Thủy Địa Tỷ 比 吉 . 原 筮 , 元 永 貞 , 无 咎 . Tỷ cát. Nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu. 不 寧 方 來 , 後 夫 凶 . Bất ninh phương lai, hậu phu hung. Chữ “比”-Tỷ , nghĩa sâu sắc nhất là nằm trong chữ “Tỷ Kheo” (比丘) – là người tinh tấn tu tập theo Giới – Định – Huệ, dẹp trừ phiền não (mừng, giận, buồn, vui, sầu, bi, ưu, não v..v) và những điều tệ ác xấu xa nơi mình. Chữ “Tỷ” nghĩa phổ thông là so sánh. So sánh điều gì ? Có hai ý lớn: Thứ nhất sự lợi hại giữa thực hành Đạo Đức với làm theo “thói hư tật xấu”, hai hướng hành động ấy có sự tốt xấu ưu khuyết nó ra làm sao ? Khi người ta tiến hành so sánh, nghĩa là người ta đang đắn đo để lựa chọn phương án tốt nhất. Trước khi hành động, đặc biệt là những hành động mang tính chất quyết định tới vận mệnh hiện tại và mai sau, thì sự đắn đo càng cẩn trọng tỉ mỉ hơn bình thường. Ở đây cũng vậy, sự so sánh để quyết định lý tưởng sống, nguyên tắc sống, mục tiêu sống, nền tảng sống đang được đưa ra để xem xét, lựa chọn. Thứ hai, so sánh sự tăng giảm sau thời gian rèn luyện tu sửa: hôm nay tiến bộ hay thụt lùi so với hôm qua, tháng này so với tháng trước thì có thay đổi gì không, năm vừa qua so với năm hiện tai đã chuyển biến được bao nhiêu rồi v…v cho tới kiếp trước và kiếp này - tức là hoàn cảnh lúc niên thiếu với hoàn cảnh lúc “xế chiều” – có phát triển hơn gì không ? Nhỏ là hành vi hiện tại với tiêu chuẩn Đạo Đức, Xã hội; Lớn là hoàn cảnh sống trước đây với bây giờ như thế nào ? Tất cả đều được đem ra mổ xẻ, chiêm nghiệm để biết hướng đi của mình là đúng hay là sai. Ngoài ra, ”Tỷ” cũng nghĩa là làm theo, bắt chước; làm theo Giới luật, bắt chước Giới luật – khi xét theo khía cạnh người Tu. Giới luật được thay bằng Lễ Nghĩa, khi xét ở khía cạnh người Đời. “Tỷ” cũng nghĩa là gần gũi; gần gũi người có Đạo Đức, gần gũi Thầy sáng bạn lành. “Tỷ” cũng nghĩa là thi đua, không phải thi đua với người mà thi đua với chính mình, lấy sự tiến bộ làm phần thưởng, lấy Đạo Đức là mục tiêu. Mình tự nhắc mình, mình tự động viên mình, mình tự đối chiếu, chiến đấu với chính mình, chiến thắng sự trì trệ của chính mình, nhằm đạt được Giới hạnh, Đạo đức. Đây là lược nói một số ý nghĩa nổi bật ẩn chứa bên trong chữ “Tỷ” của Thánh nhân. “Nguyên” là lúc đầu, lúc ban sơ; là bắt nguồn ở, phát sinh từ; cũng nghĩa là suy cầu cho tới nguồn gốc; cũng nghĩa là tha thứ cho, suy đến cội nguồn chân tình để có thể tha thứ được. “Nguyên phệ” là bói toán để hỏi về nguồn gốc phát sinh, để hiểu được bản chất sự việc, để có thể buông xả sự trói buộc, hòng giải thoát tâm hồn, giúp tâm hồn trở nên rỗng rang tự tại. “Vĩnh” nghĩa là lâu dài, mãi mãi. “Nguyên vĩnh” là bản thể vĩnh hằng, chữ “nguyên” ở đây nghĩa là đầu tiên, cơ bản, to lớn, đứng đầu; là “nguyên” trong “nguyên, hanh, lợi, trinh”. Nên nói “vĩnh” để nhấn mạnh tính bền vững, tính thường trụ chẳng hoại của “bản thể thanh tịnh”, của nguồn gốc Vũ trụ vạn loại; là căn bản, là gốc rễ của mọi thứ Giới hạnh, Đạo đức. “Bất” nghĩa là không; sử dụng để phủ định; “Ninh” là yên ổn, yên lặng, yên tĩnh; cũng nghĩa là thăm hỏi, vấn an; là an toàn. Cũng nghĩa là thà (thà chịu điều gì đó tổn thương, thiệt thòi chứ nhất định không chịu làm điều gì trái với mong ước, với lý tưởng, tiêu chuẩn của mình đã định hình và giữ gìn noi theo, ở đây nghĩa suy rộng ra là: thà chịu thiệt thòi tổn thương, có thể là mất mạng, chứ nhất định không làm điều trái Đạo Đức, không hủy phạm Giới luật Lễ nghĩa). “Bất ninh” nghĩa là chẳng thà.“Phương” là trái lời, không tuân theo; là nơi, chốn, khu vực; là biện pháp; là so sánh, phê bình; là ngay thẳng; là đương khi; là phương hướng. “Lai” là đến, là xảy ra; là sắp tới. “Hậu” là lúc sau, phía sau; là sau này; đời sau. “Phu” là chồng, là đàn ông; cũng nghĩa là người bình thường, chỉ con người nói chung. Toàn câu Kinh trên nghĩa là: So sánh phấn đấu, đạt tới cái gốc rễ của sự bói toán, tức là đức trinh vĩnh hằng nguyên thủy, thì ắt trong mọi sự chẳng có lỗi lầm. Chẳng thà cố gắng đi đúng hướng (mà chông gai, khó khăn, chậm chạp ) còn hơn là người chịu đựng hậu quả xấu về sau. Kinh nói: Tỷ cát, nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu. Như trên đã từng nói, Thánh nhân dụng ít lời mà tỏ nhiều nghĩa, đúng theo cách dụng văn của người xưa, “ý tại ngôn ngoại” – ý nghĩa đôi khi còn nằm ngoài cả lời nói, đòi hỏi người học xét phải cởi mở tâm hồn, tránh tự gò ép vào một khuôn mẫu sẵn có nào cả, thì mới hàm thụ được đầy đủ, mới thấy hết được ý vị của Thánh nhân, bởi việc nói trong Dịch là cho muôn người cho ngàn Đời, nếu tự định khuôn nghĩa thì chẳng khác nào lấy thau nước đòi đựng hết cả biển khơi, đâu có lý nào mà trọn vẹn thành tựu cho được. Ở đây, “Tỷ” tuy là so sánh, là gần gũi; lại cũng nghĩa là “bắt chước” là “thi đua”, cho nên lấy từ “phấn đấu” để biểu đạt được cả hai nghĩa này, khi nào mình phấn đấu thì đồng nghĩa mình có cái mốc, có cái đích để hướng tới để nhìn vào, cũng có chỗ để đối chiếu để rèn luyện, như thế trong nó đã hàm chứa sự “so sánh”, sự “bắt chước” rồi. Lại lấy Đạo đức, lấy Đức hạnh làm chỗ vươn tới, làm đích đến trong hành vi, thì tất nhiên, đó là cơ sở, là cội gốc của sự “bói toán” - tức là tránh “Hung”, tìm “Cát”. Đạo đức là gốc của mọi điều thiện, khi đã lấy Đạo đức làm nền tảng, làm cơ sở ra quyết định và hành động, thì tất nhiên chẳng cần phải “bói toán”, đó là chánh nhân của điều “Cát” rồi, gieo nhân thiện thì gặt quả “Cát” hỷ, ấy chẳng phải là điều mong muốn cuối cùng của người thực hiện "bói toán" hay sao ? Bởi thế, mới nói “Tỷ cát, nguyên phệ”. “Trinh” đức, nơi người Quân tử thì không thiếu, nơi Thánh nhân thì không dư, nơi Trời Đất thì trọn vẹn đầy đủ. “Trinh” đức của người Quân tử như ngọc trong đá, vàng trong cát, cần phải gạn bỏ tạp chất, cần phải tinh luyện nung nấu trong thời gian nhất định thì tánh chất nguyên thủy nó mới lộ diện rõ ràng. Ở đây lấy cái trọn vẹn “nguyên vĩnh trinh”, so sánh với cái “Trinh” đức hiện tại đang ẩn tàng, đang mờ bụi nơi lòng người Quân tử, để khích lệ, nhắc nhở người Quân tử hãy nên cố gắng, hãy nên kiên trì nhẫn nại, “kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “nước chảy đá mòn” v..v hễ cố công kiên trì rèn luyện thì cái tánh Đức bất biến trường tồn sáng ngời của Trời Đất “nguyên vĩnh trinh” nó sẽ phản chiếu đầy đủ nơi mình mà thôi. Hãy phấn đấu không ngừng ! Nhất định sẽ thành tựu, một khi thành tựu, một khi hiển lộ đầy đủ rồi, thì ắt là trong mọi việc đều được sự không lỗi lầm “vô cữu” đó thôi. Kinh nói: Bất ninh phương lai, hậu phu hung. “Bất ninh” nghĩa là chẳng thà. Khi nói từ “chẳng thà”, thì luôn hàm ý rằng phía trước có nhiều điều chông gai trắc trở, nhiều khó khăn thử thách; nhưng vì đó là phương hướng nên đi, là con đường đúng đắn nên chọn, do đó chớ vì ngại khó khăn trước mắt, mà lại lựa chọn sự dễ dàng, sự thuận lợi nhanh chóng hiện tiền; bởi “nhanh mà sai hướng” đâu có ích lợi gì, cái quan trọng là kết quả cuối cùng, chớ đâu cần phải quá bận lòng tới lộ trình trở ngại. Bởi cái gì cũng có cái giá của nó, nếu như khó khăn trở ngại thử thách ấy là cái giá phải trả, thì cứ vui vẻ mà đón nhận, sự thành tựu cuối cùng nó mang lại lợi ích chẳng nhưng cho hiện đời, mà còn mãi mãi về sau. Ấy là lý do Thánh nhân nói "bất ninh". “Phương lai” hướng đến, chữ “lai” nghĩa là tới một nơi chưa xác định trong tương lai. Ở đây có hai nghĩa: Thứ nhất, nếu cố gắng vận động hướng tới một nơi nào đó, bất kể là nơi nào, nhưng xa rời Đạo đức và che mờ Trinh đức, thì nơi ấy ắt khiến người phải chịu điều xấu tệ “hậu phu hung”. Thứ hai, nếu biết hướng về đức Trinh, lấy “Nguyên vĩnh trinh” là đích đến, làm điểm nương tựa, làm chỗ hướng tâm, là chỗ tìm tòi khám phá, thì bất kể nơi nào hướng tới trong tương lai, cũng đều được “Tỷ cát”. Cho nên, Thánh nhân trước nói “Cát”, sau lại nói “Hung”, dụng từ “Tỷ” thì có hàm nghĩa so sánh cân nhắc, chỉ ra rõ chỗ lợi hại hơn thiệt cho người Quân tử tự do chọn lựa, muốn người dụng hết sức trí mà lựa chọn cho đúng con đường để bước tới, bởi “Cát” hay “Hung” đều là do hướng đi của mình quyết định mà ra. Nếu hướng về Đạo đức, lấy Đạo Đức làm thước đo, làm chuẩn mực, làm cơ sở thì bất kể muốn tới đâu đều sẽ được “Cát” cả. Ngược lại, nếu chẳng nương theo Đạo Đức, chẳng trừ dẹp thói hư tật xấu, chẳng rèn luyện Đức Hạnh thế thì chẳng kể anh muốn đi đâu, kết quả đã xác định trước rồi, chỉ có là “hậu phu hung” mà thôi ! |
Sửa lần cuối: