KINH DỊCH có gì hay ?

KINH DỊCH có gì hay ?

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1749960289655.webp

Thủy Địa Tỷ


比 吉 . 原 筮 , 元 永 貞 , 无 咎 .
Tỷ cát. Nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu.
不 寧 方 來 , 後 夫 凶 .
Bất ninh phương lai, hậu phu hung.

Chữ “比”-Tỷ , nghĩa sâu sắc nhất là nằm trong chữ “Tỷ Kheo” (比丘) – là người tinh tấn tu tập theo Giới – Định – Huệ, dẹp trừ phiền não (mừng, giận, buồn, vui, sầu, bi, ưu, não v..v) và những điều tệ ác xấu xa nơi mình.

Chữ “Tỷ” nghĩa phổ thông là so sánh. So sánh điều gì ? Có hai ý lớn:

Thứ nhất sự lợi hại giữa thực hành Đạo Đức với làm theo “thói hư tật xấu”, hai hướng hành động ấy có sự tốt xấu ưu khuyết nó ra làm sao ? Khi người ta tiến hành so sánh, nghĩa là người ta đang đắn đo để lựa chọn phương án tốt nhất. Trước khi hành động, đặc biệt là những hành động mang tính chất quyết định tới vận mệnh hiện tại và mai sau, thì sự đắn đo càng cẩn trọng tỉ mỉ hơn bình thường. Ở đây cũng vậy, sự so sánh để quyết định lý tưởng sống, nguyên tắc sống, mục tiêu sống, nền tảng sống đang được đưa ra để xem xét, lựa chọn.

Thứ hai, so sánh sự tăng giảm sau thời gian rèn luyện tu sửa: hôm nay tiến bộ hay thụt lùi so với hôm qua, tháng này so với tháng trước thì có thay đổi gì không, năm vừa qua so với năm hiện tai đã chuyển biến được bao nhiêu rồi v…v cho tới kiếp trước và kiếp này - tức là hoàn cảnh lúc niên thiếu với hoàn cảnh lúc “xế chiều” – có phát triển hơn gì không ? Nhỏ là hành vi hiện tại với tiêu chuẩn Đạo Đức, Xã hội; Lớn là hoàn cảnh sống trước đây với bây giờ như thế nào ? Tất cả đều được đem ra mổ xẻ, chiêm nghiệm để biết hướng đi của mình là đúng hay là sai.

Ngoài ra, ”Tỷ” cũng nghĩa là làm theo, bắt chước; làm theo Giới luật, bắt chước Giới luật – khi xét theo khía cạnh người Tu. Giới luật được thay bằng Lễ Nghĩa, khi xét ở khía cạnh người Đời. “Tỷ” cũng nghĩa là gần gũi; gần gũi người có Đạo Đức, gần gũi Thầy sáng bạn lành. “Tỷ” cũng nghĩa là thi đua, không phải thi đua với người mà thi đua với chính mình, lấy sự tiến bộ làm phần thưởng, lấy Đạo Đức là mục tiêu. Mình tự nhắc mình, mình tự động viên mình, mình tự đối chiếu, chiến đấu với chính mình, chiến thắng sự trì trệ của chính mình, nhằm đạt được Giới hạnh, Đạo đức.

Đây là lược nói một số ý nghĩa nổi bật ẩn chứa bên trong chữ “Tỷ” của Thánh nhân.

“Nguyên” là lúc đầu, lúc ban sơ; là bắt nguồn ở, phát sinh từ; cũng nghĩa là suy cầu cho tới nguồn gốc; cũng nghĩa là tha thứ cho, suy đến cội nguồn chân tình để có thể tha thứ được. “Nguyên phệ” là bói toán để hỏi về nguồn gốc phát sinh, để hiểu được bản chất sự việc, để có thể buông xả sự trói buộc, hòng giải thoát tâm hồn, giúp tâm hồn trở nên rỗng rang tự tại. “Vĩnh” nghĩa là lâu dài, mãi mãi. “Nguyên vĩnh” là bản thể vĩnh hằng, chữ “nguyên” ở đây nghĩa là đầu tiên, cơ bản, to lớn, đứng đầu; là “nguyên” trong “nguyên, hanh, lợi, trinh”. Nên nói “vĩnh” để nhấn mạnh tính bền vững, tính thường trụ chẳng hoại của “bản thể thanh tịnh”, của nguồn gốc Vũ trụ vạn loại; là căn bản, là gốc rễ của mọi thứ Giới hạnh, Đạo đức. “Bất” nghĩa là không; sử dụng để phủ định; “Ninh” là yên ổn, yên lặng, yên tĩnh; cũng nghĩa là thăm hỏi, vấn an; là an toàn. Cũng nghĩa là thà (thà chịu điều gì đó tổn thương, thiệt thòi chứ nhất định không chịu làm điều gì trái với mong ước, với lý tưởng, tiêu chuẩn của mình đã định hình và giữ gìn noi theo, ở đây nghĩa suy rộng ra là: thà chịu thiệt thòi tổn thương, có thể là mất mạng, chứ nhất định không làm điều trái Đạo Đức, không hủy phạm Giới luật Lễ nghĩa). “Bất ninh” nghĩa là chẳng thà.“Phương” là trái lời, không tuân theo; là nơi, chốn, khu vực; là biện pháp; là so sánh, phê bình; là ngay thẳng; là đương khi; là phương hướng. “Lai” là đến, là xảy ra; là sắp tới. “Hậu” là lúc sau, phía sau; là sau này; đời sau. “Phu” là chồng, là đàn ông; cũng nghĩa là người bình thường, chỉ con người nói chung.

Toàn câu Kinh trên nghĩa là: So sánh phấn đấu, đạt tới cái gốc rễ của sự bói toán, tức là đức trinh vĩnh hằng nguyên thủy, thì ắt trong mọi sự chẳng có lỗi lầm. Chẳng thà cố gắng đi đúng hướng (mà chông gai, khó khăn, chậm chạp ) còn hơn là người chịu đựng hậu quả xấu về sau.

Kinh nói: Tỷ cát, nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu.

Như trên đã từng nói, Thánh nhân dụng ít lời mà tỏ nhiều nghĩa, đúng theo cách dụng văn của người xưa, “ý tại ngôn ngoại” – ý nghĩa đôi khi còn nằm ngoài cả lời nói, đòi hỏi người học xét phải cởi mở tâm hồn, tránh tự gò ép vào một khuôn mẫu sẵn có nào cả, thì mới hàm thụ được đầy đủ, mới thấy hết được ý vị của Thánh nhân, bởi việc nói trong Dịch là cho muôn người cho ngàn Đời, nếu tự định khuôn nghĩa thì chẳng khác nào lấy thau nước đòi đựng hết cả biển khơi, đâu có lý nào mà trọn vẹn thành tựu cho được.

Ở đây, “Tỷ” tuy là so sánh, là gần gũi; lại cũng nghĩa là “bắt chước” là “thi đua”, cho nên lấy từ “phấn đấu” để biểu đạt được cả hai nghĩa này, khi nào mình phấn đấu thì đồng nghĩa mình có cái mốc, có cái đích để hướng tới để nhìn vào, cũng có chỗ để đối chiếu để rèn luyện, như thế trong nó đã hàm chứa sự “so sánh”, sự “bắt chước” rồi.

Lại lấy Đạo đức, lấy Đức hạnh làm chỗ vươn tới, làm đích đến trong hành vi, thì tất nhiên, đó là cơ sở, là cội gốc của sự “bói toán” - tức là tránh “Hung”, tìm “Cát”. Đạo đức là gốc của mọi điều thiện, khi đã lấy Đạo đức làm nền tảng, làm cơ sở ra quyết định và hành động, thì tất nhiên chẳng cần phải “bói toán”, đó là chánh nhân của điều “Cát” rồi, gieo nhân thiện thì gặt quả “Cát” hỷ, ấy chẳng phải là điều mong muốn cuối cùng của người thực hiện "bói toán" hay sao ? Bởi thế, mới nói “Tỷ cát, nguyên phệ”.

“Trinh” đức, nơi người Quân tử thì không thiếu, nơi Thánh nhân thì không dư, nơi Trời Đất thì trọn vẹn đầy đủ. “Trinh” đức của người Quân tử như ngọc trong đá, vàng trong cát, cần phải gạn bỏ tạp chất, cần phải tinh luyện nung nấu trong thời gian nhất định thì tánh chất nguyên thủy nó mới lộ diện rõ ràng. Ở đây lấy cái trọn vẹn “nguyên vĩnh trinh”, so sánh với cái “Trinh” đức hiện tại đang ẩn tàng, đang mờ bụi nơi lòng người Quân tử, để khích lệ, nhắc nhở người Quân tử hãy nên cố gắng, hãy nên kiên trì nhẫn nại, “kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “nước chảy đá mòn” v..v hễ cố công kiên trì rèn luyện thì cái tánh Đức bất biến trường tồn sáng ngời của Trời Đất “nguyên vĩnh trinh” nó sẽ phản chiếu đầy đủ nơi mình mà thôi. Hãy phấn đấu không ngừng ! Nhất định sẽ thành tựu, một khi thành tựu, một khi hiển lộ đầy đủ rồi, thì ắt là trong mọi việc đều được sự không lỗi lầm “vô cữu” đó thôi.

Kinh nói: Bất ninh phương lai, hậu phu hung.

“Bất ninh” nghĩa là chẳng thà. Khi nói từ “chẳng thà”, thì luôn hàm ý rằng phía trước có nhiều điều chông gai trắc trở, nhiều khó khăn thử thách; nhưng vì đó là phương hướng nên đi, là con đường đúng đắn nên chọn, do đó chớ vì ngại khó khăn trước mắt, mà lại lựa chọn sự dễ dàng, sự thuận lợi nhanh chóng hiện tiền; bởi “nhanh mà sai hướng” đâu có ích lợi gì, cái quan trọng là kết quả cuối cùng, chớ đâu cần phải quá bận lòng tới lộ trình trở ngại. Bởi cái gì cũng có cái giá của nó, nếu như khó khăn trở ngại thử thách ấy là cái giá phải trả, thì cứ vui vẻ mà đón nhận, sự thành tựu cuối cùng nó mang lại lợi ích chẳng nhưng cho hiện đời, mà còn mãi mãi về sau. Ấy là lý do Thánh nhân nói "bất ninh".

“Phương lai” hướng đến, chữ “lai” nghĩa là tới một nơi chưa xác định trong tương lai. Ở đây có hai nghĩa:
Thứ nhất, nếu cố gắng vận động hướng tới một nơi nào đó, bất kể là nơi nào, nhưng xa rời Đạo đức và che mờ Trinh đức, thì nơi ấy ắt khiến người phải chịu điều xấu tệ “hậu phu hung”.
Thứ hai, nếu biết hướng về đức Trinh, lấy “Nguyên vĩnh trinh” là đích đến, làm điểm nương tựa, làm chỗ hướng tâm, là chỗ tìm tòi khám phá, thì bất kể nơi nào hướng tới trong tương lai, cũng đều được “Tỷ cát”.

Cho nên, Thánh nhân trước nói “Cát”, sau lại nói “Hung”, dụng từ “Tỷ” thì có hàm nghĩa so sánh cân nhắc, chỉ ra rõ chỗ lợi hại hơn thiệt cho người Quân tử tự do chọn lựa, muốn người dụng hết sức trí mà lựa chọn cho đúng con đường để bước tới, bởi “Cát” hay “Hung” đều là do hướng đi của mình quyết định mà ra. Nếu hướng về Đạo đức, lấy Đạo Đức làm thước đo, làm chuẩn mực, làm cơ sở thì bất kể muốn tới đâu đều sẽ được “Cát” cả. Ngược lại, nếu chẳng nương theo Đạo Đức, chẳng trừ dẹp thói hư tật xấu, chẳng rèn luyện Đức Hạnh thế thì chẳng kể anh muốn đi đâu, kết quả đã xác định trước rồi, chỉ có là “hậu phu hung” mà thôi !
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
"Thích, Đạo, Nho vốn là một nhà.
Điều quan trọng là Tâm an, Lý đắc, Thần Quang, con không nên cố chấp !"

< Trích lời thoại trong phim, phút 43:08>>
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1749979693699.webp

Trạch Địa Tụy


萃 : 亨, 王假有廟.利見大人.
Tụy: Hanh, Vương cách (giả) hữu miếu. Lợi kiến đại nhân.
亨, 利貞.用大牲, 吉, 利有攸往.
Hanh, lợi Trinh. Dụng đại sinh, cát, lợi hữu du vãng.


Chữ“萃”- Tụy nghĩa là họp, tụ tập, tụ lại, hợp lại; nó khác với “胰” – tụy, trong “tuyến tụy” là cơ quan tiết dịch tiêu hóa hay “悴” – tụy, trong “tiều tụy” là gầy gò, xanh xao, ốm yếu.

“Vương” là Vua, người đứng đầu một vùng đất. Chữ “假”phiên âm là "cách" hoặc "giả", nghĩa là mượn hay nương tựa, nhưng vì mượn hay nương đều là tạm bợ, chẳng phải thực lực thực chất của chính mình, nó đồng loại với từ "giả tạm", vì vậy xét ra thì nên phiên âm là "giả" sẽ hay hơn. “Miếu” là miếu thờ, là nhà thờ tổ tiên của Vua. Vậy câu “Vương cách hữu miếu” ý là nương nhờ Tổ tiên phò Trợ. “Kiến” là gặp, thấy; “Đại Nhân”, như trên đã phân tích là người có tấm lòng rộng lớn, trí tuệ sáng suốt hơn người. “Lợi kiến đại nhân” là gặp người Đại Trí thì có lợi. “Sinh” là gia súc dùng cúng tế; “Dụng” là sử dụng. “Dụng đại sinh” là sử dụng gia súc lớn để cúng tế.

Toàn câu Kinh trên nghĩa là: Tụ tập lại, chẳng chướng ngại, Vua đứng trước miếu thờ với lòng kính ngưỡng xin sự phò trợ, muốn được sự lợi ích từ việc gặp gỡ bậc Đại trí. Chẳng có gì ngăn ngại được, lòng trong sáng sẽ được sự lợi ích. Dùng vật lớn cúng tế, có cảm giác thật hân hoan, trước khi ra đi để làm điều ích lợi.

Kinh nói: Tụy hanh, Vương cách hữu miếu.

Con người sống giữa Trời Đất, lệ thuộc vào Trời Đất, so với Trời Đất con người quả là nhỏ bé. Những gì con người có thể tạo ra được đều dựa vào tài nguyên nơi Đất, những gì con người được hưởng thụ đều nhờ dưỡng khí của Trời, thế thì việc quay về nhớ ơn, việc coi trọng kính ngưỡng Trời Đất ấy là người hiểu lẽ sống nên làm. Nếu chẳng như thế thì “Thiên tru Địa diệt” Trời Đất bất hòa, thiên tai triền miên, làm sao mà người đứng vững giữa Đời tạo dựng cơ nghiệp ngàn thu cho nổi.

Vua là người tôn quý, xưng là Thiên tử (con Trời), việc thi hành cúng lễ kính Thiên là làm gương cho trăm họ muôn dân noi theo, vị Vua biết tùy thời hành sự ấy cho phải phép thì có thể coi là Hiền Quân, lại khéo tu dưỡng Đức Tài thì trở thành Minh Quân, như thế chẳng những bản thân Vua làm tròn sứ mệnh trị vì quốc gia được thịnh vượng, mà còn khiến trăm họ cũng được ơn hưởng thọ sự ấm no thái bình. Cái việc tuy nhỏ mà thể hiện được cái gốc Đạo sâu xa, cho nên ở quẻ “Tụy”, Thánh nhân dụng từ “hanh, lợi” lặp lại 2-3 lần là ý này đây.

“Vương cách hữu miếu” là hình ảnh Vua đứng trước tông miếu Tổ tiên, bày tỏ lòng thành, trình bày ước vọng, mong Tổ tiên Trời Đất linh thiên ứng cảm phò trợ cho vạn sự được như ý, được thông lợi. Như người Quân tử, với hoài bão lớn lao trong lòng, muốn dẹp yên thói xấu tật hư, làm trong lành thân tâm, thành tựu Đức Tài mà làm lợi ích cho Đời, cho mọi người mọi loại, cũng nên dành khoảng lặng để quay về nhìn lại nguồn cội, để mà vững bước tiến lên, để mà vượt thắng những ham muốn tầm thường, làm nên những sự tốt đẹp cao cả, như thế mới chẳng phụ thâm ân của Trời Đất, của muôn sự hi sinh cho mình được ngày nay thành Người "đầy đủ".

Kinh nói: Lợi kiến đại nhân, hanh, lợi Trinh. Dụng đại sinh, cát, lợi hữu du vãng.

Thánh nhân lấy hình ảnh “nương nhờ” Trời Đất Tổ Tiên, tức là “nguồn cội” của Người, để cầu được sự tốt đẹp; làm chỗ biểu trưng cho người Quân tử quay lại “nguồn gốc” của Tánh Đức để khai mở cái Trí tuệ nơi Tiềm thức sẵn có. Nếu xoay vào bên trong mà “kiến” được “Đại nhân” tức mở mang được kho Trí tuệ nơi mình thì ắt là “lợi” ích vô cùng. Vì khai mở được Trí tuệ thì biết được con đường, rõ được cách làm dĩ nhiên sự phải “hanh” rồi. Muốn khai mở Trí Tuệ thì phải trong sáng thành thực với chính mình, cho nên để “kiến Đại Nhân” thì cần “Trinh” đức, cả hai đều hiện hữu thì tất nhiên “lợi” ích nhân đôi cũng là điều dễ hiểu.

Thánh nhân có lòng hiếu sinh như Trời Đất, cành cây ngọn cỏ con chim con thú cũng chẳng nỡ phá hại, sao lại lấy sự “dụng đại sinh” làm việc “Cát” hỷ vui thích ? Bởi “sinh” tức gia súc là giống ngu muội, lấy “sinh” tượng cho “sự ngu tối”, thì “đại sinh” tức là chỗ ngu tối nhất, chỗ tăm tối nhất; nhà Phật gọi là “vô thủy vô minh” – là nguồn gốc của sự ngu muội, là chỗ khởi đầu của sự ngu tối từ thủa ban sơ. Nay “dụng đại sinh” tức là phá bỏ ngu tối, vì ngu muội thì chẳng hiểu biết đúng đắn, dụng chỗ chẳng hiểu biết đúng đắn tức là “sơ phệ cáo” của quẻ Mông – hỏi lần đầu được biết, quay về chỗ ngu tối hỏi điều chẳng rõ ràng, từ đó phát minh ra sự hiểu biết, “cáo” cho biết được câu trả lời, tức là nghĩa của “dụng đại sinh” vậy ! Phá mê được ngộ, thì ắt là việc “Cát” hỷ nhất rồi, biết phải làm gì, biết nên làm gì rồi thì ra ngoài hành sự sao lại chẳng lợi ích cho được, do đó mà nói “dụng đại sinh, cát, lợi hữu du vãng”.

Thánh nhân thuận theo thói Đời mà hiển bày ý Đạo, chớ chẳng phải khuyến khích sự ấy hay khen ngợi sự ấy, dù cho không nói thì sự ấy ở thời xa xưa vẫn diễn ra như thường, đã nhất định phải nói tới chi bằng ta nói cho đúng như thật mà lại nhẹ nhàng đưa vào trong đó những ý nghĩa sâu sắc, khiến người tỉnh ngộ thoát mê, ấy chẳng phải là pháp phương tiện khéo léo vô cùng đó hay sao !
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1750148873878.webp

Tập Khảm

習坎: 有孚, 維心亨, 行有尚.
Tập Khảm: Hữu phu, duy tâm hanh, hành hữu thượng.

“Tập” là hai lần; là theo điều đã học mà thực hành. “Khảm”là hố, trũng, chỗ hõm; là hiểm hóc; “Hữu phu” là có sự thành tín. “Duy” là duy trì, giữ gìn; là chỉ, chỉ có; là dây buộc; “Tâm” là tim – người xưa cho tim là vật để nghĩ ngợi, cái gì thuộc về tư tưởng đều gọi là tâm; là lòng dạ; là suy tư, mưu tính. “Thượng” là tôn sùng, coi trọng; còn nghĩa là khoe khoang, tự phụ.

Kinh nói: Tập khảm, hữu phu.

Tại sao lại là tập khảm ? Vì khảm là chỗ khó khăn, là sự hiểm hóc trên đường Đời, sự khó khăn nhân đôi khi mà lúng túng không biết phải làm sao, phải xử lý thế nào cho phải, bởi trước Khảm là “Mông” – tâm trí ngu tối, do đó mới gọi là “tập khảm” – nhân đôi sự hiểm nguy.

Trên quẻ Mông nói không biết phải hỏi lại, cái sự hỏi là quay về nội tâm, hướng về cội gốc của Tâm là Tiềm thức để hỏi cho ra nhẽ, khi được cái sáng suốt, cái lối đi rồi thì tin tưởng mà đem cái đó vô để thực hành thực hiện chứ không phải hỏi đi hỏi lại hai ba lần, thế thì “hữu phu” tức là đặt niềm tin vào điều Tiềm thức mình mách bảo.

Kinh Kālāma còn có tên gọi khác là Kesamutti sutta,nằm trong Tăng Chi Bộ Kinh, thuộc cuốn I, chương Ba Pháp ( Tikanipata) phần Đại Phẩm (Mahavagga) ghi lại lời dạy đức Phật về những điều chớ vội tin:

Này đại chúng Kālāmā,
(1) Chớ vội tin điều gì chỉ vì đó là lời truyền khẩu. Chớ vội tin điều gì chỉ vì đó là truyền thuyết.
(2) Chớ vội tin điều gì chỉ vì đó là điều truyền tụng.
(3) Chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được truyền thừa trong kinh điển.
(4) Chớ vội tin qua lý luận suy diễn.
(5) Chớ vội tin chỉ vì diễn giải tương tự.
(6) Chớ vội tin qua sự đánh giá hời hợt những dữ kiện.
(7) Chớ vội tin chỉ vì phù hợp với định kiến, với kiến thức nền của mình.
(8) Chớ vội tin chỉ vì điều đó nghe như hợp lý.
(9) Chớ vội tin chỉ vì vị Sa- môn nói ra là sư phụ của mình.


Như vậy thì ở đây “hữu phu” tức là có niềm tin chẳng những vào điều nội tâm Tiềm thức cho hay, lối đi hé mở từ sâu nội tâm của mình, mà còn là tự tin vào bản thân mình, tự tin vào việc nếu con đường đó là đúng đăn, nếu lối đi ấy là chân lý thì thời ta hãy ứng dụng nó vào vấn đề đang bế tắc, ắt là thực tế sẽ cho ta lời khẳng định chính xác, mà chẳng phải bị rơi vào những điều “chớ vội tin” mà đức Phật đã cảnh tỉnh ở trên đây.

Kinh nói: Duy tâm hanh, hành hữu thượng.

Người xưa nói: “Tâm thông tắc sự thông” – tư tưởng thông suốt thì hành động tất thuận lợi; lại nói: “Dĩ tâm minh đạo, dĩ đạo ngự vật” – dùng tâm để làm sáng tỏ đường lối, dùng đường lối mà điểu khiển mọi việc; thế thì cái sự thông suốt tư tưởng trong lúc gặp cảnh “hiểm hóc” khó khăn ắt có vai trò quan trọng, nó chẳng những tăng thêm sự tự tin, còn khiến cho hành vi có mực thước tầng bậc rõ ràng, làm mà biết rõ mình làm gì, biết rõ vì điều gì mà mình làm việc đó, được vậy thì sự làm ắt “hanh”, mới cần phải “duy tâm” – giữ gìn cái tâm sáng suốt mà hành sự, thì việc mới nên và mới vượt thành được sự khó.

Tâm dù biết phải làm gì rồi, nhưng đó mới là “bản vẽ, bản đồ”, chưa phải là cái thực tế “thông suốt”, biết thì đã biết mà ứng dụng cái biết vào để chuyển hóa cái vướng ở hiện tại lại là một chuyện khác nữa, cần nhất là không được vội vàng, không được gấp gáp khinh xuất, vì đây là lối đi mới để xử lý vấn để mới mẻ với mình, cho nên rất cần “hữu thượng” – cọi trọng, không phải sự coi trọng bình thường mà có thể nói là như người dưới “tôn sùng, kính trọng” người trên vậy, coi cái sự thành bại của việc làm nó trọng tới mức phải dè dặt, phải nhún nhường chẳng được khoe khoang. Tại sao lại sinh tâm khoe khoang ? Vì việc người khác không biết phải làm sao mình lại biết làm, chỗ đang tối tăm được mình rọi vào đó ánh sáng, nghĩ mình hơn người nên sinh lòng ấy, đó là việc không tốt. Bởi tất cả mới chỉ ở mức “cho là” sẽ thành, chữ sự thì chưa đạt tới. Vậy nên, gặp lúc khó khăn, trước là phải đả thông tư tưởng, tìm ra phương cách, kiểm tra kỹ càng rồi từ từ áp dụng vào chuyển hóa thực tế, ấy mới thực là chỗ “duy tâm hanh, hành hữu thượng” mà Thánh nhân khuyên dạy. Cách tiếp cận này chẳng những đúng với việc làm, còn đúng với việc sửa mình nữa vậy. Rất cần phải lưu tâm.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1750278856124.webp

Phong Thủy Hoán

渙: 亨.王假有廟.利涉大川.利貞.
Hoán: Hanh. Vương giả hữu miếu, Lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh.

Cụm từ “Vương cách hữu miếu” có nhắc tới trong quẻ Tụy, ấy là khi mọi người tập trung lại cùng Vua đối trước Tổ tiên Trời Đất mà bày tỏ lòng mình, cầu mong có được sự sáng suốt thông thái để hành sự thành công mà tránh được lỗi lầm không lường hết được. Ở đây, một lần nữa lại nhắc tới, thế thì biết rằng việc này có tầm quan trọng không hề nhỏ, vì vậy mới phải kính Thiên lễ Tổ.

Kinh nói: Hoán, hanh.

“Hoán” nghĩa là tan tác; phân tán, chia lìa; là loại bỏ. “Hoán” là việc phải làm khi thời “Cách” tới.

“Cách” thay đổi, đổi mới; muốn đổi mới thì phải loại bỏ đi những cái không còn phù hợp, tạo nên “không gian” để cho cái mới mẻ tốt tươi có cơ hội nảy sinh, có thể gieo hạt ươm mầm những nhân tốt tiến bộ nhằm hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn, sự loại bỏ ấy tức là “Hoán” vậy. Nguyên nhân phát sinh “Hoán” không giống như ở “Khuê” mâu thuẫn, hay “Tụng” tranh cãi, nó cần thiết khách quan và mang tính tích cực. Chính vì thế nó mang lại sự “hanh” thông.

Sự thay đổi của “Cách” muốn thành tựu, suy tới cùng là phải thay đổi bản thân mình, thay đổi bản thân mình tức là sửa đổi thói hư tật xấu của mình, nhưng gốc của thói hư tật xấu nằm ở tâm niệm bất thiện. Trước đây, trong quẻ Tỉnh, Thánh nhân mượn hình ảnh giếng nước dụ cho Tâm, trong Tâm thì có dòng chảy như vô tận âm thầm phía dưới gọi là dòng “ý niệm”, dòng ý niệm này có thiện ác, tốt xấu, hỷ nộ, ái ố v..v như dòng nước có trong có đục, khi mà dòng nước “suy nghĩ” bị “ô nhiễm” bởi những ý niệm xấu xa, trái với chuẩn mực, nó sẽ thôi thúc xuất sanh hành động không chính đáng, lâu ngày cứ niệm sinh thì hành động hiện, tích tụ thành thói quen, gọi là “thói hư tật xấu”. Do đó, nay cần “Hoán” bỏ những tạp niệm xấu tệ ấy đi, để chỗ cho những ý niệm tốt đẹp có khoảng không gian phát triển, lớn mạnh; mỗi ngày vun tưới cho nó thì trở thành thói lành việc tốt, như cây trái lớn mạnh chiếm giữ không gian thì cỏ dại tự động thui chột dần dần, nếu lại siêng năng cuốc xới – “Hoán” - ắt là một ngày kia, cả “khu vườn” Tâm chỉ toàn hoa thơm trái ngọt "ý thiện, lòng lành", không còn sự um tùm của cỏ “tệ niệm xấu ác” bủa vây.

Kinh nói: Vương giả hữu miếu, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh.

Việc “Hoán” tuy là tích cực, nhưng chỉ tích cực khi nó được thực hiện chuẩn xác, loại bỏ đúng cái cần bỏ. Muốn vậy thì rất cần sự “tịnh tâm sáng suốt”, do đó mới có việc “Vương giả hữu miếu”, người đứng đầu là Vua phải tới trước nơi thờ Tổ tiên để lắng lòng, đón nhận sự minh mẫn cần có. Đã có trí huệ lựa chọn đúng nơi cần bỏ, đúng người cần chia li rồi thì ắt việc lớn sẽ thành, khó khăn sẽ vượt qua để mang lại kết quả tốt đẹp thôi, nhưng cũng như trước đây và mãi mãi về sau, trí huệ chỉ hiện diện trong một tấm lòng trong sáng rỗng rang, cũng như sự lợi ích chỉ nảy sinh khi việc làm được thực hiện bởi một tấm lòng trong sạch như thế. Do đó, Thánh nhân nói rằng: “lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh”. Lợi ích nhân đôi nhờ Trí sinh bởi đức “Trinh” sáng rõ.

Tâm là “Vua”, Ý là “Quan”, Thức là “lính”, toàn bộ “tâm hồn tiềm thức” là đất nước. Nay “đất nước” Tâm hồn có giặc tham lam, thù ghét, bỏn xẻn, oán hại v..v xâm nhập, “Vua” Tâm nhận biết sự nguy hại, mới chia “Quan” Ý đi các nơi dẹp trừ, loại bỏ - tức “Hoán”, “Quan” ý xem xét tình hình đánh giá lợi hại rồi quyết định phương án hành động, giao việc cho Lính “thức” phân biệt thông qua Óc, điều khiển mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tạo tác việc lành, lánh xa việc dữ, tập thành thói tốt v..v cho tới một ngày thân tốt, miệng lành, thức thiện thì khi đó Ý an, Tâm tịnh, “đất nước” tâm hồn được hưởng thái bình thịnh trị, tức là hỷ lạc an yên không còn lo ưu phiền muộn. Khi ấy thì sự “Cách” thành tựu nhờ sự “Hoán” thực hiện đủ đầy tạo nên !
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Phật Pháp nơi thế gian,
Nương vào Thế Gian hiện.
Học Đạo nơi cuộc Đời,
Lợi Đời hiển bày Đạo.
Thế gian nuôi trí nguyện,
Xuất thế hoằng độ sinh.
Hạnh nguyện mới viên thành,
Giác hạnh thời viên mãn.
Tiếp theo tỏ bày rõ,
Sự giàu có nơi Đời,
Nhờ Đức Tài sáng tươi,
Rõ ràng Dịch răn dạy.
Vô thường vốn chẳng thật,
Giàu giả tạm đâu bền.
Chỉ nhờ Đức Tài nên,
Là bền chắc mãi mãi !

Mọi sự trên đời, hễ hời hợt thì chẳng thành mà "dục tốc" lại "bất đạt", biết kiểm soát sự nỗ lực và duy trì nó một cách hài hòa cân bằng, mới hầu đem đến kết quả như ý mà chẳng tạo thành di hại về sau. Khao khát điều gì tới nỗi đánh mất sự tỉnh táo sáng suốt sẽ dẫn tới hành động quá mức và quá sức, trước là việc bất thành, sau là thân bất ổn. Rốt cục lại đem thứ quý giá hoản hảo đổi lấy sự méo mó tầm thường, thật đáng tiếc thay.

Đạo của Trời Đất là cân bằng, nên Thánh nhân chỉ rõ chỗ đối nghịch để mà biết nẻo đi lối về. Một chữ "Quá" sau đây là biển báo ven đường, tức thời cảnh tỉnh cho người có tâm muốn dốc lòng vì lý tưởng đã cố gắng, phải biết nên tự xét định mà điểu chỉnh cho hài hòa điều độ.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1751080118179.webp

Lôi Sơn Tiểu Quá

小過: 亨, 利貞.
Tiểu quá: Hanh, lợi trinh.
可小事, 不可 大事
Khả tiểu sự, bất khả đại sự.
飛鳥遺之音, 不宜上, 宜下, 大吉.
Phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát.



Kinh nói: Tiểu Quá hanh, lợi trinh.

Chữ "Quá" tức là hơn, là vượt; vượt hơn cái gì ? Hơn giới hạn của bản thân mình. Như vận động viên rèn luyện, mỗi ngày lại tăng thêm một ít, mỗi ngày một ít vượt hơn kỳ trước tức là "tiểu quá" vậy. Như "mài sắt thành kim", "kiến tha lâu đầy tổ", do sự tích tiểu mà thành đại, khiến sự đương khó khăn lại thành dễ dàng, vì thế cái quả "hanh" thông nó tự nhiên theo sau, cái sự "lợi" ích nó tự nhiên biểu hiện. Cái đức "tiểu quá" - mỗi ngày hơn một chút này, là nét Trinh của bậc quân tử đang trên đường rèn Đức hạnh, để xứng với Đức Trinh của Đất Trời. Tuy chẳng phải là ích lớn cho người, xong là chánh nhân mai sau làm nên sự Đại lợi cho thiên hạ, vì người quân tử biết rằng: Trời không giúp kẻ lười biếng, Đất chẳng dung kẻ an phận, nên tự mình phải rèn luyện gắng công.

Kinh nói: Khả tiểu sự, bất khả đại sự.

Chữ "khả" là chỉ cho khả năng, là năng lực hiện tại. Cái năng lực của "tiểu quá" mới chỉ là Tu thân, sửa mình, tề gia cho nên chỉ tạm xứng với "tiểu sự" tức việc nhỏ nhẹ trong phạm vi thân thuộc mà thôi, chứ còn thống lãnh thiên hạ, trị quốc an bang, hãy còn xa vời chưa chạm đến. Đây là chỗ mà Thánh nhân đặc lưu chú ý, phàm làm gì phải biết tự lượng sức mình, chớ ham danh hão lợi to, mà vọng ngôn cuồng trí, lao đầu vô nghĩ nhận lấy trọng trách vượt quá giới hạn. Như vậy chỉ là tự chuốc lấy nhọc, tự làm trò cười cho thiên hạ mà thôi, rốt sau lại chẳng những uổng phí thì giờ của chính mình, mà còn làm lỡ mất thời cơ của bao người khác.

Kinh nói: Phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát.

"Phi điểu" là con chim đang bay, chim bay mà phát ra tiếng thì một là do hốt hoảng, sợ hãi; hai là do muốn được chú ý; đang bay tức là chưa tới nơi, chưa thành tựu, chưa thành mà lại vội vã "tại thượng" ấy là tối kỵ, do đó Thánh nhân dạy răn: "bất nghi thương" - chưa phù hợp nơi cao, nên đặt mình nơi thấp "nghi hạ", ấy là "an phận thủ kỷ, cầu kỳ sở năng" - giữ phận đúng tầm, làm việc vừa sức, do đó mới được "đại cát" vậy.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1751099146252.webp

Trạch Phong Đại Quá

大過: 棟撓, 利有攸往, 亨.
Đại quá: đống nạo, lợi hữu du vãng, hanh.

Kinh nói: Đại quá đống nạo.

Cột trụ chính gọi là "đống", khi bị cong đi thì gọi là "nạo", đây là chỉ cho vị trí nhiều trọng trách, người quân tử từ chỗ "tiểu" mà không ngừng nghỉ, nay lại tới chỗ "đại" thì lẽ cho đúng ắt phải tương xứng, hà cớ gì lại trụ chẳng vững, khiến cho bị "cong" bị vẹo như vậy ? Ấy là vì "tiểu" vượt quá thì được chỗ "Trung", "đại" vượt quá thì thành "bất trung", Thánh nhân đều lấy chữ "Trung" làm Đạo lập pháp, lập cương, lập đức; do đó mà lìa "trung" lại thành ra "đống nạo" vậy.

Kinh nói: Lợi hữu du vãng, hanh.

Nay bị nghiêng ngả cong vẹo, ắt phải tu chỉnh lại cho bằng để được chỗ "Trung", muốn thấy rõ vật , hiễu rõ chỗ "cong vẹo" của nó thì phải "cách vật trí tri" - xem xét cho thấu đáo, sáng tỏ tới cội nguồn. Tự mình chẳng thấu ắt phải cầu học, nên chỗ "lợi" lúc này tức là "hữu du vãng" - đi xa học hỏi , nhân "hữu du" mà tỏ tường, lại đem chỗ đã tỏ tường ứng dụng tu chỉnh nên được sự "hanh" thông.

Chưa tới chỗ cao thì phải tùy sức mà hành, đã ở chỗ cao thì phải không ngừng suy tường chỉnh đốn, cốt để được cái đạo an hòa bình ổn, hòa cùng cái đức Trung Chính của Đất Trời, hòng kéo dài sự thịnh cho tới ngàn thu vạn đại về sau. Bằng không thì thành tất hoại, trụ tất suy, lại theo lẽ biến hóa Thái Bĩ cùng Càn Khôn xoay vần luân chuyển.

Dịch đã bất tận, thì người cũng phải "tùy thời chế nghi" - tùy thời điểm địa vị mà chế phương cách phù hợp), "dĩ cái bất biến" để "ứng cái vạn biến" không cùng.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Ai tỏ Địa lý nước Nam ?
Chân truyền “Thánh” ấy, danh rền Tả Ao.


Tục danh Nguyễn Đức, tên Huyên,
Tả Ao làng đó, huyện phường Nghi Xuân.
Nhà nghèo, cha mất khổ thân;
Mẹ lòa, anh cũng xơ bần xác luôn.
Thương mẹ, mắt đẫm "mưa tuôn",
Ngồi hiên tựa gió, quyết tìm thuốc thang.

Đêm ngày Trời khấn, van than:
Tìm ra Thầy thuốc, chữa lành mẫu thân.
Trời như thấu tỏ tình chân,
Phú Thạch nơi ấy, Thầy Tàu nổi danh.
Nhưng mà TIỀN chẳng bên mình,
“Hoa Đà” hiện đó, giận lòng tím gan.
Phận con, bất Hiếu rõ ràng;
Cho nên vứt hết dọc ngang thói đời.
Liều thân tự tới Thầy chơi,
Kể cho đầu cuối sự tình Mẹ, Cha.
Xin Thầy nghề thuốc “bảo gia”,
Nguyện thân khuyển mã, cho cha mẹ nhờ.

Thầy Tàu nghe tỏ trước sau,
Xem Huyên cũng hẳn Hiếu nhân có lòng.
Cho cơm, sai vặt việc trong;
Coi như ở đợ, thử lòng sắt son.
Thoăn thoắt đã bốn tháng tròn,
Xét xem đã tỏ, đức người Trí cao.
Khôn ngoan, lễ phép ra vào;
Tuy phận nghèo khó, tế - thanh có thừa.
Thế nên dặn bảo đó đây
Giao cho tán thuốc, dược viên chỉ bày.

Dù xin chỉ bảo nhiều thay,
Chỉ hẹn, chẳng bảo dạy răn thêm gì.
Như người khác, ắt bỏ đi;
Huyên đây gan sắt, lòng chì, vững yên.
Hai năm gian khó triền miên,
Mà sao Thầy bỗng, đòi về cố hương.

Thầy đi, thì dắt con đi;
Thiên sơn vạn thủy, nguyện đi theo cùng.
Trí này, quả rất lạ lùng,
Khen người hiếm có, Thầy ưng trong lòng.
Tới kỳ Huyên cũng ngược dòng,
Về xin phép mẹ, nhờ anh giúp mình:
Anh ơi ! Hiếu nghĩa trọng khinh,
Ngặt vì em muốn tỏ tinh phép Thầy,
Mong anh, thương mẹ đủ đầy,
Cả phần em nữa, trong ngày em đi.

Vững lòng, can đảm, lệ ghì;
Học cho thành nghệ, quyết vì độ nhân.
Gió lạnh thổi gáy buốt chân,
Trời Nam khuất bóng, chim rền tiếng thương.
Quê Thầy, lạ nước, lạ nương;
Lạ người, lạ xứ, lạ đường vào ra.
Thân quyen không một bóng tà,
Ngữ ngôn chẳng tỏ, phong thanh chẳng tường.
Khó khăn đâu dễ cản đường,
Trí Huyên đã quyết, rồi sau cũng rành.

Thầy cười, chấp thuận, dạy răn;
Thuốc phương chỉ bảo, pháp đường chỉ tay.
Nức dạ Huyên tỏ lòng ngay,
Ngày đêm đem hết trí say học hành.
Người đau, bệnh chữa chẳng lâu;
“Mát tay” khỏi lẹ, có phần nhỉnh hơn.
Thầy e trò ấy “quá khôn”,
Tạm thử dấu bớt, những đường yếu chân.
Huyên hiểu, lòng cứ lặng câm;
Tự mò tự mẫm, tự hành tự chiêm.
“Bí mật” tỏ sáng, dĩ nhiên;
Thầy càng kinh ngạc, tất liền chỉ ngay.
Toàn tâm toàn ý học Thầy,
Trăm thang nghìn thuốc, bài hay nắm lòng.
Quảng Đông, danh chóng nổi mau.
Thầy Tàu cũng phải gật đầu khen “tinh”.

Tự lòng xét rõ lý tình,
Xin Thầy, con muốn về gần mẫu thân.
Vì mẹ con mới dấn thân,
Học Thầy, được dạy, còn thầm khắc ơn.
Chỉ nay xin phép đền ân,
Bệnh mẹ mà khỏi, con lại Thầy ngay.
Nguyên hầu sáng tối suốt ngày,
Tới Thầy trăm tuổi, lo yên giấc hồng.
Tuyệt nhiên, không dám kể công.
Ơn Thầy con mãi, muôn Đông con thờ.


Đồng thuận, Thầy chỉ hết cho;
Cách chi trị được, thuộc gì tất xong.
Hai viên diệu dược linh long,
Trao tay dặn hãy dùng xong, khỏi liền.
Y lời, hồi xứ trị liền;
Tài hay, thuốc diệu, mắt liền sáng ra.
Mẹ yêu, thuở ấy mù lòa;
Mà nay thấy tỏ, thấy tường con yêu.
Khóc vui hạnh phúc bao nhiêu;
Khổ công chịu đắng, có ngày được ân.
-----
Tục ta danh trấn tứ miền,
Tên sinh ẩn khuất, tên riêng xứ bày.
Tả Ao từ ấy đổi thay,
Danh người y đức, thuốc hay bệnh phiền.
Hiếu thì cũng trả cho yên,
Ơn Thầy, nghĩa ấy, lời riêng vẫn còn.
Từ mẹ, lòng vẹn sắt son;
Dạy anh bốc thuốc, lấy đường mưu sinh.
Phổ thông, bệnh dễ cũng tinh,
Chỉ xong, thu xếp về Thầy báo ân.

Gần Thầy lễ kính dạ thưa,
Lại siêng học tập, lại rèn tinh thêm.
Rồi hôm đại phú kêu tên,
Là Thầy Địa Lý, danh rền xứ đây;
Bao nhiêu của cải bủa vậy,
Thê xinh thiếp đẹp, nhọc trầy mắt hư.
Tiền thang, tiền thuốc có dư,
Mà lại không khỏi, hứa chừa Tài cho.
Bao nhiêu, xin nửa cũng lo;
Miễn là trị khỏi, chẳng do dự gì.

Tả Ao, đức mạnh tức thì;
Tiền tài đâu thích, xin riêng nghề Thầy.
Trong bụng nghĩ cũng lạ thay,
Nhưng mà vì bệnh, nào đâu bận lòng.
Chưa tròn một tháng đã xong,
Mắt Thầy địa lý lại liền khỏi ngay.
Vậy là bụng dạ rưng rưng,
Thế đất, thế núi, ruộng đồng, truyền trao.
Phân kim điểm huyệt thế nào,
Nhờ đâu phát kết, phát về nẻo chi.
Phép táng dạy chỉ nhớ ghi,
Bao tấc, bao thước, lễ nghi tỏ tường.
Trong khi truyền thụ luôn luôn,
Thầy Y tạ thế, lo lường cũng xong.
Dọn sang, học tiếp thỏa lòng;
Cả trăm cuộc đất, huyệt tường chẳng sai.
Tả Ao rồi cũng thành tài,
Thầy Địa than thở: nghề sang Nam rồi.

Từ giã, hồi khứ thảnh thơi;
Về Nam, gặp mẹ, cũng vơi nhớ nhà.
Tài cao, đức hạnh thuần hòa;
Người thương cũng có, vợ hiền kề bên.
Đế huyệt chợt gặp hữu duyên,
Liền táng Cha xuống, gia liền phất ngay.
Vợ mang dạ chửa, chóng thay;
Con sinh tuấn tú, thông minh lạ thường;
Gia đạo phát vượng theo luôn;
Ngàn tinh tú cũng theo hầu đêm khuya.
Quan tinh Tàu rõ thấy kỳ,
Vì sao tinh tượng hướng về nước Nam.
Truy xét, dò hỏi rõ ràng;
Rồi sai người tới dò la tìm đường.
Dựa quen thân hữu dò tin,
Biết là Đế Huyệt, yểm liền triệt ngay;

Từ ấy gia đạo đổi thay,
Con thì lạc mất, tình thời dở dang.
Lang thang phiêu bạt nhân gian,
Gặp người đức hạnh, thử lòng giúp cho.
Nhược bằng ác hiểm, a dua;
Liền cho gặp phải những điều dở than.
Thong dong, giữa áng chiều tàn;
Hàm Rồng há miệng, trăm năm khó tìm;
Táng vào, phát khó yểm xiên;
Liền cùng anh vác quan khiêng mẹ dời,
Một giờ là hết tới nơi,
Anh thời không chịu, dạ thời thở than.
Ngước Trời mà tỏ rõ ràng,
Vô Đức, thiếu Phước, cưỡng duyên khó thành.
Cho nên, ngẫm lại lý riêng,
Tả vô sách ấy, lần truyền thế nhân.

Dạy rằng: Tầm thủy tầm Long,
Trước thời Đức phải, vừa lòng Trời cao.
Khi ấy huyệt xứng táng vào,
Đắc cho an định, mới thời hiển vinh.
Luật Trời, cố cưỡng xem nào ?
Dương hết, thọ yểu, sống sao lâu dài !

Truyện dài, nên cũng kể dài;
Để người sẽ tỏ rằng Tài, Đức theo,
Tả Ao danh trấn bao nhiêu,
Mà khi táng huyệt, chỉ Tiên xuất trần;
Nào đâu táng huyệt Minh Quân,
Vì hiểu lẽ phước, lẽ nhân, lẽ Trời.

Than ôi ! Tiểu Đại lưỡng ngôi,
“Súc” là sự hưởng, “Đức” là nhân gieo.
Danh vị Tài đức xứng không ?
Tiểu súc, Đại súc dạ tòng theo nghe.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1751162180518.webp

Phong Thiên Tiểu Súc

小 畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 .
Tiểu súc: Hanh. Mật vân bất vũ, tự ngã Tây giao.


Kinh nói: Tiểu súc, hanh.

“Súc” có nghĩa là súc tích, là chứa đựng, chứa đựng cái gì ? Chứa đựng Đức Hạnh. Lại có nghĩa là nuôi dưỡng, là vun bồi, nuôi dưỡng vun bồi cái gì ? Vun bồi Hạnh Đức.

Như cuộc đời Thầy Tả Ao, tuy xuất thân bần hàn nghèo khó, hoàn cảnh thiếu khuyết éo le, song nhờ tích Đức hành Thiện, giữ gìn Hiếu Nghĩa, vì Hiếu Nghĩa mà hi sinh lợi ích bản thân mình, nhờ Hiếu Nghĩa mà vượt qua thử thách trên con đường rèn luyện Đức Hạnh của bản thân mình, mà được Danh cao, Lợi nhiều, tiếng thơm còn mãi. Mặc dù, còn có lúc ghét thương, đối với kẻ bất lương thì còn muốn trừng phạt, cho nên giai vị “thăng Thiên” vẫn còn có phần “đạm bạc”, chưa vươn sánh được với Trinh Đức của Đất Trời, song so với người đời, xét ra còn cao thăng vượt lên mấy bậc. Có thể kiếp sau vẫn còn phải rèn sâu để vươn lên ở cõi giới khác, song kiếp này đã có thể nói là viên toại thành công, chẳng uổng công sinh ra một kiếp làm người.

“Tiểu súc” là Đức tích còn mỏng Phước tích chưa dày, tuy đạt được sự “hanh” - tượng như mây dày che bớt cái gắt gao của ánh nắng, song chưa toại thành sự “lợi” - tượng như nắng hạn được gặp mưa, tưới mát dịu khắp cả nhân gian. Nên có khi được Thầy nhận cho theo, mà chưa hết lòng dạy bảo, có khi đã được dạy bảo, mà chưa được giáo nghĩa thâm sâu, có khi đạt tới chỗ sâu, mà mãn viên tốt thành chưa đến; hết thảy như thế đều chỉ là sự “Tiểu súc” mà thôi.

Kinh nói: Mật vân bất vũ, tự ngã Tây giao.

“Mật vân bất vũ” là nghĩa mây tụ dày mà chưa mưa, mưa tức là được như ý nguyện, chưa mưa thì ý nguyện chưa toại, chưa toại là vì có cố gắng tới mức sắp thành, như trái đã sinh đang già, sắp chuyển màu tỏa hương báo hiệu sự chín ngon sắp tới. Ấy là lời khuyên cho nên gắng nữa, sắp được rồi, chớ có bỏ cuộc mà uổng phí quãng đường đã dày công vun đắp trước đây.

“Giao” nghĩa là giao tế, tế lễ dâng lên; dâng lên ai vậy ? Dâng lên Trời cao. Khi không sao phải dâng lên Trời chi vậy ? Ấy là nhờ Trời triển chuyển duyên lành, mà gặp may cảnh tốt gặp người quý nhân, giúp cho những lúc gian truân, mờ đường lạc lối sắp phần hiểm nguy. Tự mình không tỏ mà đi, sa hầm sụt hố biết kỳ khi nao ? Do vậy mà cảm ơn Trời thầm gia ân giúp đỡ, mà tế lễ thể hiện lòng thành. “Giao” cũng có nghĩa là gần kề, Tây giao cũng tức là gần kề Tây phương.

Phương thì tứ chính Đông Tây Nam Bắc, hà cớ gì lại hướng về Tây mà chẳng nói tới hướng về ba hướng kia ? Thực ra nói một hướng thì đã gồm đủ bốn hướng, lấy “tự ngã” để định vị rồi thì tự khắc mà vạch rõ Tứ phương; nhưng bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, ứng với màu xanh, đỏ, trắng, đen; thế thì năm Hành làm sao phân giải ? Theo tiết khí có thêm mùa “trường hạ”, là lúc khí nóng từ đất bay nhẹ lên, không thể vượt lên cao, bị lơ lửng lưng chừng ngang gối, do đó dễ sinh ra bệnh “phong thấp”, thế thì 4 mùa mà nối giữa Hạ với Thu, sinh thêm mùa thứ năm ứng Thổ Hành, tên gọi “trường hạ”, nó màu vàng như cây thơm chín mọng; ứng cho thời người Quân tử đạo đức sắp hiển vinh, có thể gặt thu và trao truyền những điều tinh diệu cũng được rồi, nhưng gắng đợi thêm chút nữa mới “hoàn mỹ, toàn chân”. Vậy thì "Tây giao" là gần kề Tây mà chưa tới Tây ứng mùa Thu, thì ắt là chỉ cho cái vị trí "Trường Hạ" này !

Người Thầy dạy Y đức cho Thầy Tả Ao rất cẩn trọng trăm phần, chính vì thế mà Đạo Y Thầy ấy mới cao minh tới vậy, vì nghiệp cứu người đâu dễ dàng dễ dãi, như Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã từng nói: Thiện nhân chí mưu, y giả phụ mẫu tâm (Người tốt thì vẫn có thể còn lòng mưu tính, nhưng người Thầy thuốc nhất định phải có tấm lòng hi sinh vô tư lợi như của mẹ cha – tức là quan tâm và cho đi, không bao giờ đòi nhận lại thứ gì.) Bởi thế mà đức tài đã tới độ, mà trọn vẹn phải đúng chín mùi mới truyền đạt Tâm tông.

Thật là “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” - một chữ cũng là Thầy nửa chữ cũng gọi Thầy, cái sự tinh tường cẩn trọng, cái sự vun đắp dày công của người Thầy đứng trong Tứ trọng ân mà khi làm người phải cần ghi nhớ, sánh ngang với ân Cha mẹ, quốc vương và ân nhân cứu mạng. "Tự ngã" tức là nói về bản thân mình, nhấn mạnh phải tự chính trực xét rõ chính mình, chớ không phải là làm thay cho người khác !
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1751170189104.webp

Sơn Thiên Đại Súc

大 畜: 利貞, 不家食, 吉; 利涉大川.
Đại súc: Lợi trinh, bất gia thực, cát; lợi thiệp đại xuyên.

Trái đã chín, đức hạnh đã thành, thời của “Đại súc” đã tới.

Kinh nói: Đại súc, lợi trinh, bất gia thực.

Trên nói “súc” là tích chứa, là nuôi dưỡng; Từ “tiểu súc” tới “đại súc” như tích tiểu thành đại, nuôi dần lớn khôn, nên “Đại súc” là thời Đức đã đủ dày Trí đã đủ sáng, gần với Đức Trinh của Trời Đất, do đó tự nhiên được cái “lợi” thu về, chẳng cần cưỡng cầu chẳng cần mưu tính. Phật Thích Ca nói: “Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh”, ấy là tính duyên sinh – thể hiện mối liên quan khăng khít, không tách rời như một chỉnh thể của vạn vật - ở đây thể hiện rõ ràng: Đức có thì Tài năng sẽ có, Tài năng có thì Lợi ích, lợi dưỡng tất nhiên là sẽ có theo thôi.

“Thực” nghĩa là đồ ăn, thứ dùng ăn được mang lại năng lượng, mang lại sức mạnh đều gọi là “thực” cả; ở đây thì nó chỉ cho “lợi dưỡng” mà người có Đức Tài xứng đáng được thọ hưởng. “Gia” tức là thuộc về một nhà, một gia đình; đi dọc đường hay thấy biển hiệu “nước sâm nhà làm”, “cơm chuẩn mẹ nấu” v..v đều quy về “Gia thực”; Tiền của mình bỏ công bỏ sức làm ra, rồi đem đổi lấy đồ ăn (thực), rồi tự mình chế biến để thọ dụng, nay nói “bất gia thực” – thì tức là chẳng ăn đồ mình bỏ sức ra làm; chẳng thọ hưởng thứ thuộc về gia đình mình. Không ăn cơm nhà, cơm mình thì chỉ có thể là ăn cơm người, cơm tiệm thôi; bởi có ai không ăn mà sống hoài được đâu, thậm chí đôi khi phàm nhân còn coi sự ăn này nó cao ngang, cao hơn cả Trời nữa vậy, “Dân dĩ thực vi Thiên” – dân lấy ăn làm Trời.

“Bất gia thực, cát” – ăn cơm người, cơm tiệm lại là "Cát" hỷ vui vẻ hay sao ? Kỳ lạ thế, người xưa còn nói “miếng ăn là miếng tồi tàn”, cụ An Tiêm còn cho nó là “của nợ” luôn mà, hà cớ chi Thánh nhân coi việc ấy lại là “Cát” được ? Đấy là vì xứng đáng, do sự biết ơn của người nhờ việc lợi ích mà mình làm ra bởi Đức Tài khổ công rèn luyện, khiến người được chuyển hóa, vượt qua được khó khăn, giải quyết được tốt đẹp, được thông lợi v..v cho nên trong cái niềm vui ấy họ muốn làm gì đó để báo đáp ơn tình, chia sẻ niềm vui, hỷ sự từ tâm sinh nên hiện tượng “Cát” vậy, đây là "Đức cao" thì "vọng trọng".

Kinh nói: Lợi thiệp đại xuyên.

Trên đã nói “đại xuyên” ý chỉ sự khó khăn trùng điệp mà con người sống trong cuộc đời cần phải vượt qua, thường phải đối mặt; ở đây vì có Đức Tài đủ đầy, người Quân tử đứng trước khó khăn giông bão nghịch cảnh, vẫn “bình chân như vại”, tự tại an nhiên mà giải quyết khó khăn, vượt qua khó khăn. Càng giải quyết thêm những vấn đề khó , những vấn đề người khác không làm được thì cái “lợi” lại theo đó càng tăng lên, cả về chất lẫn lượng. Chất là tài năng mình gia tăng, Lượng là lợi dưỡng mình thêm lớn, của cải thêm nhiều. Đây mới là cái gốc của sự giàu sang, chân chánh lại bền vững, mà Thánh nhân muốn chỉ cho con người đang trong vòng mưu cầu Danh Lợi, tỏ rõ mà bước theo.

Ôi thôi ! Thánh nhân tại thượng, vị nhân tại hạ, bái kính !
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Năm 2021, Elon Musk - người giàu nhất hành tinh, khi làm diễn giả cho một Hội nghị về Đầu tư tài chính tại Hoa kỳ, có người hỏi ông rằng:

" Thưa ông, là người giàu nhất thế giới, ông có thể chấp nhận việc con gái mình kết hôn với một người đàn ông nghèo và bình thường không ?"

Elon Musk trả lời rằng:

" Trước hết, hãy hiểu rằng "Giàu có" không có nghĩa là có một tài khoản ngân hàng nhiều con số. Giàu có trước hết là khả năng tạo ra của cải. Ví dụ: Một người nào đó trúng xổ số hoặc thắng bạc cả 100 triệu cũng không trở thành người giàu: Anh ta chỉ là người nghèo với rất nhiều tiền. Đó là lý do tại sao 90% triệu phú xổ số trở lại nghèo khổ sau 5 năm.

Ta có thể gặp những người giàu có nhưng không có tiền. Ví dụ: Hầu hết các doanh nhân đã và đang trên con đường trở nên giàu có ngay cả khi họ chưa có tiền, bởi vì họ đang phát triển trí thông minh tài chính của mình và với tôi đó chính là sự giàu có.

Người giàu có thể chết để trở nên giàu có, trong khi người nghèo có thể giết người để có tiền. Nếu bạn thấy một người trẻ quyết định rèn luyện, học hỏi những điều mới, luôn cố gắng cải thiện bản thân không ngừng, hãy tin rằng anh ta là một người giàu có. Nếu bạn thấy một người trẻ tuổi nghĩ rằng anh ta nghèo là do nhà nước, rằng người giàu toàn là người xấu, kẻ trộm và luôn chỉ trích người khác, hãy tin rằng anh ta là một người nghèo. Người giàu tin rằng họ chỉ cần thông tin và học hỏi để thành công, người nghèo nghĩ rằng người khác phải cho họ tiền để họ cất cánh.

Tóm lại, khi tôi nói rằng con gái tôi sẽ không lấy một người đàn ông nghèo, tôi không nói về tiền bạc. Tôi đang nói về khả năng tạo ra của cải ở người đàn ông đó. Xin lỗi vì đã nói điều này, nhưng hầu hết tội phạm đều là những người nghèo. Khi đứng trước đồng tiền, họ mất lý trí, đó là lý do họ cướp giật, trộm cắp… Đối với họ đó là lối thoát vì họ không học hỏi được kỹ năng tự mình kiếm tiền. "


Rất hay ! Người giàu, có thể chết trong và sẵn sàng chết vì sự phát triển "trí thông minh tài chính" của mình - nguồn gốc của khả năng tạo ra của cải - chứ không liều mạng để có trong tay thật nhiều Tiền, mà không cần quan tâm bản chất của Tiền là gì ? Và nó từ đâu mà ra cả !

Đây là lời chia sẻ chân thật, đi vào bản chất, phát ra từ một người đã ứng dụng thành công tư tưởng tương tự lời dạy của bậc Thánh nhân về "giàu có" của phàm nhân, sự thực hiện tại ông ấy chẳng những đã và đang là người giàu có mà còn là người giàu nhất nữa. Thế thi tư tưởng của Thánh nhân đã vượt xa cả ngàn năm rồi, mà nó vẫn hiển hiện sờ sờ ngay trước mắt nhân sinh. Kinh Dịch thế thì đâu có kém tính thời sự và giá trị, nào có phai nhạt theo thời gian !
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1751258204756.webp

Thiên Hỏa Đồng Nhân

同人于野, 亨.利涉大川.利君子貞.
Đồng nhân vu dã, hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi quân tử trinh.

Người với người tụ tập lại, hội họp lại với nhau, hòa thuận vui vẻ, tương trợ giúp đỡ gọi là “đồng nhân”.

Kinh nói: Đồng nhân vu dã, hanh.

“Đồng” nghĩa là đoàn kết, chung lòng, là hòa hợp. “Nhân” nghĩa là con người. “Vu dã” nghĩa là đi ra cánh đồng. Cánh đồng (dã) là nơi cấy cày sản xuất, là bãi lúa nương dâu, vừa bằng phẳng dễ đi, còn mang đến nguồn sống cho nhân loại. Con người nhờ ăn mà sống, cánh đồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, mùa màng bội thu thì con người no ấm yên vui hạnh phúc. Nhưng làm đồng làm nương rẫy, một nắng hai sương, tới thời tới vụ gieo trồng gặt hái nếu chỉ đơn độc thì khó bề thành tựu như ý, còn được bà con láng giềng mỗi người một tay một chân thì lại nhanh chóng vẹn toàn, nên “đồng nhân vu dã” là tượng cho sự đoàn kết nhất chí, cùng nhau tương trợ để thành tựu cho nhau. Người xưa nói: “nhất gia hữu nạn, bát phương chi viện”một nhà gặp khó khăn thì khắp nơi tới giúp đỡ, “điền phu hạ sừ chí, tương kiến ngữ y y” – nông dân vác cuốc ra ngoài, gặp nhau nói chuyện thân tình liên liên; đều nhằm nhắc nhở thế nhân phải nên tương trợ và hòa thuận với nhau thì sẽ được sự lợi ích lớn lao.

Cánh đồng là nguồn sống của con người, Tinh thần đoàn kết là nguồn sức mạnh của một tập thể, là "chất keo" gắn kết duy trì sự tồn tại của một tập thể. Chủ tịch H.C.M từng nói: Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết, thành công thành công đại thành công; nay đồng tâm nhất chí thì vạn sự “hanh” thông, ấy là thuận theo lẽ tự nhiên đó thôi.

Kinh nói: Lợi thiệp đại xuyên, lợi quân tử trinh.

Khi nhân loại đoàn kết chung lòng thì sự “lợi” ích là vô cùng lớn lao, nó giúp vượt qua bất kể gian nguy khó khăn thử thách nào trong kiếp nhân sinh. Người Quân tử gặp thời loạn thế, cũng phải hội tụ nhân tâm mới thành nên đại nghiệp, gặp thời thịnh thế cũng phải chinh phục nhân tâm mới thành tưu sự nghiệp, do đó, hễ nhân tâm đồng hướng về điều thiện lành thì rất là “lợi” ích cho sự thành tựu đức Trinh của người Quân tử và ngược lại.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 55%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
358
Điểm tương tác
151
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1751277917587.webp

Địa Thủy Sư

師: 貞 , 丈 人 吉 , 无 咎.
Sư: Trinh, trượng nhân cát, vô cữu.


Trên nói “Đồng nhân” là người cùng người hội họp lại với tinh thần đoàn kết tương trợ để chung tay thực hiện một việc gì. Ở đây thì mô tả những người tụ họp ấy như là một khối thống nhất mạnh mẽ, có sự kỷ luật và gắn kết chắc chắn, giống như một đội quân tức “Sư”.

Kinh nói: Sư, trinh.

Đoàn kết lại mà làm việc trái: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì sự đoàn kết ấy lại trở thành tai họa, chẳng những hủy hoại loài người, còn hủy hoại vạn vật và thế giới; ấy là lý do có những Triều đại sụp đổ rất nhanh chóng chỉ vì mất đi tính Chánh nghĩa, mất đi lòng dân – tức là mất đi đức hiếu sinh của Trời Đất; thế nên Trời mới khiến cho tồn tại chẳng lâu dài mà bị diệt vong. Thánh nhân tỏ rõ ý này, đặc biệt lưu ý khi tụ hợp lại thành một khối phải lấy đức Trinh làm kim chỉ Nam dẫn đường trong suy nghĩ và hành động; lấy sự trong sáng của tâm hồn bác ái vị tha và sự thành tín chân thật của người chánh nhân Quân tử để mà mưu sự và hành sự. Lấy đức Trinh làm gốc, làm cương lãnh, làm kỷ luật chung để mà gắn kết nhau khi hội họp, để mà dẫn lối nhau khi tranh biện, để mà giúp nhau cùng hoàn thiện bản thân mỗi người, như thế thì sự tụ họp ấy mới được gọi là “Sư, trinh”.

Kinh nói: Trượng nhân cát, vô cữu.

Đã lấy đức Trinh làm gốc để lập thân, lập gia, lập quốc và cai trị thiên hạ thì thiên hạ, quốc gia, dân tộc và bản thân tất được sự lợi ích, ắt tránh khỏi lỗi lầm, cho nên nói “vô cữu”. Nhưng thuyền không thể thiếu lái, nước một ngày không thể không có Vua, tập thể có tổ chức thì không thể thiếu người đứng đầu lãnh đạo để thống nhất ý nguyện của một tập thể và đưa ra quyết định cuối cùng trong mọi hoạt động chung. Chính vì vậy mà Thánh nhân đặc biệt lưu ý khi lựa chọn người thủ lãnh của một tập thể, muốn được “Cát” hỷ đại lợi, thỏa mãn được ý nguyện của đa số mọi người (vì thường rất khó có thể chiều lòng được tất cả, bởi luôn luôn trong một nhóm hội, một tổ chức sẽ có ít nhất vài cá thể có ý nguyện riêng đi ngược với số đông, khi ấy vai trò phủ quyết, xoa dịu, điều hòa những cá nhân ấy được trao cho người Thủ lĩnh, dựa trên Trinh đức làm cương lãnh) thì người đó phải là bậc “Trượng nhân”.

Vậy một người như thế nào được coi là “trượng nhân” ? Người xưa nói: “Trượng nhân như tùng, lịch sương tuyết nhi bất điêu; trượng nhân như kính, chiếu thị phi nhi bất thiên” – Trượng nhân như cây tùng, trải qua sương tuyết chẳng khô héo; trượng nhân như tấm gương, soi rõ phải trái trắng đen công bình không thiên lệch.
Người gọi là “trượng nhân” phải có sự khảng khái hiên ngang ngay thẳng, lại có khả năng chịu đựng sương tuyết, trải qua khó khăn mà lòng không siêu vẹo, ý chí không lung lay, kiên cường bền bỉ như cây tùng vậy. Tùng là giống cây gỗ có tuổi thọ lâu năm, có thể sống tới vài trăm năm, thân thẳng đẹp dáng vững trãi hiên ngang sừng sững, tồn tại được trong môi trường khắc nghiệt, cho nên lấy đó làm tượng biểu đạt phẩm chất của “trượng nhân”. Người thủ lĩnh trước đây trong các buôn làng thường gọi là già làng – ý chỉ người sống lâu năm nên có nhiều kinh nghiệm, biết nhiều kiến thức để dẫn dắt được mọi người trong tộc duy trì và phát triển đúng hướng.

Khi xảy ra mâu thuẫn tranh chấp giữa các cá nhân trong tổ chức, người “trượng nhân” phải làm gương được cho các cá nhân đó, có khả năng phân định đúng sai dựa trên những cơ sở vững chắc khách quan, không thiên lệch theo cảm tính, giúp các cá nhân đó nhìn nhận ra thiếu khuyết để mà tự mình uốn nắn sửa chữa, để ngày càng tiệm cận với Trinh đức của Thánh hiền. Bác Hồ là một người có phẩm chất của một “trượng nhân” như thế:

Ngày 20/01/1948, Bác Hồ ký sắc lệnh phong quân hàm cho một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội.

Trong số các đồng chí được phong quân hàm Thiếu tướng, Nguyễn Sơn là người văn võ song toàn, cùng với Lê Thiết Hùng là hai người đã từng làm việc với Bác Hồ trong thời kỳ Người hoạt động ở Trung Quốc. Với tài năng và bản lĩnh của mình, Nguyễn Sơn là sĩ quan người nước ngoài duy nhất của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, từng làm Chính ủy trung đoàn, Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 34 thuộc Quân đoàn 12 Hồng quân Trung Quốc. Ông cũng là người Việt Nam duy nhất đã đi hết cuộc Vạn lý Trường chinh của Hồng quân. Sau này, năm 1955, ông được Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phong quân hàm thiếu tướng, và từ đó được mệnh danh là “Lưỡng quốc tướng quân”

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 111/SL phong hàm thiếu tướng từ ngày 1-1-1948 cho Nguyễn Sơn, khi ấy là Tư lệnh Liên khu IV, nhưng ông trì hoãn không nhận vì cho rằng Bác Hồ chưa đánh giá hết năng lực của mình. Có giai thoại còn kể rằng, ông không nhận thụ phong vì cho rằng mình đã là “thừa tướng” rồi, không cần đến cấp “thiếu tướng”.

Nghe báo cáo về việc này, Bác Hồ lấy một tấm thiệp, viết mấy dòng chữ Hán gửi tướng Nguyễn Sơn: “Tặng Sơn đệ: Đảm dục đại/Tâm dục tế/Trí dục viên/Hạnh dục phương”. Đại ý: Ý chí cần quả quyết; lòng dạ cần tinh tế; kiến thức cần trọn vẹn; đạo đức cần đầy đủ. Ngoài phong bì thư, Bác ghi: “Thân gửi Sơn đệ - Ký tên: Người anh họ Nguyễn”.


Khi nhận được thư Bác, Nguyễn Sơn đã phải giật mình thốt lên: “Ông cụ khiếp thật!” và vui vẻ nhận lễ thụ phong. < Câu chuyện về Bác, trích dẫn từ báo điện tử: baothanhhoa.vn, xuất bản ngày 29/03/2023>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top