên sông rồi đi về, đứa con gái bị chết đuối thì [vợ chồng ông] có lỗi, chứ nó ở trong nhà, rốt cuộc tự đến chết nơi sông, ông tự bảo đó là lỗi mình thì thành nói xàm rồi! Thật vậy đó! Oán chớ nên kết. Đời trước đã kết, đời sau chịu quả báo. Con quỷ ấy há không có nhân gì lại có thể lôi được đứa con gái ấy xuống sông ư? Do vậy, có thể biết là nhân quả vĩnh viễn không bị mất vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Phật pháp viên thông vô ngại, cố nhiên Mật Tông có chuyện "chẳng được A Xà Lê truyền dạy [mà cứ tu học Mật pháp] thì là trộm pháp" chính là nhằm thể hiện ý tôn trọng pháp đến tột cùng, chứ không phải nhằm vĩnh viễn đoạn trừ Mật Tông. Nếu theo như lời ông nói, chưa thọ Tam Muội Da Giới<SUP><B>(130)</B></SUP> chẳng thể niệm Mông Sơn Thí Thực, thì không riêng gì Mông Sơn Thí Thực, ngay cả hết thảy chú cũng đều chẳng được niệm, vì chưa được A Xà Lê truyền dạy! Nhưng từ xưa đến nay, người bình thường niệm các chú Đại Bi, Chuẩn Đề<SUP><B>(131)</B></SUP> có cảm ứng rất nhiều! Thậm chí nhà Nho từ bia, thiếp mà biết có Tâm Kinh, mắc bệnh sốt rét<SUP><B>(132)</B></SUP> bèn gượng bệnh niệm kinh thì con quỷ gây bệnh sốt rét bèn tháo lui. Nếu đúng như ông nói thì con quỷ gây bệnh sốt rét sẽ càng thêm đắc thế<SUP><B>(133)</B></SUP>! Nay kể cùng ông một thí dụ. Ví như bậc quân tử đức dầy lấy thân làm gương để dìu dắt người khác, người trong một làng nghe theo sự chỉ huy, thảy đều an phận giữ mình. Người ấy do lấy thân làm gương để dìu dắt người khác, vượt hơn quan phủ phát ra hiệu lệnh buộc dân thi hành. Chớ nói sự cảm hóa bằng đức của người ấy trỗi hơn quan phủ! Nếu bắt chước quan phủ phát ra hiệu lệnh buộc người ta thi hành thì mọi người đều cho đó là phản nghịch. Chỉ [dùng tụng chú để] tự tu trì thì có ích, còn nếu tự tiếm mạo sẽ có tội. Như thế thì chẳng đến nỗi đoạn diệt Mật Tông, mà cũng chẳng đến nỗi phá hoại Mật Tông. Người thời nay phần nhiều dùng tình kiến phàm phu để nói Phật pháp. Vì thế, khắp mọi nơi đều trở thành gai góc, không chỗ nào để đặt chân bước đi được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Tiếm mạo"<SUP><B>(134)</B></SUP> là dối xưng A Xà Lê. Tác pháp<SUP><B>(135)</B></SUP> nào có trở ngại gì, vẽ chữ Phạn để quán tưởng đều có thể chiếu theo nghi quỹ, nhưng chớ nên tự xưng là đã được A Xà Lê quán đảnh. Ai biết được nghĩa này thì lời khuyên của Quang càng thêm rõ ràng. Người thời nay học Phật đều bằng cái tâm mù quáng khiến cho pháp nào cũng bị trở ngại, pháp nào cũng chẳng thành, đáng than cùng cực!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(123) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajñāpāramitā Hrdaya Sūtra), ngoài bản dịch của ngài Huyền Trang ra, còn có sáu bản dịch nữa với tên gọi khác biệt: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Đại Minh Chú Kinh (Cưu Ma La Thập dịch), Bát Nhã Ba La Mật Đa Na Đề Kinh (Bồ Đề Lưu Chi dịch), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Bát Nhã và Lợi Ngôn dịch), Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Pháp Nguyệt dịch), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Trí Huệ Luân dịch), và Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh (Thi Hộ dịch).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(124) Bát Nhã (734-?), là một vị cao tăng dịch kinh đời Đường, đôi khi còn được phiên âm là Bát Lạt Nhã (Prajñā), người nước Kế Tân ở Bắc Ấn Độ, họ Kiều Đáp Ma (Gotama), xuất gia năm bảy tuổi, năm 20 tuổi thọ Cụ Túc, năm 23 tuổi đến chùa Na Lan Đà ở Trung Ấn theo học với các vị Trí Hộ, Tấn Hữu, Trí Hữu v.v... chuyên nghiên cứu Duy Thức, Du Già, Trung Biên, Kim Cang Kinh, Ngũ Minh v.v... Năm Kiến Trung thứ hai (781) đời Đường Đức Tông, Sư đến Trường An. Năm Trinh Nguyên thứ tư (788), Sư dịch bộ Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh, năm sau lại dịch các ấn khế, chân ngôn, pháp môn từ trong Mật Tạng. Tháng bảy năm Trinh Nguyên thứ sáu (790), phụng chiếu đi sứ nước Ca Thấp Di La (Kashmir). Không lâu sau, Sư được sắc phong danh hiệu Bát Nhã Tam Tạng và được ban ca-sa tía. Sau đó, Sư dịch các bộ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Tứ Thập Hoa Nghiêm, Đại Thừa Bản Tánh Tâm Địa Quán Kinh, Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà La Ni Kinh v.v... Sư mất tại Lạc Dương, di thể chôn ở Tây Cương, Long Môn, không rõ thọ được bao nhiêu tuổi.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(125) Lợi Ngôn, không rõ năm sanh, là một vị cao Tăng đời Đường, người xứ Cưu Ty (Kuche) ở Tây Vực. Tên ngài còn được phiên âm là Địa Chiến Thấp La (Chân Nguyệt). Khi sa-môn Pháp Nguyệt từ Đông Ấn Độ sang Cưu Ty, Sư được gặp gỡ, bèn theo ngài Pháp Nguyệt học tập nội ngoại điển, nghe giảng các bộ Đại Thừa Nguyệt Đăng Tam Ma Địa Kinh, Lịch Đế Kỷ, Du Già Chân Ngôn đều nhớ nằm lòng. Năm Khai Nguyên mười bốn (726), Sư được thọ Cụ Túc, chuyên nghiên cứu học hỏi các kinh Đại Tiểu Thừa, sách tiếng Hán, sách tiếng Phạn, cũng như các phương ngôn ở Tây Vực. Năm Khai Nguyên 18 (730), theo thầy qua phương Đông, đến năm Khai Nguyên 20 (732), thầy trò tới Trường An, Sư làm người phiên dịch cho thầy, thường vào cung, rất được Đường Huyền Tông kính nể. Năm Khai Nguyên 24 (736), Sư trở về Tây Vực. Lúc ấy nước Phùng Thức Nặc đang có quốc biến, đường đi bị nghẽn, Sư bèn sang Vu Điền. Sau khi ngài Pháp Nguyệt thị tịch, Sư bèn trở về chùa cũ. Năm Thiên Bảo mười ba (754), Sư lại sang phương Đông, đến tháng Hai năm sau bèn tới ngụ tại các chùa Long Hưng và Báo Ân, giúp ngài Bất Không dịch kinh. Năm Trinh Nguyên thứ 4 (788), Sư chính thức giữ chức Dịch Ngữ trong đạo tràng phiên dịch. Năm sau, lại theo hầu Bát Nhã Tam Tạng, đảm nhiệm việc phiên dịch kinh Na La Diên Lực Kinh. Không rõ Sư mất khi nào. Còn để lại những trước tác như Phạm Ngữ Tạp Danh, Tây Minh Tự Viên Chiếu Thi Tập. Ngoài ra những di cảo của Sư cũng được môn nhân thâu thập thành Phiên Kinh Đại Đức Hàn Lâm Đãi Chiếu Quang Trạch Tự Lợi Ngôn Tập.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(126) Một thước (Xích) đời Châu bằng 23.1cm.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(127) Tào Lỗ Xuyên là một vị cư sĩ sống cùng thời tổ Liên Trì. Khi tác phẩm A Di Đà Kinh Sớ Sao của đại sư Liên Trì được phổ biến trong cõi đời, Tào Lỗ Xuyên đôi ba phen cật vấn, cho là Tổ phế bỏ Tam Tạng kinh điển, coi căn khí của mọi người đều hèn kém như nhau, buộc tất cả mọi người đều phải tu pháp thiển cận, lên án Tổ coi thường kinh Hoa Nghiêm, đề cao kinh Di Đà quá đáng, toan dùng pháp môn Tịnh Độ chèn ép các tông khác, coi thường chư Phật, chỉ đề cao riêng mình Phật Di Đà v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(128) Điện Hàm Nguyên là tiền điện của cung Đại Minh thuộc kinh đô Trường An (nay là thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây) của nhà Đường. Căn cứ trên phế tích và những di vật được khai quật, người ta biết điện này hùng vĩ và tráng lệ hơn điện Thái Hòa thuộc Tử Cấm Thành Bắc Kinh đời Minh rất nhiều. Do được dùng chủ yếu để thiết đại triều, nên trong điện Hàm Nguyên tập trung mọi thứ quý báu, hoa mỹ nhất của đế quốc Đại Đường.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(129) Di Đà Yếu Giải Tiện Mông Sao là tác phẩm giải thích bộ Di Đà Kinh Yếu Giải, do sa-môn Đạt Mặc ở Hồng Loa viết lời sao, tỳ-kheo Đạt Lâm tu đính. Hai vị này cùng sống vào giữa đời Thanh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(130) Tam Muội Da Giới: Còn gọi là Tam Ma Da Giới, tức giới pháp bí mật trong Mật Tông. Theo giáo nghĩa Mật Tông, giới này lấy Bồ Đề Tâm làm giới thể, lấy pháp giới vô lượng đức viên mãn làm hành tướng cho Bí Mật Chân Ngôn Giới. Giới tướng của giới này là chẳng bỏ chánh pháp, chẳng lìa bỏ tâm Bồ Đề, chẳng keo kiệt hết thảy pháp, chẳng hề không lợi lạc chúng sanh. Đấy chính là bốn điểm trọng yếu của giới này. Ngoài ra, còn có những điều phải tuân thủ riêng khi thọ trì một bộ chú pháp nào đó, chẳng hạn như không được ăn một số thực phẩm nào đó, phải tẩy tịnh trước khi vào đàn tràng theo một nghi thức chuyên biệt v.v... cũng như phát thệ không tự tiện nói cho người khác biết những gì mình đã được học, nhằm tránh tạo khẩu nghiệp báng pháp cho người thiếu căn duyên với Mật pháp khởi lòng nghi rồi hủy báng. Trước khi vào đàn thọ pháp Mật Tông phải thọ giới này. Nói chung, Tam Muội Da Giới vẫn lấy Ngũ Giới làm căn bản, những kẻ tự xưng là Mật Tông bí truyền không vâng giữ Ngũ Giới đều là tà sư hoại loạn Phật pháp!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(131) Chuẩn Đề (Cundī), còn được gọi là Chuẩn Chi, Chuẩn Nê, Chuẩn Đề Quán Âm, Chuẩn Đề Phật Mẫu, Phật Mẫu Chuẩn Đề, dịch nghĩa là thanh tịnh. Đây là một hóa thân của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, đặc biệt bảo hộ chúng sanh đoản mạng và chiết phục oán quỷ. Thiền Tông đặc biệt tôn sùng vị Bồ Tát này, hầu như các tự viện tùng lâm lớn của Trung Hoa đều thờ ngài. Thai Mật của Nhật Bản xếp ngài vào một trong các vị Phật Mẫu thuộc Phật Bộ, còn Đông Mật Nhật Bản xếp ngài vào một trong số sáu vị Quán Âm thuộc Liên Hoa Bộ (Thiên Thủ Quán Âm, Thánh Quán Âm, Mã Đầu Quán Âm, Thập Nhất Diện Quán Âm, Chuẩn Đề Quán Âm, Như Ý Luân Quán Âm). Đại Sĩ Quán Âm hiện thân này khi nói chú Chuẩn Đề. Ngài thường được tạc tượng có mười tám tay, mỗi tay cầm một món pháp khí, nhằm thể hiện phân thân hóa độ khắp cả lục đạo ứng với mười tám giới.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(132) Ngược bệnh: Chữ Ngược ở đây không phải là bệnh sốt rét thông thường, mà là bệnh do oán đối quỷ mị dựa vào khiến cho bệnh nhân lên cơn sốt rét mỗi ngày, phải nhờ vào chú lực hoặc kinh lực để giải trừ oán kết thì mới hết bệnh được. Chúng tôi vẫn dùng chữ "bệnh sốt rét" cho dễ hiểu.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(133) Do cuối Tâm Kinh là một bài chú nên nếu hiểu như ông Thôi Đức Chấn "chưa được A Xà Lê truyền dạy sẽ không được niệm; nếu tự tiện niệm sẽ mắc tội vượt pháp", những Nho sĩ do không được truyền dạy mà khi bị bệnh Ngược cứ tự tiện niệm Tâm Kinh sẽ mắc tội vượt pháp, phước đức càng bị sút giảm, con quỷ gây bệnh Ngược do đó càng được tăng thêm thế lực.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(134) "Tiếm mạo" là vượt phận và mạo nhận. Ý nói có những người tu Mật Tông biết được một vài nghi quỹ, được truyền thụ một vài Mật Pháp, nhưng chưa đủ tư cách, giới hạnh của một bậc đạo sư, chưa thấu hiểu Mật pháp, nhất là chưa đủ sự hành trì, đã tự tiện lập đàn truyền pháp, thâu nhận đệ tử, tự xưng là A Xà Lê, rồi lập tông, lập phái.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(135) Đây là một thuật ngữ Mật Tông, hành nhân vào đàn, quán tưởng, kết ấn, cúng dường, tụng niệm, hỏa cúng dường (hộ-ma) đều gọi chung là "tác pháp".
</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>86. Thư trả lời cư sĩ Trầm Lai Vân</B>
(năm Dân Quốc 21- 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật, điều đáng lo là trái giác hợp trần, chẳng chịu quay đầu thì Phật không làm thế nào được! Nếu chịu quay đầu thì kẻ trước kia trái giác hợp trần, mất niệm thành cuồng nay sẽ trái trần hợp giác, chế ngự được ý niệm, thành thánh vậy! Do tự tâm sẵn có Phật Tánh, lòng từ của Phật nhiều kiếp thường rủ, huống chi di phạm (khuôn mẫu để lại) của lệnh nghiêm, lệnh cô trượng<SUP><B>(136)</B></SUP> vẫn còn, thật đúng là "hễ cầu bèn được". Quang đã già rồi, tinh thần chẳng đủ; vì thế, trốn sang chùa Báo Quốc ở Tô Châu. Chùa này đã không có bất động sản mà cũng chẳng có chuyện thù tiếp, chỉ có mấy người kết lều tranh trú ngụ, suốt ngày đóng cửa sống qua ngày. Nay do lòng thành của ông muốn khai thị nhiều thì sẽ mệt nhọc khôn ngằn. Nay gởi cho ông Văn Sao, Gia Ngôn Lục, mỗi thứ một bộ. Xin đọc kỹ rồi hành theo đó thì ông cũng sẽ đạt được những gì lệnh nghiêm, lệnh cô trượng đã đạt được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng muốn sanh về Tịnh Độ, ắt cần phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được! Nếu không, tâm trái nghịch với Phật, khó được lợi ích thật sự! "Giữ vẹn luân thường" vừa nói đó chính là tận lực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Cần phải thực hiện thật sự giữa cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn; nhưng bổn phận làm con còn dễ trọn, dễ biết, chứ bổn phận làm cha mẹ của người khác thì khó trọn, khó biết! Rất nhiều kẻ mù quáng quấy rối ngày nay tuy là tội của bọn họ, nhưng xét đến cội nguồn thì đều vì cha mẹ họ chưa hề đem đạo lý làm người và sự thật nhân quả bảo ban. Những gì họ được dạy dỗ đều là chú trọng suy nghĩ mưu mẹo, lường gạt, nên mới đến nỗi xấu hèn như thế! Do vậy, nói rằng: <I>"Nếu con người khéo dạy dỗ con cái thì gia đạo tự được hưng vượng, thiên hạ thái bình!"</I> Khi con cái vừa mới hiểu biết, xin hãy đem ngay những chuyện con người nên làm và những điều chứng nghiệm thật sự về thiện - ác, nhân - quả thường nói với chúng thì con cháu nhiều đời về sau đều trở thành hiền nhân, thiện nhân. Do vậy, đây là nguyên do tại sao bổn phận của người làm cha mẹ so với bổn phận của kẻ làm con cái khó thể trọn hết được vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(136) Lệnh nghiêm: Tiếng gọi cha người khác một cách tôn kính.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lệnh cô trượng: Dượng (chồng cô).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>87. Thư trả lời cư sĩ Thái Tích Đỉnh ở Hải Môn</B> (ba lá thư)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Điều ông chấp thuộc về Đoạn Kiến<SUP><B>(137)</B></SUP>, chẳng biết một niệm tâm tánh của con người chúng ta chẳng phải thường, chẳng phải đoạn! Vì sao chẳng phải đoạn? Trước không có khởi đầu, sau không có kết thúc. Nếu có khởi đầu và kết thúc là rớt vào Đoạn Kiến! Vì sao chẳng phải thường? Bản tánh thường nhiên bất biến, nhưng lại có ý nghĩa tùy duyên. Hễ gặp duyên ngộ - tịnh, sẽ thành Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Tuy viên thành Phật đạo nhưng [tâm tánh] trọn chẳng tăng, chỉ bỏ hết vọng tưởng, chấp trước, khôi phục tâm tánh sẵn có mà thôi! Nếu gặp duyên mê - nhiễm bèn thành trời, người, Tu La, quỷ, súc sanh, địa ngục. Tuy luân hồi trong sáu nẻo, [tâm tánh] trọn chẳng bị giảm, chỉ do vọng tưởng, chấp trước che lấp bản tánh như mây che mặt trời nhưng mặt trời vẫn y như cũ, không bị hao hụt! Thuở ban đầu ông học phép Châu Thiên Đại Đạo<SUP><B>(138)</B></SUP>, đây chẳng những không phải là Phật pháp, mà cũng chẳng phải là phép của Lão Tử. Hãy thử xem Đạo Đức Kinh của Lão Tử có câu: <I>"Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân"</I> (ta có mối lo lớn là vì ta có thân).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoại đạo đều chú trọng trường sanh bất lão và thành Đại La thần tiên. Nếu trở thành thần tiên nơi cung Đại La<SUP><B>(139)</B></SUP>, xưng "thần" (bầy tôi) dưới tòa của Ngọc Đế, liền cho là vinh dự không chi hơn được! Chẳng biết Ngọc Đế vẫn còn thuộc trong lục đạo, huống gì những kẻ xưng thần dưới tòa Ngọc Đế! Hơn nữa, ông nói lúc trời đất mở mang, chúng sanh từ đâu đến ư? Chẳng biết trời đất giống như nhà cửa. Khi dựng xong cái nhà mới thì những người ở trong căn nhà cũ bị phá [trước kia] đã phải di cư sang nơi khác, nay theo như cũ trở về chốn xưa. Đến khi nhà cửa sắp hư, sẽ di chuyển [sang nơi khác] cũng giống như thế. Vì vậy, kẻ có tội nghiệp sẽ di cư sang ác đạo trong thế giới phương khác. Người có công đức sanh vào Nhị Thiền Thiên<SUP><B>(140)</B></SUP>. Sơ Thiền<SUP><B>(141)</B></SUP> hoại bảy lần thì Nhị Thiền mới hoại một lần. Nhị Thiền hoại bảy lần thì Tam Thiền<SUP><B>(142)</B></SUP> mới hoại một lần. Đây gọi là Tam Tai. [Cõi trời] Tứ Thiền<SUP><B>(143)</B></SUP> vĩnh viễn không bị hư hoại. Khi Tam Thiền hoại, những chúng sanh có công đức đều sanh lên Tứ Thiền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nữa, ông đã tin vào pháp môn Tịnh Độ sao không sốt sắng tu hành, lại cứ lầm lạc muốn trở thành bậc thông gia hỏi những chuyện chẳng liên quan đến phận mình như vậy? Ông vốn mang tánh chất ngoại đạo, coi ngoại đạo là Phật pháp, coi Phật pháp là ngoại đạo. Những niềm tin hồ đồ này lẽ ra chẳng nên trả lời, nhưng thật sợ biết đâu ông có duyên với Phật, nhờ đây có thể phản tà quy chánh cũng không chừng! Vì thế, khôn ngăn dài dòng một phen. Nếu tin được thì cứ chiếu theo Gia Ngôn Lục mà tu, ắt được lợi ích lớn lao. Nếu muốn phô phang sự biện luận mù quáng của chính mình, cứ gởi thư tới thư lui để hỏi han, chắc chắn tôi sẽ không trả lời. Vì sao vậy? Đã chẳng thể lãnh hội, vẫn chấp mê là đúng, ai rảnh rỗi tâm tư để biện luận cùng ông những chuyện chẳng liên quan đến thân tâm, tánh mạng của chính mình cơ chứ? Tôi vốn muốn phê đại lược vào thư ông, hiềm rằng ý nghĩa lời phê quá sơ sài thì lòng nghi của ông vẫn chẳng thể giải quyết được; vì thế mới tiếp tục viết hai trang.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Năm ngoái đã phải giảo duyệt sách không rảnh rỗi, sau đó lại bị bệnh không rảnh rang để sửa sách, cho nên chỉ bảo Lý Viên Tịnh<SUP><B>(144)</B></SUP> gởi pháp danh Đức Tịnh [cho ông] mà thôi! Những gì đã được nói trong Văn Sao đều là khai thị, nhưng Gia Ngôn Lục lại tom góp [những khai thị trọng yếu] vào một chỗ, khá dễ lãnh hội, cần gì cứ phải có một lá thư trả lời trong lúc trăm chuyện bận bịu? Những kẻ hoằng pháp hiện thời đa phần tự khoe thượng căn lợi khí, lại còn dùng [cung cách] thượng căn lợi khí để đối xử với người khác nên chẳng chú trọng trì danh cầu vãng sanh, chỉ mong mỏi khai ngộ. Điều này phải do chính bản thân người tu hành tự lượng thì mới nên! Nếu người ấy có thể khai ngộ, hiểu giáo lý, lại có thể đoạn sạch được Kiến Hoặc và Tư Hoặc thì còn chi tốt bằng? Nếu chẳng thể, lẽ đương nhiên nên y theo tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, đấy là sách lược quyết định tốt đẹp có một không hai! Nếu không, về mặt gieo thiện căn quả thật là có, nhưng với chuyện liễu sanh tử sợ rằng khó thể dự đoán được số kiếp [nào sẽ có thể liễu thoát được]!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông ở trong hàng ngoại đạo đã lâu, ông đã sanh lòng chánh tín thì phàm lời ăn tiếng nói, xử sự chớ nên giống với bọn họ, có lẽ sẽ chuyển được tà chấp của họ. Điều cần thiết bậc nhất là phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Điều cần thiết thứ hai là phải có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, chẳng để cho tâm danh lợi, và [cầu mong] phước báo trời người chớm nẩy chút nào thì có thể gọi là Đức Tịnh. Tức là như kinh Duy Ma đã dạy: <I>"Dục sanh Tịnh Độ, đương tịnh kỳ tâm. Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh"</I> (Muốn sanh Tịnh Độ, nên tịnh cái tâm. Hễ cái tâm đã tịnh thì cõi Phật sẽ tịnh). Tâm có ô uế, làm sao sanh về Tịnh Độ cho được?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu muốn hóa độ người khác, quả thật chẳng cần phải bày vẽ môn đình, chỉ nên bảo mọi người ai nấy ở trong nhà của chính họ tu trì những điều vừa nói trên đây là được rồi! Nếu muốn lập một tổ chức hẳn hòi thì chỉ cần mượn một chùa miếu nào đã có sẵn để làm chỗ đề xướng mỗi kỳ (Mỗi kỳ tùy theo nhân sự để hạn định, hoặc là mỗi tháng hai lần, hoặc là mỗi tuần một lần, chớ nên lãng phí tiền tài. Mọi chuyện phải lấy tiết kiệm làm điều chánh yếu). Nếu muốn xây cất ngay thì trong lúc này thời cuộc gian nan, không những khó thể thành tựu mà còn rất có thể chuốc lấy những họa hoạn khác! Suốt đời Quang chẳng ưa bày vẽ, cho nên suốt đời chẳng làm chủ nhân, chẳng thâu đồ đệ, chỉ làm một ông Tăng ăn nhờ ở đậu trong chùa người ta. Mười mấy năm gần đây, do bên ngoài đồn thổi, mọi người lầm nghe, tưởng Quang là thiện tri thức đến nỗi bận bịu khôn cùng! Nay đã bảy mươi rồi, làm sao có thể thường bận bịu cho được? Vì thế muốn gấp ẩn cư, cự tuyệt hết thảy chuyện tình nghĩa qua lại. Tôi sẽ qua Thượng Hải ẩn dật mãi mãi, từ rày đừng gởi thư tới nữa!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Đệ tử Phật cúng tổ tiên, lẽ đương nhiên nên lấy tụng kinh, trì chú, niệm Phật làm chánh. Đốt giấy vàng bạc cũng chẳng nên bỏ, bởi chẳng biết chắc [tổ tiên] đã được vãng sanh ngay [hay chưa?] Dẫu chắc chắn được vãng sanh ngay, cũng chẳng ngại gì giúp cho kẻ chưa được vãng sanh chi dùng. Người thọ Ngũ Giới nên đắp mạn y<SUP><B>(145)</B></SUP> là [loại y] có năm điều thẳng, chứ không phải là [loại y] năm điều gồm một miếng dài, một miếng ngắn. Nay thì y năm điều một dài một ngắn, y bảy điều hai dài một ngắn, [hàng tại gia đệ tử] thường đắp loạn xạ, thật là "tiếm việt" (lạm danh, vượt phận). So với chuyện tiếm việt này, chẳng thà không đắp y còn tốt hơn! Nếu muốn đắp y thì chỉ nên trong lúc lễ bái mới đắp, chẳng nên thường đắp đến nỗi rối loạn nghi thức, quy củ. "Cụ" vốn có tên là "tọa cụ"<SUP><B>(146)</B></SUP> để dùng trong lúc ngồi, nước ta lại thường dùng trong lúc lễ bái! Hễ theo đại chúng thì không thể chẳng dùng, còn tự hành thì dùng hay không tùy ý ta. Tăng còn như thế huống gì là cư sĩ ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(137) Đoạn Kiến (Uccheda-Drsti): Còn gọi là Đoạn Diệt Luận, phản nghĩa với Thường Kiến. Đây là tà kiến cho rằng rốt cuộc thế gian và ta đều mất hết, không còn nữa, hay nói đơn giản là chấp rằng chết đi là hết! Do vậy, kẻ chủ trương Đoạn Kiến không tin vào nhân quả, báo ứng. Quan điểm tà kiến có thể thấy rõ nhất qua cách nói của ngoại đạo Phú Lan Na Ca Diếp được ghi trong kinh Đại Bát Niết Bàn: <I>"Không thiện, không ác, cũng không có quả báo thiện - ác"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(138) Châu Thiên là một thuật ngữ của Nội Đan trong Đạo Giáo. Trong ý nghĩa nguyên thủy, Châu Thiên là sự chuyển vận tuần hoàn của trời đất. Từ ý nghĩa này, các nhà Dịch học đã gán cho mỗi quẻ trong kinh Dịch một con số, gọi là Châu Thiên Số, chẳng hạn quẻ Khôn khởi từ số 6, 6 lần 6 là 36, đấy chính là số thành của Âm. Quẻ Càn khởi từ số 9, 6 lần 9 bằng 54, chính là số thành của Dương. Từ đó, các nhà Nội Đan đi xa hơn, cho rằng 9 và 6 cộng thành 15 là số của Nhất Khí (tức Âm Dương hợp nhất). Do vậy, họ cho rằng thân thể con người là một Tiểu Thiên Địa. Một hơi thở hít vào, thở ra chính là một vòng Tiểu Châu Thiên giống như sự tuần hoàn của Âm - Dương trong vòng trời đất. Thở ra hít vào đủ 360 lần là một Đại Châu Thiên. Tuy vậy, sau này, dưới ảnh hưởng của Khí Công, Đại Châu Thiên và Tiểu Châu Thiên được hiểu khác hẳn đi. Đại Châu Thiên và Tiểu Chân Thiên là cách vận công hít thở theo hai mạch Nhâm và Đốc, tùy theo đường vận chuyển của Khí mà gọi là Đại hay Tiểu Châu Thiên. Châu Thiên Đại Đạo là một phái luyện Nội Đan thịnh hành ở Trung Hoa thời đó, trá xưng là Phật giáo chánh truyền để thu hút tín đồ. Do phép vận khí này do các đạo sĩ đời sau chế ra, gán cho Lão Tử, nên Tổ Ấn Quang nói <I>"phép này cũng chẳng phải là của Lão Tử"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(139) Đại La Cung là chỗ ở của Ngọc Đế theo truyền thuyết Đạo Giáo. Câu nói quen thuộc của đạo sĩ là: <I>"Tam Thanh thượng, viết Đại La"</I> (phía trên Tam Thanh là Đại La). Theo các đạo sĩ, chỗ cư trú trên thiên giới có ba mươi sáu nơi, chỗ cao nhất gọi là trời Đại La. Cung Đại La nằm trên tầng trời Đại La.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(140) Nhị Thiền là tầng trời thứ hai trong Sắc Giới, là chỗ ở của những người đã chứng Nhị Thiền. Tầng trời này thật ra gồm ba cõi: Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên và Quang Âm Thiên. Do chư thiên trong tầng trời không còn Tầm, Tư, nhưng vẫn còn ý niệm Hỷ - Lạc nên vẫn không tránh khỏi đại thủy tai.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(141) Sơ Thiền Thiên chính là tầng trời đầu tiên trong Sắc Giới. Đây chính là chỗ những người đã đắc Sơ Thiền sau khi mạng chung sanh về nên gọi là Sơ Thiền Thiên. Chư thiên trong tầng trời này đã viễn ly những ác pháp trong Dục Giới, sanh cảm thụ Hỷ và Lạc, nên tầng trời này còn gọi là Ly Sanh Hỷ Lạc Địa. Theo Câu Xá Luận, quyển 8, quyển 28 và Chánh Lý Luận quyển 21 thì chúng sanh trong tầng trời này lại chia thành ba loại:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Đại Phạm Thiên (Mahā-brahman): Nơi ở của Đại Phạm Thiên Vương (Mahā-brahmaraja), tức chúa tể thế giới Sa Bà này.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Phạm Chúng Thiên (Brahma-pārisadya): Nơi ở của tất cả những chúng sanh được thống lãnh, giáo hóa bởi Đại Phạm Thiên Vương.
<P style="TEXT-INDENT: 55pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Phạm Phụ Thiên (Brahma-purohita): Các đại thần, thị vệ của Đại Phạm Thiên Vương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo kinh Trường A Hàm, quyển 20, ngoài ba loại thiên chúng kể trên còn có một loại nữa mệnh danh là Phạm Thân Thiên (Brahma-kāyika). Do đây là chỗ ở của những vị tu phạm hạnh thanh tịnh nên còn gọi là Phạm Giới (cõi thanh tịnh) hoặc Nhị Tịnh Xứ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(142) Tam Thiền Thiên là tầng trời thứ ba trong Sắc Giới, còn gọi là Đệ Tam Tịnh Lự. Do chư thiên cõi này lìa được Hỷ trong Nhị Thiền nhưng lại sanh ý niệm Lạc tịnh diệu nên tầng trời này còn gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc Địa, tâm tư tương ứng với hai cảm thụ Lạc và Xả. Tầng trời này gồm ba tầng nhỏ là Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh và Biến Tịnh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(143) Tứ Thiền Thiên (Caturdhyānabhūmi) còn gọi là Đệ Tứ Tịnh Lự Thiên, Đệ Tứ Tịnh Lự Xứ, Tứ Sanh Tịnh Xứ, Sanh Tịnh Xứ, là tầng trời cuối cùng trong Sắc Giới, là nơi những người đắc Tứ Thiền sanh về sau khi mạng chung. Tầng trời này thật ra bao gồm tám tầng trời nhỏ: Vô Vân Thiên, Phước Sanh Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Hiện Thiên, Thiện Kiến, Sắc Cứu Cánh Thiên. Ý thức của chư thiên cõi này chỉ tương ứng với hai cảm thụ Hữu và Xả.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(144) Lý Viên Tịnh (1894-1950) tên thật là Vinh Tường, Viên Tịnh là pháp danh. Ông là người huyện Tam Thủy, tỉnh Quảng Đông, từng tốt nghiệp về ngành văn chương tại đại học Phúc Đán ở Thượng Hải, quy y với ngài Đế Nhàn, chuyên tu Tịnh Độ. Thoạt đầu vốn ham học rộng nghe nhiều, thông thạo các bộ kinh lớn của Đại Thừa. Về sau bị bệnh phổi, phải sang Nhật chữa trị. Nhân đọc Văn Sao bèn lãnh ngộ, tự nguyện làm môn nhân của Tổ Ấn Quang, dốc chí xiển dương Tịnh Độ. Ông chính là tác giả biên soạn Gia Ngôn Lục. Ngoài ra, còn viết những tác phẩm khác như Phật Pháp Đạo Luận, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm Thích, Hoa Nghiêm Kinh Sớ Khoa Văn Biểu Giải, Hộ Sanh Thống Ngôn, Sức Chung Tân Lương, Đại Thừa Tông Yếu, Lăng Nghiêm Kinh Bạch Thoại Giảng Yếu, Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn Hội Thích v.v... Ông cùng các vị Tưởng Duy Kiều, Hoàng Hàm Chi v.v... tổ chức Hoa Nghiêm Đại Sớ Sao Biên Ấn Hội để hiệu chỉnh, ấn tống bộ Hoa Nghiêm Đại Sao Nghĩa Sớ của ngài Thanh Lương Trừng Quán cũng như tham gia công tác vĩ đại là ấn tống bộ Phổ Huệ Đại Tạng Kinh (đây là Càn Long Đại Tạng Kinh đã được giảo duyệt cẩn thận và do cư sĩ Phổ Huệ bỏ tiền ấn tống nên được gọi là Phổ Huệ Đại Tạng Kinh).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(145) Mạn y (patta), dịch âm là Bát Tra, là một trong các loại y của Tăng chúng. "Mạn" nghĩa là y trơn, không có điều, tức là không gồm nhiều mảnh vải nhỏ may ghép lại. Thông thường Mạn Y được mặc bởi những vị Sa Di, Sa Di Ni, do họ chưa thọ Cụ Túc, chưa đủ tư cách làm bậc Ứng Cúng nên y để đắp không cắt thành hình thửa ruộng (phước điền y) như y của chư Tăng. Ở Trung Hoa, cư sĩ cũng đắp y, nhưng y không có điều. Lại nữa, loại mạn y này để nguyên cả khổ vải để may, chỉ viền mép y, còn y của Sa Di thì gồm hai mảnh vải may đâu lại, may thành sọc ở chính giữa để phân biệt với y của chư tỳ-kheo và cư sĩ. Khi xưa, do khổ vải hẹp, đôi khi mạn y cũng gồm nhiều mảnh vải nhỏ (mỗi miếng ấy được gọi là Điều) ghép lại, như trong lá thư trên, Tổ có nói đến loại Mạn Y gồm năm miếng dành cho cư sĩ, nhưng để phân biệt, năm miếng đó có chiều dài bằng nhau, chứ không cắt thành miếng dài, miếng ngắn may ghép lại như y của người xuất gia. Hiện thời, ngoại trừ trong một số đạo tràng như Phật Quang Sơn chẳng hạn, cư sĩ thọ Ngũ Giới thường đắp y khi tụng niệm, trong các đạo tràng khác, chỉ cư sĩ đã thọ Bồ Tát Giới mới đắp y trong khi làm lễ tụng giới, chứ không đắp y thường xuyên trong các buổi tụng kinh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(146) Tọa cụ (Nisīdana), thường được phiên là Ni Sư Đàn, hoặc Ni Sư Đát Na, Nĩnh Sử Na Nẵng, dịch nghĩa là phu cụ, phố cụ, tọa cụ, tọa y, tùy tọa y v.v... đều có nghĩa là đồ trải ra trên mặt đất để ngồi hay nằm với mục đích tránh các loại côn trùng bò lên cắn chích thân thể, và giữ cho ba y khỏi bị lấm dơ. Giống như ba y, tọa cụ chỉ dùng hoại sắc, tức những màu úa. Tọa cụ thường may như một tấm chăn to, dùng vải cũ viền quanh mép, may thành hai ba lớp, hay được chế từ y cũ. Theo luật định, kích thước của tọa dài chừng 4 thước tám tấc, rộng ba thước sáu tấc (thước Tàu). Tuy thế, khi đạo Phật truyền xuống Nam Ấn, chư Tăng thường dùng ngọa cụ vắt vai, như khi đi khất thực hoặc bố-tát (tụng giới), chư Tăng sĩ Tích Lan, Thái Lan nay vẫn khoác chéo lên vai, rồi dùng đai lưng buộc lại. Đến khi truyền sang Trung Hoa, tọa cụ biến thành một dụng cụ để lễ bái, trước khi lễ, vị tăng cầm tọa cụ giơ lên trước Phật, xá một lần, rồi mở tọa cụ ra (gọi là "triển cụ"), đặt xuống bục quỳ, lễ xong, lại xếp tọa cụ, giơ lên xá, rồi vắt lên tay. Bách Trượng Thanh Quy đã quy định rất chặt chẽ về nghi thức "triển cụ" trong khi lễ bái, nhất là khi cử hành các pháp sự lớn như Diệm Khẩu, Thủy Lục, Trai Tăng, Truyền Giới. Ở đây, Tổ có ý chê tọa cụ bị dùng sai mục đích, cũng như khuyên ông Thái Tích Đỉnh đừng chấp trước cứ nhất thiết phải đắp y, triển cụ trong khi lễ bái.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>88. Thư trả lời cư sĩ Lương Huệ Đống</B>
(năm Dân Quốc 21- 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quang già rồi, không có tinh thần để khai thị. Do ông đề xướng pháp môn Tịnh Độ nên nay gởi cho ông Tịnh Độ Thập Yếu, Phật Học Cứu Kiếp Biên và bức thư dài (tức Một Lá Thư Gởi Khắp). Y theo đó tu trì sẽ tự được lợi ích thật sự. Nhưng đã đề xướng Phật học, ắt phải chú trọng đến pháp niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Nếu không, chỉ là gieo thiện căn, chẳng thể liễu sanh tử ngay trong đời này! Hơn nữa, tại quý địa, ngoại đạo rất đông, bất luận là loại ngoại đạo nào, đều chớ nên tu trì theo pháp của chúng. Nếu học Phật mà vẫn tu pháp ngoại đạo sẽ trở thành cái tội hoại loạn Phật pháp, gây lầm lạc, nghi ngờ cho chúng sanh. Đã học Phật pháp ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, tín nguyện niệm Phật, quyết định cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dùng những điều ấy để tự hành, dạy người, ngõ hầu trong là gia đình, quyến thuộc, ngoài là hết thảy những ai hữu duyên đều cùng tu pháp này, cùng hưởng lợi ích này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Đống, nghĩa là dùng trí huệ của Phật để làm rường cột cho cõi đời, ngõ hầu những người cô đơn không nơi nương tựa cùng được nương nhờ, che chở dưới mái nhà Phật pháp lớn lao này. Nếu chịu nhìn vào danh, nghĩ tới nghĩa sẽ chẳng bỏ uổng đời này và dịp gặp gỡ này. Hơn nữa, những điều nói trong bức thư dài đều là những chuyện thiết yếu. Khi sanh nở niệm thánh hiệu Quán Âm thật sự là chuyện quan trọng bậc nhất trong đời người, hãy nên bảo với hết thảy mọi người thì sau này chẳng những không phải chịu nỗi nguy hiểm đau khổ mà con cái sanh ra còn được yên vui, không có các tai ương. Tiếc rằng người đời không biết, nên đến nỗi thường chịu khổ sở chẳng kham, hoặc đến nỗi cả mẹ lẫn con đều chết, đáng buồn thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tịnh Độ Thập Yếu là sách quan trọng nhất trong pháp môn Tịnh Độ. Bản ấn hành lần này lại thêm vào mấy cuốn sách quan trọng, mấy bài văn thiết yếu. Có được cuốn sách này y theo đó tu trì, ví như mặt trời rực rỡ giữa trời, đi trên đường lớn của vua, tiến thẳng về phía trước, trọn không lầm lẫn. Những kẻ đứng ngoài cửa thường chẳng cho những điều đã nói trong sách là đúng, liền cầu bí pháp "miệng truyền, tâm trao". Đây chính là quen thói nghe theo tà thuyết "phải là miệng truyền tâm trao thì mới có thể đắc đạo" của ngoại đạo, rồi tưởng lầm Phật pháp cũng giống như vậy, đáng buồn, đáng đau, chớ nhiễm tà kiến ấy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>89. Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp? Mẹ ông đã ăn chay trường niệm Phật, hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể cho mẹ ông nghe, ngõ hầu mẹ lẫn con cùng sanh về Liên Bang. Lại phải đem pháp này nói với khắp hết thảy bạn bè hữu duyên, ngõ hầu mọi người cùng được gội ân giáo hóa của Phật, cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh về Tây Phương. Ông đã tốt nghiệp, trong cõi đời lúc này tuyệt đối chớ nên xuất gia, huống chi mẹ ông lại không bằng lòng! Ngay cả bế quan cũng không cần! [Nay tôi] vì ông tính kế, ông có thể làm thầy giáo trong trường tư thục, hoặc trông coi sổ sách cho công ty của người khác, đều có thể nhận được một ít lương bổng để sống qua ngày. Nhưng cần phải chuyên cần đọc sách sao cho văn tự thông suốt thì mới nên, chớ có biếng trễ, lười nhác đến nỗi chẳng có thành tựu gì!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp danh [của ông] vốn sẵn có hai chữ Quy Tịnh thật hay. Cổ nhân nói: <I>"Túng nhiên sanh đáo Phi Phi Tưởng, bất như Tây Phương quy khứ lai"</I> (Phi Phi Tưởng dẫu được sanh, chớ hề bằng được trở về Tây Phương). Nếu có thể chất phác niệm Phật thì nương theo nguyện thuyền của đức Di Đà, trở về quê hương Cực Lạc Tịnh Độ là điều có thể đoán chắc. Đây chính là điều ngàn kinh muôn luận, đâu đâu cũng chỉ dẫn hướng về. Nếu chẳng trở về đây, chắc chắn sẽ như đứa con nghèo túng, chẳng biết quê cũ, chẳng nhớ cha lành, cam phận lênh đênh quê người, lê la khe rãnh. Nếu chẳng so đo, chẳng bàn đi tính lại, cứ nhất tâm quay về, mới biết tự tánh vốn sẵn thanh tịnh, còn có chỗ nào để cầu tướng quay về và tướng tịnh nữa ư? Cổ nhân lại nói: <I>"Tự thị bất quy, quy tiện đắc. Cố hương phong nguyệt hữu thùy tranh?"</I> (Tự mình chẳng về, về liền được. Gió trăng quê cũ há ai giành?) Quy Tịnh hãy trở về cõi tịnh, niệm tại đâu nghĩ tại đó nhé!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>90. Thư trả lời cư sĩ Tông Thành</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Học đường hiện thời đúng là một cái bẫy hãm người, chẳng hãm trong đảng phái sẽ lại hãm trong tự do luyến ái, mặc tình chơi bời bừa bãi. Phải biết: Con người chỉ là một loài động vật cao năm sáu thước mà sánh cùng trời đất xưng là Tam Tài thì danh xưng Con Người cao quý không chi bằng được! Danh đã tôn quý, ắt phải có thực chất đáng tôn quý thì mới có thể gọi là Người! Nếu không, chính là loài cầm thú mặc áo đội mũ, do chẳng có khí phận của con người vậy! Tài chính là khả năng. Trời có thể sanh ra muôn vật, đất có thể chở muôn vật, con người có thể kế thừa bậc thánh đời trước, giúp cho thế hệ tương lai học theo, giúp cho [những chỗ] mà sự sanh thành, dưỡng dục của trời đất chưa thấu tới, nên cùng với trời - đất xưng là Tam Tài. Nếu chỉ biết ăn uống, trai gái, chẳng biết hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ thì còn kém hèn hơn loài cầm thú, uổng một đời mang thân con người, trọn chẳng có khí phận của con người chút nào! Hễ một hơi thở ra không hít vào được nữa, sẽ đọa vào địa ngục trải trăm ngàn kiếp trọn chẳng có kỳ ra. Muốn được làm cầm thú còn chưa thể được, huống gì lại được làm người ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do ông thuở đầu chẳng biết nghĩa này, nghe bạn ác dụ dỗ nên chơi bời bừa bãi, đến khi đã mắc bệnh phong tình, đau đớn không kham nổi. Lành bệnh rồi lại ăn chơi, lại phát bệnh, [lành bệnh xong] lại phạm, cũng là kẻ chẳng biết tốt - xấu quá đáng, quá thiếu chí hướng, khí tiết vậy! Phải biết đàn ông chơi bời bừa bãi và đàn bà lén lút [tằng tịu] với người khác trọn chẳng khác gì nhau! Người đời thường cho đàn bà lén lút [tằng tịu] với người khác là hèn hạ, nhưng đàn ông chơi bời bừa bãi lại chẳng bị chê trách. Đấy đều là vì chẳng biết ý nghĩa cái tên gọi Con Người nên mới có tri kiến hèn kém ấy! May là ông đã nhiều lần chịu khổ, mới biết quay đầu, cũng là do thiện căn đời trước xui khiến, nhưng Quang lại phải nói cặn kẽ nguyên do, vì sợ cái tâm ông chưa nguội lạnh, sau này có thể lại dẫm theo vết xe ấy. Do vậy, muốn làm cho ông biết danh hiệu Con Người tôn quý, chẳng đến nỗi tự ruồng rẫy, tự vứt bỏ bản thân, và đem điều này khuyên dụ hết thảy nam nữ thanh niên đều cùng bẩm thụ danh xưng Con Người tôn quý, thực hành những điều lành trong thế gian là giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại còn phát Bồ Đề tâm, lợi khắp mình lẫn người, đều cùng sanh lòng tin, phát nguyện, niệm thánh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, để tu điều lành xuất thế ngõ hầu đáng gọi là Người. Tuy chẳng thể kế tục người xưa, nêu gương cho đời sau, giúp vào quyền sanh trưởng, dưỡng dục của trời đất như bậc cổ thánh tiên hiền, cũng vẫn có chút công đức kế tục người xưa, nêu gương cho đời sau, giúp vào quyền sanh trưởng, dưỡng dục của trời đất thì danh xưng Con Người mới có thực chất, chẳng trở thành chuyện nói xuông! Nay đặt pháp danh cho ông là Tông Thành. Tông là chủ, là gốc, [Tông Thành] nghĩa là dùng lòng chân thật chí thành để tự hành, dạy người, chẳng có chút nào hư giả mảy may và ý niệm xấu hèn để đến nỗi cô phụ chữ Người. Ngũ Giới có thể tự trì trước. Khi đã trì thật sự lâu ngày rồi thì lại [chánh thức] thọ giới nào khó chi đâu? Nếu tâm vẫn còn do dự thì đáng gọi là trò trẻ con đùa bỡn, chẳng những chính ông mắc tội lỗi, mà Quang cũng có tội lỗi nữa đấy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>91. Thư trả lời cư sĩ Hứa Huệ Phảng</B>
(năm Dân Quốc 22 – 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bệnh của ông là do trong đời trước hoặc trong đời này đã làm chuyện hại đến tánh mạng người ta. Nghiệp này chẳng tiêu, bệnh quyết khó lành. Hiện thời uống thuốc vô hiệu thì có thể chẳng uống, chỉ lắng lòng niệm Phật, niệm Quán Thế Âm để mong siêu độ oán gia. Niệm Phật tuy chẳng thấy hiệu quả nhưng vẫn có lợi ích, chẳng thể xem như có cùng một tác dụng với uống thuốc. Sinh kế trong nhà ông ra sao? Nếu không có tài lực thì tự mình hãy chí thành khẩn thiết niệm Phật. Hãy nên sanh lòng hổ thẹn, chớ nên sanh tâm phẫn hận. Sanh lòng hổ thẹn thì lòng oán hận của oán gia sẽ tháo gỡ được, nếu sanh tâm phẫn hận thì muốn tháo gỡ càng thêm kết chặt. Do người ta ôm lòng báo hận, ông lại ôm lòng hận báo thù người ta, nên càng kết sâu thêm, không cách nào [cởi gỡ] được! Đấy chính là cách cởi gỡ oán kết bậc nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu sinh kế trong gia đình dư dả thì có thể đến núi Linh Nham dự một Phật thất, hoặc thỉnh mười lăm, hai mươi, ba mươi người đều được. Linh Nham là chỗ sốt sắng tu hành bậc nhất trong vùng Giang - Chiết, niệm Phật quanh năm giống như lối đả Phật thất thông thường<SUP><B>(147)</B></SUP>. Có thí chủ mời bao nhiêu người đả thất thì vẫn niệm Phật theo lệ thường, chẳng qua là đối trước Phật, đối trước bài vị, hồi hướng thêm ba lần mà thôi. Bất luận đả thất hay không đả thất, đều niệm giống hệt như nhau, chẳng qua là thỉnh bao nhiêu đó người thì sẽ được công đức của bấy nhiêu đó người! Hiện thời, Niệm Phật Đường có hơn ba mươi người. Nếu đả thất sẽ lập một bài vị Cởi Gỡ Oán Kết<SUP><B>(148)</B></SUP> bằng giấy, ngày Phật thất viên mãn sẽ đốt đi. Nếu chính mình lập một bài vị "trường sanh lộc vị" thì làm một bài vị bằng gỗ, thờ vĩnh viễn trong Niệm Phật Đường thì thêm năm mươi đồng. Nếu không làm thì cứ tính mỗi người là mười đồng. Như mười lăm người thì là một trăm năm mươi đồng; ba mươi người là ba trăm đồng. Đây chẳng phải vì Linh Nham mà tổ chức Phật Thất; mà là do bệnh tình ông trầm trọng nên chẳng ngại gì mà nói đến biện pháp này. Ông hãy tự châm chước, nếu không có sức, chớ nên miễn cưỡng!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay tôi gởi cho ông hai cuốn Tịnh Độ Ngũ Kinh, ông và vợ cùng được thọ trì, có thể dùng làm kinh thường tụng. Hơn nữa, năm ngoái Linh Nham đã trùng tu lớn. Hiện thời bia đã khắc xong, đã rập [bài văn bia ấy], nay gởi cho ông một tờ. Đọc rồi sẽ biết đại khái về tu trì. Đối với những điều Quang tùy tiện nói ra cần gì phải sao chép, thâu thập? Văn Sao, Gia Ngôn Lục đã đủ để làm khuôn mẫu rồi, sao lại phải cầu cho nhiều? Đối với những sách ngụy tạo của bọn ngoại đạo tên X... nọ, chúng ta chỉ nên mặc kệ chúng, mỗi người đi theo đường lối riêng. Nếu cùng với bọn mù quáng không mắt ấy biện định trắng - đen, chúng nó làm sao tự biết là sai, đâm ra lại chuốc lấy sự phỉ báng của chúng! Ví như con chó ăn phân, nó tự cho là thơm ngon. Nếu bảo với nó là tởm thối, chắc chắn nó chẳng chịu tin, chê ngược người vừa nói đó chẳng biết tốt - xấu! Trong đời hiện thời, mọi người hoàn toàn ở trong tăm tối, học vấn càng cao, càng hồ đồ. Xưa kia, ông Trình, ông Châu học vấn lẫn nhân phẩm có thể nói rất rộng, rất cao, nhưng lại cực lực bài xích nhân quả luân hồi, cho là đức Phật mượn những chuyện ấy để dối gạt bọn ngu phu ngu phụ! Lời lẽ ấy chính là căn cứ lớn lao để đề xướng phá hoại hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Biết điều này sẽ càng thêm nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Kẻ có học vấn hiện thời còn đáng để nói nữa ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(147) Nguyên văn "phổ thông Phật thất": Gọi như vậy để phân biệt với Tinh Tấn Phật Thất. Tinh Tấn Phật Thất là niệm Phật suốt 24 tiếng đồng hồ, ai mệt hoặc đuối sức cứ lui ra, khi nào khỏe sẽ lại theo đại chúng niệm Phật, nhưng không được viện cớ để trốn tránh, biếng nhác. Còn Phổ Thông Phật Thất chỉ chia một ngày thành sáu thời niệm Phật, có công khóa sáng tối, có định giờ cho đại chúng nghỉ ngơi. Khi đã nói đến Phật Thất là phải cử hành niệm Phật tối thiểu bảy ngày (Thất là bảy ngày, chứ không có nghĩa là cái nhà, cái thất như trong chữ Nhập Thất). Nếu chỉ niệm Phật một hai ngày, không thể gọi là Phật Thất được! Nếu như chỉ cử hành ba ngày hay một ngày, người Trung Hoa sẽ gọi là Phật tam, hoặc Phật nhất, hoặc chỉ gọi là Niệm Phật Cộng Tu.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(148) Đây là một bài vị viết <I>"Phật Quang chú chiếu, phục vị tín chủ mỗ giải oán thích kết, hồi hướng siêu độ oán gia chi vị"</I> (Phật Quang tưới gội, bài vị kính vì thí chủ... cởi gỡ oán kết, hồi hướng siêu độ cho oán gia).</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>92. Thư trả lời cư sĩ Ân Đức Tăng</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Muốn đọc tụng Đại Thừa để giúp cho Tịnh nghiệp mà không thật sự có chánh tri chánh kiến hiểu biết Tịnh Độ sâu xa sẽ không được. Nếu không, sẽ coi những pháp môn cao sâu huyền diệu trong kinh giáo là bậc thượng, hoàn toàn xem pháp môn Tịnh Độ là sự tu trì của ngu phu ngu phụ. Gần đây, những người giảng Hoa Nghiêm, giảng Pháp Tướng, phần nhiều đả phá Tịnh Độ. Ông X... ở Hồ Nam hiểu sâu Tịnh Độ và còn cực lực đề xướng, do học Pháp Tướng Tông, những gì ông ta nói về sau này đều là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng. Ông đã phát cái tâm lớn lao này, khá là khó có, nhưng chưa chắc đã không bị lay chuyển bởi những tri thức từ kinh giáo. Chẳng bị chuyển thì đáng gọi là chân Phật tử. Hễ bị chuyển thì sẽ trở thành bỏ dễ chọn khó, hoặc giống như ông X... ở Hồ Nam thì ô hô, ai tai rồi! Khi xưa, một vị pháp sư dùng niệm Phật để bán đậu Ngũ Hương<SUP><B>(149)</B></SUP>, dùng giảng kinh để mở ngân hàng, niệm Phật lại biến thành cơm trộn lẫn cát, làm sao ăn được? Do vậy, biết rằng: Không có đại thiện căn sẽ chẳng thể tin tưởng sâu xa pháp này! Nói với ông điều này là nhằm làm cho trước khi ông cất bước đã nhận biết chắc chắn [hướng chỉ] của kim chỉ nam. Nếu không, có thể mạo xưng là bậc đại thông gia, sợ khó lòng đạt được liễu sanh tử. Niệm Di Đà cũng có thể làm chỗ nương cậy, niệm Quán Âm cũng có thể vãng sanh Tây Phương. Chỉ cần giữ lòng chí thành sẽ có cảm ứng, sao lại suy tính hạn hẹp như vậy? Quán Âm là Pháp Vương Tử của Phật Di Đà, phụ trợ Phật Di Đà độ thoát chúng sanh là chuyện trong cùng một nhà, chứ đâu phải là mỗi vị môn đình khác biệt!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(149) Ngũ Hương Đậu là một món ăn vặt nổi tiếng của Hoa Nam, nổi tiếng nhất là Đậu Ngũ Hương ở miếu Thành Hoàng, Thượng Hải. Món này dùng đậu ván tẩm hồi hương, quế, muối, đường, và một số hương liệu nữa rồi chiên bằng bơ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>93. Thư trả lời cư sĩ Trịnh Huệ Hồng</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện thời thế đạo suy vi, tu hành tại gia tốt hơn, xuất gia đâm ra bị nhiều chướng ngại, con cái đừng nẩy sanh ý tưởng xuất gia. Trong đời Kiếp Trược này, cha ông chẳng biết nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, cứ si dại muốn tham Thiền để minh tâm kiến tánh. Nên biết: Những gì ông ta tham đó chẳng phải là Thiền mà chính là văn tự tri kiến, có tham đến già cũng chẳng ăn nhập gì tới Thiền! Dẫu có được lợi ích minh tâm kiến tánh thật sự nơi tham thiền thì vẫn cách liễu sanh thoát tử rất xa. Bởi lẽ, phiền não Hoặc nghiệp chưa đoạn, ngộ thì ngộ đấy, sanh tử vẫn sanh tử. Nếu nói minh tâm kiến tánh liền đạt được không sanh tử thì đấy là sự nhận lầm lạc của gã đứng ngoài cửa và kẻ Cuồng Thiền! Nhưng trong hiện thời ai là người minh tâm kiến tánh đây?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào Phật lực. Hãy xem kỹ Gia Ngôn Lục, Văn Sao, y theo đó tu hành, sẽ chắc chắn có thể vãng sanh Tây Phương. Mùa Thu năm ngoái đã in xong bộ Tịnh Độ Thập Yếu; đây là bộ sách quan trọng nhất của pháp môn Tịnh Độ. Cuối năm, in xong cuốn Phật Học Cứu Kiếp Biên, [nhà in] vẫn chưa gởi đến, đợi khi nào họ gởi đến sẽ gởi cho ông dăm ba gói. Y theo đó tu hành, so ra còn ổn thỏa thích đáng hơn thân cận thiện tri thức. Nếu chẳng tự lượng, đi tham phỏng khắp các bậc cao nhân trong vùng Giang - Chiết, rất có thể là cuối cùng cái tín tâm ấy bị cao nhân đả phá thì Thiền đã trở thành vô vọng,Tịnh lại chẳng tin, tiền đồ mờ mịt, biết hướng về đâu?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những người muốn thân cận thiện tri thức hiện nay trước hết phải biết nguyên do của Thiền và Tịnh. Nếu không, mười người hết tám chín kẻ bị thiện tri thức phá hoại thiện căn Tịnh Độ mà vẫn cứ nhơn nhơn đắc ý, cho là đã được chánh pháp, thật đáng đau lòng than thở! Năm nay Quang nhất quyết chẳng xuất quan. Năm sau, nếu bốn bộ sơn chí của Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa<SUP><B>(150)</B></SUP>, Linh Nham đã tu chỉnh xong, sẽ tìm một nơi không ai hay biết để sống hết tuổi thừa. Xin hãy nói với cha ông những lời lẽ này, hơn nữa, hãy nên tích cực giáo huấn con thơ, đừng nuông chiều quá khiến cho chúng quen thói kiêu ngạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(150) Núi Cửu Hoa nằm ở phía Tây Nam huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy, chiếm một diện tích rất lớn. Núi vốn có tên là Cửu Tử Sơn do rặng núi này gồm chín ngọn, trông xa giống như chín đứa trẻ xếp vòng tròn tựa lưng vào nhau chơi giỡn. Khi Lý Bạch lên chơi núi này, lại cảm nhận chín ngọn núi trông giống như chín đóa hoa sen lơ lửng giữa mây trời nên viết: <I>"Tích tại Cửu Giang thượng, dao vọng Cửu Hoa phong, thiên hà quải lục thủy, tú xuất cửu phù dung"</I> (Khi xưa lướt sóng Cửu Giang, ngước nhìn chín ngọn núi hoa xa vời, sông trời nước biếc chơi vơi, sen hồng chín đóa khoe tươi não nùng). Do đó, núi được gọi là Cửu Hoa từ đấy. Từ năm Long An thứ năm (401) đời Đông Tấn, hòa thượng Bôi Độ đã dựng ngôi chùa đầu tiên tại đây. Về sau, không rõ vào năm nào, vương tử Kim Kiều Giác xứ Tân La (một trong ba vương quốc cổ của Đại Hàn) là Kim Kiều Giác đến ẩn tu tại núi này. Vào đầu niên hiệu Chí Đức (756), Gia Cát Tiết đến đây, cảm mộ đức hạnh của ngài Kim Kiều Giác bèn dựng chùa cúng dường. Đến năm Trinh Nguyên thứ 19 (803) đời Đường, ngài Kim Kiều Giác thị tịch, thọ 99 tuổi, thổ lộ thân thế là Địa Tạng Bồ Tát hóa thân. Từ đấy, Cửu Hoa trở thành đạo tràng của ngài Địa Tạng Bồ Tát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>94. Thư gởi cư sĩ Triệu Phụng Chi</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hôm qua nhận được thư ông Trương Văn Lý cho biết cư sĩ gần đây niệm Phật khá khẩn thiết, vẫn lấy chuyện không gặp được Bất Huệ làm điều tiếc nuối. Bất Huệ là nghiệp lực phàm phu, dù gặp cũng vô ích, chịu y theo Gia Ngôn Lục tu trì sẽ còn tốt hơn gặp mặt nhiều lắm. Nay gởi cho cư sĩ Văn Sao, [Tịnh Độ] Thập Yếu, Thánh Hiền Lục mỗi thứ một bộ, Sức Chung Tân Lương, Chánh Tín Lục, mỗi thứ một cuốn. Có được những sách này thì tự hành, dạy người dư sức! Người già sáu mươi bảy tuổi cũng chẳng cần phải nghiên cứu những thứ kinh điển khác, chỉ nên nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì tự có thể cậy vào Phật từ lực, đới nghiệp vãng sanh. Hết thảy các pháp môn khác đều cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân mới hòng liễu sanh thoát tử; pháp môn Niệm Phật chỉ cần đầy đủ tín nguyện liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới. Sự khó - dễ giữa chúng khác nào trời với vực!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xin hãy sốt sắng tu hành, lại hãy nên làm cho quyến thuộc cùng niệm. Hãy dựa theo Sức Chung Tân Lương mà nói đến những lợi ích do trợ niệm khi lâm chung, nỗi họa hại do phá hoại [chánh niệm], khiến cho bọn họ đều niệm quen, nghe quen, đến khi ông lâm chung thì mọi người đều có thể tương trợ. Nếu không, chắc chắn mọi người sẽ cùng phá hoại [chánh niệm của ông]. Quang già rồi, mục lực quá suy; lại còn ba bộ Sơn Chí bức bách chẳng thể trì hoãn được. Từ đầu tháng tôi đã cự tuyệt hết thảy, từ rày đừng gởi thư đến nữa. Văn Sao là sách nhập môn Tịnh Độ, Thập Yếu là sách hết sức sâu xa, thiết thực, [Tịnh Độ] Thánh Hiền Lục là gương sáng của cổ nhân đã nêu. Có được những sách ấy thì còn thiếu thốn gì mà phải dùng một lá thư để hỏi pháp nữa đây?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>95. Thư gởi cư sĩ Trần Huệ Cung</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lòng thành đến cùng cực, đá vàng cũng phải nứt, huống gì [cậy vào] sức Tam Bảo ư? Nếu cư sĩ có thể thật sự đọc kỹ các sách, tương lai sẽ có thành tựu. Nếu không, sẽ trở thành một kẻ cuồng thiếu tấm lòng thường hằng<SUP><B>(151)</B></SUP>. Kẻ tại gia niệm Mông Sơn có gì là không được? Đây là [nghi thức] để kết duyên với khắp các cô hồn. Nhỏ là Mông Sơn, trung là Diệm Khẩu, lớn là Thủy Lục, cùng là một chuyện cả. Thường kết duyên với cô hồn thì thường được sự tốt lành. Người ta chẳng dám niệm vì sợ sẽ vời quỷ đến, chẳng biết quỷ và người sống lẫn lộn, không chỗ nào không có quỷ! Dẫu không vời quỷ, nhà ai không có quỷ? Quỷ đông hơn người trăm ngàn lần! Nếu con người sợ quỷ, hãy nên tích đức làm lành thì quỷ liền kính trọng, bảo vệ. Nếu con người làm chuyện ám muội, quỷ sẽ tranh nhau quấy phá, cho nên khó thể tốt lành. Nếu con người biết điều này, dẫu ở trong nhà tối cũng chẳng dám khởi lên ý niệm xấu xa, huống chi là chuyện xấu? Loại quỷ này chính là thiện quỷ, người đến chúng bèn nhường, người đi chúng lại chiếm khắp chỗ đất ấy. Nếu quỷ dữ xuất hiện sẽ có chuyện chẳng tốt lành lớn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phóng Mông Sơn nếu chí thành, dẫu là loài quỷ dữ dằn cũng kính cẩn vâng lời Phật sắc truyền, chẳng còn dữ dằn nữa. Do vậy, phàm là các bệnh do oán nghiệp, thuốc chẳng thể chữa lành, chí thành niệm Phật, niệm Quán Âm sẽ liền được mau lành, do oán quỷ được nhờ ơn niệm Phật, được sanh vào thiện đạo. Có thể biết là trước mặt mỗi người thường có rất nhiều thiện quỷ hoặc ác quỷ. Người sợ quỷ thì nên giữ cái tâm tốt lành, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành thì tất cả các quỷ đều trở thành kẻ hộ vệ. Loại quỷ ấy chỉ sợ không nhiều, chứ càng nhiều càng tốt, đâu có sợ chi?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vợ ông đã phát tâm quy y, nay đặt pháp danh cho bà ta là Huệ Nhã; Nhã là chánh. Có thể nhất tâm niệm Phật, chẳng sanh vọng tưởng phước báo nhân thiên đời sau thì mới là chánh huệ nương theo trí huệ của Phật, nên gọi là Huệ Nhã. Cô con gái thứ ba tên Phùng Xuân, pháp danh là Tông Trinh; Tông là chủ, Trinh là chánh. Mùa Xuân đứng đầu một năm, Trinh là kết thúc của Càn đức (phẩm đức của quẻ Càn). [Trong kinh Dịch, phần giảng về] quẻ Càn có ghi: <i>"Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh"</I>. Khổng Tử giải thích: <I>"Trinh giả, sự chi cán dã"</I> (Trinh là cái cốt lõi của sự vật). Chữ Trinh này nghĩa lý rộng sâu, chứ không phải chỉ [có nghĩa] con gái giữ thân là Trinh đâu! Phàm hết thảy mọi người, nếu mọi hành vi đều phù hợp đại thể thì đều gọi là Trinh. Nếu Phùng Xuân có thể tận lực giữ tròn bổn phận, dùng tám chữ <I>"hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ"</I> để sau này giúp chồng dạy con ngõ hầu chồng lẫn con đều thành hiền thiện, thì mới đúng với ý nghĩa thật sự của chữ Tông Trinh, mới hợp với Xuân là mùa đứng đầu một năm, hợp với đức Trinh của quẻ Càn, trở thành bậc thầy khuôn mẫu cho nữ giới, là bậc mẫu nghi chốn khuê khổn, vẻ vang sao diễn tả cho được? Mong hãy sáng suốt suy xét, bảo với cô ta vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(151) Nguyên văn <I>"vô hằng chi cuồng nhân"</I>: Chữ Vô Hằng xuất phát từ sách Luận Ngữ, Khổng Tử nói: <I>"Nhân nhi vô hằng, bất khả tác dĩ tác vu y"</I>. Sách Tập Giải Trịnh Chú giảng: <I>"Con người không có cái tâm thường hằng (tức cái tâm kiên quyết không thay đổi chủ ý dễ dàng) sẽ chẳng thể làm đồng cốt hay thầy thuốc được"</I>. Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích thêm: <I>"Thầy thuốc hay đồng cốt cần phải có sức chú ý, không dễ bị dao động, không dễ bị phân vân, bối rối thì mới hành nghề được!"</I> Cổ nhân thường mượn chữ "vô hằng" để chỉ những người không có chủ ý nhất định, dễ bị chao đảo.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>96. Thư trả lời cư sĩ Trương Thuần Nhất</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vợ chồng lệnh hữu<SUP><B>(152)</B></SUP> Trần Đôn Phục tận lực hành hiếu - hữu, lại có thể dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tu ròng Tịnh nghiệp, đúng là những kẻ hiếm thấy trong đời nay. Nay họ muốn quy y và thọ Ngũ Giới, ắt phải hiểu rõ tông chỉ pháp môn Tịnh Độ, ngõ hầu có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này. Phải biết: Pháp môn Tịnh Độ lấy tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương làm tông chỉ. Người đời thường nghĩ điều này là chuyện tầm thường, không có chi kỳ lạ, bèn coi pháp tham cứu trong nhà Thiền mới là thù thắng, chú trọng vào khai ngộ, chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh. Đặt tên hoa mỹ là Thiền Tịnh Song Tu, nhưng xét tới thực chất thì hoàn toàn là không Thiền, không Tịnh Độ!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì sao nói vậy? Do chẳng đạt đến đại triệt đại ngộ thì chẳng gọi là “có Thiền”. Người tham Thiền bây giờ ai thật sự đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ? Do chú trọng vào tham cứu nên đem sự trang nghiêm của y báo, chánh báo Tây Phương quy hết vào tự tâm, chẳng có mảy may ý niệm tín nguyện cầu sanh. Tuy gọi là niệm Phật nhưng thực chất là trái nghịch đạo niệm Phật! Hoặc nói ra vẻ cao xa là "niệm Thật Tướng Phật". Tuy Thật Tướng là cái gốc của các pháp, nhưng phàm phu nghiệp chướng sâu nặng làm sao đạt đến được? Ra vẻ "quy Tông" (quy kết mọi thứ về Thiền) nhưng Thiền cũng không nương tựa được, mà Tịnh cũng không nương tựa được luôn! Cậy vào tự lực, dẫu đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ, nhưng vì chưa đoạn Hoặc nghiệp sẽ chẳng thể liễu sanh tử được! Chưa ngộ đến mức đại triệt [đại ngộ] thì khỏi cần phải bàn chi nữa! Cậy vào Phật lực, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới được. Do một mực đem Tây Phương Tịnh Độ, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, mỗi thứ đều quy hết vào tự tâm, nhưng tự tâm chỉ là chấp xuông cái danh, chưa chứng được cái thật, [cho nên] đức Phật ở phương Tây do không cảm sẽ chẳng thể có ứng, đức Phật nơi tự tâm do còn đang ở trong nhân nên không có oai đức!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những kẻ ham cao chuộng xa trong cõi đời thường đều hay trở thành biến khéo thành vụng, cầu thăng hóa đọa, nhưng kẻ tri thức muốn được người khác ca ngợi mình là viên dung, vẫn trọn chẳng chịu nói như vậy, đến nỗi đức Như Lai do tâm đại từ bi muốn làm cho hết thảy chúng sanh liễu sanh tử ngay trong đời này, nhưng họ vẫn cứ y như cũ chẳng thể liễu được! Đời này đã chẳng thể liễu, tương lai may ra có thể liễu, nhưng vẫn phải luân hồi trong lục đạo còn nhiều hơn số lượng từ trần sa kiếp này sang trần sa kiếp khác. Nếu thật sự hiểu được sự lợi - hại này, lại lắng lòng xem các kinh sách Tịnh Độ, mới biết một pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương này không gì lớn lao ra ngoài được, mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh không vị nào chẳng nhờ vào pháp này để thành tựu lúc khởi đầu, thành tựu khi kết thúc!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay đặt pháp danh cho Đôn Phục là Huệ Phục, nghĩa là dùng pháp môn Tịnh Độ được nói từ trí huệ của Phật để tự hành, dạy người, ai nấy đều khôi phục được nguồn tâm sẵn có. Vợ ông ta là Trịnh Hàm Chương, có pháp danh là Huệ Chương, nghĩa là nương theo pháp môn Tịnh Độ do đức Phật đã nói để tự hành, dạy người, lại còn dạy dỗ con cái và hết thảy các phụ nữ ngõ hầu đạo của hai bà Phi, ba bà Thái, Vy Đề Hy đều được sáng tỏ rực rỡ trong đời hiện tại. Vì vậy, có tên là Huệ Chương. Tôi thường nói: <I>"Quyền trị quốc, bình thiên hạ, hàng nữ nhân nắm quá nửa"</I>. Ấy là vì mẹ hiền thì con cái đều hiền, trong thai bẩm thụ khí chất của mẹ, lúc nhỏ thì nhìn vào hành vi của mẹ, nghe lời mẹ, đã được huân tập trước khi học hành, đến khi đi học sẽ tận lực ứng dụng mỗi điều ấy vào cư xử, cho nên là hiền nhân, thiện nhân. Lại nói: <I>"Dạy con là cái gốc để bình trị thiên hạ, nhưng dạy con gái càng quan trọng hơn!"</I> Do không có hiền nữ sẽ không có hiền thê, hiền mẫu; do đó cũng chẳng có hiền nhân!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay tôi không chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ mà lại bàn tràn lan sang điều này, là vì mong ai nấy đều biết chăm chú nơi bổn phận. Cái gốc này đã được lập thì hết thảy đạo lý thế gian, xuất thế gian đều được khôi phục, hiển hiện rõ ràng. Nay tôi gởi cho họ hai bao kinh sách Tịnh Độ, hãy lắng lòng đọc. Sự lợi ích do tu pháp này cố nhiên Quang chẳng cần phải nói nhiều. Bất luận đã thọ Ngũ Giới hay chưa, đều phải nghiêm ngặt gìn giữ, do bốn điều đầu tức Sát, Đạo, Dâm, Vọng gọi là Tánh Giới, tức là người chẳng nghe đến tên của bốn giới này, hễ phạm thì vẫn bị tội lỗi, nhưng thọ giới rồi còn phạm thì thành ra [mắc tội] hai tầng. Ngoài cái tội vốn đã phạm ra, còn thêm tội lỗi phạm giới. Vì thế, nói: <I>"Hết thảy mọi người đều nên gìn giữ nghiêm ngặt"</I>. Uống rượu gọi là Giá Giới (giới có tác dụng ngăn che), chưa thọ giới mà uống thì không mắc tội, thọ rồi vẫn uống chỉ bị tội phạm giới. Mong hãy sáng suốt suy xét và đưa cho vợ chồng họ đọc thư này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(152) Tiếng gọi tỏ ý tôn trọng bạn người khác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>97. Thư trả lời tiên sinh Từ Vĩnh Nghiệp ở Doanh Khẩu</B>
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đọc thư biết tiên sinh là người có tấm lòng lớn lao, tiếc là ngài chưa đọc kỹ lời tựa<SUP><B>(153)</B></SUP> của Quang nên đối với chuyện chẳng đáng nghi lại sanh nghi. Lại như lấy Phổ Đà làm lệ, cũng là chẳng đáng làm lệ mà lại lấy làm lệ. Đất Phổ Đà tuy chẳng phải thuộc Nam Hải nơi Thiên Trúc, nhưng Quán Âm cố nhiên là một đức Quán Âm! Tiền nhân đều dùng chuyện Thiện Tài đi về phương Nam tham học trong kinh Hoa Nghiêm để nêu tỏ [ý nghĩa tên gọi của Phổ Đà Sơn], há Quang lập dị cho như vậy là chẳng thể được ư? Nếu nói như các hạ, ở bất cứ chỗ nào có miếu thờ Quán Âm, nếu không phải là sự tích nơi chỗ ấy thì đều chẳng được dẫn chứng ư? Trong phẩm Bồ Tát Trụ Xứ<SUP><B>(154)</B></SUP> trước hết nói đến bốn phương, rồi nói đến bốn góc, ngay như phương Tây Nam [được nhắc đến trong kinh], chẳng thể lấy đó làm chứng cứ để bảo là phương Tây Nam của cõi Chấn Đán<SUP><B>(155)</B></SUP> (Trung Hoa)! [Đối với câu kinh] <I>"hiện thời có Bồ Tát tên là Hiền Thắng"</I>, sao lại coi ngài Hiền Thắng là đức Phổ Hiền? Chẳng biết phẩm đức của Phổ Hiền, bất cứ chỗ nào cũng đều có thể là đạo tràng; do vậy, chẳng vì trong kinh có nói rõ hay không [mà bảo chỗ nào đó chẳng phải là đạo tràng của Bồ Tát]. Nếu cứ ương ngạnh trích dẫn sai ngoa, đâm ra sẽ trở thành vu báng kinh. Đây chẳng phải là khơi dậy chánh tín mà là khơi dậy tà kiến cho người khác, do đây họ sẽ nghi kinh, nghi thánh vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mong hãy lắng lòng đọc kỹ nguyên văn bài tựa, mọi mối nghi sẽ tự tháo gỡ. Nếu cho là không đúng thì tùy các hạ nghị luận ra sao, Quang chẳng hỏi đến nữa! Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, đã từ tháng Mười Một mùa Đông năm ngoái, đối với những câu đối, những tin tức đăng tải, bản tin, bán nguyệt san, các báo đều cự tuyệt hết thảy những chuyện thư từ, nhờ cậy viết lách. Từ rày xin đừng gởi thư đến nữa, gởi đến nhất quyết không trả lời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(153) Đây là bài tựa của Tổ Ấn Quang cho bộ Phổ Đà Sơn Chí (Ấn Quang Văn Sao Chánh Biên, quyển 3, trang 826), trong ấy có câu: <I>"Đạo tràng ứng hóa của Ngài cố nhiên không phải chỉ một chỗ. Như Nam Ngũ Đài Sơn, Đại Hương Sơn ở Thiểm Tây, Thiên Trúc Sơn ở Chiết Giang v.v... là những nơi cảm ứng rõ ràng, hương đèn nhộn nhịp, nhưng chỉ có Nam Hải Phổ Đà Sơn thật là bậc nhất do tên chỗ này được ghi trong kinh Hoa Nghiêm, năm xưa Thiện Tài đích thân tham học [tại đây]"</I>. Ông Từ Vĩnh Nghiệp dựa vào đó, bắt bẻ Tổ viết sai, vì Phổ Đà Lạc Già (Potalaka) thật ra nằm trong Nam Hải của Ấn Độ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(154) Đây là phẩm thứ 32 trong Bát Thập Hoa Nghiêm Kinh, giảng về những trụ xứ (chỗ ở) của các vị Bồ Tát. Xin trích một đoạn: <I>"Lúc bấy giờ Tâm Vương Bồ Tát Ma Ha Tát ở trong chúng hội bảo các vị Bồ Tát rằng: - Phật Tử! Phương Đông có nơi tên là Tiên Nhân Sơn, từ xưa đến nay, các vị Bồ Tát sống ở trong ấy. Hiện đang có vị Bồ Tát tên là Kim Cang Thắng và các quyến thuộc là những vị Bồ Tát gồm ba trăm người thường sống trong ấy, diễn thuyết pháp. Phương Nam có nơi là Thắng Phong Sơn, từ xưa đến nay, các vị Bồ Tát sống ở trong ấy, hiện đang có Bồ Tát tên là Pháp Huệ cùng với quyến thuộc là những vị Bồ Tát thường sống trong ấy diễn thuyết pháp... Phương Đông Bắc có chỗ tên là Thanh Lương Sơn, từ xưa đến nay, các vị Bồ Tát sống ở trong ấy. Hiện đang có vị Bồ Tát tên là Văn Thù Sư Lợi và các quyến thuộc là những vị Bồ Tát gồm một vạn người thường sống trong ấy, diễn thuyết pháp... Phương Tây Nam có chỗ tên là Quang Minh Sơn, từ xưa đến nay, các vị Bồ Tát sống ở trong ấy. Hiện đang có vị Bồ Tát tên là Hiền Thắng và các quyến thuộc là những vị Bồ Tát gồm ba ngàn người thường sống trong ấy, diễn thuyết pháp"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(155) Ông Từ Vĩnh Nghiệp chấp phương Tây Nam được nói đến trong đoạn kinh văn trích dẫn ở trên đây là phương Tây Nam của Trung Hoa vì trong kinh đã nói ở phương Đông Bắc có đạo tràng Thanh Lương Sơn của ngài Văn Thù Sư Lợi (Núi Ngũ Đài nằm ở phương Đông Bắc Trung Hoa và cũng có tên là Thanh Lương). Do Nga Mi nằm ở phương Tây Nam Trung Hoa, ông Từ bèn chấp Hiền Thắng Bồ Tát chính là ngài Phổ Hiền!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>98. Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tục ngữ nói: <I>"Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ"</I> (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được! Giấy trắng ngần lóa mắt, không viết được chữ nào. Niệm Phật tam-muội cũng chẳng dễ gì đạt được. Nếu chẳng tự lượng, rất có thể bị ma dựa. Phải biết: Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện. Có tín - nguyện, dẫu chưa đắc tam muội, chưa đắc nhất tâm bất loạn, vẫn có thể vãng sanh. Hãy đừng chỉ lấy nhất tâm bất loạn và đạt được Niệm Phật tam muội làm chí hướng, sự nghiệp, rồi chẳng dốc chí vào tín nguyện và tịnh niệm (nhiếp trọn sáu căn mà niệm là "tịnh niệm". Lúc niệm Phật, thường nghe âm thanh niệm Phật của chính mình, tức là chỗ để thực hiện việc "nhiếp trọn sáu căn". Hãy nên chú ý). Sợ rằng chí lớn, ăn nói lớn lối, sẽ chẳng được lợi ích thật sự vì chẳng chú trọng tín nguyện, chẳng thể cảm ứng đạo giao cùng Phật, vẫn làm một chúng sanh khổ sở trong đời ác Ngũ Trược này!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đối với bài Cảnh Sách của ngài Ngẫu Ích<SUP><B>(156)</B></SUP> như ông đã nói đó, hãy nên thỉnh người viết chữ đẹp viết bằng chữ to, ngay ngắn, cẩn thận, treo trên vách trong sân để khơi gợi tín tâm của hết thảy mọi người, đấy thật là ý nghĩa quan trọng. Còn chuyện ông xin soạn thêm bài Cảnh Sách khác thì những điều được nói trong Văn Sao đều chẳng đáng để dùng làm Cảnh Sách hay sao? Thời cuộc hiện tại nguy ngập đến cùng cực, hãy nên khuyên mọi người già trẻ trong nhà cùng niệm Nam mô A Di Đà Phật và niệm Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát để làm kế dự phòng. Nếu không, khi tai họa xảy đến, trốn lánh cũng không được, đề phòng cũng không xong, biết làm sao được? Hãy nên đem lời này nói với hết thảy những ai có sự hiểu biết, ngõ hầu những ai nghe đến được gieo thiện căn xuất thế. Sau này đừng gởi thư đến nữa, phàm những chuyện viết lời tựa, ghi lời bạt, giảo chánh đều nhất loạt chẳng thể thù tiếp!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(156) Tức bài Bệnh Khởi Cảnh Sách Kệ của ngài Ngẫu Ích trong Linh Phong Tông Luận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>99. Thư trả lời cư sĩ Tiêu Trường Hựu ở Côn Minh</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lời nói của nhà Phong Thủy<SUP><B>(157)</B></SUP> sao đáng lấy làm căn cứ? Nếu đúng như họ nói thì người phú quý sẽ vĩnh viễn phú quý, há có thường thấy con nhà cao sang bị chết đói nữa ư? Người có thế lực nhất trong cõi đời để chọn được cuộc đất tốt, nơi làm nhà tốt, có ai bằng hoàng đế? Cớ sao hoàng đế phần nhiều thường đoản thọ? Từ đời Hán đến nay, chưa có triều đại nào tồn tại hơn bốn trăm năm. Người nghèo các nỗi khổ dẫy đầy, lại muốn được chỗ ở tốt, huyệt mộ tốt nhưng chẳng được, đấy là muốn khỏi khổ lại tự lập ra cách để càng bị khổ sâu xa hơn! Ông chỉ giữ tấm lòng tốt lành, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành, nhất tâm niệm Phật, lần lượt khuyên người, y theo Một Lá Thư Gởi Khắp để khuyến hóa thì nghiệp chướng ngầm tiêu, thiện căn tăng trưởng. Quang sám hối cho ông sao bằng chính ông cạn kiệt lòng thành kính tự sám hối có hay hơn không?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người sắp chết rất cần trợ niệm; người sắp sanh cũng cần phải bảo sản phụ niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, những người săn sóc bên cạnh cũng lớn tiếng trợ niệm thì chắc chắn chẳng gặp chuyện khó sanh đau khổ. Dẫu khó sanh sắp chết, dạy sản phụ ấy tự niệm và cả nhà hoặc ở trong phòng sanh ở chỗ khác cùng niệm thì cũng chẳng bao lâu sẽ liền an nhiên sanh nở. Ông muốn chuyển họa thành phước, nên đem những chuyện trong Một Lá Thư Gởi Khắp này gặp ai cũng nói, so với chuyện sửa sang nhà cửa, di chuyển mộ phần tổ tiên sẽ có ích không tổn hại. Người đời chẳng cầu phước điền nơi tâm, cứ cầu phước điền nơi ngoại cảnh, thường chôn vùi thiên lương để mưu đoạt nhà cửa, đất đai tốt đẹp của người khác, đến nỗi nhà tan người chết, con cháu tuyệt diệt đều là vì bị lũ thầy Phong Thủy mê hoặc mà ra!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu thầy Phong Thủy biết họa - phước đều do tâm tạo, mà cũng do tâm chuyển, [Phong Thủy] sẽ trở thành khuôn phép hữu ích cho cuộc đời. Hơn nữa, các nhà Phong Thủy mỗi người một ý kiến khác nhau, phàm với cách nhìn của người xưa, người đời nay chưa chắc đã hoàn toàn tán đồng, do muốn tỏ ra chính mình hiểu biết cao siêu, chứ thật ra quá nửa là dụng tâm của tiểu nhân, muốn nhờ vào đó để dối đời trộm danh vậy! Hãy thử nhìn vào những nhà Phong Thủy xem, có ai đại phát đạt hay không? Họ có thể mưu tính cho người khác, cớ sao chẳng mưu tính cho chính mình? Quang già rồi, mục lực suy yếu tột cùng, từ rày đừng gởi thư đến nữa, gởi đến sẽ nhất quyết không trả lời!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(157) Nguyên văn "Kham Dư", Kham có nghĩa là khám xét, quan sát, Dư có nghĩa là cỗ xe, hàm ý chuyên chở, đi khắp lãnh thổ. Hiểu theo ý nghĩa hẹp, chữ Dư chỉ la bàn dùng trong Phong Thủy. Do vậy, Kham Dư có nghĩa là quan sát tướng đất, dùng la bàn để trắc định hướng đất. Kham Dư Thuật là tên gọi khác của Phong Thủy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>100. Thư trả lời cư sĩ Hoàng Tụng Bình ở Tương Âm</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quang là một ông Tăng chỉ biết cơm cháo mà thôi, một mực chất phác, trọn chẳng chịu khen xuông người khác, cũng trọn chẳng mong người khác khen xuông chính mình. Trang thứ nhất trong bài văn của các hạ tôi chẳng muốn nghe đâu, bởi tôi không có thân phận ấy, hóa ra còn gì nhục nhã lớn hơn? Bệnh do thân sanh, thân do nghiệp sanh, hãy càng nên đau đáu sám hối để tiêu túc nghiệp. Lại phải tận lực kiêng chuyện ăn nằm để bệnh khỏi nặng thêm. Bất luận bệnh gì, nếu chẳng kiêng ăn nằm, chắc chắn khó thể lành bệnh! Khổng Tử đã nói: <I>"Phụ mẫu duy kỳ tật chi ưu giả</I> (cha mẹ chỉ lo lắng về cái tật ấy<SUP><B>(158)</B></SUP>) là vì chuyện ăn nằm là căn bản của hết thảy bệnh vậy. Lúc thân thể đang bệnh tật, cớ gì phải tới Cư Sĩ Lâm để theo đại chúng niệm Phật? Chỉ nên ở nhà, lắng lòng tịnh niệm thì thật là tốt nhất!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn nói tới chuyện cùng với thiện tri thức nghiên cứu Phật lý thì trong lúc thân đang mang bệnh nặng, chỉ nên nỗ lực tu trì như chí thành niệm Phật và niệm Quán Âm. Lúc này, chớ nên nghiên cứu, nếu nghiên cứu một kinh sẽ đâm ra trở thành lan man. Ví như mắc bệnh, được một viên linh đan liền chăm chú uống ngay, chớ có trước hết phải nghiên cứu xem viên linh đan này do những thuốc gì chế thành, thuốc nào chạy vào kinh mạch nào, trị bệnh gì, đều mong cho hiểu rành mạch từng điều rồi mới chịu uống thuốc ư? Ông trọn chẳng biết nguyên do của chuyện học Giải và học Hành nên chẳng được lợi ích chân thật!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những danh mục của ngoại đạo kể ra cả trăm cả ngàn, nhưng nếu xét đến chuyện dụng công của họ, nói chung chẳng ngoài luyện đan, vận khí! Dẫu họ dạy người khác xem kinh niệm Phật, cũng đều là phô trương bề ngoài, lẽ đương nhiên họ chẳng coi đấy là đạo, muốn đắc cái đạo của họ thì phải khẩn thiết tột bậc, ban đêm một mình vào trong thất, đóng chặt cửa cái, cửa sổ, phía ngoài cắt người tuần phòng, chỉ cho một người vào thất. Trước tiên phải phát lời nguyền cực ác, cực thảm: Nếu gây nguy hại cho giáo phái của họ chắc chắn sẽ bị những báo ứng thê thảm như thế ấy. Thề độc xong, sẽ điểm khiếu chỉ huyệt cho người ấy, hoặc trên đầu, trên mặt, hoặc ở trong thân. Nếu là huyệt trong thân phải cởi bỏ áo ngoài, áo quần lót phải vén lên để chỉ. Thật ra, cách làm như vậy đều là bẫy rập mê hoặc con người, nhưng hết thảy ngoại đạo [đều tuyên bố] kẻ mới ban đầu [nhập đạo] hễ được truyền đạo rồi thì "chẳng tu vẫn được thành!" Nếu bỏ đi cách bí mật, dạy rõ cho người, chẳng phát lời nguyền, cho người khác mặc tình vào đạo, bỏ đạo, thì ngoại đạo sẽ không có căn cứ để tồn tại được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật pháp không có chuyện bí mật truyền dạy riêng tư, cũng chẳng buộc người thề thốt. Tin thì y theo đó tu trì, không tin tưởng thì để mặc người ấy bỏ đi. Ông đã niệm Phật, còn tính muốn gia nhập ngoại đạo, tức là ông hoàn toàn chẳng biết Phật pháp và ngoại đạo chánh - tà [như thế nào], chỉ dựa theo người khác mà sanh lòng tin, quả thật chưa phải là lòng tin thật sự. Nếu sanh lòng tin chân thật, chỉ nên dốc sức tu trì, cần gì phải lo ngoại đạo đông đảo có thể bị sụp bẫy ư? Đã do túc nghiệp mắc bệnh ngặt nghèo thì hãy nên ăn chay niệm Phật, làm chuyện siêu độ cho oán gia đời trước. Nói đến siêu độ thì cũng chẳng cần phải mời Tăng làm Phật sự, chỉ là chính mình khẩn thiết chí thành niệm Phật và niệm Quán Âm. Hơn nữa, đừng cật vấn: "Chỉ niệm một đức Phật, một vị Bồ Tát mà có thể lành bệnh hay sao?" Phải biết: Niệm Phật là pháp thẳng chóng, viên đốn nhất trong Phật pháp, lợi ích vượt trỗi hết thảy pháp môn! Chỉ do tâm chí thành hay không mà thành khác biệt, chứ không phải là Phật pháp có linh nghiệm hay không
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(158) Thông thường chữ Tật ở đây thường được các nhà chú giải hiểu là những thói hư tật xấu như không giữ luân thường, lễ nghĩa; riêng Tổ giải thích chữ Tật ở đây phải hiểu là thói tham mê tình dục quá đáng. Tổ giảng rất rõ về ý nghĩa này trong lá thư 141, tức lá thư gởi cho cư sĩ Niệm Phật.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>101. Thư gởi cư sĩ Trương Tịnh Giang</B>
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nghe cư sĩ niệm Phật đã lâu, chẳng biết có chú ý nơi tín nguyện cầu sanh Tây Phương hay chăng? Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng, bất luận Đại, Tiểu, Quyền, Thật, hết thảy pháp môn đều phải dùng Giới - Định - Huệ để đoạn tham - sân - si cho hết sạch không còn sót thì mới có thể liễu sanh thoát tử. Điều này khó như lên trời, chẳng phải là chuyện hàng phàm phu sát đất đầy dẫy triền phược như chúng ta mà hòng mong mỏi được. Nếu dùng lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, cầu sanh Tây Phương thì bất luận công phu cạn hay sâu, công đức lớn hay nhỏ, đều có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Điều này giống như ngồi chiếc tàu thủy to vượt biển, chỉ chịu lên tàu liền có thể đến được bờ kia, ấy là nhờ sức tàu chứ chẳng phải bản lãnh của chính mình. Tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương cũng giống như thế, hoàn toàn là Phật lực, chứ không phải đạo lực của chính mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hễ đã sanh về Tây Phương thì sanh tử đã liễu, phiền não chẳng sanh, đã giống như người vận dụng công phu tại nơi ấy đã lâu, đã đoạn sạch phiền não liễu sanh tử. Vì thế, niệm Phật quyết định phải cầu sanh Tây Phương, chớ nên cầu phước báo trời người trong đời sau, chớ nên nương theo những kẻ rời lìa tín nguyện, chỉ dẫn người khác niệm Phật cầu khai ngộ. Niệm Phật cốt yếu là nhiếp trọn sáu căn. Trong lúc niệm Phật, nhiếp tai lắng nghe kỹ, đấy chính là biện pháp để nhiếp sáu căn. Có thể chí tâm lắng nghe kỹ thì công đức so với việc "chẳng lắng nghe, niệm tán loạn" khác biệt rất lớn. Pháp này bất luận người thượng, trung, hạ căn đều dùng được, đều được lợi ích, chỉ có lợi, không điều tệ. Hãy nên bảo hết thảy mọi người tu đều tu theo đây. Tôi vốn muốn nói cặn kẽ, nhưng do không có thời giờ, sợ trễ tràng chuyến trở về của ông, nên chỉ viết đại lược những nghĩa lý trọng yếu. Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, Gia Ngôn Lục, đọc rồi sẽ tự biết hết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>102. Thư trả lời ông Lý Thính Đào ở Hải Môn (bảy lá thư)</B>
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Qua bức thư do Trần Huệ Sưởng chuyển đến, biết ông tuổi chưa đến tráng niên, nhưng khá có tín tâm, hằng ngày tụng vài quyển kinh Kim Cang để mong sám hối túc nghiệp, quả thật là một đại sự trong đời người. Nhưng cần phải chí thành cung kính mới tốt. Nếu giống như cung cách ông viết chữ nguệch ngoạc thì lợi ích sẽ thuận theo cái tâm phù phiếm bị giảm đi rất nhiều. Ông lại muốn quy y, nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Tài. Ông vốn tên là Thông Tài, vừa thông minh vừa có tài, sử dụng chánh đáng thì có thể mong thành thánh, thành hiền, tạo công lập nghiệp; nếu sử dụng không chánh đáng sẽ tự lầm, lầm người, đọa trong ba ác đạo! Thiên tai, nhân họa hiện thời đại đa số đều do những kẻ thông minh có tài tạo nên. Nếu do trí huệ, phân biệt được tà - chánh, hiểu rõ nhân quả, xuôi theo điều lành, tránh điều dữ sẽ thành tài đạt đức. Có trí huệ thì tài năng sẽ giúp cho đạo, không có trí huệ thì tài năng sẽ trái đức. Vì thế, đặt tên cho ông là Huệ Tài.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông hãy nên nhìn vào cái tên nghĩ đến ý nghĩa, trong khi khởi tâm động niệm hãy thường suy xét xem có hợp trí huệ hay không. Nếu hợp thì mở rộng ra, chẳng hợp liền tiêu diệt ngay, chẳng cho nó chớm nẩy nữa! Lại phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều này để tự hành, lại còn dạy người. Người làm được như vậy chính là đệ tử thật sự của Phật. Huống chi nay đang là lúc tình thế hoạn nạn, phàm trong là gia đình, cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ con, và tôi tớ, ngoài là thân thích, bè bạn, và hết thảy những ai quen biết, đều nên khuyên họ thường niệm thánh hiệu A Di Đà Phật và niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để làm căn cứ "gặp nguy thành an, gặp dữ hóa lành" trong hiện tại, để làm phương cách sao cho trong tương lai khi hết tuổi thọ sẽ vĩnh viễn lìa khỏi biển khổ sanh tử. Phương pháp niệm và lợi ích chẳng dễ gì nói tường tận trong chốc lát được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi đã bảo Huệ Sưởng gởi cho ông Gia Ngôn Lục và những sách thích hợp, hãy đọc sẽ tự biết. Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp thì phải thực hiện với mười phần thành tâm. Trì kinh và niệm Phật về mặt sự tuy giống nhau, nhưng lòng thành có sâu hay cạn, phù phiếm hay thiết tha khác biệt, cho nên lợi ích càng khác biệt lớn lao! Mọi chuyện trong thế gian đều phải do lòng thành để được thành tựu, huống gì trì kinh, niệm Phật, muốn dùng cái thân phàm phu để liễu sanh thoát tử, siêu lên cõi Phật, mà thiếu lòng thành há có được chăng?
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Người tu hành chỉ trọng thật hành, cần gì phải bày vẽ phô trương, muốn chụp hình quá lố? Quang một mực không thích chụp hình, gần đây trong tờ Phật Hóa San của Hương Cảng Phật Học Hội có đăng hình Quang, một đệ tử gởi đến mười cuốn, nay gởi cho ông một cuốn. Hơn nữa, trước kia ông Trương Thụy Tăng khắc in kinh Dược Sư ở Dương Châu có gởi cho một gói, nay gởi cho ông năm cuốn, ngoại trừ một bản tự giữ, bốn bản kia đưa cho những người xin quy y. Tiền <I>"hương kính"</I> của bọn họ đã nhận đầy đủ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hãy nên nói với bọn họ: Đã quy y Phật pháp, hãy chiếu theo pháp môn Tịnh Độ trong Phật pháp để tu, đừng đèo thêm những pháp luyện đan, vận khí v.v... của ngoại đạo. Pháp này được ích lợi dễ dàng nhất do cậy vào Phật lực. Ngoài ra, [những pháp khác] đều cậy vào tự lực, cho nên khác với pháp này như trời với vực. Luyện đan là pháp để hộ thân, hộ khí, chẳng phải là pháp liễu sanh thoát tử! Ngay cả các pháp tham thiền, nghiên cứu giáo nghĩa, và Mật Tông cũng chẳng phải là pháp khế cơ. Pháp chẳng khế cơ giống như thuốc không đúng bệnh. Chỉ có mỗi mình pháp Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn cơ thượng - trung - hạ, dù phàm hay thánh đều nên tu tập, chớ nên nghe Thiền Tông, Mật Tông cao siêu huyền diệu, rồi bỏ pháp này tu pháp kia, đến nỗi vĩnh viễn không có ngày liễu sanh thoát tử!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện nay là tình thế hoạn nạn, bất luận là ai đều nên niệm Phật, niệm Quán Thế Âm để dự phòng. Phàm những nguy hiểm như đao binh, nước, lửa, ôn dịch, sâu rầy, bệnh ngặt, oán gia, đối đầu v.v... mà chí thành niệm thì chắc chắn chẳng đến nỗi không cởi gỡ được! Ngay cả nữ nhân sanh nở, càng phải nên chí thành niệm thánh hiệu Quán Thế Âm ra tiếng rõ ràng, chắc chắn không có các sự đau khổ. Lúc ấy chớ nên niệm thầm trong tâm vì đang dùng sức để đẩy đứa con ra, nếu niệm thầm có thể bị bệnh, quan trọng lắm! Dẫu khó sanh đến cùng cực, đã sắp mất mạng mà niệm cũng lập tức được an nhiên sanh nở. Phải biết: Chịu niệm từ nhỏ sẽ chẳng có chuyện khó sanh. Dẫu không khó sanh, niệm vẫn có lợi ích lớn lao. Chớ vì lõa lồ bất tịnh mà chẳng dám niệm để đánh mất lợi ích hoặc bị đau khổ, hoặc đến nỗi cả mẹ lẫn con đều chết! Bản thân sản phụ ấy niệm, những người chăm sóc bên cạnh cũng niệm, người trong nhà ở chỗ khác cũng có thể niệm giúp cho sản phụ ấy. Nếu ai nấy đều biết điều này thì thế gian sẽ không có chuyện sanh khó và chết vì sanh nở.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông Lưu Ôn Phủ đã bảy mươi bốn tuổi, hãy nên toàn thân buông xuống, nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Nếu không, một phen lầm lỡ bỏ qua chẳng biết đến kiếp nào mới có thể gặp được pháp môn này? Những người khác tuy chưa đến nỗi quá già, nhưng nhân mạng vô thường, chẳng chắc gì sống đến già mới chết! Những điều khác hãy xem trong bức thư dài, ở đây không viết cặn kẽ. Mong ai nấy đều thật hành thì may mắn thay!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Người có lòng tin ở quý địa tuy nhiều, sợ rằng chưa chắc đã chân thật tu trì theo Phật pháp. Hãy nên nói với bọn họ Phật pháp và ngoại đạo khác nhau. Ngoại đạo chuyên chú trọng bí truyền, dùng công phu luyện đan, vận khí, tuyệt đối chẳng chú trọng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận. Lại còn có chuyện "phù cơ giáng loan" (cầu cơ), tuy cũng khuyên người làm lành, nhưng rốt cuộc là linh quỷ giả mạo danh nghĩa tiên, Phật. Nếu chẳng hiểu lý, tưởng lầm là chân tiên, chân Phật giáng đàn, ấy là sai lầm lớn. Chẳng phải là hoàn toàn không có một lần nào chân tiên giáng đàn, nhưng vẫn là trong ngàn lần cũng khó có được một dịp!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cuối đời Minh, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát dùng cơ bút để chỉ dạy Phật pháp, lúc bỏ đi, Ngài dạy [đại chúng] vĩnh viễn bỏ cầu cơ! Mười năm trước, tại Đa Đa Phật Học Xã ở Hương Cảng [Đa Đa Ha Bồ Tát giáng đàn] cũng giống như thế. Hai vị này đều là Bồ Tát thật sự, nhưng đều cấm chỉ cầu cơ, bởi những linh quỷ không có đạo lực cao lắm cứ nói bừa khiến cho người ta bị lầm lạc thật sâu. Vì thế, tuy Bồ Tát giáng cơ nhưng cấm tuyệt cầu cơ! Trong bộ Văn Sao của tôi đã từng có nói qua. Nếu có ai chẳng chịu bỏ công phu ngoại đạo và sự nghiệp cầu cơ, chớ nên cho người ấy quy y để khỏi bị người đời nói "Phật pháp chẳng khác gì ngoại đạo!"
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Thư trước đã bàn về cái tệ cầu cơ, người học Phật chẳng nên dự vào chuyện này. Chuyện ấy phần nhiều là do linh quỷ giả mạo, lâu ngày ắt đến nỗi bị hỏng việc. Dẫu chẳng hỏng việc, nhưng những điều chúng nó nói phần nhiều giống với tri kiến của người đời, thường hay mâu thuẫn đạo lý chân chánh. Danh sách kê khai [tên họ người xin quy y] đừng dùng giấy đỏ, mắt già nhìn không rõ, hết sức tốn công! Sau này có ai đến cầu quy y, hãy nên nói với họ: Nếu đã từng theo ngoại đạo và cầu cơ thì nên đem những đạo đã hành trước kia hoàn toàn vứt bỏ đi. Nếu không, chẳng nên giới thiệu, ngõ hầu chẳng đến nỗi coi ngoại đạo là Phật pháp khiến cho kẻ vô tri tà - chánh chẳng phân vẫn cứ xem tà là chánh. Nay đặt pháp danh cho mỗi người quy y, xin hãy sao ra gởi đến họ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thêm nữa, những kẻ yêu thương con cái trong cõi đời đều là hại con cái. Chẳng chịu giáo huấn chúng học hành chăm chỉ, một mực để mặc cho quen thói kiêu ngạo, khiến cho những đứa có thiên tư tốt đẹp đều trở thành phường ương bướng, tầm thường, bại hoại. Thiên hạ do đây mà loạn, đều là vì những kẻ không biết cách làm cha mẹ người khác nuôi dưỡng thành. Nay muốn cho con cái hiền thiện, nên vào lúc chúng nó mới hiểu biết liền dùng sự lý nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi và hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ để giảng giải, bảo chúng nó thực hành, thì con cái chắc chắn sẽ là hiền nhân, thiện nhân. Sự vinh hiển ấy đời đời vô cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) [Khi] con trẻ chết yểu thì thói đời sẽ thường do tình cảnh ấy mà dấy lòng oán hờn, đâm ra biếng nhác. Phải biết đời người nhân quả phức tạp, hễ có nhân ắt phải có quả, có quả chắc chắn chẳng thể không có nhân. Biết "nhân trước, quả sau" sẽ chẳng sanh oán hận, biết "đức có thể cảm được trời", ắt chẳng đến nỗi gặp nghịch cảnh nhỏ nhoi bèn biếng trễ tu tâm. Ví như lúc trời vừa mới nóng, chợt rất mát, hoặc thoạt đầu trời đang mát, chợt nóng hừng hực, đấy là sự biến động tạm thời, chứ không phải luôn thường như vậy. Chỉ tận hết tấm lòng ta tu tập, chẳng cần biết tình cảnh hiện thời là thuận hay nghịch. Nếu ai thường làm được như thế ắt sẽ vĩnh viễn được nhiều phước. Nếu do chuyện nghịch ý nhỏ nhoi liền nói "tu trì vô ích" thì đấy chính là tri kiến của kẻ vô tri vô thức! Dẫu cho cả đời không chuyện gì chẳng như ý cũng khó đạt đến địa vị "vui theo mạng trời!"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu có thể tu trì không lười biếng, ắt sẽ sanh được đứa con trường thọ, vẹn đức. Nếu chẳng luận tốt - xấu, chỉ cốt sao nó chẳng chết yểu, nó sẽ vét sạch mỡ màng của bá tánh, đem khoản tiền ấy gởi vào ngân hàng ngoại quốc, khi một hơi thở hắt ra không hít vào được, [tiền ấy] hoàn toàn về tay người ngoại quốc, [như vậy thì] đứa con yêu quý không bị chết yểu có may mắn chi đâu! Đứa con chẳng ra gì ấy nếu bị chết yểu chính là do đức lớn cảm vời, vì nếu nó chẳng chết yểu sẽ khiến cho nhân dân cả nước lầm than! Nếu ngày nay những kẻ như vậy đều chết yểu hết sạch thì nước ta đâu đến nỗi không có thuốc chữa, chỉ đợi diệt vong mà thôi? Chỉ nên lắng lòng niệm Phật hầu tiêu tội nghiệp, chuốc lấy điều lành.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Ngữ Lục của lệnh tổ<SUP><B>(159)</B></SUP> không liên quan gì đến Sơn Chí. Nếu là bài minh đề trên tháp, hoặc truyện thì có lẽ sẽ có chỗ cần dùng đến. Đối với chuyện hình ảnh thì các vị cổ đức nhiều đời đều không có thờ ảnh, nếu gởi đến cũng chẳng tiện sắp xếp, vì Linh Nham ngày nay hoàn toàn chẳng thừa kế Linh Nham xưa kia, do sau khi bị đốt phá trong chiến tranh, chỉ còn sót lại một cái tháp đổ nát, những thứ khác đều bị đốt trụi. Huống chi nay chùa theo pháp môn Tịnh Độ, lệnh tổ chính là bậc tri thức trong Thiền Tông; luận trên phương diện chùa miếu thì không phải là kế thừa, luận trên pháp đạo thì chính là môn đình khác. Ví như thuyền dưới nước, xe trên bộ, đưa về đến nhà rồi thì hoàn toàn giống nhau, nhưng trên lộ trình thì mỗi thứ mỗi khác. Con người hiện thời chẳng phải là đại thông gia, trọn chẳng thể nói lời viên dung, chỉ ưa nghe nói ngọt đến nỗi không có lợi ích thật sự. Trữ Công<SUP><B>(160)</B></SUP> chính là đệ tử khá nhất của sư Hán Nguyệt Tạng<SUP><B>(161)</B></SUP>. Hán Nguyệt muốn làm cao nhân bậc nhất xưa nay, hết sức kình chống tổ Thiên Đồng Mật<SUP><B>(162)</B></SUP>. Bọn Hoằng Nhẫn, Cụ Đức v.v... đều là phường khinh miệt tổ, chỉ có Trữ Công là chẳng có thứ tập khí ấy, đáng là người khiến cho hậu thế khâm phục, kính ngưỡng vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Nhiều lần gặp mộng lành chính là túc nhân được cảm vời bởi lòng khẩn thiết trong hiện tại. [Mộng thấy] đại tự viện chính là pháp hội Hoa Nghiêm, nhưng do chưa phá được Phiền Hoặc nên chỉ thấy tướng kém cỏi, chẳng thấy tướng thù thắng, nhưng cũng chẳng dễ gì thấy được cảnh giới ấy. Đối với chuyện trưởng giả lấy nước ban cho uống, ấy chính là Văn Thù Bồ Tát đem cam lộ<SUP><B>(163)</B></SUP> ban cho ông. Hãy nên thường gắng sức để chẳng phụ ân đức một phen gia bị. Bởi lẽ phàm phu sát đất phần nhiều bị cảnh chuyển, nên Tăng Tử lúc sắp mất mới đọc thơ rằng: <I>"Chiến chiến cạnh cạnh, như lâm thâm uyên, như lý bạc băng, nhi kim, nhi hậu, ngô tri miễn phù'</I> (Dè dặt kinh sợ, như vào vực sâu, đi trên băng mỏng, hiện tại, mai sau, ta biết thoát rồi). Chưa đến lúc lâm chung còn sợ có thể bị sa xẩy, chẳng dám nói lời lớn lối ấy. Nay những người thích ăn nói lớn lối, đều là những kẻ cuồng trọn chẳng dụng công nơi cơ sở. Lệnh hữu miệng lưỡi không nhanh nhạy chính là do túc nghiệp. Tụng Pháp Hoa đương nhiên là tốt, niệm Phật, niệm Quán Âm cũng có thể tiêu nghiệp, tăng huệ. Chớ nên cố chấp cho rằng chỉ có tụng Pháp Hoa mới được! Niệm Phật nếu thật sự chí thành còn có thể siêu phàm nhập thánh, há lẽ chỉ có thiệt căn nhạy bén mà thôi ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(159) Tiếng gọi ông nội của người khác một cách tôn trọng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(160) Trữ Công ở đây chính là Hoằng Trữ (1605-1672). Sư thuộc tông Lâm Tế sống vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh, người Thông Châu, Giang Nam, pháp tự Kế Khởi, pháp hiệu Thoái Ông. Thuở nhỏ gia đình gặp cảnh tai biến, được bà nội đem về nuôi dưỡng. Sư tuy chăm học nhưng không ham công danh, chí mộ Phật pháp, thích đạo Thiền, lãnh hội Phật pháp. Năm 25 tuổi, Sư xuất gia với Hán Nguyệt Pháp Tạng, siêng tu nhọc nhằn, đắc ngộ tâm pháp. Sư thông hiểu học thuyết của bách gia chư tử, học vấn tinh thâm, tư cách đoan nghiêm, khiến đại chúng rất ngưỡng mộ. Sư tưởng nhớ nhà Minh, thường mong khôi phục. Khi quân phản Thanh phục Minh dấy lên ở vùng Ngô - Việt, Sư nhiều lần ám trợ, từng bị bắt giam, sau được nghĩa sĩ cứu ra. Mỗi năm vào ngày vua Sùng Trinh tuẫn tiết, Sư đều mặc tang phục, lễ bái, khóc lóc. Suốt hai mươi tám năm đều giữ đúng lệ như vậy. Đệ tử nổi tiếng dưới tòa có cả hằng trăm người. Sư thị tịch năm Khang Hy mười một, thọ sáu mươi tám tuổi. Sư còn để lại các trước tác như Ngữ Lục (100 quyển), Nam Nhạc Kế Khởi Hòa Thượng Ngữ Lục (10 quyển), Nam Nhạc Lặc Cổ, Linh Nham Ký Lược.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(161) Hán Nguyệt Pháp Tạng (1573-1635) là đệ tử của ngài Mật Vân Viên Ngộ, sống vào cuối đời Minh, xuất gia từ năm 15 tuổi. Năm Thiên Khải thứ tư (1624) đến chùa Kim Túc, yết kiến ngài Mật Vân, được ấn khả. Sư cực thông minh, rất có biện tài, nhưng lại lập ra dị thuyết, soạn ra bộ Ngũ Tông Nguyên, chỉ trích mạt sát nặng nề tông Tào Động, coi bốn tông kia là đọa lạc, đều không hiểu tông chỉ nhà Thiền, chỉ mình tông Lâm Tế là nắm được yếu lãnh của Lục Tổ. Luận thuyết của Sư khiến cho thiền đức các tông thời ấy tranh luận ồn ào. Ngài Viên Ngộ nhiều lần gởi thư khuyên răn Sư hãy bỏ luận thuyết dị kỳ ấy, nhưng Sư không thèm nghe theo. Sư thị tịch năm Sùng Trinh thứ tám, thọ 62 tuổi. Tác phẩm Ngũ Tông Nguyên gây nên tranh luận kéo dài mãi đến đời Thanh, vua Ung Chánh phải viết Ngự Chế Giản Ma Biện Dị Lục vạch ra những điểm sai lầm trong cuốn sách nói trên và hạ lệnh cấm tuyệt lưu hành Ngũ Tông Nguyên, nhưng do đồ đảng của Hán Nguyệt đến lúc ấy vẫn còn rất đông nên cuốn Ngự Chế Giản Ma Biện Dị Lục không được đưa vào Đại Tạng. Hoằng Nhẫn và Cụ Đức đều là đệ tử của Hán Nguyệt. Hoằng Nhẫn còn cực đoan, đả phá các tông phái Thiền khác gấp mấy lần Hán Nguyệt.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(162) Mật Vân Viên Ngộ (1566-1642) là cao tăng thuộc tông Lâm Tế, sống vào đời Minh, thụy hiệu là Huệ Định Thiền Sư. Ngài là con nhà nông, do tình cờ đọc Lục Tổ Đàn Kinh bèn ham chuộng pháp Thiền. Một ngày nọ đang chất củi bỗng tỉnh ngộ, bèn xuất gia với ngài Huyễn Hữu Chánh Truyền tại chùa Long Trì. Năm Vạn Lịch 30 (1602), ngài Chánh Truyền lên kinh đô, giao cho Sư làm giám viện chùa Vũ Môn. Một hôm, trong khi đi ngang qua núi Động Quan, ngài chợt khai ngộ. Năm Vạn Lịch 39 (1611), được ngài Huyễn Hữu trao y bát. Ngài lần lượt làm trụ trì nhiều đạo tràng Thiền Tông nổi tiếng, do thời gian ngài làm trụ trì chùa Thiên Đồng lâu nhất nên thường được gọi là Thiên Đồng Mật. Ngài được coi là người có công trung hưng tông Lâm Tế, đệ tử đến hơn ba vạn người. Sư thị tịch năm Sùng Trinh 15 tại chùa Huyền Thông, thọ 70 tuổi.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(163) Cam Lộ (Amrta): Đôi khi còn được phiên âm là A Mật Lý Đa, A Mật Lật Đa, dịch nghĩa là Bất Tử, Bất Tử Dịch, Thiên Tửu, nghĩa đen là thuốc tiên bất tử, rượu thiêng của cõi trời. Theo kinh Vệ Đà, cõi trời có rượu thiêng Tô Ma (Soma) uống vào sẽ sống mãi chẳng già chẳng chết, vị ngọt như mật nên gọi là Cam Lộ (sương ngọt). Phật Giáo dùng chữ “cam lộ” để ví cho pháp vị của Phật pháp có tác dụng mát lành nuôi dưỡng Pháp Thân huệ mạng vĩnh viễn cho chúng sanh. Chữ Cam Lộ ở đây là chỉ pháp thủy, trí huệ thủy khiến cho người uống vào phiền não tiêu diệt, trí huệ tăng trưởng chứ không phải là thuốc tiên của cõi trời. Ngoài ra, Cam Lộ chính là một trong ba tên của đức Phật A Di Đà (Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Cam Lộ) nên đôi khi Phật Di Đà còn được gọi bằng danh hiệu là Cam Lộ Vương Như Lai. Vì lẽ đó, chú Vãng Sanh đôi khi còn gọi là Thập Cam Lộ Chú vì có nhắc đến chữ Amrta mười lần.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>103. Thư trả lời cư sĩ Trí Lạc</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vãng sanh chẳng ở chỗ biết chữ hay không biết chữ, mà chỉ tại nơi có tín nguyện hay không! Có tín nguyện chắc chắc vãng sanh; không tín nguyện chắc chắn chẳng được vãng sanh. Mẹ ông chẳng thể niệm kinh chú, hãy nên khuyên cụ nhất tâm niệm Phật. Hãy nên ăn chay trường, đừng nghĩ đem máu thịt dâng lên cha mẹ là thể hiện lòng hiếu. Đấy chính là thói mê tín của kẻ không biết Phật pháp. Chúng ta đã biết ăn thịt của chúng nó, tương lai cũng sẽ đem thân mạng đền trả, cho nên hiếu dưỡng kiểu đó chính là làm cho cha mẹ đời đời kiếp kiếp bị người khác mổ xẻ. Lòng hiếu ấy chính là lòng hiếu đời đời kiếp kiếp hại cha mẹ, chẳng đáng buồn ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu muốn cho mẹ được vãng sanh, hãy nên thiết tha khuyên anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái đều cùng hằng ngày bầu bạn bên cha mẹ niệm Phật. Nếu chẳng quây quần, cũng nên bảo họ thường niệm. Nếu đã quen niệm, đến khi cha mẹ lâm chung sẽ tự nhiên biết niệm. Lại phải nói cặn kẽ lợi ích của việc trợ niệm, họa hại do phá hoại [chánh niệm] thì mới được lợi ích nơi trợ niệm, chẳng mắc cái hại bị phá hoại. Những điều khác đã nói cặn kẽ trong Một Lá Thư Gởi Khắp và sách Sức Chung Tân Lương. Nếu không có, hãy thỉnh từ Hoằng Hóa Xã.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>104. Thư gởi cư sĩ Hồ Tác Sơ</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mấy hôm trước, lệnh điệt<SUP><B>(164)</B></SUP> Thôi Chú Bình gởi thư đến, và cũng gởi kèm theo thư của các hạ gởi cho anh ta, xin Quang gởi các loại sách cho các hạ. Quang đã bảo người gởi đi rồi. Các hạ một mực có tín tâm, nhưng chưa gặp được người thông suốt nên vẫn tu trì những pháp luyện đan, vận khí của ngoại đạo. Bọn họ tự khoe "tánh mạng song tu"<SUP><B>(165)</B></SUP>, cho là đã đắc chân truyền của Lục Tổ, chứ thật ra chỉ là pháp gìn giữ cái thân, trọn chẳng có khí phận liễu sanh tử chi cả! Bọn họ nào biết ý nghĩa của tánh và mạng! Nhưng người đời không biết chánh pháp nên chẳng thể do đâu phân biệt, chọn lựa chân và ngụy, khó tránh khỏi mù quáng đi theo. Pháp luyện đan, vận khí của bọn họ dùng đúng cách thì huyết mạch châu lưu, thân thể khỏe mạnh. Dùng sai cách, Khí bị ngưng trệ, không thông suốt, tai hại chẳng nhỏ! Có khá nhiều người dự vào Đồng Thiện Xã để ngồi luyện công đến nỗi trở thành si ngốc, tê bại, thân thể mất cảm giác, đều là do pháp ấy chẳng lành, mong dưỡng thân đâm ra trở thành hại thân, chẳng đáng buồn ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét kỹ căn bệnh của các hạ là do một mực ham chuộng cao xa nên thường hay bị bệnh vì Khí, đây là một chuyện. Hơn nữa, do thiên tánh thông minh, vì vậy vướng lấy tập khí của người thông minh, đối với chuyện nữ sắc chẳng thể hạn chế, lại thêm lửa phẫn nộ thường nổi lên không đúng lúc. Ví như hai lưỡi rìu cùng đốn một cái cây lẻ loi, nguy hiểm tột cùng! Lại thêm do dùng cách tịnh tọa không tốt lành của Đồng Thiện Xã tạo thêm trợ duyên cho bệnh khổ, đến nỗi đủ mọi hiện tượng đều do đấy mà sanh. Nếu nay chịu hành theo pháp "thanh tâm quả dục" (giữ lòng thanh tịnh, giảm bớt ham muốn), nhiếp tâm niệm Phật thì lâu ngày chầy tháng túc nghiệp sẽ tiêu diệt, thiện căn tăng trưởng, hết thảy các chứng mất ngủ, nghẹt mũi, rung cơ v.v... sẽ đều dần dần tiêu diệt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước hết, hãy nên xem phương pháp tu trì trong Gia Ngôn Lục, một câu “Nam-mô A Di Đà Phật” miên miên mật mật trì niệm lâu dài. Hễ mỗi khi những ý niệm phẫn nộ, dâm dục, háo thắng, bộp chộp v.v... ngẫu nhiên chớm sanh, bèn lập tức nghĩ rằng: "Ta là người niệm Phật, há nên dấy lên những tâm niệm này?" Niệm vừa dấy lên bèn dứt, lâu ngày, hết thảy những ý niệm hao tổn tinh thần, mệt nhọc thân xác đều không cách chi dấy lên được! Suốt ngày dùng công đức chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật để gia trì thân tâm, dám bảo đảm chẳng cần đến mười ngày sẽ liền thấy hiệu quả lớn lao. Nếu chỉ thỉnh thoảng niệm một hai câu liền muốn thấy hiệu quả thì là dối mình, lừa người, tuy vẫn có công đức, nhưng muốn nhờ vào đấy để lành bệnh thì chắc chắn chẳng thể được! Phàm mọi chuyện đều phải lấy lòng thành làm gốc, há có thể nào tu trì chẳng bằng lòng thành mà muốn hưởng lợi ích lành bệnh diệt khổ ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nữa, nếu tập khí sâu dầy, tốt nhất là nên chuyên niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, do tâm Bồ Tát cứu khổ thiết tha. Nay gởi kèm theo Một Lá Thư Gởi Khắp, hãy đọc, sẽ tự biết. Hiện thời Quang có chuyện hết sức gấp rút, sau này chẳng cần phải gởi thư cho Quang nữa. Nếu có gì cần bàn định nên gởi thư cho Chú Bình, nhưng cũng đừng nên để Chú Bình gởi thư đến [cho Quang] nữa. Chẳng qua anh ta biết được đường nẻo, hiểu rõ ràng hơn các hạ đôi chút!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(164) Tiếng gọi cháu trai của người khác. Điệt là con của anh hay em trai, nếu là con của chị hay em gái sẽ gọi là Sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(165) Bọn luyện đan vận khí cho rằng họ tu tập để bảo tồn cái thân bất hoại, trường thọ, đó là tu Mạng. Đồng thời tu luyện để trở thành tiên, thành thánh, đó là tu Tánh. Vì thế, họ tự xưng là "tánh mạng song tu".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>105. Thư gởi cư sĩ Trang Huệ Cự ở Tuyền Châu</B>
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện thời khắp cả thế gian đều có ngoại đạo. Do Phật pháp sâu xa, nhiệm mầu con người không thể nào biết được, bọn chúng bèn trộm danh Phật pháp, nhưng chẳng biết nghĩa lý, bèn coi pháp luyện đan, vận khí để giữ gìn cái thân là pháp liễu sanh thoát tử. Hơn nữa, bọn chúng chẳng biết sanh tử do đâu mà có, nên mù quáng bịa đặt đồn thổi, nói: <I>"Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hoàn Hư, lại hợp nhất một chỗ là đắc đạo"</I>. Thật ra, hoàn toàn là dùng thức thần để tu tập, tuyệt đối chưa thể mộng thấy được lý thể của Chân Như Thật Tế nơi tâm tánh mà vẫn tự phụ: <I>"Lục Tổ loạn truyền pháp, pháp quy tại gia nhân, Tăng gia vô hữu pháp"</I> (Lục Tổ truyền pháp loạn xạ, pháp trở về với kẻ tại gia, Tăng chúng chẳng có pháp). Lời lẽ này chẳng chỉ nói ra miệng mà còn viết thành sách, dùng giả để hủy chân, lấy tà làm chánh, kẻ vô tri vô thức bèn bị chúng mê hoặc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoại đạo có thể truyền khắp trong cõi đời là nhờ có hai pháp đắc lực:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1)Một là bí truyền, tức là bảo hễ được minh sư chân truyền, chẳng tu vẫn thành. Vì thế, bèn nói một cách thần thánh hóa rằng: “Chuột nghe thấy, chuột cũng đều thành đạo! Chim sẻ nghe thấy, chim sẻ đều thành đạo!” Vì thế, lúc truyền đạo phải ở trong mật thất, khẽ tiếng nói thì thầm, bên ngoài còn sai phái người tuần tra, sợ có kẻ nghe trộm!
<P style="TEXT-INDENT: 425pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Hai là bày ra lệnh cấm nghiêm ngặt, dẫu thân thiết như cha con, vợ chồng đều chẳng được nói cho nhau biết. Nói ra sẽ bị trời hành! Vì thế, trước khi được truyền đạo, trước hết buộc [kẻ ấy] thề thốt: "Nếu sau này phản đạo sẽ bị quả báo thê thảm như thế nào đó!" Thề thốt rồi mới được truyền đạo. Sau này, dẫu người nào biết là sai, nhưng vì sợ ông thần canh lời thề nên thà chết chẳng dám rời bỏ đạo ấy để học Phật pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Giả sử ngoại đạo bỏ bí truyền để công khai, làm cho khắp mọi người cùng nghe, cũng chẳng buộc người khác thề thốt, thì người trong khắp cõi đời có mấy ai chịu vào đạo của chúng? Cố nhiên bọn chúng chẳng có đạo, trộm lấy cái danh liễu sanh tử của Phật pháp để thực hành chuyện luyện đan, vận khí, giữ gìn thân thể. Dẫu có khiến cho tâm hạnh thanh khiết thì cũng bất quá là thành tiên mà thôi! Địa vị của tiên còn kém xa trời, huống gì là [đem địa vị Tiên so với] các địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát ư? Ông đã quy y Phật pháp, hãy nên triệt để vứt những pháp ngoại đạo đã tu trước kia ra ngoài biển cả Đông Dương, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ngõ hầu chẳng uổng cuộc sống này và dịp gặp gỡ này!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>106. Thư gởi y sĩ Mã Tinh Tiều</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật là Đại Y Vương, trị khắp các bệnh nơi thân và tâm của chúng sanh. Y sĩ trong thế gian chỉ trị được cái thân, dẫu cho y thuật cao siêu, xét đến kết quả thì trọn chẳng có ích gì cho thần thức của người bệnh ấy. Ông đã quy y Tam Bảo, phát Bồ Đề tâm, trị bệnh cho người, thì trong lúc trị thân bệnh, hãy nên kèm vào cách trị tâm bệnh. Vì sao nói vậy? Phàm những bệnh ngặt nghèo nguy hiểm, phần lớn là do sát nghiệp trong đời trước hay trong đời này tạo thành, nhưng người có bệnh ắt phải đoạn tuyệt chuyện ăn nằm mới chóng lành bệnh. Muốn giảm sát nghiệp trong đời trước hay trong đời hiện tại, phải kiêng giết ăn chay. Lại còn phải chí thành niệm Phật và niệm Quán Âm, ắt bệnh sẽ mau được lành, vừa vun bồi đức, vừa gieo thiện căn. Nếu là bệnh do oán nghiệp thì ngoại trừ cách này ra, chắc chắn khó thể lành bệnh. Người ấy và cha mẹ, vợ con trong nhà do tâm gấp rút mong được lành bệnh, chưa chắc không chịu hành theo. Nếu chịu hành theo, sẽ gieo được thiện căn xuất thế. Từ đây sanh tâm chánh tín, sau này biết đâu do đây sẽ liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh thì đối với người ấy, đối với ông đều có ích lợi lớn lao.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đối với chuyện đoạn dục, hãy nên coi đó là cách trọng yếu bậc nhất để trị bệnh. Bất luận nội chứng hay ngoại chứng, bệnh chưa được lành lặn vẹn mười, muôn vàn chớ nên dính đến chuyện ăn nằm. Hễ nhiễm vào chuyện ăn nằm, bệnh nhẹ sẽ thành nặng, bệnh nặng có thể bị chết ngay, hoặc chẳng chết liền nhưng đã trở thành cái nhân ắt phải chết. Muốn chẳng bị chết, cũng thật khó khăn lắm! Dẫu cho không chết, chắc là trở thành kẻ bấy bớt, tàn phế, chắc chắn khó thể giữ được sức khỏe. Chẳng biết là do chính mình chẳng khéo dưỡng sức, lại đổ hô "y sĩ chẳng có bản lãnh thật sự!" Bất luận nam hay nữ (đối với gái trinh và bà góa thì chẳng nên nói, còn những người khác thì không ngại gì), đều nên thẳng thừng, đanh gọn, nói rõ chuyện lợi - hại để bệnh họ dễ được lành, nhờ đấy cái danh của ông cũng được rạng rỡ. Thường là y sĩ chỉ biết trị bệnh, chẳng nói đến chuyện kiêng kỵ cho căn bệnh, huống là chịu dạy người ta sửa lỗi hướng thiện để vun đức tích phước ư? Đấy chính là tâm hạnh của kẻ bán hàng rong chỉ mong cầu lợi ngoài đường, ngoài chợ, chứ không phải là tâm hạnh cứu vớt người, khiến cho cõi đời đều được sống lâu, huống hồ là có thể khiến cho người ta do bệnh tật sẽ được vô thượng lợi ích "sống thì dự vào bậc thánh hiền, mất đi trở về cõi Cực Lạc" ư! Cổ nhân nói: <I>"Bất vi lương tướng, tất vi lương y"</I> (chẳng làm vị tể tướng giỏi thì làm thầy thuốc giỏi). Do vậy, gọi vị y sĩ là "đại quốc thủ". Trong thế gian, y sĩ danh phận đã cao tột bậc, nếu kiêm dùng Phật pháp, nhờ vào đó để độ chúng sanh, hành Bồ Tát đạo, thật là nghiệp quan trọng nhất trong hết thảy các nghiệp. Do con người trong khi bệnh hoạn, được nghe một y sĩ chẳng chuyên cầu lợi, có chí mong lợi người, phát Bồ Đề tâm bảo ban, ắt có thể khiến cho bệnh được lành thì tự mình chẳng thể sanh lòng chánh tín hành theo ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Muốn gây lòng tin nơi người khác, chớ nên tính toán [bệnh nhân sẽ] tạ lễ nhiều hay ít rồi sanh phân biệt. Nếu với kẻ giàu bèn tích cực chữa trị, với người nghèo chỉ đãi bôi cho xong chuyện, lâu ngày người ta sẽ vì y sĩ hám lợi mà khinh thường, dẫu có nói những câu lợi ích kẻ khác, người ta cũng chẳng tin theo. Lại hãy nên gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành và nhân quả báo ứng thấu suốt ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai), sanh tử luân hồi trong sáu nẻo. Có thể nói được với ai thì chẳng ngại gì hữu ý vờ như vô ý nhàn đàm, khiến cho người nghe dần dần mở mang tâm địa, biết sanh tử luân hồi đáng sợ, may là có pháp để liễu sanh thoát tử! Người làm được như vậy thì thật sự có thể gọi là "dùng pháp thế gian để hành Phật pháp, dùng trị bệnh nơi thân để chữa bệnh nơi tâm!" Nay hiện đang là tình thế hoạn nạn, thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Bất luận gặp phải những tai ương, hoạn nạn như nước, lửa, đao binh, đói kém, ôn dịch, sâu rầy, châu chấu, hạn hán, lụt lội, oán gia đối đầu v.v... chỉ chịu chí thành khẩn thiết thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, chắc chắn có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, nữ nhân khi sanh nở niệm Quán Thế Âm chắc chắn sẽ an nhiên sanh nở, không bị đau khổ. Dù đã lâu chưa sanh được, sắp chết, nếu chịu niệm thì sẽ lập tức sanh được (phải niệm ra tiếng, chớ nên niệm thầm trong tâm. Do lúc ấy, cần phải dùng sức để tống đứa con ra. Nếu niệm thầm ắt sẽ bị tổn thương thành bệnh. Những người săn sóc chung quanh cũng niệm thay cho người ấy. Những người trong nhà không ở trong phòng sanh cũng nên niệm giùm. Bất luận ở trong phòng sanh hay ở ngoài, hễ niệm đều có lợi ích. Lúc bình thường khi ngủ nghỉ, và khi áo mũ không chỉnh tề, và chưa rửa ráy, súc miệng, tắm gội, tiêu tiểu, đến chỗ không sạch sẽ, đều nên niệm thầm. Niệm thầm công đức vẫn giống hệt [như niệm ra tiếng]. Niệm ra tiếng [trong những lúc ấy, tại những nơi ấy] không hợp nghi thức, chứ hoàn toàn chẳng phải là không thể niệm!) Người đời vô tri coi chuyện này là chuyện đáng sợ, dẫu bình thường là người có tín tâm cũng chẳng dám dạy người khác niệm, cho là lõa lồ bất tịnh, hễ niệm sẽ bị tội. Chẳng biết lúc ấy liên quan đến tánh mạng của cả mẹ lẫn con, Bồ Tát chỉ chuyên chú độ sanh, lúc ấy chỉ dốc lòng thành, lõa lồ bất tịnh chính là chuyện bất đắc dĩ, không thể so với chuyện cố ý không cung kính làm ra như vậy! Chịu niệm thì đứa con liền sanh, chẳng những không có tội lỗi mà còn làm cho cả mẹ lẫn con cùng gieo thiện căn (điều này thấy từ kinh Dược Sư, chứ không phải là Quang bịa chuyện).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu lúc bình thường cần phải hết sức kiền thành, thật sạch sẽ, chẳng thể dẫn lúc [sanh nở] ấy để làm lệ được, khinh mạn bất kính thì tội lỗi ngập trời! Phàm những ai là người niệm Phật đều không biết chuyện này; trước kia, Quang chẳng biết đến sự sai lầm trong tập tục, cho nên trong Văn Sao hoàn toàn chẳng nhắc tới. Về sau, do hiểu sâu xa, nên thường nói với hết thảy mọi người, những kẻ y theo không một ai chẳng được hiệu nghiệm ngay. Đây là một đầu mối để lợi người vậy.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>107. Thư trả lời cư sĩ Trần Huệ Hòa (hai lá thư)</B>
(năm Dân Quốc 18 - 1929)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Do Huệ Hồng chuyển thư đến, biết ông sẵn có túc nhân, vừa nghe Phật pháp liền sanh chánh tín. Nhưng người học Phật ắt phải dốc lòng giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ lòng ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục cái lễ, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều lành, kiêng giết, ăn chay, tín nguyện niệm Phật, dùng những điều này để tự hành, lại còn dạy người. Kẻ làm được như thế chắn chắn trong hiện đời có thể dự vào bậc thánh hiền, lâm chung lên thẳng cõi Cực Lạc. Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Hòa, nghĩa là dùng trí huệ để điều hòa thân tâm, chẳng cho chấp lệch lạc vào các thứ kiến chấp Không - Hữu, tham - sân - si v.v… Lại còn dùng Giới - Định - Huệ, từ bi, hỷ xả v.v… hòa hợp hòng làm căn cứ tự lợi, lợi tha, ngõ hầu chẳng dẫm theo vết bọn cuồng đồ tự phụ cao minh trong mấy lúc gần đây, mà cũng chẳng rớt vào bọn ngu phu kém hèn, tự yên phận.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Con người sống trong thế gian nguy hiểm muôn vẻ, một hơi thở ra không hít vào được, chẳng biết sẽ lại có hình dạng như thế nào. Ông đã đầu thai vào loài người, may là tâm địa sáng suốt, một niềm hiếu thuận, nhân từ, khôi phục được bản thể. Nếu như mê muội, sẽ khó quay về! Phải biết: Đây vẫn còn là tin tức tốt lành nhất, nếu đầu thai vào dị loại thì càng nguy hiểm hơn. Do vậy, biết rằng: Chúng sanh trong lục đạo đều không có giống nhau hay khác biệt, đều theo nghiệp thọ báo, không sanh ở chỗ nào nhất định. Ông đã trải qua nạn ấy, tâm hãy nên quyết định cầu sanh Tây Phương, ngõ hầu do cơn nguy hiểm này sẽ vĩnh viễn hưởng yên vui. Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Triệt Ngộ Ngữ Lục đã thỉnh được. Lại còn các sách đã in gần đây đóng thành sáu gói gởi đi, mong hãy xem xét, thâu nhận. Chuyện ăn chay là do chẳng biết con người và súc vật luân hồi, sanh ra lẫn nhau, giết hại lẫn nhau, lầm lẫn cho rằng con người nên ăn chúng nó, chúng nó [sanh ra là] để cho con người ăn. Đến khi đầu thai vào loài ấy mới biết những suy tính trước kia là sai lầm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông đã trải qua một phen nguy hiểm ấy, cố nhiên hãy nên gắng sức tu học, ăn chay. Nếu ở hàng quán, thật khó tự do [ăn chay theo ý muốn] thì cũng nên sanh tâm bất nhẫn, sanh tâm độ thoát, bớt ăn một chút thì tốt lắm. Nếu có thể tự do, hãy chớ nên ăn. Lại nữa, tu hành pháp môn Tịnh Độ đương nhiên chẳng phải ở chỗ xuất gia hay không! Ông trên có mẹ già, dưới có vợ con, nếu bỏ mặc không hỏi tới, tự cầu yên vui thì đối với Phật pháp lẫn thế pháp đều mắc tội lớn, vì chẳng thể tận hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận. Dù có tu trì, công khó địch lại tội, huống gì chẳng thể tu trì ư? Quán Kinh dạy rõ Tịnh nghiệp chánh nhân của tam thế chư Phật: Thứ nhất là "hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp". Cách tu này được chư Phật khen ngợi. Người tại gia tu hành hiện thời so với bốn mươi năm trước kia đông đảo gấp mấy chục lần, đâu có bao giờ nghe nói người tại gia chẳng tu hành tốt đẹp đâu? Ông chỉ y theo những điều đã nói trong các sách Văn Sao, Gia Ngôn Lục của tôi mà tu, chắc chắn sẽ có thể cùng với cha mẹ, vợ con ông cùng được "sống thì làm bậc thánh hiền, mất đi dự vào Liên Trì Hải Hội", mới biết lời tôi quyết chẳng dối gạt ông!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>108. Thư trả lời cư sĩ Trạch Phạm</B>
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những người đàn bà niệm Phật ở vùng Giang - Chiết, thảy đều là tin nhận lý lẽ vô lý của ngoại đạo, chỉ biết cung kính, khiết tịnh, chẳng biết luận định theo sự việc, cho nên mới có cái thuyết mù quáng ấy gây hại trong thế gian khiến cho người ta bị lầm lẫn chẳng cạn. Trước kia, Quang chẳng biết đến những thứ tà thuyết ấy nên trong Văn Sao tuyệt chẳng nhắc đến. Sau này mới biết rõ tệ nạn ấy, nên thường nói với hết thảy mọi người. Có ai khó sanh hãy y theo đó mà niệm thì không một ai chẳng lập tức được an nhiên sanh nở. Người niệm Phật đi, đứng, nằm, ngồi đều khéo niệm, nhưng lúc ngủ nghỉ và khi mũ áo không chỉnh tề, tay chưa rửa, miệng chưa súc, cùng lúc tắm gội, tiêu tiểu cũng như khi đến chỗ ô uế, đều nên niệm thầm trong tâm, chớ nên niệm ra tiếng. Niệm thầm công đức vẫn chẳng giảm bớt, chứ niệm ra tiếng thì không hợp nghi thức.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu đàn bà gặp khi sanh nở, chỉ nên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát (do Quán Thế Âm Bồ Tát bi nguyện sâu nặng, chứ không phải là chẳng được niệm Phật chỉ được niệm Quán Âm, chớ có hiểu lầm) do đức Quán Âm tâm cứu khổ sâu nặng, nhưng phải niệm ra tiếng rõ ràng, trọn chớ nên niệm thầm trong tâm. Niệm thầm trong tâm thì so ra sức yếu hơn, hiệu quả cảm thông cũng nhỏ. Hơn nữa, lúc ấy phải dùng sức tống đứa con ra; nếu đang dùng sức tống đứa con ra lại niệm thầm sẽ bị tổn khí thành bệnh. Chính sản phụ tự niệm ra tiếng rõ ràng, những người trông nom trong phòng sanh cũng niệm ra tiếng rõ ràng, người nhà ở phòng khác cũng nên niệm cho sản phụ ấy. Chớ nên bảo "lõa lồ bất tịnh, nếu niệm sợ bị mắc tội lỗi!" Phải biết: Lý cố nhiên có nhất định, nhưng sự biến đổi, chứ không phải chỉ có một! Chỉ nên dựa theo sự để luận lý, đừng luận theo kiểu chấp lý hẹp hòi. Ví như con cái lỡ dại té vào hầm xí, nước, lửa, kêu cha mẹ để cầu cứu, cha mẹ nghe tiếng liền đến cứu ngay, trọn chẳng đến nỗi vì thân thể của chúng nó không sạch sẽ, áo mũ không chỉnh tề mà chẳng chịu cứu vớt, mặc kệ cho chúng nó chết! Phẩm đức của Bồ Tát sâu xa hơn cha mẹ vô lượng vạn vạn lần. Khi chúng sanh bị khổ cầu cứu Ngài, [Bồ Tát] chỉ có ý niệm cứu khổ, trọn chẳng có ý niệm so đo hình dạng!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, lúc ấy là lúc không làm sao khác được, chẳng thể biểu thị sự cung kính, sạch sẽ, đành lõa lồ, bất tịnh! Nếu có thể [cung kính, sạch sẽ] mà không làm sẽ thành có tội. Nếu chẳng thể tỏ lộ vẻ cung kính thì chỉ nên luận theo lòng thành quy hướng trong tâm, đừng bàn đến chuyện lễ mạo, nghi thức nơi hình tướng. Bồ Tát không khổ nào chẳng cứu, không nạn nào chẳng cứu, lẽ đâu lại bỏ rơi sản phụ? Tuy trong kinh chưa nói đến rõ ràng, nhưng hãy nên suy tưởng cái tâm "cứu khổ mong dứt bặt nỗi khổ lớn lao trong đời người để thỏa từ tâm" của Bồ Tát! Huống chi trong kinh Dược Sư, đoạn kinh đức Phật dạy sản phụ niệm Phật Dược Sư như sau: <I>"Nếu có nữ nhân đang lúc sanh nở, chịu nỗi khổ cùng cực, nếu có thể chí tâm xưng danh, lễ bái, tán thán</I> (xưng danh thì sản phụ làm được, còn lễ bái, tán thán, cung kính, cúng dường chính là chuyện của người nhà, chứ sản phụ không thể làm được), <I>cung kính, cúng dường đức Như Lai ấy, mọi nỗi khổ đều trừ"</I> ("Mọi nỗi khổ đều trừ" thì chẳng bị khổ gì! Đứa con sanh ra được lợi ích lớn lao không thể diễn tả được! Sản phụ niệm thì được lợi ích lớn lao như thế, lẽ nào người niệm Phật vừa bước vào phòng bà đẻ thì công đức niệm Phật thường ngày liền hoàn toàn bị mất sạch hay sao? Kẻ vô tri tự lập hạn định, tự lầm, lầm người. Tội há thể cùng tận, đáng thương thay). Đứa con sanh ra thân thể trọn vẹn, hình sắc đoan chánh, ai thấy đều hoan hỷ, lợi căn thông minh, an ổn ít bệnh, không bị phi nhân đoạt mất tinh khí. Có thể biết rằng lúc sanh nở chịu niệm thì chẳng những vô tội mà cả mẹ lẫn con đều an toàn, được lợi ích lớn lao, gieo đại thiện căn. Sản phụ còn như vậy thì những người khác [cứ suy ra] ắt biết được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông Mã Thuấn Khanh ở Hồ Nam (trong Văn Sao có nhắc đến tên ông này) là người Hồi Hồi<SUP><B>(166)</B></SUP> (người Hồi Hồi quy y chỉ có một gia đình này), vợ chồng họ và năm đứa con đều gởi thư xin quy y. Mùa Thu năm Dân Quốc 18 (1929) gởi thư cho biết: Vợ ông ta sanh năm đứa con, hai lần đầu còn bình an, lần thứ ba liền băng huyết, lần thứ tư thứ năm càng nguy ngập hơn. Nay chẳng bao lâu nữa sẽ sanh, nếu bị băng huyết lần nữa, chắc sẽ mất mạng, xin chỉ cách cứu vớt. Quang bảo họ chí thành niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, lúc đang sanh nở tuy lõa lồ, bất tịnh, chớ nghĩ vì lẽ đó chẳng thể niệm được! Lại cần phải niệm ra tiếng, chớ nên niệm thầm. Ông ta lại xin đặt sẵn pháp danh cho thai nhi. Thư Quang gởi đến, vợ chồng ông ta cùng xem, vợ ông ta niệm liền. Ngày hôm sau liền sanh, trong lúc đang sanh vẫn niệm, được an nhiên không khổ sở! Ông ta liền viết thư phúc đáp cho biết chuyện vượt ngoài ý nghĩ, Bồ Tát thật có thể nói là đại từ đại bi vậy! Từ mùa Thu năm Dân Quốc 15 (1926) trở đi, Tăng Quảng Văn Sao in xong, bất luận văn tự nào đều nhất loạt chẳng giữ lại bản nháp để khỏi uổng tiền ấn loát. Do gần đây biết sâu xa thói tệ này, luôn thường nói chuyện lợi - hại với hết thảy mọi người, mong họ lan truyền điều này để cứu vớt sẵn nỗi hoạn nạn và tánh mạng của sản phụ cùng đứa con. Dẫu có ai không thông cảm, cho là Quang ưa nói chuyện bà đẻ cũng chẳng tiếc gì, chỉ mong cứu vãn thói ác này khiến cho mọi người cùng sanh chánh tín mà thôi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(166) Hồi Hồi, còn gọi là Hồi tộc, Hồi Hột, là một danh từ chung để chỉ những người theo đạo Hồi ở Trung Hoa. Trước kia, danh từ này được dùng với nghĩa rộng hơn để chỉ chung tất cả giáo đồ Hồi giáo và các quốc gia theo đạo Hồi. Từ đời Thanh trở đi, chữ Hồi Hồi được dùng để chỉ riêng những dân tộc thiểu số theo đạo Hồi tại Trung Hoa, như dân Duy Ngô Nhĩ (Uigur) ở Tân Cương, dân Đông Hương Hồi ở Cam Túc, dân Tán Lạp ở Thanh Hải, dân Hồi Cương, Đột Quyết sống dưới chân Thiên Sơn chẳng hạn. Dân Hồi Hồi có nguồn gốc từ Trung Á như Ả Rập hoặc Iran v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>109. Thư trả lời cư sĩ Châu Đức Đại</B>
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn Niệm Phật chú trọng tín nguyện, có tín nguyện nhưng chưa được nhất tâm cũng có thể vãng sanh. Đắc nhất tâm nhưng không có tín nguyện, vẫn chẳng được vãng sanh! Người đời phần nhiều chú trọng nhất tâm, chẳng chú trọng tín nguyện, tức là đã đánh mất cái quan trọng cốt lõi nhất. Nếu lại còn sanh khởi mối nghi "chưa đắc nhất tâm, sợ rằng chẳng được vãng sanh" thì hoàn toàn trái nghịch với lòng tin chân thành, nguyện thiết tha mất rồi! Kiểu suy nghĩ này tợ hồ là suy nghĩ tốt, nhưng thật ra, nếu do đây càng tăng thêm tín nguyện để đạt đến nhất tâm thì đó là cách suy nghĩ tốt; còn nếu do chưa được nhất tâm bèn thường nghĩ chẳng thể nào vãng sanh được thì sẽ trở thành cách suy nghĩ xấu, chẳng thể không biết! Muốn được nhiếp tâm quy nhất, điều quan trọng nhất là tâm thiết tha vì sanh tử, điều thứ hai là khẩn thiết chí thành, điều thứ ba là phải chân thật niệm từ trong tâm, miệng đừng lem lém đọc qua. Nếu vẫn chẳng thể quy nhất, hãy nên dựa theo cách Thập Niệm Ký Số trong Văn Sao, ắt sẽ dễ dàng tự đạt được quy nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>110. Thư trả lời cư sĩ Sa Dung Chi</B>
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Làm phận con, đạo làm vẻ vang cha mẹ là tận lực thực hành Tu Đức ngõ hầu hết thảy mọi người đều do kính trọng ta mà nghĩ đến đấng sanh ra ta, đấy mới là phương pháp thiết yếu nhất. Thường hay thấy người đời, sau khi cha mẹ khuất núi rồi bèn đi khắp nơi tìm những người có danh tiếng, có địa vị để nhờ viết lời tán tụng, chứ chẳng chú trọng tự mình gắng công tu đức, làm điều nhân nghĩa khiến cho cha mẹ được vang danh. Tôi thường nói: <I>"Người đời phần nhiều chuộng danh ghét thật, đặc biệt muốn phô trương một chốc, chẳng nghĩ tới chuyện kỷ niệm suốt đời!"</I> Ông đã tin nhận Phật pháp, cha ông cũng đã biết nghĩa lý <I>"tâm sẵn có đầy đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là"</I>. Phàm ma chay, chôn cất, kính thần, đãi khách, mọi chuyện đều nên y theo sự chế định của đức Phật, chẳng dùng rượu thịt, ngõ hầu xướng suất cả làng [noi theo gương tốt đẹp ấy].
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quang già rồi, tinh thần, công phu, mục lực đều chẳng đủ. Chỉ soạn mười sáu câu tụng<SUP><B>(167)</B></SUP>, chẳng thể viết bài ký Sanh Tây. Ông hãy tự viết, hoặc xin bậc cao nhân khác viết. Gần đây, những chuyện bút mực do người khác nhờ vả Quang đều nhất loạt thoái thác, chẳng phải do không muốn nhọc công vì người khác, mà vì sức chẳng kham nổi! Trong thư ông hoàn toàn chẳng nhắc đến danh tự của cha ông, nên trong phần đầu chỉ đành để trống chỗ hai chữ, xin hãy đề thêm vào. May là cha ông đã được vãng sanh, mẹ ông vẫn còn, cố nhiên nên khuyên chỉ sẵn, ngõ hầu cụ chết sạch cái tâm [mong cầu] hết thảy phước báo nhân thiên vinh hiển hư huyễn trong thế gian, lấy quyết chí vãng sanh hòng siêu phàm nhập thánh làm chí hướng sự nghiệp thì lợi ích lớn lắm. Phàm làm những Phật sự trong khi tang lễ đều nên lấy niệm Phật làm chánh. Nếu niệm kinh, bái sám, làm đạo tràng Thủy Lục thì ít được lợi ích thật sự vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(167) Xin xem bài "Ca tụng hạnh cao đẹp của ông Sa Tuyết Phảng" trong phần Tán tụng của Ấn Quang Pháp sư Văn Sao Tục Biên quyển Hạ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>111. Thư trả lời cư sĩ Trương Hải Kiều ở Nam Thông</B>
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong lúc vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống này, gặp lúc chuyện tương lai chẳng thể suy tính được này, đã là hạng phàm phu sát đất, đầy đủ Hoặc nghiệp, chẳng thể chuyên tâm dốc chí học Phật, lại cứ muốn ngay trong đời này sẽ giải quyết được đại sự sanh tử vốn chẳng thể giải quyết xong trong trăm ngàn vạn ức kiếp, mà nếu chẳng lấy chuyện cầu sanh Tịnh Độ làm chí hướng, sự nghiệp thì sợ rằng chỉ có nhân, chứ không thể do đâu đạt được cái quả! Quang tự lượng là phận độn căn, lúc mới xuất gia liền quy y nơi Tịnh Độ. Lại do hơn năm mươi năm trải đời, tuy chẳng hiểu rành Phật pháp chi hết, nhưng đối với pháp Tịnh Độ cố nhiên do [đã sẵn] cái chí từ thuở ban đầu nên chưa hề lầm lẫn! Đối với hết thảy những ai hữu duyên đều dùng [pháp này] để kính khuyên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Biển sanh tử sâu thẳm, đường Bồ Đề xa vời, muốn trong đời này giải quyết xong đại sự này mà bỏ một pháp Tịnh Độ, đừng nói chi không thông suốt hết thảy pháp môn, dù có thông cũng chẳng thể rốt ráo được hưởng lợi ích thật sự! Vì sao vậy? Do hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân hòng liễu sanh tử; còn pháp môn Tịnh Độ nếu đầy đủ tín nguyện, niệm danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương liền có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. So sánh hai pháp thì sự khó - dễ khác biệt vời vợi như trời với vực! Huống chi đương lúc đại kiếp đón đầu này, vẫn cứ muốn nghiên cứu kinh luận sâu thẳm, chẳng lấy pháp "hễ siêu bèn vào thẳng địa vị Như Lai" này làm chí hướng, sự nghiệp thì sợ rằng khó thể mãn nguyện mà sẽ thành ra than dài sườn sượt <I>"mười người hết chín kẻ chần chừ!"</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Độ, nghĩa là quy y pháp môn Tịnh Độ được nói ra bởi trí huệ của Phật để tự hành, dạy người, ngõ hầu nương theo Phật từ lực vượt thoát sanh tử, nên có tên là Huệ Độ. Ông biếu Quang tám đồng, Quang bèn gởi cho ông tám đồng kinh sách. Nếu chịu lắng lòng đọc tụng những kinh ấy, mở xem các thứ trước thuật, sẽ tự có thể biết cái nhìn của Quang không lầm! Lại cần phải biết nay đang là đời loạn đã đến mức tột cùng, không có thuốc chữa! Nguyên nhân đều là do học thuyết Tống Nho bài xích nhân quả, luân hồi ươm mầm từ tám chín trăm năm trước, đến nay liền bộc phát! Nay muốn vãn hồi thế đạo nhân tâm, nếu chẳng nêu rõ cái gốc họa này, dù có muốn vãn hồi cũng khó thể được, vì nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân trị thiên hạ, để Phật độ chúng sanh, là pháp để trị bệnh cả gốc lẫn ngọn vậy. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, từ rày chỉ nên y theo những kinh sách đã gởi mà tu, chẳng cần gởi thư đến nữa để đôi bên khỏi mất công nhọc nhằn!</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>112. Thư trả lời cư sĩ Địch Trí Thuần</B>
(năm Dân Quốc 27 - 1938. Ông này vốn có tên là Văn Tuyển)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thư của ông và thư của Liên Phương đã nhận đủ cả rồi. Ông có thể trì được kinh Lăng Già, có thể nói là xưa đã có thiện căn. Pháp ấn tâm chẳng phải chỉ hạn cuộc tại chỗ ấy. Nếu có thể tuân theo [lời dạy của Bồ Tát] Đại Huệ<SUP><B>(168)</B></SUP> trong phẩm Đoạn Nhục, phàm thấy hết thảy những sinh vật đều coi như cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ con, quyến thuộc thì môn ấy sẽ rộng mở, không pháp nào chẳng nhập được! Nếu thật sự nhập được môn này (tức "tưởng hết thảy sinh vật như ruột thịt, không ăn thịt chúng nó") dẫu chưa đạt được pháp ấn tâm, so với những kẻ đã đắc pháp ấn tâm kia nhưng chưa chịu nhập môn này thì công đức cách biệt như trời với vực! Bởi lẽ, một đằng là hiểu xuông nhưng chẳng có tâm đại Bồ Đề, một đằng là thật hành đạo Bồ Đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vả nữa, đừng cho lời tôi là sai. Dẫu chưa đạt được tâm ấn của Phật, của Tổ, nhưng đem công đức này hồi hướng vãng sanh, hễ được vãng sanh liền lên thẳng [địa vị] Bất Thoái, thân cận Di Đà và thánh chúng, sẽ đích thân chứng được tâm của Phật, của Tổ. Chúng sanh đời Mạt muốn liễu sanh tử, chẳng lấy tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương làm chí hướng, sự nghiệp, tuy sở ngộ giống như Ngũ Tổ Giới (Ngũ Tổ là tên chùa. Sư Giới thiền sư từng làm Trụ Trì chùa Ngũ Tổ ở Hoàng Mai nên cõi đời gọi ngài là Ngũ Tổ Giới), Thảo Đường Thanh cũng chỉ được kết quả [thân sau trở thành] Tô Đông Pha, Tăng Lỗ Công<SUP><B>(169)</B></SUP>. Đường sanh tử xa xôi, đời sau, đời sau nữa, chẳng biết kết quả lại như thế nào? Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp đặc biệt khế lý khế cơ trong cả một đời giáo hóa của đức Phật, dưới là từ Ngũ Nghịch, Thập Ác, trên đến Đẳng Giác Bồ Tát đều nên tu tập, đều có thể siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này. Tất cả hết thảy những pháp cao sâu huyền diệu khác phần nhiều khế lý, nhưng trọn chẳng thể khế hợp khắp cả ba căn cơ thượng, trung, hạ. Chúng ta từ vô thỉ cho đến tận đời này vẫn còn lưu chuyển trong luân hồi, đều là vì trong những đời trước do ngu muội nên chẳng dám gánh vác, hoặc do cuồng dại nên hoàn toàn chẳng tin nhận mà ra!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quang nói điều này [vì] sợ ông vẫn để chí nơi kinh Lăng Già, lấy chuyện đắc tâm ấn của Phật làm chí hướng, sự nghiệp thì kết quả sẽ giống hệt như Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh mà thôi! Ông đừng học theo bậc đại thông gia, hãy chết lòng trọn ý, tuân theo [lời dạy trong] phẩm Đoạn Nhục tu Tịnh nghiệp thì chắc chắc có thể sanh về Tây Phương được! Quang mục lực chẳng đủ, chẳng thể viết tường tận. Trong mùa Xuân, một đệ tử ở Vô Tích đã in cuốn Đồng Mông Tu Tri<SUP><B>(170)</B></SUP>, một nửa phía sau in kèm theo Phật Pháp Cảm Ứng cũng như mấy bài văn của Quang, cũng có thể giúp cho việc tự lợi, lợi tha. Sách Tang Tế Tu Tri (những điều cần biết trong ma chay, cúng tế) cũng là đạo trọng yếu để dứt tai, trừ họa, tôn trọng cha mẹ, mến yêu cha mẹ. Mỗi thứ gởi hai bản, một để tự giữ, một bản tặng cho người khác xem. Đấy cũng là những sách trọng yếu để người học Phật thay đổi phong tục vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(168)Đại Huệ (Mahāmati) là vị Bồ Tát thượng thủ, đương cơ của kinh Lăng Già.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(169) Tăng Lượng (1019-1083), tự Tử Nhân, người xứ Kiến Xương, Nam Phong (nay là huyện Nam Phong, tỉnh Giang Tây), là một nhà văn nổi tiếng thời Bắc Tống, được xếp vào Đường Tống Bát Đại Gia (tám văn gia, thi sĩ nổi tiếng thời Đường Tống). Từ năm 18 tuổi, do theo cha du ngoạn, ông viết bài Du Tín Châu Ngọc Sơn Tiểu Nham Ký, rất được giới văn sĩ thời ấy tán thưởng. Năm 20 tuổi, ông ngao du khắp Trung Hoa, giao du rộng rãi với những danh nhân đương thời như Vương An Thạch và Âu Dương Tu. Ông đỗ Tiến Sĩ năm 1057, làm quan đến chức Trung Thư Xá Nhân, chuyên trách biên soạn sử liệu cho triều đình. Theo truyện ký, mẹ ông vốn là phu nhân của Tể Tướng Tăng Dịch Chiêm, là một tín đồ rất hâm mộ Phật pháp, thường cúng dường hòa thượng Thảo Đường Thanh rất trọng hậu. Khi Tể Tướng Tăng Dịch Chiêm cáo lão hồi hưu rất vinh hiển, Thanh Thảo Đường sanh tâm hâm mộ, bèn nói: "Lão tăng nguyện làm con của phu nhân". Nói xong, không lâu sau bèn viên tịch năm 70 tuổi, liền đầu thai vào nhà họ Tăng. Khi đó, phu nhân nhớ lại lời Thanh Thảo Đường, cho người sang chùa hỏi thì quả nhiên hòa thượng mất đúng vào lúc Tăng Lượng được sanh ra.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(170) Đồng Mông Tu Tri (trẻ nít cần biết) là một cuốn sách dạy nhi đồng, do Lý Dục Tú biên soạn vào đời Thanh, nội dung dạy những điều cần thiết về phép ứng xử và bổn phận làm người của đứa con trong gia đình. Về sau, ông Giả Tồn Nhân cũng sống vào đời Thanh, tu chỉnh, nhuận sắc, đổi tên sách này thành Đệ Tử Quy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>113. Thư trả lời cư sĩ Đậu Trí Duệ</B>
(năm Dân Quốc 27 - 1938. Ông này vốn có tên là Liên Phương)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật dạy: <I>"Chư Phật dĩ bát khổ vi sư, cố đắc thành vô thượng giác đạo"</I> (Chư Phật lấy tám khổ làm thầy, cho nên được thành giác đạo vô thượng). Nếu ông không có bệnh, sợ rằng trong đời này chẳng có nhân duyên nghe đến Phật pháp. Cao Tử Khâm dùng Văn Sao để trị chứng bệnh của ông. Ông có thể y theo Văn Sao tu trì thì chắc chắn có thể vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. [Những lời lẽ trong bộ] Văn Sao của Quang đều là lấy những lời của Phật, của Tổ đã nói rồi tùy theo căn cơ mà nói cho dễ hiểu, chứ thật sự không có một câu nào nói mò. Ông có thể y theo đó tu hành sẽ tốt hơn gặp mặt Quang nhiều lắm. Hiện thời chẳng bằng được trước kia, nhất cử nhất động đều có chướng ngại. Huống chi tuổi già đường xa, gặp nhau ích gì? Không gặp nhau tổn hại gì? Dẫu có khai thị cũng chỉ là những lời lẽ trong Văn Sao, há có lý nào mới mẻ được nói riêng ư? Ngàn phần mong ông đừng tới, cứ lấy tâm khế hợp nhau coi như đã gặp gỡ là được rồi! Điều quan trọng thứ nhất là ăn chay, những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao. Thư của Địch cư sĩ (tức ông Địch Trí Thuần) viết thẳng một lèo cũng là nhằm để khai thị cho ông. Nay đặt pháp danh cho ông là Trí Duệ, đọc Văn Sao sẽ biết chỗ quay về, nương tựa. Trí thức ấy có thể gọi là Trí Duệ (trí huệ thông minh, sáng suốt) vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>114. Thư chỉ dạy cư sĩ Sài Dã Ngu</B>
(pháp danh là Trí Thao)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ai cũng đều có thể làm Nghiêu, Thuấn, ai nấy đều có thể thành Phật. Chỉ là <I>"thánh mất niệm thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm sẽ thành thánh. Hễ mê thì Phật là chúng sanh, hễ ngộ thì chúng sanh là Phật"</I>. Hãy cầu theo đó, mấu chốt tại ta. Do vậy, cố nhiên hãy nên trên kính mộ chư thánh, dưới coi trọng linh tánh của chính mình, dè dặt, kiêng sợ, gắng sức, phẫn chí tu trì. Sốt sắng vâng giữ luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, sáng dậy tối ngủ chẳng khiến người sanh ra ta phải hổ thẹn. Người làm được như thế chính là hiền, là thiện, chẳng đến nỗi nhơ nhớp trời đất. Lại còn sanh tín phát nguyện trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương để mong đích thân chứng được Phật Tánh sẵn có, viên thành vô thượng Bồ Đề mới thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại trượng phu sanh trong thế gian, nếu chẳng biết đại thể, chỉ biết ham mê ăn uống, nam nữ, tham cầu thanh sắc, của cải, lợi lộc thì có khác gì các dị loại, nỡ để tư cách "có thể trở thành Nghiêu - Thuấn, có thể thành Phật" biến thành căn cứ để luân hồi kiếp số dài lâu trong lục đạo, chịu đủ mọi nỗi khổ, chẳng đáng buồn ư? Ông đã phát tâm quy y Tam Bảo, hãy nên lấy "niệm niệm đối trị phiền não tập khí làm gốc, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ lòng ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục cái lễ, sửa ác tu thiện, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, tu ròng Tịnh nghiệp"</I> để tự hành, dạy người, ngõ hầu trong là cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, ngoài là họ hàng, bè bạn, xóm giềng, làng nước đều cùng được tưới gội bởi sự giáo hóa của Phật, cùng trở thành người lành thì mới chẳng uổng cuộc đời này và dịp gặp gỡ này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sách Trung Dung nói: <I>"Nhân giai viết dư trí, khu nhi nạp chư cổ, hoạch hãm tịnh chi trung, nhi mạc chi tri tỵ dã"</I> (Con người ai cũng tự cho là mình thông minh, nhưng nếu thân bị hãm vào lưới rập, sụp hầm bẫy, chẳng biết tránh né ra sao)<SUP><B>(171)</B></SUP>. Do chỉ biết hướng ra ngoài theo đuổi, chẳng biết hồi quang phản chiếu nên mới tai hại như thế. Nếu có thể phản chiếu tự tâm, ẩn giấu cái trí để mong tự chiếu thì sẽ có thể học thánh, học hiền, học Phật, học Tổ, ắt còn sống thì dự vào bậc thánh hiền, mất sẽ lên cõi Cực Lạc. Đấy chính là đại ý của cái tên Quang đặt cho ông vậy. Lại chỉ vì "thánh đánh mất ý niệm bèn thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm bèn thành thánh, mê thì Phật là chúng sanh, ngộ thì chúng sanh chính là Phật". Bốn câu này nếu chẳng khéo hiểu chắc sẽ đến nỗi nẩy sanh nghi ngờ, bàn luận sai lầm. Nay sẽ giải thích đại lược: Thoạt đầu nói đến thánh hay Phật đều là ước theo bản thể của tự tâm mà nói, chứ không phải là đã thành thánh hay thành Phật! Kế đó, nói đến "đánh mất ý niệm, khắc chế ý niệm, mê, ngộ" chính là luận trên sự tu trì, rèn luyện thuận hay nghịch. Cuối cùng, nói "thành cuồng, thành thánh, tức là chúng sanh, tức là Phật" chính là nói đến hiệu quả ước theo sự tu trì nghịch hay thuận. Nếu chẳng biết Phật và Thánh được nói trong phần đầu là nói theo bản thể của cái tâm, sẽ tưởng là đã thành thánh, thành Phật lại còn trở thành cuồng, thành chúng sanh thì tai hại lớn lắm! Do vậy, chẳng thể không giảng đại lược cho ông. Những điều khác hãy đọc kỹ trong Văn Sao, tự đọc sẽ biết hết!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(171) Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích. Theo sách ấy, chữ Chư (<B>諸</B>) ở đây chính là cách viết giả tá của chữ Ư (<B>於</B>).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>115. Thư trả lời cư sĩ Ngu Tăng</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chuyện phóng sanh vốn là để cảm phát cái tâm kiêng giết, bảo vệ sanh mạng của đồng nhân, thực hành ý niệm bất nhẫn trắc ẩn của chính mình mà thôi. Người đời đông đúc, tâm hạnh mỗi người mỗi khác. Tuy chẳng thể cảm động toàn bộ mọi người, dầu chỉ cảm động được một người thì suốt một đời kẻ ấy đã bớt giết bao nhiêu sanh mạng, huống chi chẳng phải chỉ có một người [bị cảm động mà thôi]!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu nói "cá nhỏ bị cá lớn ăn, dẫu có thả trong sông to cũng khó khỏi sa lưới rập" thì kiểu suy tính này tợ hồ có lý, nhưng thật ra đã ngăn trở thiện niệm của người khác, giúp người ta tạo sát nghiệp. Kẻ ấy may mắn được làm người, bản thân có lẽ chẳng đến nỗi bị giết chóc nên mới nêu ra lý lẽ vô lý đó để tỏ ra mình có trí hòng khuất phục kẻ phóng sanh. Nếu kẻ ấy là cá và là các sanh mạng lúc sắp bị giết, chắc chắn sẽ chẳng chịu khởi lên thứ ý tưởng ấy, chỉ mong có người cứu mạng cho mình, chẳng hề có ý tưởng "dù có được loài khác cứu, vẫn sợ sau này lại bị loài vật khác ăn thịt hay bị người khác bắt được", chỉ nguyện cam tâm bị giết để sau này khỏi gặp tai ương nữa! Nếu trong lúc ấy mà khởi lên được ý niệm ấy thì vẫn chưa đủ để tranh cãi! Huống chi muôn vàn phần là trong lúc ấy chẳng thể nào khởi lên được ý niệm ấy! Trong lúc không bị dính dáng đau đớn, lại thốt ra lời ấy ngăn trở thiện niệm của người ta, dấy động cơ duyên giết chóc của người ta! Nếu kẻ ấy trong đời sau chẳng tự thọ lấy quả báo ấy thì mặt trời, mặt trăng sẽ [từ phương Tây] xoay sang phương Đông, trời đất sẽ đổi ngôi vậy! Há nên thốt lời xằng bậy ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cá lớn nuốt cá nhỏ cố nhiên có chuyện ấy, đã thả ra rồi bị bắt lại cũng chẳng thể không có chuyện ấy. Nếu nói cá nhỏ bị cá lớn ăn sạch không còn sót gì thì chẳng hề có sự lý ấy! Những con vật được thả đều bị người ta bắt lại hết cũng chẳng hề có sự lý ấy! Sao lại lo lắng quá đáng như thế? Ví như cứu giúp dân chúng bị nạn thì cho [người ta] một manh áo hoặc một bữa ăn, họ cũng chẳng đến nỗi phải bị chết ngay. Trong lúc ấy bèn nói: "Một manh áo, một bữa cơm này sao có thể no ấm suốt đời được? Cho họ có ích lợi chi đâu, chẳng thà để họ chết rét, chết đói thì sẽ chẳng bị chết đói, chết rét lâu dài ư?" Lại như cường đạo cướp bóc người ta, [nếu được] kẻ có sức mạnh chống cự, kẻ ấy (tức nạn nhân) sẽ nói: "Nếu ông có thể chống cự suốt cả đời thì tốt lắm, chứ chỉ chống cự được một chốc, có ích gì đâu? Đâm ra chẳng bằng cứ mặc kệ cho nó cướp sạch hết đi, sau này sẽ chẳng lại bị cướp đoạt nữa thì hay hơn!" hay sao? Cha mẹ thường nuôi nấng vỗ về con cái, nhưng mẹ hiền chẳng thể nuôi nấng, vỗ về thân đời sau của đứa con, nó sẽ nói: "Chẳng thể nuôi nấng, vỗ về, chẳng thà giết đi thì hơn!" hay sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quân tử tu đức, chẳng vì điều thiện nhỏ mà không làm, chẳng vì điều ác nhỏ mà làm. Những kẻ cứ mong muôn điều chẳng sót một điều nào rồi mới chịu thực hành phóng sanh sẽ làm cho người trong cả cõi đời dẫu sống hết tuổi thọ đều chẳng thực hiện chuyện kiêng giết, phóng sanh, trong tương lai ắt họ sẽ lâm vào cảnh "muôn người không một ai có thể cứu cho mình khỏi chết được!" Buồn thay, đau đớn thay, khôn ngăn dài dòng bày tỏ!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>116. Thư trả lời cư sĩ Thiệu Huệ Viên</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày hôm qua nhận được thư cho biết trong số những vị hương thân nơi chỗ ông có Phan Trọng Thanh ở Trương Gia Khẩu gởi thư đến muốn được quy y. Người này tánh chất chân thành, chất phác, về mặt học vấn cũng có nghiên cứu. Ông ta đã phát tâm, Quang chỉ nên tùy duyên. Nay đặt pháp danh cho ông ta là Huệ Thuần, do hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ Phật Tánh, tức là đều sẵn đủ Phật Huệ; nhưng do tham - sân - si v.v… xen tạp vào trong nên Phật Huệ bèn trở thành tri kiến của chúng sanh. Nay đã biết Phật Huệ vốn sẵn có, bèn chú tâm kiểm điểm nơi khởi tâm động niệm, xử sự, chẳng để cho tri kiến tham - sân - si v.v... phát sanh. Lại hãy nên dùng lòng tín nguyện sâu để trì danh hiệu Phật, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, yêu tiếc sanh mạng loài vật, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tự hành, dạy người cùng tu Tịnh nghiệp thì Huệ ấy sẽ dần dần thuần. Nếu giữ được điều này chẳng để mất thì vãng sanh Tây Phương sẽ vừa thuần vừa dễ. Đến khi Phiền Hoặc hết sạch, phước trí viên mãn thì Huệ sẽ thuần đến tột bậc, viên thành Phật đạo. Người đời thường lầm lạc bảo mình có trí huệ, chẳng biết trí huệ là vàng còn trong quặng, hoàn toàn chưa sử dụng được, cần phải luyện ròng khiến cho những chất xỉ quặng (những tạp chất) hoàn toàn tiêu hết thì mới được lợi ích. Đại ý là như vậy, mong hãy chuyển [những ý nghĩa này] đến cho [ông ta]. Người học Phật chú trọng vào việc tận tụy thực hành. Con người hiện thời phần nhiều mong sao miệng lưỡi nhạy bén, [tức là] kể tên những món ăn thật hay, thật đẹp, nhưng vô ích cho cái bụng rỗng tuếch, đáng buồn thay!</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>117. Thư gởi cư sĩ Ngụy Mai Tôn<SUP>(172)</SUP></B> (mười sáu lá thư)
(năm Dân Quốc 11 - 1922. Ông này vốn tên là Gia Hoa, Mai Tôn đến năm Dân Quốc 18 (1929) mới quy y, lúc này còn coi như là bè bạn)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Mùa Đông năm ngoái, [Vương] Ấu Nông gởi thư đến nói các hạ tín tâm chân thật, thiết tha. Quang nói: Biết rõ hết thảy chúng sanh đều sẵn có Phật Tánh, nhưng chưa thôi ăn thịt được, tức là <I>"phú quý học đạo nan"</I> (giàu sang học đạo khó). Nào ngờ chưa đầy ba bốn tháng, các hạ liền thôi ăn thịt. Ấu Nông lại gởi thư tường thuật đầu đuôi, do lòng tinh thành cảm vời ra đó chăng? Hay chỉ là chuyện phù hợp ngẫu nhiên? Người học đạo muốn đoạn được tập khí cần phải có nghị lực, nếu chần chừ thoái thác sẽ tiếp tục lâu dài, trọn không khi nào dứt được! Các hạ đã trừ được tập khí phú quý, cố nhiên dễ dàng thành tựu Tịnh nghiệp! Mai sau cao đăng Thượng Phẩm, chứng Vô Sanh Nhẫn, hầu đức Di Đà dài lâu, đích thân theo gót hải chúng, sẽ lại phân thân hiện bóng trở vào đời ác Ngũ Trược này độ thoát chúng sanh, đều do nghị lực ấy làm cơ sở, may mắn nào hơn?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do một người bạn khuyến khích, Quang bèn in An Sĩ Toàn Thư dạng thâu nhỏ ngõ hầu phổ biến rộng khắp để mong vãn hồi thế đạo nhân tâm, nhưng người thưa đức bạc, người nghe theo [sự xướng suất này] ít ỏi, đến nay mới chỉ quyên mộ in được hai vạn hai ba ngàn bộ sách mà thôi. Năm ngoái đã muốn gởi thư các hạ mong giúp đỡ quyên mộ ấn hành; nhưng do bận bịu giảo chánh và các việc khác không rảnh rang nên để trễ nãi đến nay. Ông Trương Quý Trực ở Thông Châu buôn bán phát đạt, giàu có dư dả, nhiệt tâm làm chuyện công ích. Trộm nghĩ: Quang lưu hành An Sĩ Toàn Thư chính là mưu tính lợi lạc cho quốc dân, biện pháp làm chuyện này trọn chẳng tệ hại. Nếu ông ta biết được, cũng sẽ bỏ ra một khoản tiền lớn để mong làm chuyện cứu nước cứu dân không lưu lại dấu vết, nhưng Quang trọn chưa hề gặp gỡ, chẳng tiện gởi thơ khuyên. Nếu các hạ xót thương tấm lòng ngu thành của Quang hãy nên gởi thư kính khuyên. Nếu ông ta chịu phát đại tâm in mấy vạn bộ, hoặc mấy ngàn bộ thí cho quốc dân thì may mắn chi hơn? Dẫu cho ông ta chẳng phát tâm thì lòng nhiệt thành của các hạ đối với quốc dân cũng đã phát lộ, thành tựu Tịnh nghiệp cố nhiên là vừa sâu vừa rộng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Các hạ túc căn sâu dầy, nên có thể từ lời dạy của Triệt Ngộ Lão Nhân liền sanh lòng cảnh tỉnh lớn lao, đấy chính là "thời tiết nhân duyên gặp đúng lúc, trọn chẳng phải là ngẫu nhiên!" Do kính trọng ngài Triệt Ngộ, bèn khen ngợi Quang quá mức khiến người ta thẹn thùng khôn ngằn! Sách An Sĩ [Toàn Thư] đã quyên mộ được hơn ba vạn bốn ngàn bộ, cũng tạm thỏa ý nguyện ngu muội [của Quang]. Tiên sinh Quý Trực hứa sau này sẽ theo đuổi chuyện ấy, thật là công đức không chi lớn hơn, sớm hay muộn cố nhiên chẳng khác gì nhau! Nay tai họa chiến tranh sắp xảy ra, bầu không khí chiến tranh tràn ngập. Cư sĩ Vưu Tích Âm đã đăng tải trong các báo ở Trực Lệ, Phụng Thiên, Bắc Kinh, Tân (Thiên Tân), Lỗ (Sơn Đông), Biện (Khai Phong) cho giới quân nhân biết để họ gởi thư thỉnh An Sĩ Toàn Thư hầu mong tiêu diệt kiếp họa. Trách nhiệm gởi sách đều giao cho những người tại các tỉnh ấy lo liệu chuyện gởi tặng. May là các cư sĩ ở những tỉnh [nhận trách nhiệm] biếu sách lo năm ngàn bộ, tự mình chỉ phải lo hơn một ngàn bộ, hơn bốn ngàn bộ kia để tùy tiện kết duyên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thoạt đầu, Quang muốn gởi cho Đốc Quân, Tỉnh Trưởng các tỉnh mỗi người một trăm bộ. Chỉ mình Tỉnh Trưởng Thiểm Tây là chịu trách nhiệm một ngàn bộ, Đốc Quân tỉnh Chiết Giang năm trăm bộ, Tỉnh Trưởng [tỉnh ấy] một trăm bộ, chẳng gởi nữa thì vẫn có dư sách. Do ông Tích Âm lo cái họa chiến tranh sắp xảy ra nên càng gấp rút, phân tán hết số sách ấy trong giới quân nhân mấy nơi. Hơn nữa, ông Tích Âm có một trăm bộ, Quang có khoảng năm sáu trăm bộ, và ông Lưu một trăm bộ, ông Hoàng hai trăm bộ, và ba bốn người bạn nữa của Quang giữ tổng cộng hơn một ngàn bộ, gộp lại cũng được hơn hai ngàn bộ. Tính dùng hơn sáu ngàn bộ sách ấy làm công cụ tiêu diệt tai họa chiến tranh. Nếu Phật, trời gia bị, chắc sẽ chuyển biến ngấm ngầm. Dẫu như Quang chẳng có đức hạnh khó thể cảm thông thì cũng giảm bớt được sự khốc liệt! Quang thường nói: <I>"Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian dùng để bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh"</I>. Nay nước loạn, dân khốn cùng, tình hình sau này khó thể tưởng tượng được đều là do những người đang cầm quyền chẳng biết nhân quả mà ra! Kế sách trong hiện thời ngoại trừ việc đề xướng cho nhân quả được sáng tỏ thì dẫu là thánh nhân cũng chẳng biết [xoay sở ra] làm sao, huống gì bọn vô tri vô thức chúng ta? Vì thế, đem những lời khuôn phép của tiền nhân để làm hướng dẫn cho tương lai của cõi đời này, tuy chẳng thể khiến cho mọi người đều tuân theo, cũng chẳng đến nỗi không một ai chẳng chịu nương theo. Chỉ có cách này là có thể ngầm giúp cho quốc kế, dân sanh. Đây là chuyện ông Tích Âm và Quang miệt mài cầu viện các bậc quân tử, mong được tán thành, hỗ trợ để cuối cùng có hiệu quả thật sự.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các hạ gương trí treo cao, chẳng tiếc hơi sức khuyên lơn, phát khởi, do công đức ấy sẽ vãng sanh Thượng Phẩm, hầu hạ đức Từ Phụ Di Đà, kề cận Quán Âm, Thế Chí, cùng vào Sa Bà tùy loại hiện thân để độ thoát hết thảy! Quang nói lời này chẳng phải là dối trá, các hạ chỉ nên giữ vững mười sáu chữ của ngài Triệt Ngộ (<I>"thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật"</I>) thì ngàn phần ổn thỏa, vạn phần thích đáng vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Năm xưa, ông Tiền đến núi này, được một phen gặp gỡ. Mùa Xuân năm ngoái Văn Sao in xong, tôi gởi thơ nhờ Trương Vân Lôi tặng cho ông ta một bộ. Sau đấy, nhận được thư của Vân Lôi báo ông ta đã mất rồi, khôn ngăn than thở cảm khái! Mạng người vô thường, phải tính sẵn kế quay về chắc chắn! Ông ta đã phát tâm in tặng Nhất Hạnh Cư Tập<SUP><B>(173)</B></SUP>, chắc là do thiện tâm ấy sẽ vãng sanh Cực Lạc. Nếu không, chủng tử Tịnh nghiệp đã gieo sâu rồi, khi tái sanh chắc chắn sẽ thâm nhập pháp môn này! Các hạ túc căn sâu dầy, có thể đem phú quý, học vấn, tập khí trên toàn thân bỏ hết xuống được, hằng ngày dùng sáu chữ hồng danh Di Đà để làm cảnh buộc tâm, lại dùng Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Phát Bồ Đề Tâm Luận của ngài Thiên Thân v.v... để phấn chấn tinh thần, mở rộng chí nguyện, trong hiện tại đã hiểu tâm đạt gốc, lâm chung mau chóng lên Thượng Phẩm là điều đương nhiên có thể đoán trước được! Vô thỉ luân hồi đến nay chấm dứt. Một đằng do vui, một đằng do sợ nên chẳng tiếc sức hiện thân thuyết pháp để phổ độ hết thảy những kẻ hữu duyên. Bộ An Sĩ Toàn Thư do ông Giang Khiêm đề xướng có thể được lưu truyền rộng khắp cũng là do lòng chân thành tán dương của các hạ cảm vời ra.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Hiện thời, Tăng phần nhiều ngu muội, tầm thường, chẳng thể hoằng dương, xiển phát sự nhiệm mầu của đạo khiến cho hết thảy kẻ gian muốn mượn công để lợi tư, mưu đoạt Tăng sản. Họ đặc biệt mượn cớ mở trường học hòng hủy chùa đuổi tăng, đến nỗi người suốt đời cẩn thận là ông Vương Thiết San<SUP><B>(174)</B></SUP> thuận theo lời cầu thỉnh của họ, thốt lời khen ngợi là [làm như vậy] chẳng hại gì đến pháp, lại hợp tình mọi lẽ, đã cẩn thận suy xét châu đáo, thỏa đáng, thật đáng khâm phục, ra lệnh cho các huyện trong cả tỉnh Giang Tô tuân hành xử lý. Chẳng ngờ ông Thiết San lại lầm lẫn, ngạo ngược đến tột cùng như thế! Nếu thi hành lệnh ấy, chắc chắc các tỉnh sẽ đua nhau bắt chước theo. Đốt cả rặng Côn Luân,<SUP><B>(175)</B></SUP> ngọc lẫn đá đều cháy, có khác gì đời Tam Vũ<SUP><B>(176)</B></SUP> diệt Phật đâu? Nhưng trong đời Tam Vũ, cao nhân như rừng, dẫu gặp cảnh nguy ách tạm thời, rốt cuộc lại phục hưng lớn lao! Nếu nay thực hành theo lệnh ấy thì Phật pháp diệt vong chỉ còn là chuyện thời gian!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cư sĩ túc nguyện rộng sâu, hạnh trong hiện đời thuần dốc, gặp phải chánh sách sai lầm này, dám mong chẳng tiếc hơi sức, nêu cặn kẽ lẽ lợi - hại với Đốc Quân, Tỉnh Trưởng và [chỉ ra] điều lệnh do Đại Tổng Thống đã ban hành năm ngoái. Nếu thủ tiêu được lệnh này thì may mắn chi bằng! Nếu họ không nghe, vẫn mong ông khẩn cầu lệnh sư là tiên sinh Phùng Hao Am<SUP><B>(177)</B></SUP> và tiên sinh Trương Quý Trực cùng ra tay cứu viện ngõ hầu [lệnh ấy] chẳng trở thành sự thật. Quang một là không có môn đình, hai là không quyến thuộc, lại do tuổi xế bóng rất gần, có gì mà phải lo lắng, nhưng vì trong lúc này lòng người chìm đắm đã đến cực điểm, đạo đức, nhân nghĩa xem nhẹ như mảy lông, pháp luật, hình phạt, chánh lệnh trọn chẳng kiêng nể! Nếu có thể xương minh đạo nhân quả luân hồi báo ứng ba đời của đức Như Lai thì dù là kẻ đại gian cực ác cũng chẳng đến nỗi trọn chẳng có một niệm kiêng sợ quả báo đời sau, gột rửa cái tâm khi trước. Quang thường nói: <I>"Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời lắm kẻ có cái nhìn thiển cận, phải biết: Từ địa vị phàm phu cho đến khi thành Phật đều chẳng ra ngoài nhân quả. Nếu hiểu sâu nhân quả thì người bậc thượng liền minh tâm kiến tánh, đoạn Hoặc chứng Chân, kẻ bậc hạ cũng có thể sửa lỗi làm lành, mong thành thánh, thành hiền, có ích lớn lao cho thế đạo nhân tâm! Trong lúc chế độ quân chủ bị phế bỏ, Nho giáo suy vi này, chẳng dùng Phật pháp để giúp cho việc cai trị là đã đánh mất thời cơ, huống hồ lại miệt mài lấy chuyện hủy chùa đuổi Tăng làm nhiệm vụ cấp bách? Họ bèn nói: "Tăng đều tầm thường, ngu muội, hoàn toàn vô ích cho nước, cho dân", nào biết một khi lệnh ấy được thi hành, dù có vị Tăng chân tu thực sự tu tập cũng sẽ bị xếp vào loại đáng xua đuổi. Ấy là muốn giữ gìn mạng mạch của quốc gia, nhưng lại đoạn mạng căn trước! Cái tội của Vương Thiết San ngập tràn hư không mười phương. Kẻ do lệnh của Thiết San mà làm chuyện này thì tội cũng chẳng khác gì Thiết San! Một kẻ đui dẫn lũ mù kéo nhau vào hầm lửa, chính là nói về Thiết San đấy!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, an ủi. Lời các hạ nói hoàn toàn phù hợp lời của ông Ấu Nông. Nghe nói đã phái hòa thượng Diệu Liên liên lạc các vị Tăng thủ lãnh các nơi để bẩm báo, trình bày. Nói lý hãy nên thấu triệt, giọng điệu đừng nóng nảy, kích động, quả thật là lời bàn định chí lý! Quang cũng đã trình bày đại lược ý này với ngài Diệu Liên. Phàm mọi chuyện đều nên ngăn ngừa thói tệ lưu hành trước khi nó được tiến hành. Các hạ nói mượn chùa làm trường học thì mỗi năm phải trả tiền thuê, cách ấy rất hay, nhưng chẳng biết cái tệ sẽ vô cùng! Đầu đời Nguyên, đạo sĩ ở nhờ chùa Tăng, phong trào ấy đã dấy lên thì gần như không sao cấm đoán được (vùng phụ cận kinh thành, đạo sĩ chiếm hơn ba trăm ngôi chùa, những nơi xa càng nhiều nữa). Về sau, do Tăng tâu lên phản bác, [Thanh] Thế Tổ (Thuận Trị) hạ lệnh bắt trả lại, chỉ trả được một nửa, nhưng sản nghiệp phần nhiều đã bị họ trộm sẵn mất rồi! Có thể lấy đó làm gương!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói chung, kẻ làm chuyện ấy, trước hết đã sẵn lòng mưu mô chiếm đoạt tài sản của Tăng, kết bè kéo đảng những kẻ đồng lòng để đánh phá người khác ý kiến, do muốn được lợi riêng nên thế lực mạnh mẽ khôn ngăn! Chữ Mượn và chữ Đổi, tuy danh khác nhưng quả thật là cùng nghĩa! Các hạ là bậc quân tử đức dầy, chưa xét kỹ người đời nay ngụy kế đa đoan. Nhưng pháp đạo hưng thịnh hay suy vong cố nhiên có số vận nhất định, đương nhiên Quang và các hạ phải tận hết phận sự của con người trước, rồi sau hãy nghe theo mạng trời!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Nhận được thư khôn ngăn cảm kích. Nếu thi hành chuyện ấy ắt pháp đạo bị diệt mau chóng. Nếu không do các hạ, Trúc Trang, Ấu Nông v.v... dốc hết sức chống đỡ sẽ không thể nào tưởng tượng được! Bọn Viên - Đường<SUP><B>(178)</B></SUP> chắc là bè lũ muốn diệt Phật pháp xưa kia, nhưng do cao nhân như rừng, không cách gì ra tay tàn độc hòng thỏa ác nguyện, do nguyện lực xưa kia nên mới có cử chỉ ấy. Nhưng Phật trí soi xét thời cơ, biết có kẻ muốn diệt Phật pháp, nên bèn sắp đặt sẵn khiến cho những vị phá hoại ma lực kia sanh nhằm thời này. Chẳng những pháp đạo không bị ngăn trở, lấn át, mà có thể còn chuyển được tâm ma của chúng, bèn tin tưởng hướng theo Phật pháp, hòng chúng tự biết Phật Tánh sẵn có, do vì trái trần hiệp giác khiến cho chính mình bị tổn hại. Nay đã biết rồi thì trái trần hiệp giác, chuyển lòng mong muốn tự hại trước kia thành tự vệ thì ở mức độ nông cạn sẽ là đổi ác tu lành, gieo phước nhân thiên, còn ở mức độ sâu xa thì sẽ đoạn Hoặc chứng Chân, đích thân đạt được quả Niết Bàn. Như câu nói: <I>"Phật pháp như Chiên Đàn hương, hoặc phụng trì, hoặc tiễn đạp, giai đắc hương khí sở huân, nhi đồng nhất khí vị dã"</I> (Phật pháp như hương Chiên Đàn, dù nâng niu hay giày xéo đều được mùi thơm ướp đượm, có cùng một khí vị). Quang nguyện khi ba vị thành Phật, sẽ đích thân làm hàng đệ tử hộ pháp phụ chánh tồi tà<SUP><B>(179)</B></SUP> [cho ba vị] hòng báo đáp ân đức ngày nay. Ngay khi họ Viên, họ Đường thành Phật, [Quang cũng nguyện] giống như thế ngõ hầu toàn bộ ma giới biến thành Phật giới, cùng chứng Chân Như Pháp Tánh, cùng trọn vẹn Chủng Trí mới thôi!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Hôm qua nhận được thư của ngài Diệu Liên và lời phê của Tỉnh Trưởng, biết chuyện ấy bị tiêu diệt triệt để, cảm động, hổ thẹn khôn sánh. Trộm nghĩ chuyện này nếu không có các hạ và ông Trang (Tư Giam), Tưởng (Trúc Trang), Vương (Ấu Nông) ba vị dốc hết sức duy trì, sợ rằng chẳng triệt tiêu được! Hôm qua đã gởi thư cho Trang cư sĩ, gởi kèm theo lời phê, mong giao cho Bộ Trưởng Nội Vụ lưu hành. Sau này, nơi khác có sự tình như vậy trình lên bộ thì mong hãy căn cứ vào Điều Lệ Quản Lý Chùa Miếu để bác đi, không chấp thuận, ngõ hầu chẳng đến nỗi nếu không có người chống đối sẽ trở thành sự thật! Dẫu có người chống đối nhưng do vậy cũng phải uổng phí tâm lực. Pháp vận thông suốt hay bế tắc chắc chắn đã có số vận nhất định, nhưng chư Phật, Bồ Tát đã sớm biết sẵn. Vì thế, khiến cho các vị ở đúng vào địa phương này, gặp đúng dịp này dốc sức duy trì, ngõ hầu ngọn lửa đốt đồng liền bị dập tắt ngấm! Nguy hiểm cùng cực, may mắn cùng cực!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) Vụ án của hội Giáo Dục đã giải quyết xong trọn vẹn toàn là nhờ các hạ, và Trúc Trang, Ấu Nông ba vị ra sức xoay chuyển khiến cho Tỉnh Trưởng và bộ Nội Vụ đều tuân theo Điều Lệ Quản Lý Chùa Miếu để thực hiện sự bảo vệ. Lời phê của Tỉnh Trưởng đã xét đến cả hai mặt, trọn chẳng tổn thương đến phương diện tình cảm của hội Giáo Dục lại còn tận lực lập cách ngăn ngừa, đề phòng để họ khỏi vượt luật được! Có thể nói dốc trọn thâm tâm hộ pháp khiến cho người khác cảm kích, bội phục vô ngằn!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) Các hạ đặt tên chùa là Pháp Vân, dụng ý rất sâu. Trộm nghĩ Pháp Vân Tự đã trở thành đạo tràng từ thiện bậc nhất của Giang Nam, hãy nên hành riêng một pháp chẳng giống với các nơi. Một là chẳng thế độ, hai là chẳng truyền pháp<SUP><B>(180)</B></SUP>. Tất cả trụ trì chỉ chọn lấy người hiền, chẳng cần biết là Lâm Tế, Tào Động, Thiên Thai, hay Hiền Thủ! Chỉ cần dốc lòng tin tưởng pháp môn Tịnh Độ, ngôn hạnh tương ứng là được rồi! Trụ Trì luận theo số thứ tự, chứ không tính theo thế hệ<SUP><B>(181)</B></SUP>. Ấy chính là đạo tràng đại công vô tư, chứ không như những nơi truyền cho [đệ tử] thế độ, truyền cho pháp đồ, dính vào phạm vi chuyên trọng riêng tư vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) Tiên sinh Trần Kiếm Đàm tin nhân quả, tính muốn nêu rõ [nhân quả], nhưng lại không chịu niệm Phật, ấy chính là tập khí của văn nhân! Thuở trước, tổ Huệ Viễn do thấy Đào Uyên Minh<SUP><B>(182)</B></SUP> bụng dạ trống rỗng, khoảng khoát, có thể học đạo, liền mời dự vào Liên Xã. Nhưng ông ta lấy rượu làm tánh mạng, biết Phật môn cấm rượu, chẳng dám nhận lời mời, nên nói: "Cho tôi uống rượu thì tôi đến". Tổ Huệ Viễn tâm đại từ bi bèn chấp nhận. Ông ta đến niệm Phật được ba ngày, cau mày bỏ đi, do chỉ có thể buông xuống, chẳng thể đề khởi. Như bọn ông Kỷ Văn Đạt, Viên Tử Tài<SUP><B>(183)</B></SUP> đều cùng một bệnh. Họ Kỷ, họ Viên khá tin tưởng nhân quả, thường hay ghi chép sự thật cảm ứng trong Phật pháp, nhưng đều chưa từng lắng lòng nghiên cứu, nên những lời luận định phần nhiều đều là bàn về chuyện thực hành bề ngoài. Ông Viên thoạt đầu báng Phật, về sau lại tin Phật, tuy tin nhưng chẳng thể nghiên cứu, tu trì, đó gọi là "thông minh văn tự chướng". Ông Trần sẽ có ngày thiện căn phát hiện, chưa chắc đã suốt đời như thế.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay đã có lá thư gởi cho cư sĩ Cố Hiển Vi hồi năm ngoái (đã chép trong Văn Sao Chánh Biên, quyển hai), tòa soạn báo Chi Giang in ra, đem gởi đến, xin hãy xem để làm trò cười. [Sở dĩ có] lá thư ấy là vì bạn ông Cố là Phan Thừa Ngạc (hai vị đều là người Tô Châu, ông Cố là Tây Tân<SUP><B>(184)</B></SUP> của ông Hoàng Đạo Doãn ở Ninh Ba, quy y với pháp sư Đế Nhàn), rất thân với ông Cố; ông Cố khuyên ông Phan niệm Phật, ông ta viết thư vặn ngược lại, bảo rằng chẳng thể sanh lòng tin, càng thêm ngờ vực! Ông Cố gởi thư ấy cho Quang, xin Quang hãy đả phá. Quang đem thư gởi lại, bảo đừng giao thư [cho ông Phan xem].
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông Cố liền gởi thư [cho ông Phan]: <I>"Lời em chẳng thể khiến cho anh tin được, chẳng thể đoạn lòng nghi của anh; do vậy, đã xin được thư của vị pháp sư X... Thư ấy đã gởi tới, nhưng lời lẽ [trong thư] chẳng khiêm tốn mảy may, nói thẳng tuột không úp mở, chẳng hề kiêng kỵ, sợ sẽ gây đụng chạm, nên chẳng dám gởi"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông ta nói: "Bệnh tôi đã sâu, chẳng phải là thuốc hung bạo như cọp sói sẽ chẳng trị được. Càng chẳng kiêng dè càng hay, hãy gởi gấp đi". Ông Cố liền gởi đi, tâm ông Phan bội phục, bèn quy y với pháp sư Đế Nhàn, nhưng sợ Quang ăn nói thẳng thừng nên trọn chẳng dám gởi thư thăm hỏi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chuyện ông Trần nhập đạo hãy để từ từ chớ gấp. Ví như nhuộm vải, vải càng dày chắc, nhất định khó bén màu. Nếu bỏ trong vò thuốc nhuộm hơn mười ngày, dẫu chẳng muốn thành màu xanh đậm cũng không thể được!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) Văn của Quản Đông Minh<SUP><B>(185)</B></SUP> quả thật là thuốc để trị đúng căn bệnh cho đời hiện tại. Người đọc bài văn ấy sẽ mửa ra chất độc bác nhân quả của bọn Trình - Châu, mà cũng có thể làm chứng cớ cho Ấn Quang đề xướng nhân quả. Cách nói của Trình - Châu là chỉ mong cho cao, chẳng tính đến lợi - hại. Chẳng hạn như làm lành thì coi chuyện "không làm gì mà làm" chính là làm lành, hễ có làm gì để làm lành thì chính là ác! Nếu "không làm gì mà làm" là thiện thì đấy chính là thân phận của bậc đại thánh nhân. Nếu không phải là thánh nhân, chỉ giữ lấy "không làm gì", còn "những gì có làm" sẽ đều chẳng chịu làm! Như vậy là đã mâu thuẫn với tông chỉ <I>"tự cường bất tức, triêu càn tịch dịch"</I><SUP><B>(186)</B></SUP> vậy! Chịu hiểu rõ lời ông Quản rồi phá vòng vây hãm<SUP><B>(187)</B></SUP> thì quân tử lẫn tiểu nhân đều được lợi ích lớn lao. Nếu các hạ không chép ra lời chân thật cứu đời ấy thì trong Phật pháp nhiều kẻ chẳng tin, trong đạo Nho nhiều kẻ chẳng suy xét, tiền đồ sẽ nguy hiểm. Vì thế, Quang đặc biệt chép thành phần phụ lục của Văn Sao để lợi chung cho người hữu duyên.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) Hôm qua nhận được thư, khôn ngăn kinh dị! Ông Phương Tuấn Sanh có thể gọi là người đã bỏ được điều khó bỏ, tuy nhiên, vẫn cần phải tính toán cho cuộc sống sau này của ông ta. Xin các hạ hãy mời ông ta đến Quán Âm Am, cùng các ngài Diệu Liên, Tâm Tịnh v.v... hỏi cặn kẽ xem ông ta còn bao nhiêu ruộng đất. Nếu [tất cả số ruộng đất còn lại ấy] có thể nuôi sống gia đình thì số ruộng nương do ông ta đã phát tâm cúng cho chùa Pháp Vân sẽ dùng để làm công đức cho ông ta. Nếu tất cả số ruộng [còn lại] ấy chẳng đủ để nuôi sống [gia đình] thì hãy nên coi số ruộng [đã cúng cho nhà chùa ấy] như ruộng cho chùa Pháp Vân thuê để cấy rẽ, mỗi năm trích ra tiền huê lợi ra bao nhiêu đó [cho nhà chùa], mặc lòng Pháp Vân trồng trúc, gỗ, ngũ cốc, hay rau dưa, coi như là cơ sở sản xuất của Viện Mồ Côi. Như vậy thì đôi bên mới đều trọn hết đạo, đôi bên đều được lợi ích. Nếu ông ta do bỏ ra những ruộng ấy mà không đủ sống thì quả thật trong tâm chúng ta hết sức chẳng thoải mái, vui sướng cho lắm!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy khế ước [chủ quyền những thửa ruộng] ấy đã giao, phải nên thương nghị như vậy thì mới chẳng phụ họ Phương một phen thực hiện nghĩa cử tốt lành. Nếu ngoài số ruộng ấy, ông ta vẫn còn có đủ ruộng để chi dụng thì sẽ trở thành vị đại công đức chủ bậc nhất của chùa Pháp Vân. Cần phải thỉnh đôi ba vị có đức hạnh trọng vọng đến chứng minh. Người ta đã lo lắng cho mình sâu đậm, thiết tha, mình cũng chẳng thể không lo sâu đậm, thiết tha cho người ta!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(13) Những chuyện báo ứng của việc sát sanh đã sao lục quả thật có thể khiến cho kẻ hiếu sát nguội lạnh cõi lòng, nhưng các tướng lãnh, sứ quân hiện thời chưa chắc đã chịu đọc! Nếu dự tính dành cho mai sau và những chỗ hiếu sanh, ghét giết chóc thì dường như lại quá hạn cuộc, bởi những chuyện ấy chuyên để nói với những hạng tướng lãnh, sứ quân, có lẽ hạng dân đen sẽ cho là chuyện chẳng liên quan gì tới chính mình. Hơn nữa, hàng tướng lãnh, sứ quân bạo tàn chắc sẽ nghĩ ta châm chích họ bèn căm ghét. Theo như ngu kiến của Quang, có lẽ nên dùng cuốn Nhị Thập Nhị Sử Cảm Ứng Lục của ông Bành Lan Đài<SUP><B>(188)</B></SUP>, in dưới dạng chữ nhỏ rút gọn, lại thêm vào mấy bài văn đau lòng rơi lệ để lưu truyền khắp công lẫn tư thì lợi ích lớn lắm. Mấy đầu sách của ông Đinh Phước Bảo những loại nào có thể đưa vào phần Phụ Lục hãy nên in kèm vào đó thì quan chức, sứ quân, kẻ sĩ, dân chúng đều biết được những tấm gương tốt lành, mà không bị khuyết điểm bài xích rõ rệt kẻ đương quyền, ngầm khuất phục được cuồng tâm của con cái [của họ].
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những kẻ đang nắm đại quyền phần lớn đều là do lúc nhỏ chưa nghe thấy những chuyện nhân quả báo ứng, nên trong tâm họ chỉ biết có chính mình, chẳng biết có người khác, chỉ cầu lợi ích cho chính mình, chẳng sợ hại người. Nếu như họ từ lúc bé đã biết hại người còn tệ hại hơn hại chính mình, vì người khác rốt cục sẽ quy về chính mình, chắc chắn họ chẳng chịu do những chuyện nhỏ nhặt như ý kiến [khác biệt], danh lợi v.v.. mà làm cho vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Ý của Quang là như thế đó, mong các hạ hãy châm chước. Cũng có thể ấn hành trước ba mươi bảy điều này để cứu vãn cái họa cháy mày. Để sau này đợi khi yên ổn rồi sẽ lại in Nhị Thập Nhị Sử Cảm Ứng Lục để làm sách khiến cho mọi người đều được lợi ích, khuyên khắp đồng nhân vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(14) Nếu chịu bổ sung, biên tập tường tận bộ Nhị Thập Nhị Sử Cảm Ứng Lục tạo thành một bộ toàn thư thì thật là may mắn cho quốc gia, nhân dân. Trước kia, ông Đinh Phước Bảo nói ở chỗ ông ta có sáu bảy loại Nhị Thập Nhị Sử Cảm Ứng Lục, hãy nên mượn về, phàm những chuyện không có trong cuốn sách này, đều nên sao lục bổ sung vào. Lại nữa, phần cuối cuốn Dục Hải Hồi Cuồng của bộ An Sĩ Toàn Thư có chép chuyện người biến thành súc vật và chuyện người sanh lên trời, trời trở thành người trích từ Nhị Thập Nhị Sử, cũng nên ghi vào thì những kẻ tri kiến hẹp hòi, câu nệ xem thấy ắt sẽ giật mình một phen, còn kẻ tin sâu nhân quả sẽ nhờ đây mà siêu thoát, bước thẳng vào Như Lai địa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khổng Tử soạn kinh Xuân Thu để khen - chê hòng khiến cho loạn thần, tặc tử sợ hãi. Nhưng loạn thần, tặc tử thật ra đâu có sợ lời khen chê, bởi chỉ là một lời gán cho cái danh xuông, rốt cuộc ta đâu có bị tổn thương gì? Nếu đem những chuyện nhân quả cảm ứng và sự tích người và súc vật chuyển biến lẫn nhau trong Nhị Thập Nhị Sử mỗi chuyện đều sao chép ra, kèm theo lời luận định thì kẻ sẵn tánh chất làm loạn, làm giặc xem thấy, há chẳng sợ hãi dựng cả lông tóc, buốt thấu cả xương, rồi từ đấy, xoay chuyển ý niệm mưu tính cho phước báo về sau ư? Như vậy thì chuyện các hạ tiếp nối tâm pháp khen - chê của Khổng Tử để giáo hóa thiên hạ hậu thế, có ai bảo là không đúng?
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(15) Trong niên hiệu Đồng Trị - Quang Tự, pháp sư Ngọc Phong hoằng dương Tịnh Độ, chẳng tiếc sức thừa, nhưng Ngài thường hay nói những lời cố chấp, ương bướng, khiến cho người đọc phải đau lòng. Trước kia, ông Tâm Bạch biên tập những câu nói trong Tịnh Tông (tức sách Tịnh Độ Lương Đạo) cũng có tuyển những lời của pháp sư, Quang hoàn toàn gạt bỏ [những câu ấy] đi, vì sợ người ta cho pháp sư Ngọc Phong là tay cự phách trong Tịnh Tông thì di hại chẳng nhỏ. Trong Văn Sao, nơi lá thư tính phúc đáp cho vị cư sĩ X..., người gởi thư dẫn lời của bốn vị Linh Phong, Thành Thời, Triệt Ngộ, Ngọc Phong, nhưng trong lời đáp, tôi chẳng đề cao Ngọc Phong mà cũng chẳng chê trách, cũng là vì ý này. Trong lúc Mạt Pháp này, muốn cực lực đề xướng Tịnh Độ thì hãy nên tỏ rõ tường tận về sự lớn - nhỏ, khó - dễ giữa Phật lực và tự lực, cũng như nêu rõ nguyên do "thích hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi độn" ngõ hầu chẳng đến nỗi toan khuyên người mà lại đâm ra làm cho người ta sanh hủy báng. Tiên sinh Cốc Nhân chuyên căn cứ theo Sự để hoằng dương, nhưng thường vướng khuyết điểm coi Sự là Lý, như giảng [câu kinh Vô Lượng Thọ] <I>"lưu kinh lại một trăm năm"</I> là người ta thọ một trăm tuổi, ấy là chỉ cho chúng sanh giới tận, kinh này mới diệt! [Giảng như vậy] tợ hồ cao thâm, nhưng thật ra làm cho người khác bị lầm lạc. Đấy gọi là "sự - lý rối loạn", chẳng những không thể phát khởi cái tâm "Phật pháp khó gặp gỡ" cho người ta, mà rất có thể còn dập tắt cái tâm dũng mãnh tinh tấn của người khác. Nếu muốn lợi người thì có thể nói sách Di Đà Yếu Giải mỗi một chữ là một hạt châu!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(16) Gần đây cả nước như cuồng, bàn luận chuyện ly kỳ. May là các cư sĩ ở Thượng Hải nhiệt tâm hộ pháp tái lập duy trì. Chuyện ở Pháp Vân tôi đã biết đại khái, nhưng do thời cuộc bức bách, rốt cuộc chẳng biết kết quả ra sao? Hiện thời các cư sĩ, sa-môn, bàn bạc chỉ định mười bốn người lên Ninh Ba thỉnh nguyện. Do Hội Giáo Dục đề nghị "chú trọng phế bỏ tài sản của chùa miếu để mở trường học", sợ rằng mọi người đều muốn phát tài, chẳng chịu thỏa hiệp thì Phật pháp toàn quốc ắt sẽ bị tiêu diệt! Nếu pháp đạo chẳng đáng bị diệt ngay, ắt sẽ có Phật, Bồ Tát hiển hiện oai linh lớn lao để có thể duy trì mạng mạch nhà Phật. Nếu không, đối với Ngũ Luân của Khổng Tử họ còn chịu hoàn toàn gạt bỏ, huống chi là Phật giáo đồ hoàn toàn không có thế lực, há có thể chống đỡ chẳng bị diệt vong ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(Xét đến vụ án phế bỏ tài sản của chùa miếu để mở trường học là do Thai Sảng Thu thuộc giới giáo dục huyện Đan Đồ tỉnh Giang Tô đề nghị vào năm Dân Quốc 17 (1928) chuyện này đã do vì [tăng chúng, cư sĩ] thỉnh nguyện nên bị thủ tiêu. Năm Dân Quốc 27 (1938), người sao lục ghi chú).</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(172) Ông Ngụy Mai Tôn (1862-1933), tên thật là Gia Hoa, tự là Mai Tôn, hiệu Trinh Sĩ, người xứ Giang Ninh, đỗ Tiến Sĩ thời Quang Tự, từng làm quan đến chức Hàn Lâm Biên Tu, rồi Tri Phủ Đông Xương tỉnh Sơn Đông, quan tước đến Tam Phẩm, rất nhiệt thành hộ vệ Phật pháp và làm chuyện từ thiện như mở viện mồ côi tại chùa Pháp Vân trên sông Tam Xoa, lập ao phóng sanh... Ông này được Tổ nhắc đến rất nhiều lần trong Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên. Trong lần khai thị tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai ở Thượng Hải, Tổ có nhắc đến chuyện ông Ngụy Mai Tôn hỏi Tổ xin dạy cách đoạn trừ thói quen ăn thịt, Tổ khuyên nên đọc kỹ bài văn khuyên kiêng giết phóng sanh trong Văn Sao (tức bài Sớ Quyên Mộ Tu Bổ Ao Phóng Sanh ở Nam Tầm).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(173) Nhất Hạnh Cư Tập: Tác phẩm của Bành Thiệu Thăng, nội dung bao gồm những nhận định, văn chương nhằm phát huy yếu chỉ Tịnh Độ Tông rất tinh diệu của ông Bành. Năm Càn Long 50 (1785), ông Bành ngụ tại Văn Tinh Các ở Tô Châu, tu Nhất Hạnh tam-muội, chuyên tâm niệm một đức Phật, do vậy gọi chỗ mình ở là Nhất Hạnh Cư. Vì thế, tổng tập những trước tác có liên quan đến Phật giáo của ông được đặt tên là Nhất Hạnh Cư Tập.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(174) Vương Thiết San là tỉnh trưởng tỉnh Giang Tô thời ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(175) Côn Luân là một rặng núi lớn ở phía Tây Trung Quốc, dài đến 2.500 km, chạy từ cao nguyên Pamir đến tận tỉnh Thanh Hải. Núi vừa cao vừa rộng, nên được người Trung Hoa thần thánh hóa, coi như là chỗ thần tiên ở, vương cung của Tây Vương Mẫu (bà chúa tiên) nằm trên ngọn núi này. Tương truyền, trên núi có rất nhiều ngọc quý ẩn ngầm trong đá.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(176) "Tam Vũ diệt Phật" là ba lần chánh quyền hủy diệt Phật giáo trong lịch sử Trung Hoa do Bắc Ngụy Thái Vũ Đế (408-452), Châu Vũ Đế (543-578) và Đường Vũ Tông (840-846) chủ trương. Về sau này lại còn Châu Thế Tông (921-959) nhà Hậu Châu hủy diệt Phật pháp một lần nữa nên sử thường gọi là <I>"Tam Vũ Nhất Thế chi họa"</I>. Nghe lời Tư Đồ Thôi Hạo và đại sĩ Khấu Khiêm Chi, Ngụy Thái Vũ Đế đàn áp Phật giáo. Năm Thái Bình Chân Quân thứ bảy (446), vua hạ lệnh xử tử các sa-môn ở Trường An, phá hoại hết thảy kinh tượng. Không lâu sau vua bệnh chết, con là Văn Thành Đế lại phục hưng Phật giáo. Châu Vũ Đế nhà Bắc Châu tin lời sàm tấu của các đạo sĩ Trương Tân và Vệ Nguyên Tung, có ý phế Phật. Lúc ấy các vị Chân Loan, Đạo An, Tăng Miễn ra sức biện hộ nên chưa phế bỏ. Đến năm Kiến Đức thứ hai (573), vua hạ lệnh phế bỏ cả Đạo giáo lẫn Phật giáo, hủy hoại kinh tượng, buộc tăng sĩ, đạo sĩ hoàn tục, chỉ giữ lại hai trăm đạo sĩ có danh tiếng ở Trường An. Năm Kiến Đức thứ sáu (577) vua băng, Phật giáo mới lại phục hưng. Thời Đường Vũ Tông, bọn Tể Tướng Lý Đức Dụ v.v... chủ trương bài Phật. Nghe lời sàm tấu của bọn chúng, cũng như do tham lam, muốn chiếm đoạt Tăng sản, năm Hội Xương thứ năm (845), vua hạ chiếu chỉ giữ lại bao nhiêu đó chùa và chừng ba trăm Tăng, còn lại đều hủy bỏ, buộc Tăng ni hoàn tục, đem tượng Phật, chuông, khánh đúc thành tiền đồng, nông cụ… Sử gọi là Hội Xương Pháp Nạn. Năm sau, vua chết, Tuyên Tông lại phục hưng Phật giáo. Trong số những ông vua bạo ác này, Châu Thế Tông (Sài Vinh) nhà Hậu Châu là hung hăng nhất. Năm Hiển Đức thứ hai (955), vua thực hành chánh sách bài Phật để có tiền trang trải chiến tranh. Vua hạ chiếu phế bỏ tất cả tự viện (sử ghi là ba vạn ba trăm ba mươi sáu ngôi chùa), hủy hoại tượng Phật, tịch thâu chuông, khánh, bạt, linh để đúc tiền, sung công toàn bộ điền sản của nhà chùa. Lúc ấy, ở Trấn Châu có tượng Quán Âm bằng đồng rất linh thiêng, nên tuy chiếu chỉ ban xuống, không ai dám phá hủy. Vua nghe vậy, đích thân đến chùa, cầm búa đập vào ngực tượng Phật, mặc cho người xem run sợ. Năm Hiển Đức thứ sáu (959), vua lên miền Bắc đánh nhau, tự nhiên ngực mọc ra mụn nhọt độc rất to, đau đớn không chịu nổi, mất trên đường hành quân. Triệu Khuông Dẫn thừa cơ chiếm binh quyền lập ra nhà Tống, nhà Hậu Châu diệt vong.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(177) Phùng Hú (1843-1927), tự là Mộng Hoa, hiệu Hao Am, về già thường xưng là Hao Tẩu, hay Hao Ẩn, người huyện Kim Đàn, tỉnh Giang Tây, đỗ Tiến Sĩ năm 1886, làm quan đến chức Án Sát Sứ tỉnh Tứ Xuyên và Tuần Phủ tỉnh An Huy. Sau Cách Mạng Tân Hợi (1911), ông về sống tại Thượng Hải, chuyên tâm về văn chương, tham dự biên soạn bộ Giang Nam Thông Chí, trước tác nổi tiếng nhất là bộ Mông Hương Thất Từ. Do có danh phận và đạo đức, ông rất được những người có chức quyền tỉnh Giang Tô thời ấy coi trọng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(178) Viên ở đây là Viên Thế Khải, Đường là Đường Thiệu Nghi. Họ Viên từng làm Tổng Lý Nội Các Đại Thần của nhà Thanh. Về sau, khi nhà Thanh bị lật đổ, nhờ mưu mẹo, ông ta nắm giữ quyền lực lớn, trở thành Đại Tổng Thống, rồi sau đó, tự xưng là hoàng đế, lấy niên hiệu là Hồng Hiến. Họ Đường là bạn thân của họ Viên, từng giữ chức Quốc Vụ Tổng Lý (gần như Thủ Tướng). Do ông ta được đào tạo từ trường đại học Tin Lành của Mỹ nên mang tư tưởng bài xích Phật giáo rất mạnh, còn họ Viên thì sẵn lòng gian manh, giảo hoạt, muốn thừa cơ chiếm đoạt tài sản của Phật giáo để thực hiện những mưu đồ đánh gục đối thủ chính trị, rốt cục, ông ta vẫn bị lật đổ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(179) Phụ chánh tồi tà: Giúp cho điều chánh, đập tan điều tà.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(180) Thế Độ: Thế là cạo tóc, xuống tóc. Thế Độ tức là thâu nhận đệ tử xin xuống tóc, xuất gia làm tăng. Truyền pháp ở đây có nghĩa là thâu nhận môn đệ xuất gia tạo thành pháp phái, môn đình riêng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(181) Ý nói: Chọn người có tuổi hạ (Tăng lạp) cao, đạo cao đức trọng làm Trụ Trì chứ không truyền theo thế hệ truyền thừa. Chẳng hạn, khi một vị Trụ Trì đã mất hoặc xin thoái hưu, sẽ chọn trong số những vị có tăng lạp cao, có đức hạnh làm vị Trụ Trì kế tiếp, chứ không chọn trong số những vị xuất gia tuổi tuy còn trẻ, nhưng do là đệ tử của sư phụ những vị trưởng lão trong chùa nên thuộc thế hệ trên, đứng vào hàng sư thúc, sư bá của những vị tôn túc lớn tuổi ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(182) Đào Uyên Minh (365-427), tên thật là Đào Tiềm, Uyên Minh là tên tự. Có thuyết lại nói ông ta vốn tên thật là Uyên Minh, tên tự là Nguyên Lượng, sau sang đất Tống bèn đổi tên thành Đào Tiềm. Từ đời Đường, do kỵ húy Đường Cao Tổ (Lý Uyên, cha Đường Thái Tông) nên Đào Uyên Minh thường bị viết trại thành Đào Thâm Minh hoặc Đào Tuyền Minh. Ông Đào tự xưng hiệu là Ngũ Liễu Tiên Sinh, vốn là người xứ Tầm Dương (nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây) là một nhà văn học lỗi lạc thời Tấn, có rất nhiều bài thơ được truyền tụng trong đời.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(183) Kỷ Văn Đạt (1724-1805), tên thật là Kỷ Quân, tự Hiểu Lam, thụy hiệu là Văn Đạt, người huyện Hiến, tỉnh Hà Bắc, rất thông minh, văn tài lỗi lạc, làm quan đến chức Lễ Bộ Thượng Thư Hiệp Biện Đại Học Sĩ thời Càn Long, rất được vua hâm mộ. Ông chính là người làm công tác Tổng Toản Tu (tổng biên tập) bộ Tứ Khố Toàn Thư Hội Yếu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Viên Tử Tài (1716-1797), tên thật là Viên Mai, hiệu Tử Tài, bút hiệu Tùy Viên Lão Nhân, người Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Từng ra làm quan, nhưng do tính tình phóng khoáng bèn từ quan, trở về sống trong núi Tiểu Thương thuộc Nam Kinh, lập ra vườn cảnh, đặt tên là Tùy Viên để xướng họa, ăn nhậu, trước tác và nghiên cứu ẩm thực. Ông làm thơ rất hay, văn chương rất ưu nhã. Ông lại soạn riêng một cuốn sách ghi chép những món ăn ngon và cách nấu nướng chúng đặt tên là Tùy Viên Thực Đơn. Cuốn sách này cho đến tận giờ vẫn được coi là một trong những tác phẩm nổi tiếng về nghệ thuật ẩm thực cổ Trung Quốc. Thậm chí, người Nhật còn cho dịch ra Nhật ngữ và tái bản nhiều lần. Cũng giống như Kỷ Hiểu Lam, họ Viên rất thông hiểu và hâm mộ đạo Phật, nhưng do quen thói phóng túng, thích ngâm vịnh, ăn uống, xướng họa, thù tạc nên rốt cuộc cả hai ông đều không thể nào tu tập được
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(184) Tây Tân (vị khách ngồi ở phía Tây), còn gọi là Tây Tịch, chính là tên gọi khác của vị giáo sư trong gia đình. Theo Lễ Ký, trong thời cổ, khi tiếp khách, chủ nhà ngồi ở phía Đông, khách ngồi ở phía Tây. Để tỏ lòng trọng vọng thầy có công dạy dỗ cho con em mình, gia chủ thường dùng lễ đãi thầy như khách quý viếng thăm nên từ đó chữ Tây Tân hay Tây Tịch được dùng để chỉ vị giáo sư của gia đình.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(185) Quản Đông Minh (1537-1608), tên thật là Chí Đạo, tự Đăng Chi, người huyện Đại Thương, tỉnh Giang Tô, là một cư sĩ hữu danh cuối đời Minh, thâm hiểu sâu xa đạo Phật. Ông từng được Hám Sơn Đại Sư khen ngợi qua lá thư gởi cho Ngô Vận Sứ trong cuốn Mộng Du Tập. Ông viết nhiều về Phật giáo, thường khéo léo dẫn dụng những tư tưởng của Nho Gia để chứng minh Nho Học chỉ ngang với nhân thiên thừa trong Phật giáo, hướng dẫn giới Nho Sĩ hướng về Phật giáo. Bài văn được nói đến ở đây chính là Đa Tích Âm Đức (tích lũy nhiều âm đức).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(186) <I>"Tự cường bất tức"</I> là một thành ngữ, dựa theo câu giải thích về tánh chất của quẻ Càn trích từ kinh Dịch: <I>"Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức"</I>. Hán Điển Thành Ngữ giảng: <I>"Trời vận hành tự nhiên, có sức mạnh mẽ, quân tử phải nên bắt chước theo đạo trời, không ngừng cầu tiến, chẳng lười nhác trong bất cứ thời khắc nào"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>"Triêu càn tịch dịch"</I> cũng là một câu giải thích về tánh chất của quẻ Càn trích từ kinh Dịch: <I>"Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược lệ, vô cữu"</I>. Sách Hán Điển Thành Ngữ giảng: <I>"Càn càn là không ngừng gắng sức. Tịch dịch nhược lệ là trời đã tối rồi, người quân tử vẫn ôm lòng đau đáu kiêng dè, kinh sợ như luôn bận tâm vì còn có chuyện gì chưa xong. Cả câu có ý nói: Người quân tử luôn gắng sức hướng thượng, tâm luôn chú ý cẩn thận, tận lực tu tâm dưỡng tánh thì mới không phạm lầm lỗi"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(187) Nho gia tin tưởng mù quáng vào lời dạy của Trình - Châu phỉ báng Phật giáo, tuy chưa hề đọc kinh Phật, nên Tổ ví họ giống như bị Trình - Châu nhốt chặt, không cho thoát ra ngoài nhìn trời cao đất rộng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(188) Bành Lan Đài tên thật là Hy Tốc, Lan Đài là hiệu. Ông là cháu của Bành Thiệu Thăng, gọi Bành Thiệu Thăng bằng chú, cũng quê ở Tô Châu, thích ăn chay từ nhỏ, đến tuổi thiếu niên bèn ăn chay trường suốt năm năm. Về sau do bệnh nặng, y sĩ buộc ăn thịt. Do bệnh vẫn không thuyên giảm, ông bèn phát tâm nghiên cứu Phật pháp, giữ Lục Trai, tụng kinh Hoa Nghiêm, công khóa hằng ngày luôn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chưa hề thiếu khoát. Ông Bành Thiệu Thăng thấy tác phẩm Vãng Sanh Tập của Liên Trì Đại Sư quá giản lược nên muốn tiếp tục bổ sung những chuyện vãng sanh mới. Ông Bành Hy Tốc vui vẻ đảm nhiệm chuyện này, thường cùng vợ là Cố Thị khêu đèn biên chép, tạo thành chín quyển, đổi tên thành Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Ngày mồng Ba tháng Năm năm Càn Long 50 (1785), ông vừa bị sốt rét vừa bệnh lỵ, từ phòng ngủ đến thăm mẹ, hoàn toàn không đả động chuyện nhà, chỉ khuyên mẹ chăm chỉ niệm Phật, hẹn sẽ gặp lại mẹ nơi Tây Phương. Trước đó, ba ngày ông đã cho người thỉnh Trừng Cốc hòa thượng đến tận giường bịnh truyền Ngũ Giới, sám hối, phát nguyện. Sáng ngày 13, ông sai gia nhân treo tượng Phật, xoay giường về phía Tây, bảo Đăng Cốc: "Phiền thầy trợ niệm cho con". Đến chiều, ông lâm râm niệm Phật rồi nằm bên hông phải qua đời, mùi hương lạ ngập thất, thọ được 33 tuổi. Vợ ông là Cố Uẩn Ngọc, đã qua đời trước đó, thọ 29 tuổi, trong khi bị bệnh bà đã ngồi niệm Phật qua đời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhị Thập Nhị Sử Cảm Ứng Lục là một tác phẩm trích lục từ hai mươi hai bộ sử trọng yếu của Trung Quốc nhằm thuyết minh chuyện nhân quả báo ứng. Nhị Thập Nhị Sử gồm Sử Ký Tư Mã Thiên, Hán Thư, Hậu Hán Thư, Tam Quốc Chí (xin đừng lầm với tiểu thuyết chương hồi Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung. Bộ Tam Quốc Chí được nhắc đến ở đây do Trần Đào biên soạn vào đời Tây Tấn), Tấn Sử, Tống Thư, Nam Tề Thư, Lương Thư, Trần Thư, Ngụy Thư, Bắc Tề Thư, Châu Thư, Tùy Thư, Nam Sử, Bắc Sử, Cựu Đường Thư, Tân Đường Thư, Cựu Ngũ Đại Sử, Tân Ngũ Đại Sử, Liêu Sử, Kim Sử. Bành Hy Tốc sống vào đời Thanh, nếu sử dụng những chuyện vào thời Minh và thời Nguyên sẽ dễ bị kết tội "yêu thư, yêu ngôn" theo luật Đại Thanh nên ông chỉ sử dụng hai mươi hai bộ Sử nói trên để biên soạn tác phẩm này.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>118. Thư trả lời cư sĩ Chiến Đức Khắc (hai lá thư)</B>
(năm Dân Quốc 26 - 1937)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Pháp danh của mười chín người quy y được viết trong một tờ giấy khác. Khoản tiền gởi đến bất luận là tiền hương kính hay tiền quyên mộ để in sách đều dùng làm chi phí ấn tống cuốn Kỹ Lộ Chỉ Quy. Hiện thời đã sắp chữ xong, nếu bản [sắp chữ] cuối cùng gởi đến, phải đợi sửa lỗi xong rồi mới in ra sách. In trước ba vạn cuốn để gởi cho những người có tín tâm xa gần. Lần này, tính dùng hết hơn hai trăm ba mươi đồng để gởi đến chỗ ông hơn hai trăm ba mươi đồng tiền sách cho mỗi người đóng góp ấn tống ấy, mỗi người bao nhiêu đó sách, còn dư thì tùy ý chia ra đem biếu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chuyện cầu cơ phần nhiều là linh quỷ giả mạo danh nghĩa tiên, Phật. Nếu người hầu cơ vốn sẵn có học vấn thì [lời giáng cơ] văn chương rộng lớn, dài lê thê, nói đến đạo lý thế gian còn thông suốt, chứ nếu luận về Phật pháp là điều chúng nó không biết, nên sẽ coi chuyện luyện đan, vận khí là Phật pháp, hoặc ăn trộm nghĩa lý kinh Kim Cang, nói nhăng, nói cuội, không thể chỉ ra con đường liễu sanh tử cho con người được. Lại hoặc là bịa đặt đồn thổi, dùng những lời lẽ loạn xạ thất điên bát đảo, khiến cho kẻ vô tri tưởng là bí quyết, há chẳng đáng buồn quá sức ư? Đối với chuyện khuyên lơn quyên góp làm những hành động tốt đẹp thì cầu cơ có ích, nhưng hỏi đến tu trì, nói đến Phật pháp thì lại có hại. Vì linh quỷ phần nhiều chẳng thông hiểu Phật pháp nên mù quáng bịa chuyện, hoại loạn Phật pháp, khiến chúng sanh bị lầm lạc, nghi ngờ. Ông Tôn Thương ở Phụng Hóa, tự là Ngọc Tiên (tuổi chừng tám mươi), rất mê cầu cơ. Bảy năm trước, nói Ngọc Đế thoái vị, Quan Đế là Ngọc Đế mới, đã mở khoa thi. Trạng Nguyên là ông Châu X... ở Kim Hoa, Bảng Nhãn là Dương Chương Phủ ở Vô Tích, Thám Hoa là ông Hứa Chỉ Tịnh ở Bành Trạch. [Ông Tôn] gởi thư cho họ Châu, họ Châu mừng lắm, tuổi đã cao, tám mươi tuổi rồi vẫn tới Thượng Hải họp mặt. Ông Dương cũng rất tin cầu cơ, chẳng biết trả lời như thế nào, liền gởi thư cho ông Hứa Chỉ Tịnh, ông Hứa trọn chẳng trả lời một chữ nào. Ông ta nhiều lần gởi những bài giáng cơ [cho ông Hứa], nhưng [ông Hứa] trọn chẳng phúc đáp. Về sau, không làm cách nào được, lại gởi thư nói: "Tôi đã nhiều lần gởi sách, nhưng trọn chẳng trả lời, chắc là nghe lời pháp sư Ấn Quang không tin cầu cơ! Tôi từng hỏi Lã Tổ<SUP><B>(189)</B></SUP>, Lã Tổ nói: "Sắt ở đáy biển", sao ông lại tin lời thầy ấy?" Ông Hứa vẫn không trả lời thư. <I>"Sắt ở đáy biển"</I> là vĩnh viễn chìm trong biển khổ, không có ngày ngoi lên được. Ông Tôn đỗ Tiến Sĩ, cũng là người ưa làm lành, tri kiến như thế đó, chẳng thể dùng lý để khuyên dụ được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thư gởi đến, đâu cần phải đặc biệt dùng giấy vàng, chỉ chớ nên dùng giấy trắng ngần để khỏi bị lóa mắt mà thôi! Nay đem hai danh sách người quy y và cúng tiền viết vào mặt sau lá thư gởi lại, mong rằng khi sách Kỹ Lộ Chỉ Quy gởi đến hãy khéo chiếu theo số tiền, dựa theo ý muốn của từng người để chia ra gởi tặng. Hiện nay thời cuộc nguy hiểm, hãy nên dạy hết thảy mọi người đều cùng niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm để dự phòng. Nếu chịu chí thành thường niệm, ắt sẽ được gia bị. Dẫu đại kiếp khó tránh, mọi người đều chết sạch, người niệm Phật sẽ sanh về Tây Phương. Hoặc nếu như tín nguyện chưa đến mức chân thành, thiết tha, cũng phần nhiều sanh vào đường lành. Chớ nên nói: "Chẳng thể tránh khỏi số kiếp, niệm chỉ uổng công thôi!" Phải biết sự sướng hay khổ phải chịu trong đời này chính là do cái nhân thiện hay ác đã tạo trong đời trước chiêu cảm. Cái nhân đã gây trong đời này lại là cái nhân cho quả báo thiện hay ác sẽ phải hứng chịu trong đời sau! Lấy niệm Phật làm nhân thì sanh về Tây Phương; lấy giết, trộm, dâm làm nhân thì đọa trong tam đồ. Đấy chính là lý - sự nhất định.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sách Vật Do Như Thử<SUP><B>(190)</B></SUP> (loài vật còn như thế) đã sửa đổi theo thứ tự khác, sắp xếp thành một quyển, mười bốn tấm gương [hiếu nghĩa của loài vật] được xếp nối tiếp nhau, đỡ tốn giấy rất nhiều. Sửa thành bản chữ lớn “tam hiệu tự”<SUP><B>(191)</B></SUP>, mỗi trang mười hai hàng, mỗi hàng ba mươi hai chữ, sẽ in ba vạn bản. Đợi đến khi in ra sẽ gởi đến bao nhiêu đó gói sách. Đây là do một đệ tử người huyện Vĩnh Xuân, tỉnh Phước Kiến, đang buôn bán tại Tân Gia Ba gởi về một ngàn sáu trăm đồng, phỏng chừng số tiền ấy đủ cho chi phí ấn tống, nhưng không đủ, phải bù thêm chút ít bao nhiêu đó tiền. Sách này không nói về kiêng giết, nhưng thật ra là sách trọng yếu về kiêng giết. Người có lòng lo cho người khác thấy loài vật hiếu hữu, trung nghĩa, trinh liệt, từ ái v.v... ắt sẽ bị cảm động, ai nấy trọn hết thiên chức của chính mình, lấy "giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành" để mong sao chẳng bị loài vật xem thường. Loài vật còn như thế, há ta thua kém chúng? Phải gắng sức sốt sắng thực hiện ngõ hầu khỏi bị hổ thẹn! Đối với lý sâu trong Phật pháp, ông Từ Bạch Phảng<SUP><B>(192)</B></SUP> tà - chánh chẳng phân. Trong sách này chỉ chép những đức tốt hạnh đẹp của loài vật, có ích lớn lao cho đời. Quang có viết lời tựa, nếu chịu đọc kỹ sẽ không mong cầu [mà tự nhiên] học thánh, học hiền, học Phật, học Tổ vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Thư hôm mồng Bảy cho đến chiều ngày hôm qua là Mười Sáu mới nhận được, do ở nơi có chiến tranh, giao thông bị gián đoạn mà ra. Pháp danh của mười tám người xin quy y được viết riêng trong tờ giấy khác, mong hãy chia ra gởi đi. Hãy nên bảo bọn họ ai ấy giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, ăn chay, niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Chớ nên cầu phước báo nhân thiên, phàm phu có phước ắt tạo sát nghiệp! Đã tạo sát nghiệp, khó tránh khỏi sát báo (quả báo do giết hại), huống chi kẻ có phước chẳng phải chỉ tạo sát nghiệp ư? Do vậy, kẻ cầu phước chính là cầu họa cho cả mình lẫn người! Người học Phật không thể không biết nghĩa này!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông [Lý] Đức Minh xin mọi người niệm Quán Âm, mỗi người niệm mười vạn câu, phóng sanh một trăm vạn [sanh mạng] để mong tiêu diệt sát kiếp. Đây cũng là công đức không gì lớn hơn. Nhưng hãy nên thường niệm Quán Âm suốt đời. Phàm những người gia nhập hội ai nấy kiêng giết, ăn chay thì mới là biện pháp triệt để. Nếu không, bữa nay bỏ tiền ra mua một số con vật đem thả, nhưng hằng ngày lại mua sanh vật về tự giết, hoặc là mua từ chỗ người ta giết đem bán thì vẫn là một bữa nóng, trăm bữa lạnh, làm sao có thể tiêu trừ sát nghiệp đời trước đời này của mình lẫn người cho được? Phóng sanh là cách để đề xướng kiêng giết, ăn chay; nếu chẳng chú trọng kiêng giết, ăn chay thì số được thả có hạn, số bị giết vô cùng!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày Hai Mươi Tám tháng Sáu, Quang gởi thơ cho các tờ báo, tạp chí tại Thượng Hải cậy đăng quảng cáo Khuyên Khắp Đồng Bào Toàn Cầu Cùng Niệm Thánh Hiệu Quán Âm, mỗi tờ đăng mười ngày. Bản sao quảng cáo ấy gởi kèm theo thư này, do chiến sự ngăn trở chẳng biết ông đã thấy trên báo rồi hay chưa? Lại bảo Tào Hà Kính in năm mươi vạn tờ truyền đơn rộng bảy tấc, phát cho những cơ quan Phật học các tỉnh, chiến sự đã nổ ra, cũng khó thực hiện được ngay! Bài văn ấy chẳng chỉ dùng riêng trong thời chiến mà trong hết thảy mọi lúc đều dùng được! Ông nói đến chuyện nêu rõ sự bắt nguồn của chiến sự và đạo trọng yếu để tiêu diệt [chiến sự] thì Châu An Sĩ nói: <I>"Nhân nhân tri nhân quả, đại trị chi đạo dã. Nhân nhân bất tri nhân quả, đại loạn chi đạo dã"</I> (Người người biết nhân quả là đạo để đạt thái bình lớn lao. Người người chẳng biết nhân quả là đường lối đại loạn vậy). Bởi lẽ, biết nhân quả sẽ xử sự thuận theo thiên lý, ăn nói thuận theo lòng người, do đâu mà có chuyện chiến tranh cho được?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu khinh rẻ các thứ hàng hóa của nước nhà, quý trọng các món hàng nhập cảng, tiền tài của cả nước đều bị chở hết ra ngoại quốc, đấy chính là "chẳng noi theo thiên lý, chẳng thuận theo lòng người" rất lớn, khiến cho kẻ khác dùng tiền tài của chính ta để chế tạo súng ống đánh ta! Do vậy, biết rằng: Những kẻ ưa dùng hàng hóa ngoại quốc đều chẳng thể không gánh lấy cái tội vời người khác đến đánh ta! Từ nay trở đi, hãy thống thiết sửa đổi lỗi trước, học theo Cam Địa<SUP><B>(193)</B></SUP> (Gandhi) chẳng dùng hàng ngoại quốc, thì tiền của ít bị thất thoát, đất nước giàu mạnh. Lời lẽ này tựa hồ viễn vông, nhưng thật ra quan trọng tột bậc!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phải biết: Kẻ hiểu nhân quả khi khởi tâm làm việc chỉ sợ mắc phải tội khiên, ắt sẽ sốt sắng hành tám đức "hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ", suy xét cùng tột tám việc "cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", dẫu là trùng, kiến cũng chẳng dám giết. Kẻ không biết nhân quả tự giết cha mẹ, còn tự khoe công, cực lực đề xướng chuyện biến con người thành loài thú, tính làm cho người trong cả thiên hạ trọn chẳng khác gì cầm thú thì tâm họ mới yên vui, sung sướng! Nhân quả chính là phương tiện lớn lao để thánh nhân trị thiên hạ, để Phật độ thoát chúng sanh. Nếu bỏ nhân quả thì thánh nhân, Phật, Bồ Tát cũng không bày ra cách nào khác được! Hiện nay đã loạn đến cùng cực, mong tưởng cứu vãn thì phải chuyên chú nơi sự giáo dục trong gia đình và nhân quả báo ứng. Lúc con cái mới vừa hiểu biết, mới bắt đầu học nói liền đem những sự lý nhân quả báo ứng v.v... khéo léo khuyên dụ dần dần để un đúc, ngõ hầu chúng sẽ tin sâu nhân quả báo ứng chẳng sai sót mảy may. Đấy chính là căn bản để đạt đến bình trị, dứt trừ tai nạn vậy. Đừng cho đó là chuyện viễn vông rồi coi thường thì may mắn lắm thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(189) Lã Tổ: Tên thật là Lã Nham, là một vị đạo sĩ nổi tiếng sống vào cuối đời Đường, đầu thời Ngũ Đại, được xếp vào Bát Tiên, hiệu là Thuần Dương Tử, tên tự là Động Tân. Tương truyền, ông sanh vào cuối đời Đường, từng đi thi nhiều lần, nhưng không đậu, trong quán trọ gặp được ẩn sĩ Chung Ly Quyền điểm hóa bằng cách cho một cái gối, bảo kê đầu nằm ngủ. Lã Nham nằm ngủ, mơ thấy mình đậu Trạng Nguyên, làm quan đến tột phẩm, nắm quyền Tể Tướng, rồi về sau bị gian thần gièm pha, bị lôi ra pháp trường chém đầu, sợ quá tỉnh dậy thì ra chủ quán đang nấu nồi cháo kê vàng vẫn chưa chín. Bao nhiêu chuyện xảy ra trong năm mươi năm, chỉ là một giấc mộng trong mấy phút (do truyền thuyết này nên có điển tích văn học <I>"hoàng lương mộng"</I>). Ông Lã tỉnh ngộ, theo Chung Ly Quyền tu tiên. Lã Đồng Tân đề xướng nhiều biện pháp tu Nội Đan quan trọng nên rất được Đạo gia đề cao. Đến đời Nguyên, năm 1269, Nguyên Thế Tổ sắc phong cho Lã Đồng Tân đạo hiệu Thuần Dương Diễn Chánh Cảnh Hóa Chân Quân, rồi Thuần Dương Diễn Chánh Phù Hựu Đế Quân. Do Vương Triết (tức Vương Trùng Dương), sáng tổ Toàn Chân Giáo, tự xưng ông ta đã được chính Lã Động Tân đích thân truyền đạo, xưng tụng họ Lã là Tổ Sư khai đạo, nên từ đó, Lã Động Tân thường được gọi bằng danh xưng Lã Tổ, hay Thuần Dương Tổ Sư. Tương truyền, sách Công Quá Cách cũng do Lã Tổ truyền dạy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(190) Vật Do Như Thử là một tác phẩm tập hợp những chuyện tình nghĩa, nhân ái, đạo đức trong giới động vật như quạ biết tha mồi về phụng dưỡng mẹ già v.v... Tác phẩm này do Từ Khiêm biên soạn vào đời Thanh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(191) "Tam hiệu tự" là một lối in với kích cỡ chữ khá lớn, tương đương với font chữ size 32 trong bản in bằng máy vi tính hiện thời.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(192) Bạch Phảng là tên tự của Từ Khiêm. Ông này cũng là tác giả cuốn Hải Nam Nhất Chước, rất mê cầu cơ. Ông này đã được Tổ Ấn Quang nhắc đến trong thư số 75, tức thư trả lời cư sĩ Giang Cảnh Xuân.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(193) Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948) là một chính trị gia và lãnh đạo tinh thần của Ấn Độ, có công hướng dẫn dân Ấn đấu tranh bất bạo động giành độc lập cho Ấn Độ từ tay Anh quốc. Ông thường được gọi là Mahatma Gandhi. Từng tốt nghiệp Luật Sư, ông đã áp dụng sự đối kháng hòa bình vào cuộc đấu tranh tại Nam Phi. Trong vai trò lãnh đạo đảng Quốc Đại Ấn Độ (Indian National Congress), với chủ thuyết bất bạo động, ông đã liên kết được mọi phần tử khác biệt chính kiến, tôn giáo, giai cấp trong xã hội Ấn Độ để chung sức tranh đấu cho nền độc lập nước nhà. Tuy thế, khi Ấn Độ giành được độc lập, do sự bất đồng chính kiến và tranh giành quyền lực giữa những phe phái tín đồ Ấn giáo và Hồi giáo, Pakistan đòi tách khỏi Ấn Độ. Một tín đồ Ấn Giáo cuồng nhiệt thuộc nhóm quá khích Ấn giáo Mahsabha là Nathuram Godse đã ám sát Gandhi vì cho rằng chính ông ta đã nhu nhược nhượng bộ trước sự đòi hỏi phân ly của Pakistan. Gandhi từng chống đối hàng nhập cảng của Anh, nên đã hướng dẫn một đoàn người đi bộ ra tận biển khơi lấy nước biển làm muối khi thực dân Anh đánh thuế muối, cũng như tự quay xa, kéo sợi dệt vải lấy để khỏi phải dùng vải nhập từ Anh.</P>
<span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>119. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên</B> (bốn lá thư)
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(Lúc ấy ông ta còn chưa mê tín chuyện cầu cơ. Đọc bốn lá thư này sẽ biết trình độ Phật pháp của ông Giang. Lão nhân (tức tổ Ấn Quang) đã khuyên lơn, chỉ dạy như thế mà vẫn chẳng thể lãnh hội đôi phần thì đủ thấy rõ ràng [trình độ Phật học của ông Giang như thế nào rồi]! Người sao lục ghi)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Những điều đã nói trong thư gởi đến thật là thiết yếu, nhưng điều cần phải chú ý từ đầu đến cuối là nhân quả, luân hồi và giáo dục trong gia đình. Giáo dục trong gia đình thì mẹ dạy con là quan trọng nhất. Nếu lúc con cái vừa mới hiểu biết, mẹ liền đem nhân quả báo ứng và sự lý làm người ra giáo huấn, khi lớn lên sẽ biết tốt - xấu, chẳng bị ác đảng, tà thuyết mê hoặc, sẽ trở thành hiền nhân, thiện nhân. Nếu lúc nhỏ mặc cho nó kiêu ngạo thành thói, lớn lên không tự chủ được, sẽ ngả theo tà thuyết, muốn quay lại đường chánh thì trăm kẻ khó thể được một! Trong lúc hiện nay, nếu chẳng lấy nhân quả báo ứng làm thuốc chuyên trị để cứu nước cứu dân, dù có làm gì đi nữa, vẫn chẳng có hiệu quả lớn lao cho được! Do bọn họ chẳng chú trọng thực hành, chỉ là dùng lời nói xuông bày vẽ cho xong chuyện. Nhân quả chính là cách để trị cả gốc lẫn ngọn. Phàm phu sơ phát tâm, Như Lai thành Chánh Giác đều chẳng ra ngoài nhân quả. Kẻ cuồng coi nhân quả là Tiểu Thừa rồi khinh miệt, tự tiện buông lung, làm ác chẳng kiêng dè, và thơn thớt nói suông những lời lẽ lớn lối!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Sách Các Xứ Giảng Diễn Lục<SUP><B>(194)</B></SUP> (Tập sách ghi chép những bài diễn giảng tại các nơi) nghe nói đã in rồi. Quang mục lực quá yếu, để viết gởi đi và trả lời hai lá thư này, phải dùng cả kiếng lão lẫn kiếng lúp mới thấy được lờ mờ; do vậy, chẳng thể can dự vào [việc giảo duyệt] tập sách Giảng Lục được! [Đối với danh vị] Xã Trưởng Phật Quang Xã của Trương Sư Từ, Quang chỉ mang tiếng xuông, chứ đối với việc giảng diễn, đề từ, ghi lời bạt, sức chẳng thể kham được! Bà tiết phụ họ Trương dùng Đại Tạng Kinh làm pháp bảo trấn môn để lợi sanh của Phật Quang Xã, công đức ấy khiến cho chính bà được tăng cao phẩm sen, cháu bà ta là Thận Tu liền được khỏi bệnh đờm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay gởi cho Thận Tu và lệnh ái<SUP><B>(195)</B></SUP> Hữu Trinh mỗi người một bao tro hương Đại Bi. Tro này đã gia trì hơn ba tháng rồi. Mỗi ngày nếu ít thì tụng năm mươi biến, nhiều thì bảy mươi lăm biến. Đựng trong thùng bánh quy to, mỗi thùng khoảng hơn mười cân<SUP><B>(196)</B></SUP>. Phỏng tính đã trì tụng chú Đại Bi đến sáu bảy ngàn biến. Một bao tro này có thể dùng để pha nước được khoảng hai ba trăm lần. Pha lần đầu nên dùng một phần hai mươi [lượng tro ấy] bỏ trong chén lớn, dùng nước sôi để hòa, khuấy lên, đợi cho chất tro lắng xuống, đem nước ấy đổ vào trong bầu hay trong bình, mỗi ngày uống ba lần. Hãy nên ăn chay, thường niệm thánh hiệu "Nam-mô Quán Thế Âm" ắt sẽ có công hiệu thần diệu. Sau khi bệnh lành hẳn rồi, nên pha ít đi, không cần phải uống một phần hai mươi giống như trước nữa. Nếu không tin, không chí thành sẽ vô hiệu!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người phú quý lắm bệnh, một là vì chẳng chịu cất tay nhắc chân làm chuyện gì, huyết mạch không thông suốt; hai là vì ăn nhiều các món huyết nhục, nếu gặp phải món có chất độc thì họa hoạn chẳng nhỏ, không chừng bị mất mạng! Dẫu là con vật không độc, nhưng do lúc nó bị giết, hận tâm kết lại, nên [thịt nó] có độc tánh. Tuy chẳng có tác dụng giết chết người ngay lập tức, nhưng chất độc tích lại lâu ngày, ắt sẽ phát ra thành ghẻ, thành bệnh. Bà Trầm nhà họ Trương chịu để cho Thận Tu kiêng giết, ăn chay thì bệnh đờm sẽ được lành ngay! Số tro còn dư nên để thờ ở phía dưới khám thờ Phật hoặc treo nơi cao ráo, sạch sẽ, để phòng khi bất ngờ cần đến và tùy tiện dùng để cứu giúp những chứng bệnh nguy hiểm, chớ nên khinh lờn! Chất tro đã đem dùng để hòa nước xong, hãy nên trộn với nước trát lên nóc nhà để tỏ lòng kính trọng. Đây chính là "nước Đại Bi khô"<SUP><B>(197)</B></SUP> có thể gởi đi phương xa, có thể giữ lâu năm được. Ở chỗ ông, nếu không phải là chứng bệnh cực nguy hiểm, đừng đem cho!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hàng tôi tớ phần nhiều không biết tốt - xấu, làm lụng trong nhà giàu có hay nhà người khác, chẳng biết quý tiếc gạo thóc, vật dụng, đấy chính là chuyện hao phước, tổn thọ, hằng ngày chẳng biết [làm như vậy] bao nhiêu lần! Gần đây, nghe ông Tào Tung Kiều nói: "Có một tiên nhân dựa vào thân người khác để chẩn bệnh, một bà vú thuộc một nhà giàu có nọ, gần như bán thân bất toại cũng đến xin xem bệnh. Bà ta chưa đến trước mặt, tiên nhân đã nói: Ngươi khỏi đến! Ngươi phung phí cơm gạo, thức ăn của chủ nhân quá nhiều, chẳng bao lâu nữa toàn thân sẽ điên cuồng, tê liệt mà chết!" Nên đem lời này kể với hai cô con gái [Hữu] Trinh và Chiêu Nga của ông để họ biết mến tiếc đồ vật của chủ nhân, vun bồi phước thọ của chính mình, cũng như có thể đem công đức ấy hồi hướng vãng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mấy hôm trước, ông Phí Phạm Cửu tới đây, cho biết Hiếu Nhược và con gái ông ta là Sán Vũ chết hết sức thê thảm. Cư sĩ Dịch Viên khuyên nhà họ làm công đức siêu độ, do đấy bèn bỏ ra bốn trăm đồng, đem hai trăm đồng giao cho Quang để in sách thí tặng giùm cho họ, hai trăm đồng nhờ Linh Nham đả Phật thất. Ngay khi ấy, liền bảo ông Trần Thự Đình thuộc Hoằng Hóa Xã hãy gởi thư cho Dịch Viên nói Quang đã dùng hết số tiền hai trăm đồng để gởi sách cho họ Giang ngõ hầu ông ta tùy cơ thí tặng. Nên gởi loại sách nào nhiều, loại nào gởi ít, đợi khi Giang cư sĩ gởi thư đến sẽ gởi đi. Dùng tiền tài của nhà họ Trương để làm lợi người làng họ Trương, vô cùng ổn thỏa, chẳng biết thư đã gởi tới hay chưa?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến tối, Quang có ý lập cho Hiếu Nhược, Sán Vũ mỗi người một bài vị, hai người tổng cộng là một trăm đồng, dùng một trăm đồng để đả Phật thất. Tính sáng hôm sau khi ông Phí lên núi sẽ nói. Sau bữa điểm tâm sáng hôm sau, hỏi đến thì ông ta đã đi rồi, chẳng thể trở về trong một hai ngày được, chỉ đành để ông ta đi thôi. Bài vị ở Linh Nham đặt trong Niệm Phật Đường, suốt năm được Phật hiệu ngầm huân tập, so với những chỗ khác thờ trong căn phòng lạnh lẽo, hết sức khác biệt! Tất cả mỗi người cúng dường ba mươi lăm đồng, không cần gởi đến nữa, hãy dùng để chi tiêu cho Phật Quang Xã. Quang mang tiếng Xã Trưởng xuông, cũng chẳng thể không đem công đức của người khác để thay cho người khác làm chuyện công đức.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Thư lần trước và một gói sách nhỏ đã nhận được rồi. Ba mươi lăm đồng vốn tính gởi về cho Phật Quang Xã chi dụng, hôm qua nhận được thư và thông báo từ ngân hàng, mới biết [thư từ trao đổi giữa] đôi bên đều đến trễ quá! Tới chiều, ông Thành Dực Thanh đến, nói Giang Tô bị thủy tai nặng nhất trong cả nước. Ông này là môn sinh của Phùng Mộng Hoa, Vương Ấu Nông, nhiều năm lo liệu việc phát chẩn, khá có tiếng tăm. Quang bèn lấy ba mươi lăm đồng đó, lại thêm vào năm đồng, thành ra bốn mươi đồng, giao cho ông Thành. Ông ta hỏi biên nhận đề tên ai, Quang nói: "Giữa ông và tôi cần gì biên nhận?" Ông ta đáp: "Phải giao cho hội tính sổ". Quang nói: "Tùy ý ông đề tên Dịch Viên hay Ấn Quang đều được!" Thư trước cho biết Phí Phạm Cửu đã đi Linh Nham, chưa gặp mặt Quang, ba hôm sau trở về, ngủ lại một đêm, sáng sớm hôm sau hỏi đến, ông ta đã đi rồi! Phàm mọi chuyện đều có nhân duyên, chẳng thể miễn cưỡng. Hết thảy tùy duyên, chớ nên bận lòng vì đó, bận lòng sẽ đâm ra bị mệt mỏi, cho nên chẳng bằng tùy duyên sẽ giải thoát hơn!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Bài Đại Học Tụng giải thích về Quán, về Chỉ chẳng thích đáng lắm. Thầy Đức Sâm nói: "Đối với Tục Đế trong Tam Đế và Giả Quán trong Tam Quán dường như cư sĩ chưa hiểu sâu xa"; do vậy liền mở trang đầu của sách Giảng Diễn Lục đã in lần trước ra xem. Những điều được nói [trong trang sách ấy] tuy có đạo lý, cũng có thể dẫn dắt người khác tiến vào chỗ thù thắng, nhưng đối với thật nghĩa của Không và Giả, chưa hoàn toàn phù hợp khít khao!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tam Quán, Tam Đế chính là cương yếu của Phật pháp. Nói theo lý tánh thì gọi là Đế, Đế tức là Lý. Nói theo mặt tu trì thì gọi là Tam Quán, Quán tức là Tu. Chân Đế: Một pháp chẳng lập, Tục Đế: Vạn pháp trọn đủ! Quán cái lý nơi Chân Đế thì gọi là Không Quán. Quán cái lý nơi Tục Đế thì gọi là Giả Quán. Không Quán chính là quán Chân Như Pháp Tánh "một pháp chẳng lập", điều này chính là cái Không "chẳng có cả Không lẫn Hữu". Đấy chính là tướng Không trong <I>"chư pháp Không tướng"</I> của Tâm Kinh. Chẳng những Sắc Không, Không Không, mà Bồ Đề, Niết Bàn cũng không, nếu có một pháp nào chẳng không sẽ chẳng thể gọi là Chân Không. Cái không này của Không Quán trong Tam Quán sao có thể hiểu là "muôn sự chẳng quan tâm, chẳng làm" cho được? Tục của Tục Đế chẳng phải là tục theo kiểu thô tục hay nhã tục, mà do vì tạo dựng, đặt bày nên gọi là Tục. Giả cũng chẳng phải là giả trong Chân - Giả (thật - giả), mà cũng là cái giả của sự tạo dựng, đặt bày. Phép quán nhằm quán lý của Tục Đế được gọi là Giả Quán vì tánh thể của Chân Đế là "chẳng lập một pháp" nhưng có công đức trọn đủ sáu độ, vạn hạnh, các pháp toàn vẹn. Đây chính là "chư pháp" trong câu "<I>chư pháp Không tướng"</I> (tướng Không của các pháp) của Tâm Kinh, sao lại coi đó là phàm phu cho được? Phàm phu thuộc về hai đế Khổ và Tập, còn Không và Giả đây thuộc đạo lý viên diệu của Viên giáo, Nhị Thừa còn chẳng có phần, huống gì phàm phu?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, trang ba mươi nói đến chuyện cậy vào tự lực, dùng tự lực để tu đạo, từ nhân gian sanh lên cõi trời cho đến Vô Sắc Giới Thiên, gọi đó là <I>"thụ xuất tam giới"</I> (vượt tam giới theo chiều dọc). Câu nói này cũng không trọn vẹn! Cậy vào tự lực thì phải đoạn hết sạch Kiến Tư phiền não trong tam giới, hàng lợi căn có thể đoạn được ngay trong đời này, còn độn căn thì trước hết phải đoạn phiền não trong Dục Giới, sanh lên Sắc Giới. Kế đó, đoạn phiền não trong Sắc Giới, sanh lên Vô Sắc Giới. Mãi cho đến khi đoạn hết sạch phiền não trong Vô Sắc Giới, chứng Chân Đế Niết Bàn, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh vậy! Chư thiên trong tam giới ngoại trừ các vị đại Bồ Tát thuộc Đâu Suất Nội Viện (sanh về Nội Viện<SUP><B>(198)</B></SUP> đều là Pháp Thân đại sĩ) và tam quả thánh nhân thuộc năm tầng trời Bất Hoàn (Ngũ Bất Hoàn Thiên) là Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến, Thiện Hiện, Sắc Cứu Cánh thì đều là người trong lục đạo luân hồi, chẳng thể coi sanh lên Vô Sắc Giới Thiên là đã thoát tam giới! Uất Đầu Lam Phất<SUP><B>(199)</B></SUP> tu Phi Phi Tưởng Định trong núi non, lũ chim làm ồn, chẳng thể đắc Định, dời sang bờ biển, cá lớn trong biển đánh nhau chẳng thể đắc Định; do vậy, sanh phẫn hận, có ý niệm giết sạch chim và cá. Về sau, [tu] Định thành tựu, sanh lên trời Phi Phi Tưởng, thọ tám vạn đại kiếp, sau khi hết phước trời, đọa làm con phi ly (chồn bay), vào rừng ăn chim, xuống nước ăn cá! Vì thế, phải phân biệt sự khác biệt giữa chuyện sanh lên trời do y theo Phật pháp tu trì đoạn Hoặc chứng Chân và chuyện sanh lên trời do tu phước thế gian hay tu Thiền Định thế gian để người đọc chẳng đến nỗi hiểu lầm! (Sách Giảng Diễn Lục hoàn toàn do Trần Thự Đình giảo chánh, đối chiếu, lo liệu lưu thông).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(194) Đây là cuốn sách tập hợp những bài giảng về Phật pháp của Giang Dịch Viên, do cư sĩ Thôi Chú Bình ghi chép lại, Trần Thự Đình giảo chánh và ấn hành.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(195) Lệnh ái: Tiếng gọi con gái người nhằm tỏ ý tôn trọng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(196) Cân là một đơn vị đo lường trọng lượng đã có từ thời cổ, định lượng không đồng, mỗi đời mỗi khác. Thời Hán một cân chỉ là 200 gr. Qua mỗi đời, Cân nặng dần lên, đến đời Thanh, một cân khoảng 590 gr. Hiện thời, Đài Loan quy định một cân là 600 gr, tại Hoa Lục là 500 gr, riêng Hương Cảng là 604,79 gr.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(197) Tổ Ấn Quang thường trì chú Đại Bi vào nước, gọi là Đại Bi Thủy, hoặc trì chú vào gạo cho người bệnh nấu cơm ăn gọi là Đại Bi Phạn. Để tiện gởi đi xa, Tổ trì chú vào tro hương, để người nhận đem tro hòa nước uống, giống như uống Đại Bi Thủy vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(198) Nội Viện chính là Thiện Pháp Đường của tầng trời Đâu Suất, do đại thần Lao Độ Bạt Đề kiến tạo, là trụ xứ của Bồ Tát Di Lặc. Tất cả các vị Phật thị hiện trong Sa Bà đều trụ tại Đâu Suất Nội Viện trước khi giáng sanh trong nhân gian. Các phàm thiên không thể nào thấy được Đâu Suất Nội Viện.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(199) Uất Đầu Lam Phất (Udraka Ramaputra), còn được phiên âm là Úc Đầu Lam Phất, hay Ưu Đà La Ca La Ma Tử, là một vị tiên nhân nổi tiếng, thành tựu Phi Phi Tưởng Định, đắc Ngũ Thông. Khi đức Phật vượt cung xuất gia từng đến tham học với ông này. Trong kinh Niết Bàn, đức Phật đã cho ông Tu Bạt Đà biết về kết cục của Uất Đầu Lam Phất: bị đọa làm con chồn bay sau khi hưởng hết phước trời.</P>
<span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

I
Trả lời
0
Xem
3K
imported_gioidinhhue
I
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên