I
imported_gioidinhhue
Guest
608. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ nhất)
Nhận được thư biết ông tới chỗ ngụ ở Thượng Hải an toàn, hết thảy đều như thường, vui mừng, an ủi đến cùng cực. Thời cuộc chẳng yên, đừng nên bắt đầu tiến hành [làm những chuyện đã định]. Nên đợi đến khi thái bình thì mới tiến hành. Nếu không cẩn thận, sẽ hối chẳng kịp đấy! Vì vậy, đừng hạn định ngày tháng mà hãy nên dựa theo thời thế để ứng biến. Thế đạo hiện thời chính là thế đạo hoạn nạn. Tuy nói “niệm Phật diệt được túc nghiệp”, nhưng cần phải sanh lòng hổ thẹn lớn lao, sanh lòng kinh sợ lớn lao, chuyển cái tâm “tổn người lợi mình” của chúng sanh thành “hành hạnh Bồ Tát lợi khắp các chúng sanh” thì dù là túc nghiệp (nghiệp trong quá khứ) hay hiện nghiệp (nghiệp hiện tại) đều bị quang minh của Phật hiệu trong cái tâm đại Bồ Đề ấy tiêu diệt sạch sành sanh. Nếu đời trước và xưa kia từng tạo nghiệp lớn, nay tuy đã thôi làm ác, nhưng chưa thể tận lực tu các điều lành và chỉ niệm Phật hời hợt, hờ hững thì công chẳng cự được lỗi, cho nên khó tránh vướng phải ác báo ấy được! Chẳng phải là niệm Phật uổng công, mà là vì chưa phát Bồ Đề tâm, nhưng ác nghiệp lại đặc biệt rộng lớn nên [công đức niệm Phật] chẳng thể che lấp [ác nghiệp] được! Nếu có thể phát đại Bồ Đề tâm thì sẽ như mặt trời rực rỡ giữa hư không, sương móc tan ngay lập tức. Người đời phần nhiều nửa đời làm ác, rồi sau này mới cải hối. Do chưa thể hoàn toàn không có ác báo, bèn bảo: “Phật pháp chẳng linh, tu trì vô ích!”
Cư sĩ đã chẳng coi Quang là người ngoài, nên cố nhiên Quang chẳng thể không trình bày đại lược nguyên do với cư sĩ để mong ông thoát khỏi đường mê, lên bờ giác. Pháp môn Niệm Phật lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, lấy Bồ Đề tâm làm căn bản. Do bởi thật nghĩa “tâm này là Phật, tâm này làm Phật, nhân trùm biển quả, quả thấu nguồn nhân”, [cho nên] dùng “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” làm công phu thực hiện tối thiết yếu. Dùng điều ấy để hành, lại còn Tứ Hoằng Thệ Nguyện thường chẳng rời tâm thì tâm hợp với Phật, tâm hợp với đạo. Lúc đang còn sống sẽ dự vào bậc thánh, lâm chung lên thẳng Thượng Phẩm, ngõ hầu chẳng phụ cuộc sống này. Phải thường nên giảng nói với Chí Thường [những điều vừa nói trên đây] khiến cho tập khí nữ nhi hẹp hòi, hèn kém của cô ta biến thành chánh trí Bồ Đề thì công đức lớn lao lắm. Người tu Tịnh nghiệp ắt phải khuyên khắp người đời cùng tu Tịnh nghiệp, “làm gương cho vợ mình rồi đến anh em, cho đến khắp đất nước”[12] cho nên chẳng khác gì sự giáo hóa của các vị vua.
609. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ hai)
Nhận được thư đầy đủ. Đất Tần rét buốt, Tịnh Nghiệp Cư chỉ nên mở tiệm cơm chay thì mới có đôi chút khả quan. Nếu chiếu theo biện pháp của Công Đức Lâm ở phương Nam, ắt sẽ bị cụt vốn. Ở nơi ấy đã mang tên là Tịnh Nghiệp Cư thì hãy nên nhờ người viết chữ đẹp dùng lối chữ Khải chánh thức đang thông dụng hiện thời để sao chép công đức, lợi ích của Tịnh nghiệp và pháp tắc tu trì, rồi đem treo [những bài viết ấy] trên các bức tường để người ta đọc tới sẽ dấy lòng cảm kích. Ở nơi ấy chẳng thể tổ chức diễn giảng vì sợ có đông người đến nghe sẽ không đủ chỗ chứa, đừng nên làm theo kiểu đó. Nếu cứ làm thì sẽ đâm ra bị chướng ngại mà cũng gây trở ngại cho việc làm ăn.
Tịch Viên Liên Xã ắt phải thanh tịnh, thơm sạch. Chủ nhân ắt phải cung kính, chí thành, chớ nên ngạo mạn đối với người khác, cũng chớ đừng phô phang tỏ vẻ mình là người có đức hạnh. Phàm có ai đến đều phải đối đãi ôn hòa, cung kính, khiêm tốn (xét trong hiện thời, các hội Phật giáo các nơi hễ có quy mô hơi lớn thì thường phạm phải thói xấu là ngạo mạn đối với người khác. Đọc đến đây hãy nên đau đáu răn dè. Hãy chớ nên phân biệt sang - hèn, khiến cho khắp mọi người cùng được thấm nhuần pháp vị, gieo thiện căn). Còn như khi chưa niệm Phật và lúc đã niệm Phật xong, nhất loạt chẳng cho [những người đến niệm Phật] bàn tán chuyện trong gia đình. Nếu có những nghĩa trọng yếu có thể bàn luận được thì hãy bàn. Nếu không, ai về nhà nấy. Kẻ nào tuổi quá nhỏ thì chỉ nên niệm trong nhà của chính mình. Nếu thường đến mà ở gần thì còn được, chứ như đường xa sợ sẽ có chuyện xảy ra ngoài ý muốn, chẳng thể không cẩn thận! Nơi đây bất quá là chỗ để đề xướng [tu Tịnh nghiệp] trong địa phương mà thôi, vẫn phải chú trọng chuyên niệm Phật tại gia.
Ông đã đề xướng Liên Xã thì người lớn kẻ nhỏ trong nhà đều phải đoạn trừ rượu thịt. Nếu vẫn cứ [ăn uống tùy tiện] giống như người đương thời thì sẽ mất đi thể cách đề xướng. Chương trình giản lược của Tịnh Nghiệp Cư văn lẫn lý đều hay, nhưng chữ Huân (葷) bị viết sai thành chữ Vựng (暈: Quầng sáng quanh mặt trời, mặt trăng. Chữ 暈 đọc giống như âm Vận) thật là thất cách, xin hãy sửa cho đúng. Chữ Huân (葷) vốn chỉ những thứ hành, hẹ, kiệu, tỏi, cho nên viết bằng bộ Thảo (草). Kinh Phạm Võng giảng rõ Ngũ Tân (五辛: năm thứ cay nồng) là Đại Toán Thông (大蒜蔥: tức hẹ), Từ Thông (慈蔥: hành), Lan Thông (蘭蔥: tức là Tiểu Toán 小蒜, chính là kiệu), Huân Vật (葷物: tỏi). Phương này (Trung Hoa) chỉ có bốn thứ ấy, ở Tây Vực có thêm Hưng Cừ[13] (興渠: củ nén) nên gọi là Ngũ Tân, cũng gọi là Ngũ Huân. Cũng có ngoại đạo coi Nguyên Tuy[14] là Huân (rau có mùi tanh hôi), lại có phái ngoại đạo coi Hồng La Bồ (củ giền) là Huân, đều là bịa đặt!
Năm thứ Huân này vốn thuộc thảo mộc, nhưng do có mùi hôi dơ nên không được ăn. Ăn vào thì tụng kinh niệm Phật đều không được hưởng lợi ích lớn lao[15]. Huống chi thịt là thứ lấy từ thân thể chúng sanh, [con vật] đang sống sởn sơ bèn giết đi để mong thỏa thích cái miệng. Người đời quen thói chẳng thấy đó là chuyện kỳ quái, hễ nghĩ tưởng thì [sẽ thấy] đúng là vô lý đến cùng cực, đáng sợ thay! Quang chưa thể định trước được thời hạn trở về, cần gì phải có người đón tiếp; chỉ [để Quang] đi một mình thôi [là được rồi], nếu đón tiếp đâm ra trở thành chướng ngại! Ngàn vạn phần đừng đến, nếu đến thì tôi chẳng trở về!
www.niemphat.net
Nhận được thư biết ông tới chỗ ngụ ở Thượng Hải an toàn, hết thảy đều như thường, vui mừng, an ủi đến cùng cực. Thời cuộc chẳng yên, đừng nên bắt đầu tiến hành [làm những chuyện đã định]. Nên đợi đến khi thái bình thì mới tiến hành. Nếu không cẩn thận, sẽ hối chẳng kịp đấy! Vì vậy, đừng hạn định ngày tháng mà hãy nên dựa theo thời thế để ứng biến. Thế đạo hiện thời chính là thế đạo hoạn nạn. Tuy nói “niệm Phật diệt được túc nghiệp”, nhưng cần phải sanh lòng hổ thẹn lớn lao, sanh lòng kinh sợ lớn lao, chuyển cái tâm “tổn người lợi mình” của chúng sanh thành “hành hạnh Bồ Tát lợi khắp các chúng sanh” thì dù là túc nghiệp (nghiệp trong quá khứ) hay hiện nghiệp (nghiệp hiện tại) đều bị quang minh của Phật hiệu trong cái tâm đại Bồ Đề ấy tiêu diệt sạch sành sanh. Nếu đời trước và xưa kia từng tạo nghiệp lớn, nay tuy đã thôi làm ác, nhưng chưa thể tận lực tu các điều lành và chỉ niệm Phật hời hợt, hờ hững thì công chẳng cự được lỗi, cho nên khó tránh vướng phải ác báo ấy được! Chẳng phải là niệm Phật uổng công, mà là vì chưa phát Bồ Đề tâm, nhưng ác nghiệp lại đặc biệt rộng lớn nên [công đức niệm Phật] chẳng thể che lấp [ác nghiệp] được! Nếu có thể phát đại Bồ Đề tâm thì sẽ như mặt trời rực rỡ giữa hư không, sương móc tan ngay lập tức. Người đời phần nhiều nửa đời làm ác, rồi sau này mới cải hối. Do chưa thể hoàn toàn không có ác báo, bèn bảo: “Phật pháp chẳng linh, tu trì vô ích!”
Cư sĩ đã chẳng coi Quang là người ngoài, nên cố nhiên Quang chẳng thể không trình bày đại lược nguyên do với cư sĩ để mong ông thoát khỏi đường mê, lên bờ giác. Pháp môn Niệm Phật lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, lấy Bồ Đề tâm làm căn bản. Do bởi thật nghĩa “tâm này là Phật, tâm này làm Phật, nhân trùm biển quả, quả thấu nguồn nhân”, [cho nên] dùng “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” làm công phu thực hiện tối thiết yếu. Dùng điều ấy để hành, lại còn Tứ Hoằng Thệ Nguyện thường chẳng rời tâm thì tâm hợp với Phật, tâm hợp với đạo. Lúc đang còn sống sẽ dự vào bậc thánh, lâm chung lên thẳng Thượng Phẩm, ngõ hầu chẳng phụ cuộc sống này. Phải thường nên giảng nói với Chí Thường [những điều vừa nói trên đây] khiến cho tập khí nữ nhi hẹp hòi, hèn kém của cô ta biến thành chánh trí Bồ Đề thì công đức lớn lao lắm. Người tu Tịnh nghiệp ắt phải khuyên khắp người đời cùng tu Tịnh nghiệp, “làm gương cho vợ mình rồi đến anh em, cho đến khắp đất nước”[12] cho nên chẳng khác gì sự giáo hóa của các vị vua.
609. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ hai)
Nhận được thư đầy đủ. Đất Tần rét buốt, Tịnh Nghiệp Cư chỉ nên mở tiệm cơm chay thì mới có đôi chút khả quan. Nếu chiếu theo biện pháp của Công Đức Lâm ở phương Nam, ắt sẽ bị cụt vốn. Ở nơi ấy đã mang tên là Tịnh Nghiệp Cư thì hãy nên nhờ người viết chữ đẹp dùng lối chữ Khải chánh thức đang thông dụng hiện thời để sao chép công đức, lợi ích của Tịnh nghiệp và pháp tắc tu trì, rồi đem treo [những bài viết ấy] trên các bức tường để người ta đọc tới sẽ dấy lòng cảm kích. Ở nơi ấy chẳng thể tổ chức diễn giảng vì sợ có đông người đến nghe sẽ không đủ chỗ chứa, đừng nên làm theo kiểu đó. Nếu cứ làm thì sẽ đâm ra bị chướng ngại mà cũng gây trở ngại cho việc làm ăn.
Tịch Viên Liên Xã ắt phải thanh tịnh, thơm sạch. Chủ nhân ắt phải cung kính, chí thành, chớ nên ngạo mạn đối với người khác, cũng chớ đừng phô phang tỏ vẻ mình là người có đức hạnh. Phàm có ai đến đều phải đối đãi ôn hòa, cung kính, khiêm tốn (xét trong hiện thời, các hội Phật giáo các nơi hễ có quy mô hơi lớn thì thường phạm phải thói xấu là ngạo mạn đối với người khác. Đọc đến đây hãy nên đau đáu răn dè. Hãy chớ nên phân biệt sang - hèn, khiến cho khắp mọi người cùng được thấm nhuần pháp vị, gieo thiện căn). Còn như khi chưa niệm Phật và lúc đã niệm Phật xong, nhất loạt chẳng cho [những người đến niệm Phật] bàn tán chuyện trong gia đình. Nếu có những nghĩa trọng yếu có thể bàn luận được thì hãy bàn. Nếu không, ai về nhà nấy. Kẻ nào tuổi quá nhỏ thì chỉ nên niệm trong nhà của chính mình. Nếu thường đến mà ở gần thì còn được, chứ như đường xa sợ sẽ có chuyện xảy ra ngoài ý muốn, chẳng thể không cẩn thận! Nơi đây bất quá là chỗ để đề xướng [tu Tịnh nghiệp] trong địa phương mà thôi, vẫn phải chú trọng chuyên niệm Phật tại gia.
Ông đã đề xướng Liên Xã thì người lớn kẻ nhỏ trong nhà đều phải đoạn trừ rượu thịt. Nếu vẫn cứ [ăn uống tùy tiện] giống như người đương thời thì sẽ mất đi thể cách đề xướng. Chương trình giản lược của Tịnh Nghiệp Cư văn lẫn lý đều hay, nhưng chữ Huân (葷) bị viết sai thành chữ Vựng (暈: Quầng sáng quanh mặt trời, mặt trăng. Chữ 暈 đọc giống như âm Vận) thật là thất cách, xin hãy sửa cho đúng. Chữ Huân (葷) vốn chỉ những thứ hành, hẹ, kiệu, tỏi, cho nên viết bằng bộ Thảo (草). Kinh Phạm Võng giảng rõ Ngũ Tân (五辛: năm thứ cay nồng) là Đại Toán Thông (大蒜蔥: tức hẹ), Từ Thông (慈蔥: hành), Lan Thông (蘭蔥: tức là Tiểu Toán 小蒜, chính là kiệu), Huân Vật (葷物: tỏi). Phương này (Trung Hoa) chỉ có bốn thứ ấy, ở Tây Vực có thêm Hưng Cừ[13] (興渠: củ nén) nên gọi là Ngũ Tân, cũng gọi là Ngũ Huân. Cũng có ngoại đạo coi Nguyên Tuy[14] là Huân (rau có mùi tanh hôi), lại có phái ngoại đạo coi Hồng La Bồ (củ giền) là Huân, đều là bịa đặt!
Năm thứ Huân này vốn thuộc thảo mộc, nhưng do có mùi hôi dơ nên không được ăn. Ăn vào thì tụng kinh niệm Phật đều không được hưởng lợi ích lớn lao[15]. Huống chi thịt là thứ lấy từ thân thể chúng sanh, [con vật] đang sống sởn sơ bèn giết đi để mong thỏa thích cái miệng. Người đời quen thói chẳng thấy đó là chuyện kỳ quái, hễ nghĩ tưởng thì [sẽ thấy] đúng là vô lý đến cùng cực, đáng sợ thay! Quang chưa thể định trước được thời hạn trở về, cần gì phải có người đón tiếp; chỉ [để Quang] đi một mình thôi [là được rồi], nếu đón tiếp đâm ra trở thành chướng ngại! Ngàn vạn phần đừng đến, nếu đến thì tôi chẳng trở về!
www.niemphat.net