LỜI MỞ ĐẦU
Ngài Vô Môn, pháp danh Huệ Khai, sinh năm 1183, vào khoảng cuốI đờI Tống. Ngài đến tham học thiền sư Nguyệt Lâm tạI chùa Vạn Thọ. Nguyệt Lâm là môn sinh đờI thứ 8 của Dương Kỳ, thuộc dòng Lâm Tế. Ngài được Nguyệt Lâm cho tham chữ VÔ. Qua sáu năm công phu vẫn chưa khai thông được, ngài phẫn chí, thề quyết không ngủ cho đến khi nào vỡ lẽ mớI thôi. Sau vì quá buồn ngủ, ngài đi lững thững ngoài hành lang, mệt mỏI tựa đầu vào một cây cột, bỗng nghe tiếng trống canh ngọ đánh, ngài bất giác lĩnh ngộ.
Ngài mừng quá, chạy đến tìm Nguyệt Lâm toan trình điều sở ngộ. Nguyệt Lâm vừa trông thấy liền hỏI “ Chạy đi đâu mà như bị ma đuổI vậy?” Ngài liền quát một tiếng. Nguyệt Lâm cũng quát một tiếng. Hai bên ứng đáp như thế. Sau đó ngài ứng khẩu đọc bài kệ rằng :
Vô vô vô vô vô
Vô vô vô vô vô
Vô vô vô vô vô
Vô vô vô vô vô
Sách chép ngài thường ăn mặc rách rướI lôi thôi, tánh tình khiêm cung hòa nhã, đăc biệt lờI nói thì sắc bén, thâm trầm. Năm 64 tuổI ngài lập am riêng để tịnh cư, nhưng học giả bốn phương vẫn thường đến tham vấn không ngớt. Ngài được vua Tống vờI vào nộI cung giảng pháp và làm lễ cầu mưa. Nhân đó ngài được nhà vua tặng danh hiệu Phật Nhãn.
Ngài tịch năm 1260, thọ 78 tuổi.
Cuốn Vô Môn Quan được ngài soạn vào năm 46 tuổI, khi ngài làm thủ tọa ở chùa Long Tường. Trước Vô Môn Quan chừng 100 năm, trong thiền tông cũng xuất hiện một bộ sách lớn là Bích Nham Lục. do Viên Ngộ dòng Lâm Tế bình xướng 100 bài tụng của Tuyết Đậu về 100 công án mà thành. ( Tuyết Đậu là thầy của Thảo Đường, khởi tổ dòng thiền Thảo Đường ở Việt Nam). Sau này khi nhắc đến thiền tông thì không ai có thể bỏ qua hai bộ sách được truyền bá rộng rãi là Bích Nham Lục và Vô Môn Quan. Sở dĩ như thế là vì ngoài giá trị tu chứng của tác giả, cách hình thành của hai bộ sách cũng bao hàm đầy đủ những yếu tố cần thiết dẫn dắt hành giả trong hoàn cảnh tự học.
NgườI ta thường bảo Bích Nham Lục thiên về văn, Vô Môn Quan thiên về lý. Quả vậy, lời lẽ Vô Môn Quan sắc bén, hàm súc vô cùng, tuy nhiên cũng không vì thế mà văn chương khô khan, nhàm chán.
Chúng tôi là kẻ hậu học , tuy kiến thức, chữ nghĩa và thực lực hành trì chẳng bao nhiêu, cũng đem hết sức mình ra dịch cuốn Vô Môn Quan này ra Việt Ngữ, gọI là để đóng góp vào công cuộc chấn hưng Thiền học hiện nay.
Vì lợI ích của giớI sơ học nói chung, trong đó có bản thân dịch giả, Ước mong những bậc cao minh rộng lòng chỉnh sửa, bổ túc cho những khuyết điểm không tránh khỏI trong bản dịch này.
Trần Tuấn Mẫn
Thu 1971
Ngài Vô Môn, pháp danh Huệ Khai, sinh năm 1183, vào khoảng cuốI đờI Tống. Ngài đến tham học thiền sư Nguyệt Lâm tạI chùa Vạn Thọ. Nguyệt Lâm là môn sinh đờI thứ 8 của Dương Kỳ, thuộc dòng Lâm Tế. Ngài được Nguyệt Lâm cho tham chữ VÔ. Qua sáu năm công phu vẫn chưa khai thông được, ngài phẫn chí, thề quyết không ngủ cho đến khi nào vỡ lẽ mớI thôi. Sau vì quá buồn ngủ, ngài đi lững thững ngoài hành lang, mệt mỏI tựa đầu vào một cây cột, bỗng nghe tiếng trống canh ngọ đánh, ngài bất giác lĩnh ngộ.
Ngài mừng quá, chạy đến tìm Nguyệt Lâm toan trình điều sở ngộ. Nguyệt Lâm vừa trông thấy liền hỏI “ Chạy đi đâu mà như bị ma đuổI vậy?” Ngài liền quát một tiếng. Nguyệt Lâm cũng quát một tiếng. Hai bên ứng đáp như thế. Sau đó ngài ứng khẩu đọc bài kệ rằng :
Vô vô vô vô vô
Vô vô vô vô vô
Vô vô vô vô vô
Vô vô vô vô vô
Sách chép ngài thường ăn mặc rách rướI lôi thôi, tánh tình khiêm cung hòa nhã, đăc biệt lờI nói thì sắc bén, thâm trầm. Năm 64 tuổI ngài lập am riêng để tịnh cư, nhưng học giả bốn phương vẫn thường đến tham vấn không ngớt. Ngài được vua Tống vờI vào nộI cung giảng pháp và làm lễ cầu mưa. Nhân đó ngài được nhà vua tặng danh hiệu Phật Nhãn.
Ngài tịch năm 1260, thọ 78 tuổi.
Cuốn Vô Môn Quan được ngài soạn vào năm 46 tuổI, khi ngài làm thủ tọa ở chùa Long Tường. Trước Vô Môn Quan chừng 100 năm, trong thiền tông cũng xuất hiện một bộ sách lớn là Bích Nham Lục. do Viên Ngộ dòng Lâm Tế bình xướng 100 bài tụng của Tuyết Đậu về 100 công án mà thành. ( Tuyết Đậu là thầy của Thảo Đường, khởi tổ dòng thiền Thảo Đường ở Việt Nam). Sau này khi nhắc đến thiền tông thì không ai có thể bỏ qua hai bộ sách được truyền bá rộng rãi là Bích Nham Lục và Vô Môn Quan. Sở dĩ như thế là vì ngoài giá trị tu chứng của tác giả, cách hình thành của hai bộ sách cũng bao hàm đầy đủ những yếu tố cần thiết dẫn dắt hành giả trong hoàn cảnh tự học.
NgườI ta thường bảo Bích Nham Lục thiên về văn, Vô Môn Quan thiên về lý. Quả vậy, lời lẽ Vô Môn Quan sắc bén, hàm súc vô cùng, tuy nhiên cũng không vì thế mà văn chương khô khan, nhàm chán.
Chúng tôi là kẻ hậu học , tuy kiến thức, chữ nghĩa và thực lực hành trì chẳng bao nhiêu, cũng đem hết sức mình ra dịch cuốn Vô Môn Quan này ra Việt Ngữ, gọI là để đóng góp vào công cuộc chấn hưng Thiền học hiện nay.
Vì lợI ích của giớI sơ học nói chung, trong đó có bản thân dịch giả, Ước mong những bậc cao minh rộng lòng chỉnh sửa, bổ túc cho những khuyết điểm không tránh khỏI trong bản dịch này.
Trần Tuấn Mẫn
Thu 1971