vienquang2

Các Bước để được Quả Tư Đà Hoàn dẫn đến Bậc Toàn Giác.

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,449
Điểm tương tác
1,411
Điểm
113
Bài 1.- Hai câu hỏi:

Kính các Bạn.

Nhân duyên có một vị.- Nêu ra hai câu hỏi để Luận Đàm Phật Học:

Cho con xin các bước để trở thành 1 vị thánh,tu đà hoàn ạ .- Lộ trình tu đến Bậc Toàn Giác ?

Trả lời:

Mô Phật.- VQ sẽ đàm đạo với Thầy v/đ này .

Sau đây.- Chúng ta cùng tìm hiểu ạ:

Kính các Bạn Đạo. Vấn đề Thánh Quả Tư Đà Hoàn.- Thì ở PG tồn tại 2 khuynh hướng nhận thức gồm: 1. Nguyên Thủy, 2. Phát triển.

+ Quan điểm ở Hệ Phát triển thì họ không quan trọng quả Tư Đà Hoàn. Chẳng những vậy. Khi nói về Thánh quả.- Họ cho là CHẤP PHÁP và lãng tránh.

+ Còn ở hệ Nguyên Thủy.- Thì đây là v/đ HỆ TRỌNG.



Kính mời Quý ĐH và các Bạn tạm dùng chén trà đạm bạc.- Và cùng Thảo luận ạ ....
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

xversion1

Registered

Phật tử
Reputation: 3%
Tham gia
1/4/21
Bài viết
22
Điểm tương tác
8
Điểm
3
Nơi ở
Phố thiên thai, đường bồng lai
Để đạt được Tu Đà Hoàn thì cần diệt được 3 hạ phần kiết sử: thân kiến, nghi, giới cấm thủ.
Hệ nguyên thủy chú trọng giải thoát sớm trong kiếp này, vì kiếp sau có được làm người nữa không còn chưa biết, nên đạt được thánh quả rất quan trọng. Còn hệ phát triển chủ trương tu vô lượng kiếp thành Phật nên không có gì để nói.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,449
Điểm tương tác
1,411
Điểm
113
Cảm ơn Bạn xversion1 đã xem và Thảo Luận.

Vâng VQ đồng ý với Bạn ạ.

Bài 2.- Hai Tông phái PG.

Trong Phật Giáo có 2 khuynh hướng: 1. Nguyên Thủy PG, 2. Phát Triển PG.

Kính các Bạn Đạo. Hệ Phát triển chúng ta tạm gọi là KHÔNG TÔNG. Hệ Nguyên Thủy chúng tạm gọi là HỮU TÔNG.- Kính mời Quý ĐH. Chúng ta thử tìm hiểu thảo luận cả 2 nền Tư Tưởng HỮU - KHÔNG để thẩm thấu xem sao ...

1/. Không Tông:- là Đại Thừa PG.- KHÔNG TÔNG chủ trương "Vạn Pháp giai KHÔNG" Các Pháp đều do Nhân Duyên Sanh.- Như vậy Pháp do Nhân Duyên Sanh là PHÁP KHÔNG, Quả Tư Đà Hoàn do nhân duyên tu tập mà thành nên cũng là Pháp Không. Là giả danh.- Đó là Nghĩa Trung Đạo Chân Đế.

Nghĩa Không Trung Đạo. Không phủ nhận Quả Tư Đà Hoàn của Hữu Tông. Mà thật ra :Hữu Tông nói HIỆN TƯỢNG của Quả Tư Đà Hoàn. Không Tông nói BẢN THỂ của Quả Tư Đà Hoàn.

* Giáo lý Không Tông nói về quả Tư Đà Hoàn trải dài trong các kinh. Kim Cang Bát Nhã , kinh Pháp Hoa, Duy Thức học, Kinh Viên Giác v.v...

2/. Hữu Tông: Là PG Nguyên Thủy.- Có nói về 4 Quả Thánh.

HT nói Về Bốn Quả Thánh.

Trong kinh điển Nguyên Thủy thường đề cập đến bốn quả vị mà người con Phật phải nhắm đến trên đường giải thoát, đưa đến Niết Bàn. Các quả vị nầy được xem như là các dấu mốc — hoặc các chặng đường — trên hành trình thanh lọc tâm ý, tiêu diệt các ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, vốn thường được gọi là mười kiết sử hay thằng thúc (samyojana), trói buộc chúng sinh vào vòng luân hồi.

Bốn quả vị đó là:

– Dự lưu (Sotàpanna, Tu-đà-hoàn),
– Nhất lai (Sakadàgàmi, Tư-đà-hàm),
– Bất lai (Anàgàmi, A-na-hàm),
– A-la-hán (Arahat, Ứng cúng).

* Quả Tư Đà Hoàn còn gọi là Sơ quả. Tức bước đầu tiên dự vào dòng Thánh.

* Trong nhiều bài kinh, Đức Phật thường tóm tắt về bốn quả thánh đó như sau:

“… Có những Tỳ-khưu là những vị A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn trừ, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánh trí.

Có những Tỳ-khưu là những vị Bất lai, đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ ở đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa.

Có những Tỳ-khưu là những vị Nhất lai, đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, sau khi sanh vào đời này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau.

Có những Tỳ-khưu là những vị Dự lưu, đã đoạn trừ ba kiết sử, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ được giác ngộ”. — [Trung bộ, 118]

Người đạt quả Dự lưu là người đã phá bỏ ba kiết sử đầu tiên: thân kiến, hoài nghi, và giới cấm thủ. Người nầy được xem như là một người đã nhập vào dòng giải thoát, tùy theo hạnh nghiệp và tinh tấn mà chỉ tái sinh làm người hoặc trong các cõi trời, tối đa là bảy kiếp. Người nầy còn được gọi là đã mở “Pháp nhãn”, vì người ấy đã bắt đầu có thanh tịnh về quan kiến, đã trực nhận rõ ràng Chánh Pháp của Ðức Phật. Người đó không còn xem mình như là một bản thể riêng biệt và thường tồn, kể cả hình sắc và tâm thức. Người đó không còn một chút nghi ngờ nào về sự hiện hữu và lợi ích của Tam Bảo: không còn hoài nghi về sự giác ngộ của Ðức Phật, không còn hoài nghi về con đường mà Ðức Phật đã vạch ra để đi đến giác ngộ, không còn hoài nghi về những đệ tử của Ngài đã đi theo con đường ấy và đã đạt được sự giải thoát tối hậu. Người ấy cũng không còn có ảo tưởng rằng Niết Bàn có thể đạt được bằng cách ép mình vào các hình thức lễ nghi phiến diện hay các điều lệ ước định nào đó.
(lượt trích Bình Anson)
tu-tha10 (1).webp
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,449
Điểm tương tác
1,411
Điểm
113
Bài 3.- Kiết Sử.

Xin nói về các kiết sử .- là các che chắn vào quả Tư Đà Hoàn.

Kiết Sử ?

Kiết là kết (cột trói) giống như người ta xâu kết các hạt thành chuỗi tràng hạt; Sử là sai sử.

Kiết Sử là những món cột trói và sai sử, bắt con người (chúng sanh) làm nô lệ cho nó. Giống như con trâu, bị người ta cột cái dây vào lỗ mũi dắt đi, không tự chủ được. Kiết sử cũng có các tên khác như: Thập phiền não, thập hoặc, thập tùy miên...

Trong Phật Đạo, Kiết Sử thường được chia làm hai phần, gồm năm độn (chậm chạp) sử và năm lợi (lanh lẹ) sử.

Kiết Sử gồm:

Mười kiết sử là:

– Thân kiến (sakkàya-ditthi),
– Hoài nghi (vicikicchà),
– Giới cấm thủ (silabata-paràmàsa)
– Tham đắm vào cõi dục (kàma-ràga)
– Sân hận (vyàpàda),
– Tham đắm vào cõi sắc (rùpa-ràga),
– Tham đắm vào cõi vô sắc (arùpa-ràga),
– Mạn (màna),
– Trạo cử vi tế (uddhacca),
– Si vi tế (avijjà).

Trong đó có 5 Lợi Sử và 5 Độn Sử.

* Hành giả tu để được Tư Đà Hoàn.- Chỉ cần diệt 3 kiết sử đầu tiên (thuộc 5 lợi sử) là:

– 1. Thân kiến (sakkàya-ditthi),
– 2. Hoài nghi (vicikicchà),
– 3. Giới cấm thủ (silabata-paràmàsa)
Các Bước để được Quả Tư Đà Hoàn dẫn đến Toàn Giác. Ct_trz10
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,449
Điểm tương tác
1,411
Điểm
113
Bài 4.- Nói về Đấng Toàn Giác.

Thầy cho con xin các bước để trở thành một vị toàn giác () () ()

Trả lời:

Vâng ! Trước khi nói tiếp về Sơ Quả.- Chúng ta nhìn tổng quan về Bậc Toàn Giác.- Mà Không Tông gọi là "Thành Phật"

Kính bạch ngài. Theo PG Nam Truyền : Bậc Toàn giác rất siêu tuyệt.- Đó là vị Đại Arahan Toàn Giác.

Trên Thế gian có 3 Bậc Giác Ngộ, là 3 trường hợp mà hiện ra ở đời.- Đều là ARAHAN:

Có 3 hạng Arahan:

1. Arahan Thanh Văn Giác,
2. Arahan Bich Chi Phật Giác,
3. Arahan Phật toàn Giác.

* Arahan Phật toàn Giác là Đại Arahan.- Thế gian chỉ có 7 Vị Arahan Phật toàn Giác là:

Thuộc Trang Nghiêm kiếp:
Phật Tỳ Bà Thi (hay Phật Bỳ Lư Thi, Vipasyin)
Phật Thi Khí (Sikhin)
Phật Tỳ Xá Phù (hay Phật Tỳ Xá Bà, Visvabhu)
Thuộc Hiền kiếp:
Phật Câu Lưu Tôn (hay Phật Câu Lâu Tôn, Krakucchanda)
Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni)
Phật Ca Diếp (Kasyapa) Kiếp hiện tại chỉ có duy đức Phật Thích Ca Mưu Ni.

Tổng số là 7 Vị mà thôi

tâm4.webp


Ngoài ra.- Vào thời vị lai vô lượng kiếp nữa mới có Phật Di Lặc ra đời.- hiện giờ ngài vẫn chưa thành Phật.

* Vì lẻ Bậc Toàn Giác, là Tự Ngộ, Tự Tu , Tự Chứng.- Không do Thầy chỉ dạy, không học hỏi ở nơi ai.- Nên: Không thể có pháp tu hay lộ trình để thành Phật toàn Giác..- Vì nếu có thì không còn là Bậc Toàn Giác nữa rồi.- Nên chỉ có lộ trình: Arahan Thanh Văn, và Arahan Duyên Giác.

* Bản Chất: Phật toàn Giác, Arahan Thanh Văn, và Arahan Duyên Giác.- Đều là ARAHAN như nhau mà thôi.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,449
Điểm tương tác
1,411
Điểm
113
Bài 5.- Lộ Trình đến Sơ Quả (Bước đầu đến Arahan).

Để được sơ quả Tư Đà Hoàn. - Hành giả cần hóa giải 3 Lợi Phần kiết sử. gồm: Nghi, Thân Kiến và Giới cẩm thủ.

Trong nhiều bài kinh, Đức Phật thường tóm tắt về bốn quả thánh đó như sau:

“… Có những Tỳ-khưu là những vị A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn trừ, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánh trí.

Có những Tỳ-khưu là những vị Bất lai, đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ ở đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa.

Có những Tỳ-khưu là những vị Nhất lai, đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, sau khi sanh vào đời này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau.

Có những Tỳ-khưu là những vị Dự lưu, đã đoạn trừ ba kiết sử, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ được giác ngộ”. — [Trung bộ, 118]

Người đạt quả Dự lưu là người đã phá bỏ ba kiết sử đầu tiên: thân kiến, hoài nghi, và giới cấm thủ. Người nầy được xem như là một người đã nhập vào dòng giải thoát, tùy theo hạnh nghiệp và tinh tấn mà chỉ tái sinh làm người hoặc trong các cõi trời, tối đa là bảy kiếp. Người nầy còn được gọi là đã mở “Pháp nhãn”, vì người ấy đã bắt đầu có thanh tịnh về quan kiến, đã trực nhận rõ ràng Chánh Pháp của Ðức Phật. Người đó không còn xem mình như là một bản thể riêng biệt và thường tồn, kể cả hình sắc và tâm thức. Người đó không còn một chút nghi ngờ nào về sự hiện hữu và lợi ích của Tam Bảo: không còn hoài nghi về sự giác ngộ của Ðức Phật, không còn hoài nghi về con đường mà Ðức Phật đã vạch ra để đi đến giác ngộ, không còn hoài nghi về những đệ tử của Ngài đã đi theo con đường ấy và đã đạt được sự giải thoát tối hậu. Người ấy cũng không còn có ảo tưởng rằng Niết Bàn có thể đạt được bằng cách ép mình vào các hình thức lễ nghi phiến diện hay các điều lệ ước định nào đó.
(lượt trích Bình Anson)

+ 3 Món Lợi Sử: Là những món cột buộc thuộc về nhận thức (sai lệch), nó chỉ có đối với hạng người lanh lợi. Vì thế năm lợi sử còn gọi là “ngũ kiến” hay “ác kiến”, tức các thấy biết đi ngược tinh thần Giác Ngộ.

1. Thân kiến: Chấp thủ những hiểu biết sai lầm về thân.- Biên kiến: Chấp chặt một bên, nắm giữ một định kiến.
2. (Nghi):Tà kiến: Nghi ngờ Nhân quả.- Hiểu biết sai lệch về Giáo Pháp, không như chân lý .
3. Giới cấm thủ kiến: Không hiểu rõ giới, chấp chặt. Hy vọng giới có thể thành tựu cứu cánh nào đó trong Phật Đạo.

* Muốn hóa giải 3 món Lợi Sử này .- Hành giả cần phải có CHÁNH KIẾN.
 

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,498
Điểm tương tác
1,135
Điểm
113
+ 3 Món Lợi Sử: Là những món cột buộc thuộc về nhận thức (sai lệch), nó chỉ có đối với hạng người lanh lợi. Vì thế năm lợi sử còn gọi là “ngũ kiến” hay “ác kiến”, tức các thấy biết đi ngược tinh thần Giác Ngộ.

1. Thân kiến: Chấp thủ những hiểu biết sai lầm về thân.- Biên kiến: Chấp chặt một bên, nắm giữ một định kiến.
2. (Nghi):Tà kiến: Nghi ngờ Nhân quả.- Hiểu biết sai lệch về Giáo Pháp, không như chân lý .
3. Giới cấm thủ kiến: Không hiểu rõ giới, chấp chặt. Hy vọng giới có thể thành tựu cứu cánh nào đó trong Phật Đạo.

* Muốn hóa giải 3 món Lợi Sử này .- Hành giả cần phải có CHÁNH KIẾN.

Kính Thầy Viên Quang,
Xin phép được bổ sung thêm về Ngũ kiến.
Kiến/Ditthi: cái thấy biết xác định vạn vật, vạn sự bằng suy xét, suy tính. Theo Luận Đại tỳ bà sa/Abhidhamma MahaVibhasa Sastra (Nhất thiết hữu bộ) thì Kiến bao gồm suy tính, suy xét, xác định và thâm nhập. Trong Văn, Tư, Tu hay Sơ thiền thì Kiến chính là Tầm, Tứ.
Ngũ kiến hay Ngũ lợi sử duyên khởi do Phiền não căn bản (Tham, Sân, Si) và hiện hành do Ái-Thủ duyên sanh.
1, Thân kiến/Sakka Ditthi: lấy Vọng tưởng cho rằng Ngũ uẩn là Ngã làm trung tâm để suy xét, suy tính vạn vật, vạn sự khi Lục căn xúc cảnh hay Ý tưởng nảy sanh.
2, Biên kiến: chỉ sự thấy biết cực đoan do thiên vị hoặc đoạn hoặc thường .
3, Tà kiến: phủ nhận Lời Đức Phật Dạy.
4, (Kiến) Thủ kiến: ngoan cố, cố chấp, khăng khăng vào vạn vật, vạn sự hiện hành do căn xúc cảnh (Thế lưu bố tưởng) hay các luận thuyết do sở tri (Thế trí biện thông) là có thật.
5, Giới cấm thủ kiến: tin vào nghi lễ, nghi thức, các hình thức khổ hạnh, cấm chế...là công đức dẫn đến Niết bàn.

Kính
trừng hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,449
Điểm tương tác
1,411
Điểm
113
Bài 6.- Nhị Quả Tu Đà Hàm & Pháp Thiền .- Công năng Giải trừ Ý Thức.

Thiền là Pháp Tu: Chỉ (Samatha)- Quán (Sâm bát đề) - Chỉ quán đồng tu (Thiền na). Một trong 3 Vô Lậu Học của PG.

* Tu Thiền Sau khi được Sơ quả. Để Hành giả vào Nhị Quả Tư Đà Hàm.

Trích: Thánh quả Nhất lai là quả vị thánh thứ hai trong tứ thánh quả. Sao gọi là nhất lai? Bởi vì thánh quả này phải còn trở lại một lần sanh tử nữa mới chấm dứt khổ đau, đạt đến quả vị vô sanh.

Những ai đoạn tận ba kiết sử như trong trường hợp của Thánh quả dự lưu, và làm muội lược hai kiết sử tiếp theo, đó là, Dục (kāmacchando) và Sân (byāpāda), được gọi là Thánh quả Nhất lai - Tư đà hoàn (Sakadāgāmi). Trường Bộ Kinh định nghĩa: “Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử và làm nhẹ bớt tham, sân, si, (Trích TỨ THÁNH QUẢ - KINH TẠNG PĀLI Thích Trung Định)

Muốn đến Nhị Quả.- Phương tiện tốt nhất là Thiền Định.- Như Bát Chánh Đạo dạy.

* Do con người thủ chấp Ý THỨC làm Tự NGÃ.- Nên vào Sanh Tử luân hồi.

Tánh của Ý Thức là vọng động, suy lường và Tham (Dục), sân,Mạc Na thức thì si.
Khi Tác Ý Tham, sân, si đến thân, khẩu, ý thì thành 3 Nghiệp.- Có Nghiệp thì dẫn vào Hữu Vi Sanh Tử.

+ Vọng Tưởng: là những ý tưởng chợt hiện khởi trong tâm (do vọng niệm, vọng chấp), sau đó được tác ý (cetanā) hỗ trợ, thôi thúc chúng ta hành động tạo nghiệp qua thân khẩu ý. Do đặc tính của tác ý (cetanā) là hành động, tạo tác và quyết định nên khi đồng sinh với tâm bất thiện (vọng tưởng) thì nghiệp xấu được tạo ra.

* Như vậy:

Vọng Tưởng khi chưa có Tác Ý hổ trợ.- Chỉ tạo nên Phiền Não Chướng.
Vọng Tưởng khi có Tác Ý hổ trợ.- Thì tạo nên Nghiệp Chướng.

+ Đức Phật dạy: ”Cần thận trọng, chớ tin vào tâm ý của các ông. Tâm ý các ông không đáng tin cậy. Chỉ sau khi các ông đã chứng được đệ tứ quả A La Hán (vào Định Không Tâm), các ông mới có thể tin vào cái "tâm Ý Thức" này.”
(42 chương)

* Muốn thuận chuyển vào Tịnh Độ, NB thì phải giải trừ vọng tưởng của Ý Thức.- Bằng cách Tu Thiền Định.- Đây là Bước thứ 2 , 7 và 8 trong Bát Chánh Đạo là Chánh Tư Duy , Chánh Niệm & Chánh Định.- Tức Thiền Định.

* Giải trừ Ý Thức cần Thực Hành Thiền:- Đầu tiên vào Sơ Thiền:

1. Sơ Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 6 Địa (xứ), dẫn sanh 6 Định. Đó là: 2 Tự Địa và 4 Thượng Địa. ĐT ĐL dạy.- Như bài kệ:

Ly dục và ác pháp,
Có giác và có quán,
Ly sanh được hỷ lạc,
Tức vào được Sơ Thiền.

Trong A Tỳ Đàm nói: “Vào Sơ Thiền có 4 giai đoạn”. Đó là:

Tương Ưng Vị.
Tịnh.
Vô Lậu.
Đắc Thiền.

Người vào được Tịnh và Vô Lậu là vào được Sơ Thiền.-Vào Đệ Nhị Thiền và Đệ Tam Thiền cũng như vậy.(ĐT ĐL)

* Sơ Thiền có 5 trạng thái Tâm: 1. Tầm, 2. Tứ, 3. hỷ, 4. lạc, 5. nhất tâm.(Hết trích)

Sơ Thiền còn gọi là Ly sanh Hỷ Lạc địa.- Nghĩa là Sơ Thiền Ly Dục, Ly Bất Thiện Pháp mà sanh hỷ lạc.

* Như vậy: Vào được Sơ Thiền thì được "MUỘI LƯỢT" DỤC & SÂN.- Đủ điều kiện để Đến được Nhị Quả Tu Đà Hàm .

Các Bước để được Quả Tư Đà Hoàn dẫn đến Toàn Giác. Se_thi12
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,449
Điểm tương tác
1,411
Điểm
113
Bài 7.- Tam quả A Na Hàm & Chánh Kiến.

* Tam quả A-na-hàm, còn gọi Bất lai, là quả vị đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử (Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục và Sân). Bậc Tam quả không bị tái sanh vào cõi Dục, thường sanh vào cõi Sắc hoặc Vô sắc, từ đó tu hành và chứng đạt quả tối thượng.

* năm hạ phần kiết sử (Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục và Sân).- Còn gọi là Ngũ Lợi sử.- Nó có tính chất lanh lẹ, nhưng sanh khởi cạn cợt trên bề mặt ý thức và dễ dứt trừ hơn Ngũ độn sử.- Đây là bản chất gọi là "Mê mờ về Lý".- Muốn hết Mê Lý thì phải có CHÁNH KIẾN.

Kính các Bạn:


  • Chánh Kiến (samma ditthi) là bước khởi đầu trên con đường đến NB.- arahan Thinh Văn Giác
  • Chánh Kiến sẽ trừ được 3 hạ phần kiết sử: 1. Thân kiến, 2. Nghi, 3. Giới cấm thủ.
  • Chánh Kiến là căn bản đạt Quả Dự Lưu.(1 trong 4 quả Thánh)

* Chánh kiến:

Là Thấy biết đúng đắn về Tứ Diệu Đế và bản chất của thực tại.

* Người có Chánh Kiến, sau khi được quả Tư Đà Hoàn.- Người nầy được xem như là một người đã nhập vào dòng giải thoát, tùy theo hạnh nghiệp và tinh tấn mà chỉ tái sinh làm người hoặc trong các cõi trời, tối đa là bảy kiếp.

Người nầy còn được gọi là đã mở “Pháp nhãn”, vì người ấy đã bắt đầu có thanh tịnh về quan kiến, đã trực nhận rõ ràng Chánh Pháp của Ðức Phật.

Người đó không còn xem mình như là một bản thể riêng biệt và thường tồn, kể cả hình sắc và tâm thức.

Người đó không còn một chút nghi ngờ nào về sự hiện hữu và lợi ích của Tam Bảo: không còn hoài nghi về sự giác ngộ của Ðức Phật, không còn hoài nghi về con đường mà Ðức Phật đã vạch ra để đi đến giác ngộ, không còn hoài nghi về những đệ tử của Ngài đã đi theo con đường ấy và đã đạt được sự giải thoát tối hậu.

Người ấy cũng không còn có ảo tưởng rằng Niết Bàn có thể đạt được bằng cách ép mình vào các hình thức lễ nghi phiến diện hay các điều lệ ước định nào đó.
(lượt trích Bình Anson)

Kính các Bạn: Ví như sau khi chiếc thuyền đã được đóng thành.

- Thì phải "Hạ Thủy vào dòng" mới có cơ hội ngược xuôi theo sông nước.- Người Tu phải Vào Dòng (Nhập Lưu- Tư Đà hoàn) mới có được bước đầu hưởng dụng NB, Tịnh Độ....dự Thánh quả Arahan thanh văn giác.

- Sau khi vào dòng thì phải tháo gở các dây nhợ bị neo bám ở bờ mê sanh tử (5 hạ phần kiết sử - Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục và Sân).- Đó là Tam quả A Na Hàm.

* Hết bị trói buộc.- Thì là Giải Thoát.


Các Bước để được Quả Tư Đà Hoàn dẫn đến Toàn Giác. Tei_xu14
 
Sửa bởi Amin:

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,498
Điểm tương tác
1,135
Điểm
113
Kính Thầy Viên Quang

Xin Thầy giảng rộng và sâu hơn về Dâm tánh, Sân tánh để chư Phật tử có thể nhận diện trong đời sống hàng ngày mà ly dục, ly ác pháp và từng bước làm muội lượt Dâm, Nộ, Si tánh.

Kính
trừng hải
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm

TOP 5 Tài Thí

Top