TIẾNG TRỐNG TRỜI BẤT TỬ

TIẾNG TRỐNG TRỜI BẤT TỬ

Kim Cang Thoi Luan

Registered

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
13/8/18
Bài viết
973
Điểm tương tác
216
Điểm
43
TIẾNG TRỐNG TRỜI BẤT TỬ

1.

Phật xưa Đại Trang Nghiêm nhập diệt,
Bốn thầy ác hạnh, chí bền tinh chuyên.
Mười ức năm khổ tu thiền,
Bốn niệm quán sát, tâm kiên rực hồng.
Tiếc thay Tiểu thừa pháp không,
Chẳng phương tiêu tội, chuyển vòng nghiệp sâu.
Vô gián địa ngục mở thâu,
Đọa vào hắc ám, khổ sầu vô biên.


Đại Chánh Tạng số 2683, Vãng Sinh Thập Nhân của Luật sư Vĩnh Quán:


Chuyện kể rằng: Sau khi Đức Phật Đại Trang Nghiêm diệt độ, có bốn ác tỳ-kheo, tu hành tiểu thừa, suốt mười ức năm tu bốn niệm xứ.


Dũng mãnh tinh tấn như lửa cháy đầu, mà vì tiểu thừa không có pháp tiêu tội, nên vẫn đọa vào địa ngục vô gián.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Kim Cang Thoi Luan

Registered

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
13/8/18
Bài viết
973
Điểm tương tác
216
Điểm
43
Khen rằng:
Tự lực khó phá tội khiên,
Chỉ nhờ nguyện lực, đại bi mới toàn.
Một câu danh hiệu xưng vang,
Ánh quang tiếp dẫn, thoát ngàn khổ đau.
Phật lực phát khởi nhiệm mầu,
Tức thân thành Phật, đạo sâu viên thành.
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
13/8/18
Bài viết
973
Điểm tương tác
216
Điểm
43
2. CAO TĂNG GIỮ GIỚI THANH TỊNH LIÊN TỤC 10 ĐỜI.

QUỐC SƯ: NGỘ ĐẠT
TỰA ( THỦY SÁM - SỐ 1910)

Thuở xưa về triều vua Đường Ý Tông có một vị Quốc sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền.

Lúc chưa hiển đạt, ngài thường gặp có một nhà sư ở đất Kinh Sư trông ngôi chùa nọ. Nhà sư ấy mắc bệnh Ca-ma-la (bệnh cùi) ai cũng gớm, chỉ có ngài Tri Huyền là thường gần gũi hỏi han, không hề nhăn mặt chê chán.

Nhân khi chia tay, nhà sư quá cảm kích phong thái của ngài Tri Huyền nên dặn rằng: Sau này ông có nạn nên qua núi Cửu lũng tại Bành Châu đất Tây Thục tìm tôi y như hồi nãy ông gặp tôi vậy, ắt sẽ được cứu giúp.


Đến khi ngài Ngộ Đạt đỗ đạt, làm Quốc sư hiệu là Tri Huyền thì vua ban cho cây tích trượng có khảm ngọc quý, ngài thường đem đến pháp hội để giảng giải. Nhân có một hôm bản án triều đình đem tội nhân giảo cát phải tọa bằng đồng đến hành hình, sắp xử thì ngài đến pháp tọa bằng danh y, nhưng không ai chữa được.


Nhân ngài nhớ lời dặn trước bèn đi vào núi mà tìm.

Trên đường đi, trời đã mở tối, trong khoảng âm u mây bay khói tỏa mịt mù, ngài nhìn xem bốn phía, bỗng thấy đang hai cây tùng ngài mới tin rằng lời ước hẹn xưa không sai.

Ngài liền đến ngay chỗ đó, quả nhiên thấy lâu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trước cửa nhà sư đang đứng chờ đón ngài một cách thân thiết.

Nhân ở lại đêm, ngài Ngộ Đạt mới to hết tâm đau khổ của mình. Nhà sư ấy nói:
Không hề gì đâu, dưới núi này có một dòng suối, sáng ngày rửa mụn ghẻ ấy khỏi ngay.


Mờ sáng hôm sau một chú tiểu đồng dẫn ngài ra ngoài suối. Ngài vùa bưng nước lên rửa thì mụn ghẻ nói lên:
Đừng rửa vội. Ông học nhiều biết rộng đã khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Áng, Triệu Thố chép trong bộ Tây Hán Chí chưa?
Tôi có đọc.


Ông đã đọc rồi có lẽ nào lại không biết chuyện Viên Áng giết Triệu Thố vậy. Thố bị chém ở chợ phía Đông oan ức biết đường nào.

Đời đời tôi tìm cách báo thù ông, song đã mười kiếp ông làm bậc cao tăng, giới luật tinh nghiêm, nên tôi chưa tiện về báo oán được.

Nay vì ông được nhà vua quá yêu chuộng nên khởi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù được ông. Nay nhờ Tôn giả Ca-nặc-ca lấy nước pháp Tam-muội rửa oán cho tôi rồi, từ đây trở đi tôi không còn báo oán ông nữa.


Ngài Ngộ Đạt nghe qua hoảng sợ liền vội vàng bưng nước dội rửa mụn ghẻ làm nhức nhối tận xương tủy, chết giấc hồi lâu mới tỉnh. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Nhân đó ngài mới biết Thánh hiền ẩn tích kẻ phàm tình không thể lường được.

Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư, nhưng ngó ngoảnh lại thì ngôi bảo điện kia đã biến mất tự bao giờ. Ngài về ngài bèn lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và đặt tên thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo triều nhà Tống mới sắc hiệu là Chí Đức Thiền Tự. Có một vị cao tăng làm bài ký sự ghi chép việc này rõ ràng.

LỜI TỰA CỦA VUA:

Như Tri Huyền là cao tăng mười đời mà còn phải chịu thua quả báo đời trước.

Khen rằng:

TỰ LỰC THÁNH ĐẠO – NGỘ ĐẠT SÁM

Một thuở đường triều, bậc quốc sư,
Ngộ Đạt danh vang, đạo chẳng hư.
Giới hạnh nghiêm trì mười kiếp vững,
Tuy giới thanh tịnh, nghiệp còn dư.

Từng giúp bệnh nhân lòng chẳng ngại,
Từ tâm cứu độ chẳng trừ ai.
Ngờ đâu oán nghiệp xưa còn đó,
Mụn ghẻ oan hồn bỗng trỗi gai.

Lời xưa dặn lại: “Tìm nơi núi,
Có kẻ từng mang bệnh chốn này.”
Đi đến Cửu Lũng, am vàng hiện,
Từ bi tiếp đón giữa mây bay.

Tắm nước Tam-muội rửa oan kết,
Mụn độc tiêu tan, nghiệp sạch rồi.
Ngài hiểu: pháp thân tuy thanh tịnh,
Nếu còn nghiệp cũ, chẳng yên ngơi.

Ngẫm đời tự lực đường khó vượt,
Muôn kiếp tinh chuyên vẫn luân hồi.
May thay còn có đèn Di Đà,
Nguyện lực soi đường chẳng bỏ ai.

Xưng danh một niệm lòng tin tưởng,
Mười phương Phật hộ, nghiệp tiêu phai.
Nguyện lực vô biên không chọn lựa,
Chỉ cần tha thiết, nguyện vãng lai.
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
13/8/18
Bài viết
973
Điểm tương tác
216
Điểm
43
Triết Lão tu hành chốn kinh đô,
Bốn mươi năm khổ, chỉ ngủ ngồi.
Tọa thiền, trì giới luôn tinh tấn,
Xá-lợi còn lưu giữa lửa lò.

Đến lúc lâm chung chẳng được về,
Tây phương cửa Phật vẫn xa bề.
Nguyên do nghiệp cũ còn sâu nặng,
Nên phải đền vay, phải trả thê.

Phật xưa từng dạy rõ ràng thay:
“Dẫu muôn kiếp vẫn chẳng ai bay,
Nghiệp xấu gặp duyên là hiện rõ,
Tự mình gánh lấy, chẳng ai thay.”

Vì thế Triết Lão chịu đắng cay,
Đời này phú quý cũng là vay.
Nguyện xưa được hưởng, nhưng đau khổ
Là do nhân trước đã từng gây.

Ba cõi biển sâu, bờ lại xa,
Tâm phàm khó thoát khỏi ta bà.
Một mình dụng lực không thành tựu,
Không nhờ Phật lực, khó vươn qua.

Tây phương Cực Lạc cửa từ bi,
Phật Di Đà nguyện độ người si.
Một niệm xưng danh, lòng tha thiết,
Cũng được về nơi chẳng biệt ly.

Chúng sinh mê mờ nên chẳng nhờ,
Tự lực mà tu, khổ trăm bờ.
Thật là đáng tiếc bao người vậy,
Bỏ thuyền từ, lội giữa sông mờ!


Long Thư Tăng Quảng Tịnh Độ Văn số 1970 - Quyển 7:


40 NĂM NGỒI THIỀN KHÔNG BAO GIỜ NGỦ - THIÊU CÓ XÁ LỢI VẪN TIẾP TỤC TÁI SINH LUÂN HỒI.

KHỔ HẠNH CHƯA TỪNG CÓ!!!!

Triết Lão trụ ở ngôi chùa lớn tại Kinh đô.


Bốn mươi (40) năm sư không bao giờ ngủ.

Do sự tọa thiền tinh khổ như vậy nên sau này khi viên tịch ngay cái áo giấy khi đốt cũng có xá-lợi.

Trong số những người làm quan, có vị đem ba muơi hai ngàn tiền vàng để mua một cái, bởi nó có xá-lợi.

Hiệu nghiệm tu tập của sư siêu việt đến thế, nếu tu Tây phương thì sẽ là Bồ-tát Bất thoái chuyển địa.

Tức là bậc đã “Sinh tử tự như”: Nếu trở lại cõi này để tế độ chúng sinh thì có gì mà không làm được.

Do sư không tu pháp môn này nên sinh vào gia đình quá sức giàu sang, mà suốt đời chỉ chịu nhiều buồn khổ. Thật đáng buồn thay! Bởi lẽ có đại sư giàu sang chẳng nữa rồi cũng hết và cũng bị luân hồi như cũ.

Có người biện bạch rằng: “Do Triết Lão tu hành quá cần khổ, nên đời này chịu lắm nỗi sầu đau. Ý Ngài thế nào?” Đáp: Đức Phật dạy:

“Dẫu trải trăm ngàn kiếp,
Nghiệp đã làm còn nguyên,
Lúc gặp duyên chẳng mất,
Tự mình nhận quả báo.”

Đại sư Vĩnh Gia cũng nói:

“Thoát thì không các nghiệp xưa và nay,
Chưa thì phải bồi hoàn nợ trước.”

Lý do Triết Lão chưa thoát được sinh tử, đời này sinh vào nơi đại phú quý là do tâm nguyện của đời trước. Sở dĩ đời này chịu trăm cay ngàn đắng là vì lúc đấy đủ nhân duyên thì phải trả nợ cả trăm ngàn đời trước. Nếu được sinh về Tây phương thì làm gì có thảm trạng như thế? Bởi vì sinh về Cực lạc thì được thoát vòng sống chết, nhờ vậy, dầu vào trong thế giới sinh tử của tất cả chúng sinh để thực thi công cuộc tế độ rộng lớn, nhờ nhất tánh đã sáng suốt, nên vẫn siêu thoát ngoài ba cõi.

Vả lại, sở dĩ Triết Lão tu hành tinh khổ như thế mà vẫn bị trôi lăn trong ba cõi là bởi bờ của ba cõi quá cao, biển khổ quá sâu và ba đào quá dữ dội.

Người tu Tây phương được siêu thoát là nhờ nương tựa vào Phật lực. Đã có Phật lực mà không chịu cậy nương, nào khác kẻ bần cùng đói khát gặp người giàu sang nhưng không chịu nhờ vả! Thật đáng buồn thay!
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
13/8/18
Bài viết
973
Điểm tương tác
216
Điểm
43

4.
Ni sư Pháp Hoa – một thuở xưa,
Tụng kinh ba chục năm không thừa.
Giới hạnh trang nghiêm, tâm bền vững,
Chỉ một niệm sai, đọa nữ ca.


Đời sau thành kẻ hát cung quan,
Hương sen miệng tỏa giữa trần gian.
Nghe đọc Pháp Hoa, hồn thổn thức,
Biết thân mình bởi nghiệp tiền oan.


Dẫu tụng kinh sâu, tu khổ hạnh,
Nếu không về Tịnh độ an nhiên,
Vẫn bị gió nghiệp đưa lầm lạc,
Dễ sa đường cũ, khó thoát xiềng.


Tây phương có Phật A Di Đà,
Thệ nguyện từ bi độ chúng ta.
Chỉ cần xưng niệm danh Ngài mãi,
Liền được vãng sinh khỏi Ta Bà.


Tu hành chẳng nhờ nơi Phật lực,
Khó tránh trầm luân nẻo tử sinh.
Chúng sinh mê muội, không nương tựa,
Lội giữa sông mê, khổ chán chừa.

Than ôi! Một kiếp tu trì khó,
Chỉ một niệm sai, đọa thật nhanh.
Nếu sớm quay về nơi Tịnh Thổ,
Nào còn trầm luân, khổ với sanh!



NI SƯ TỤNG KINH PHÁP HOA 30 NĂM.

Long Thư Tăng Quảng Tịnh Độ Văn số 1970 - Quyển 7:

Hậu thân của Ni sư Pháp Hoa làm cô hát ở nhà quan.

Trong nhà của Âu Dương Vĩnh Thúc Tri người tỉnh Định Châu, có một cô đào hát ở cửa quan, miệng có mùi thơm của hoa sen. Có vị tăng biết đời trước rồi rằng kiếp trước cô đào ấy là ni cô chuyên tụng kinh Pháp Hoa suốt ba mươi năm, nhưng chỉ vì sai lầm trong một niệm mà đời này làm vào cảnh ngộ ấy. Hỏi cô ta có từng đọc kinh Pháp Hoa chưa? Cô đáp: “Đã thất thần vào chỗ xướng ca thì làm gì có thời gian để tụng kinh!”.


Người nhà mang kinh Pháp Hoa cho cô, liền có cảm ứng khóc nức nở, bảo người nhà rằng mang kinh khác ra thì cô không đọc được.

Qua tình huống ấy, người ta mới tin lời vị Tăng nói. Nếu ni cô biết pháp môn Tây phương thì đời trước đã được sinh lên Thượng phẩm thượng sinh rồi, đời này cũng biến hiện dưới dạng khác để độ chúng sinh đâu xót!

Từ chuyện cô đào hát bên trên, người luôn đem pháp môn Tây phương để giáo hóa người, ai nói cũng cảm được, ai thấy cũng tin vì đại và phước báo đó của họ cũng không thể nghĩ bàn vậy.

 

Kim Cang Thoi Luan

Registered

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
13/8/18
Bài viết
973
Điểm tương tác
216
Điểm
43
5.DANH HIỆU BAO GỒM CẢ ÁNH SÁNG CỦA NHƯ LAI VÔ LƯỢNG QUANG - CHIẾU ĐẾN ĐÂU THÌ PHÁ TAN BA NGHIỆP CỦA ĐỊA NGỤC, NGẠ QUỶ, SÚC SINH.

CHÚNG SINH GẶP ĐƯỢC ÁNH SÁNG CỦA VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI LIỀN ĐƯỢC GIẢI THOÁT.



Ánh sáng Vô Lượng Thọ


Oai quang chiếu khắp mười phương,

Vượt trăm ngàn cõi, ánh vàng vô song.

Đỉnh đầu tỏa sáng uy phong,

Chư Phật đều ngợi, khó mong sánh bằng.

Mười hai danh hiệu ánh quang,

Từ bi, trí tuệ, tinh an nhiệm mầu.

Vô Lượng – Vô Ngại – Thanh Tịnh,

Diệm Vương – Trí Tuệ, muôn màu nhiệm thân.

Chúng sinh gặp ánh quang thần,

Ba cấu tiêu sạch, tâm thân nhẹ nhàng.

Dù nơi địa ngục hồng hoang,

Thấy quang liền thoát muôn vàn khổ đau.

Nếu ai xưng tán ngày đêm,

Chí thành tha thiết, khẩn cầu không dừng.

Ánh quang cảm ứng vô cùng,

Phật đem tiếp dẫn, sen hồng nở hoa.

Đức Phật dạy rằng ánh sáng của Phật Vô Lượng Thọ là bậc nhất, vượt qua tất cả chư Phật trong mười phương về oai thần và quang minh.

Dù ánh sáng của nhiều vị Phật chiếu đến hàng trăm ngàn cõi hay trọn một cõi Phật, cũng không sánh được với ánh sáng từ đỉnh đầu của Phật Vô Lượng Thọ.

Vì thế, Ngài được tôn xưng với 12 danh hiệu ánh sáng như: Vô Lượng Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang...

Ánh sáng ấy có năng lực lớn:

– Gặp được thì trừ sạch ba độc, tâm thiện phát khởi, thân tâm nhu hòa.

– Ngay cả ở trong ba đường ác, nếu thấy ánh sáng này thì được thoát khổ, khi mạng chung được giải thoát.

– Tất cả chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác đều đồng tán thán ánh sáng này.

Ai nghe được công đức ánh sáng ấy, nếu ngày đêm nhất tâm xưng niệm, tán thán không dừng, thì tùy tâm nguyện đều được vãng sinh về cõi Cực Lạc.



Vô Lượng Thọ kinh ngài Khang Tăng Khải dịch:

Đức Phật dạy A-nan rằng:

– Ánh sáng oai thần và quang minh của Đức Phật Vô Lượng Thọ là tối thượng, bậc nhất. Ánh sáng ấy không một vị Phật nào có thể sánh kịp.

Tuy trong số chư Phật, có vị có ánh sáng trên đỉnh đầu chiếu rọi đến trăm ngàn cõi Phật, hoặc chiếu khắp hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn hướng và cả trên dưới. Có vị chiếu đến bảy tầm, hoặc một, hai, ba, bốn, năm do-tuần, hoặc chiếu sáng khắp một cõi Phật. Nhưng dù như vậy, ánh sáng của các vị ấy vẫn không thể sánh được với ánh sáng trên đỉnh đầu của Phật Vô Lượng Thọ.

Chính vì ánh sáng ấy như vậy, nên Ngài được xưng tụng với các danh hiệu:

Vô Lượng Quang (Ánh sáng vô cùng),

Vô Biên Quang (Ánh sáng không bờ mé),

Vô Ngại Quang (Ánh sáng không ngăn ngại),

Vô Đối Quang (Ánh sáng không ai sánh bằng),

Diệm Vương Quang (Ánh sáng như vua lửa),

Thanh Tịnh Quang (Ánh sáng thanh tịnh),

Hoan Hỷ Quang (Ánh sáng hoan hỷ),

Trí Tuệ Quang (Ánh sáng trí tuệ),

Bất Đoạn Quang (Ánh sáng không gián đoạn),

Nan Tư Quang (Ánh sáng khó nghĩ bàn),

Vô Xưng Quang (Ánh sáng không thể gọi tên),

Siêu Nhật Nguyệt Quang (Ánh sáng vượt mặt trời, mặt trăng).

Chúng sinh nào gặp được ánh sáng ấy thì ba cấu (tham, sân, si) được tiêu trừ, thân tâm trở nên nhu hòa, vui vẻ, phấn chấn, và phát khởi tâm thiện.

Nếu ở trong ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) mà thấy được ánh sáng này, liền được thoát khỏi khổ nạn.

Sau khi mạng chung, đều được giải thoát.

Nói chung, ánh sáng của Phật Vô Lượng Thọ chiếu khắp cõi Phật mười phương, khiến tất cả đều nghe biết.

Không chỉ riêng Ta hôm nay tán thán ánh sáng ấy, mà tất cả chư Phật, hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều đồng lòng ca ngợi.

Nếu có chúng sinh nào nghe được công đức oai thần của ánh sáng này, ngày đêm chí tâm tán thán không ngừng, thì tùy theo tâm nguyện của mình, đều sẽ được vãng sinh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ.


Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh:

Đức Phật bảo A-nan và Vi-đề-hy:

– Hạ phẩm thượng sinh:

Chấp tay niệm: “Nam-mô A-di-đà Phật”.

Nhờ niệm danh hiệu Phật nên đoạn trừ tội sinh tử của năm mươi ức kiếp.

Khi ấy, Đức Phật A-di-đà liền sai hoa Phật, hoa Bồ-tát Quán Thế Âm và hoa Bồ-tát Đại Thế Chí đến trước người ấy khen:

“Lành thay! Này thiện nam! Vì ngươi niệm danh hiệu Phật nên các tội tiêu diệt, ta đến rước ngươi.”

Nghe lời này rồi người kia thấy ánh sáng của hoá Phật chiếu sáng cả nhà.


Khen rằng:

Ánh Sáng Vô Lượng Quang

Phật Vô Lượng Thọ, đấng Từ Tôn,

Ánh quang vô thượng chiếu mười phương trời.

Trên đỉnh chói lọi rạng ngời,

Chư Phật đều ngợi, khó ai sánh bằng.

Mười hai danh hiệu oai quang,

Vô Lượng – Vô Ngại, rỡ ràng nhiệm thân.

Diệm Vương rực rỡ hồng trần,

Thanh Tịnh, Hoan Hỷ, trí thần chiếu soi.

Chiếu đến đâu, nghiệp ác trôi,

Tam độc tiêu sạch, lòng người hóa an.

Dù nơi địa ngục hồng hoang,

Ngạ quỷ, súc sinh thấy quang liền lìa.

Ánh quang chiếu tận sơn khê,

Cảm ứng sâu rộng, chư thiên cúi đầu.

Ai người chí nguyện thâm sâu,

Niệm danh hiệu Phật, nhiễu cầu không ngưng.



Một câu danh hiệu chí thành,

Năm mươi ức kiếp tội sinh đoạn trừ.

Quang minh hiện giữa mịt mù,

Hoa sen hóa Phật về đưa nhẹ nhàng.

Phật nói: ánh sáng vô vàn,

Không Phật nào sánh, mười phương đều tôn.

Gặp quang tức thoát luân hồi

Mạng chung liền lên ngồi liên hoa.



Người niệm Phật, giữa trần sa,

Là hoa sen trắng rạng giữa người ta sáng ngời.

Là người tốt nhất giữa đời,

Là bậc thượng thượng giữa nơi hồng trần.



Người niệm Phật, giữa cõi ác ô tồi

Sen trắng rạng giữa đời ác ma.

Là người tốt nhất giữa nơi ô uế,

Là bậc thượng thượng giữa nơi nhân quần.


Người niệm Phật giữa trần tình,

Sen trắng rạng rỡ giữa nghìn chúng sinh.



Là người tốt nhất nhân sinh,

Là bậc thượng thượng quang minh giữa đời.
 
Sửa lần cuối:

Kim Cang Thoi Luan

Registered

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
13/8/18
Bài viết
973
Điểm tương tác
216
Điểm
43
HẠ PHẨM THƯỢNG SINH – PHẬT LỰC VÃNG SANH

(Tóm theo lời Phật dạy Vi-đề-hy và A-nan)



Chắp tay xưng niệm Di Đà,

Danh hiệu công đức phá tà nghiệp gây

Tội kia năm chục ức bề,

Nhờ câu Phật hiệu liền tiêu tức thì.



Quán Âm, Thế Chí đến đi,

Cùng hoa hoá Phật hiện uy rạng ngời.

Ngợi rằng: “Lành thay, thiện thời!

Niệm danh Như Lai, tội đời sạch không.”



Ánh quang Phật chiếu sáng đồng,

Phóng quang nhiếp thọ, rước lòng vãng sanh.

Một niệm cảm ứng đức lành,

Phật lực tiếp dẫn, lưới sinh luân hồi.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top