vienquang2

TƯ LIỆU NGHIÊNG CỨU.- 9 (cấp độ) THIỀN ĐỊNH

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
I. TỨ THIỀN
II. TỨ ĐỊNH
III. DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH
(Trạch pháp từ nhiều nguồn tổng hợp)

* Đây là tư liệu, là gợi ý cho Pháp Hành Thiền Định theo Cửu Thế Đệ Định.- Dẫn đến Niết Bàn Arahan.
Mong rằng sẽ giúp ích được cho những ai sơ cơ mà muốn nghiên cứu để thực tập (mà thiếu hướng dẫn trực tiếp)

(VQ góp nhặt.)
++++++++++++++++++

I. TỨ THIỀN.

nguồn: Đạo Lý Nhân Sinh

1/. Pháp Hành SƠ THIỀN.

Ý nghĩa sâu xa của ly dục và ly bất thiện pháp theo lời Đức Phật dạy.
Năm chi thiền cấu thành Sơ thiền – ly dục, ly bất thiện pháp.
Phương pháp thực hành từng bước để đưa tâm từ tán loạn đến an trú.
Những lợi ích về tâm lý, đạo đức và tâm linh khi đạt Sơ thiền.

Qua những câu chuyện thực tế từ thời Đức Phật và các bậc thiền sư, bạn sẽ thấy Sơ thiền – ly dục, ly bất thiện pháp không phải điều xa vời, mà ai cũng có thể tiếp cận nếu kiên trì thực hành.

1f33f.png
Đây không chỉ là bài giảng, mà còn là lời mời bạn bắt đầu hành trình chuyển hóa tâm ngay hôm nay.

- Trải nghiệm sơ thiền .

- Trải nghiệm sơ thiền thường bắt đầu bằng sự nhẹ nhõm. Giống như khi bạn đang bị bao vây bởi tiếng ồn thành phố, bỗng được bước vào một thư viện yên tĩnh. Ban đầu bạn chỉ thấy dễ chịu rồi, dần dần sự dễ chịu ấy trở thành một niềm hì lạc sâu lắng.

- Trong sơ thiền, hì và lạc xuất hiện do tác động của định. Lúc này, tâm vẫn còn hoạt động với tầm và tứ, nghĩa là vẫn đang hướng đến và duy trì đối tượng thiền. Giống như khi bạn chú tâm đọc một cuốn sách, mắt và ý vẫn đang bám vào từng chữ.

- Một ẩn dụ gần gũi là việc tập trung làm một công việc yêu thích. Khi bạn say mê vẽ tranh, chơi nhạc hoặc chăm sóc vườn cây, những lo âu phiền muộn tạm biến mất. Bạn không còn bị kéo đi bởi điện thoại, email hay tin tức. Sơ Thiên cũng như vậy, chỉ khác là đối tượng ở đây không phải hoạt động bên ngoài mà là một điểm tĩnh lặng bên trong tâm. Và chính từ đây hỉ và lạc bắt đầu lan tỏa tạo nên một không gian nội tâm rộng mở và sáng trong.

+ Trong kinh sa môn quả, Đức Phật mô tả : " Ly dục ly bất thiện pháp chứng và chú thiền thứ nhất một trạng thái hỉ lạc do ly dục sanh có tâm có tứ ". - Đoạn kinh này như một công thức rõ ràng khi đã tách mình khỏi những gì làm tâm sao động, hỉ và lạc tự nhiên sinh khởi, không cần gượng ép.

- Người chưa từng trải nghiệm có thể nghĩ đây là một loại cảm giác hưng phấn mạnh. Nhưng thật ra hỉ và lạc trong sơ thiền rất thuần khiết và không kèm sự bồn chồn.

- Một câu chuyện xưa thường được các thiền sư dùng để minh họa sơ thiền là câu chuyện về một người nông dân. Suốt buổi sáng, ông làm việc cật lực ngoài đồng, cày ruộng, dọn cỏ, tưới nước. Trời nắng gắt, mồ hôi đẫm lưng, tâm ông chỉ nghĩ đến công việc và những khó khăn đang chờ.- Khi công việc tạm xong, ông quyết định ra bờ sông nghỉ ngơi. Ông ngồi xuống, nhìn mặt nước trôi lững lờ, lắng nghe tiếng gió xào sạc trên tán cây. Không còn tiếng trâu bò kêu, không còn tiếng người gọi, không còn những lo toan dồn dập. Ông buông mình vào sự tĩnh lặng của giây phút hiện tại. Lúc đầu chỉ là sự dễ chịu của một người được nghỉ chân sau lao động. Nhưng rồi tâm ông trở nên nhẹ bẫng, nỗi mệt mỏi tan đi, thay vào đó là một niềm vui vô cớ. Không phải vì được thưởng tiền hay gặp may mắn mà chỉ vì được ngồi đây ngay bây giờ với dòng sông và bầu trời.

- Câu chuyện ấy là hình ảnh ẩn dụ của Sơ Thiền. Người nông dân đã ly dục, rời khỏi cảnh làm việc và những bận tâm và ly bất thiện pháp, buông bỏ những lo âu bực dọc. Kết quả là ông bước vào một trạng thái hì lạc tự nhiên dù không hề biết mình đang thiền theo nghĩa kỹ thuật. Điều này cho thấy nền tảng của Sơ Thiên không nằm ở tư thế hay nghi thức mà ở khả năng buông bỏ những thứ đang làm tâm nặng nề.

-Từ góc nhìn tâm lý, Sơ Thiên là bước đầu của quá trình giảm bớt tiếng ồn trong tâm trí. Não bộ vốn bị kích thích liên tục bởi luồng thông tin và cảm xúc đột ngột được nghỉ phép. Khi đó, hệ thần kinh truyền sang trạng thái thư giãn, sóng não chậm lại, cảm giác an toàn và dễ chịu lan tỏa khắp thân.

- Đây là điều khiến sơ thiền không chỉ là một trạng thái tôn giáo mà còn là một hiện tượng tâm sinh lý được khoa học hiện đại quan sát được. Sơ thiền quan trọng vì nó tạo nền móng cho các tầng thiền cao hơn. Không thể bước vào nhị thiền khi tâm còn bị kéo đi bởi dục hoặc bất thiện pháp cũng như không thể xây tầng hai khi nên móng chưa vững. Do đó, việc nuôi dưỡng sơ thiền thông qua việc sống giản dị hơn, giảm tiếp xúc với kích thích tiêu cực và thường xuyên dành thời gian yên tĩnh chính là bước đầu tiên và thiết yếu để tiến sâu vào hành trình thiền định.

- Nếu sơ thiền là bước đầu đưa tâm ra khỏi dòng thác ồn ào của dục và bất thiện pháp thì nhị thiền là bước tiến sâu hơn, nơi tâm bắt đầu tìm được nhà của mình trong sự an tĩnh hoàn toàn.
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
2.- Khái niệm: Ly dục, ly bất thiện pháp.

+ Đức Phật từng chỉ dạy trong kinh tăng chi bộ :" Ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú sơ thiền, một trạng thái hỉ lạc do ly dục sanh". (hết trích)

Lời dạy ấy không phải chỉ dành cho những bậc xuất gia mà là cho bất kỳ ai mong muốn tìm lại sự tĩnh lặng nơi tâm giữa dòng đời xao động.

Bởi :

- Ly dục ở đây không chỉ là từ bỏ ham muốn xác thịt mà còn là buông xuống những bám víu khiến tâm bất an.

- Ly bất thiện pháp không chỉ là tránh điều ác trong hành vi mà là tách mình khỏi những ý niệm, cảm xúc và thói quen làm tâm u tối.

* Trong bối cảnh ấy, sơ thiền hiện ra như một bến đỗ đầu tiên trên con đường thiền định.- Nơi người hành giả lần đầu nếm trải hỉ lạc không phải do thỏa mãn ham muốn mà do sự buông xả và thanh tịnh nội tâm.

Giữa một thế giới mà mọi thứ luôn thôi thúc ta phải chạy nhanh hơn, sở hữu nhiều hơn.

+ Sơ thiền mời ta ngồi xuống, hít thở và nhận ra rằng hạnh phúc thật sự không nằm ở những gì ta nắm giữ mà ở những gì ta có thể buông bỏ.

* Trong kinh điển Pali.- sơ thiền được mô tả như cánh cửa đầu tiên mở vào miền an tĩnh của nội tâm. Một trạng thái hỉ lạc phát sinh khi tâm ly dục và ly bất thiện pháp có mặt của Tầm và Tứ, Hỉ và Lạc cùng khuynh hướng quy tụ về một điểm.

Nói cách khác, đó là khoảnh khắc tâm rút lui khỏi những đối tượng lôi cuốn của giác quan và những khuynh hướng bất thiện như tham, sân, si, ganh tỵ, tà ý .- để an trú trên đề mục một cách mềm mại mà sáng suốt.

+ Ly Dục không chỉ là rời xa dục tính theo nghĩa hẹp mà rộng hơn là buông bỏ sự đeo bám vào những ham muốn chiếm hữu, thỏa mãn và hơn thua vốn khiến tâm ta luôn khát khao và bất an.

- Một chiếc điện thoại mới, một lời khen, một vị thế, một khoái cảm tức thì ly bất thiện pháp là từ chối nuôi dưỡng những ý nghĩ, lời nói, hành vi làm tổn hại mình và người như nói dối để được việc, chỉ trích để hà giận, lén lút để vụ lợi, chìm đắm trong giận hờn hoặc đố kỵ. Khi hai động lực ấy được buông xuống, tâm trở nên nhẹ như người Lữ Hành trút bỏ ba lô nặng để bước đi thong dong. - Và chính trên nền nhẹ ấy, định lực bắt đầu chớm nở, tâm hướng đến đề mục rồi ở lại bền bỉ nơi đó.

- Niềm vui trong trẻo phát sinh, cảm giác an ổn lan khắp thân tâm và sự chuyên nhất dần hình thành.

+ Điều quan trọng là sơ thiền không phải là một trạng thái thần bí dành riêng cho bậc ẩn sĩ mà là khả năng bất kỳ ai cũng có thể tiếp cận khi chịu dừng lại.- thở và nhìn lại mình với thái độ thành thực và trí nhẫn.

- Trong đời sống thường nhật, ly dục có thể bắt đầu từ những quyết định nhỏ. Ăn vừa đủ thay vì chiều theo thèm muốn, tắt bớt thông báo để khỏi chạy theo kích thích, nói một lời chân thực dù bất tiện.

+ Ly bất thiện pháp có thể thực tập bằng cách nhận ra sớm một ý nghĩ tổn hại và không để nó biến thành lời nói hay hành động thay một phản ứng nóng giận bằng một hơi thở sâu.

- Mỗi lần ta làm được như vậy nên đất cho sơ thiền được vun sới.

- Khi ngồi xuống theo dõi hơi thở tâm sẽ dễ quy tụ hơn vì trong ngày nó đã bớt bị kéo bởi dục và bất thiện.

+ Sơ thiền vì thế không phải là kết quả chỉ của giờ thiền mà là hoa trái của cả một lối sống biết buông xuống những gì làm tâm nặng gánh. Và khi nếm được vị hỉ lạc do ly dục xanh, một niềm vui không vay mượn từ ngoại cảnh. - Ta hiểu vì sao sơ thiền được gọi là nền tảng. Nó đặt một viên gạch chắc chắn cho con đường Định - Tuệ giúp tâm có chỗ đứng vững trãi để nhìn sâu, để thấy rõ và để đi xa.

+ Sơ thiền quan trọng bởi nó giống như nền móng của một ngôi nhà. Nếu móng không vững, mọi tầng phía trên đều trông chênh.

- Trong lộ trình thiền định, đây là bậc đầu tiên giúp tâm thoát khỏi sự chi phối của dục vọng và những pháp bất thiện để bước vào vùng an trú thanh tịnh.

- Không có bước này, hành giả khó thể tiến sâu vào các tầng định cao hơn và càng khó khai mở tuệ giác bền vững.

niệm p.webp
 
Sửa bởi Amin:

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,526
Điểm tương tác
1,162
Điểm
113
Kính Thầy Viên Quang,

Xin được góp thêm vài ý về hai chữ Dục và Bất thiện pháp.

Dục, được Kinh tạng Pali gọi là Tanha, nguồn gốc khổ đau tức Tập đế, một chân lý trong Bốn Chân Lý Vi Diệu.
Dục gồm có 3:
  • Ham muốn khoái lạc giác quan - Kama Tanha
  • Khát khao sống trường tồn - Bhava Tanha
  • Ham muốn hưởng dụng mọi diễm phúc mà không bị khổ đau - Vibhava Tanha
Chữ Dục trong Ly dục ở Sơ thiền chính là Kama Tanha, Tham muốn nhục dục, khởi sanh khi Lục căn tiếp xúc Lục trần với động lực thôi thúc là do Dục vọng trần thế - Klesa.
Ở các nước Phật giáo theo kinh điển Hán tạng chữ Dục này được gắn liền với chữ Tình, Dục tình. Dục tình hay Tình khởi sanh do Tâm xúc Cảnh, xúc cảnh sanh tình, gồm có ba địa vị: Tình ở Ý, Tình ý/Mana; Tình ở Thức, Tình thức/Vinnana; Tình ở Căn (do đã trải nghiệm nhục dục nên sanh chấp trước), Tình ái/Tanha-Upadana.

Do vậy khi Ly dục thì Ý bình tỉnh, Thức không nghĩ nhớ, Ngũ căn không thèm khát gọi là Lục căn thanh tịnh (Phản bổn hoàn nguyên vì Căn vốn thanh tịnh).

Bất thiện pháp, tức Ác pháp. sanh do không nhiếp tâm vào Giới luật nghi, 5 giới, 8 giới, 10 giới, 250 giới...Khi Tâm nhiếp luật nghi giới hay Lục căn được thủ hộ bởi Giới luật thì Ly bất thiện pháp.

Kính

trừng hải
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
3.- Trải nghiệm Sơ Thiền của thái tử Siddhartha

TƯ LIỆU NGHIÊNG CỨU.- 9 THIỀN ĐỊNH Se_thi13


Đức Phật từng kể rằng trước khi thành đạo, ngài đã nhớ lại một trải nghiệm tuổi thơ khi ngồi dưới gốc cây hồng, tâm hoàn toàn yên ả, nhẹ nhàng và trong sáng, một trạng thái ly dục tự nhiên không ép buộc.- Chính ký ức ấy gợi mở cho ngài con đường thiền định đúng đắn thay vì khổ hạnh ép xác như trước.

- Sơ thiền là chiếc cầu đầu tiên đưa tâm từ sự tán loạn sang sự nhất tâm. - Nó không tạo ra trí tuệ ngay lập tức, nhưng nếu không có nó, trí tuệ khó thể sinh khởi. Bởi một tâm tán loạn thì như mặt nước bị gió khuấy, không thể phản chiếu bầu trời.

- Đặc biệt, sơ thiền không chỉ là thành tựu của giờ ngồi thiền mà là kết quả của một đời sống biết chọn lọc và buông bỏ, giảm bớt những kích thích không cần thiết, thanh lọc tâm khỏi những thói quen bất thiện.

- Khi thực hành như vậy, tâm mới đủ nhẹ để an trú, đủ trong để nhận ra niềm vui thanh tịnh, không dựa vào ngoại cảnh.

- Chính nhờ trải qua sơ thiền, hành giả cảm nhận được một dạng hỉ lạc bền và trong khác hẳn niềm vui mong manh từ thỏa mãn ham muốn.

- Trải nghiệm này khiến họ tin tưởng vào con đường tu tập, thôi thúc họ tiến xa hơn, đồng thời bảo vệ họ khỏi bị cuốn lại vào những dục vọng cũ.

- Bởi vậy, sơ thiền không chỉ quan trọng về mặt kỹ thuật thiền định mà còn là điểm ngoặt nội tâm.- Từ chỗ chạy theo bên ngoài, ta bắt đầu quay về bên trong. Từ chỗ tìm hạnh phúc nơi sở hữu, ta tìm hạnh phúc nơi buông bỏ.

- Khái niệm sơ thiền xuất hiện rõ ràng và nhất quán trong kinh tạng Pali, đặc biệt là ở các bộ kinh thuộc Trung Bộ và tăng chi bộ.

* Đây không phải là một thuật ngữ do các nhà luận giải đời sau thêm vào mà là lời dạy trực tiếp từ Đức Phật được các vị đại đệ tử ghi nhớ và truyền tụng nguyên vẹn.

Trong nhiều bản kinh, Đức Phật mô tả tiến trình nhập sơ thiền bằng cụm từ quen liên thuộc.- ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú sơ thiền, một trạng thái hỉ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.

Cách diễn đạt này được lặp lại nhiều lần cho thấy đây là một công thức hành trì căn bản, một dấu mốc rõ rệt trên lộ trình tu tập định tuệ.

Bối cảnh lịch sử cho thấy vào thời Đức Phật, thiền định không phải là điều mới mẻ.- Các truyền thống tu khổ hạnh và ngoại đạo Ấn Độ cổ đại đều có những phương pháp tập trung tâm ý đạt các trạng thái an chỉ. - Tuy nhiên, sự khác biệt nằm ở chỗ nhiều pháp môn thời ấy hướng đến các tầng định cao siêu nhưng thiếu nền tảng đạo đức và tuệ giác hoặc còn bị ràng buộc trong quan niệm ngã chấp, cầu mong sinh thiên hay đạt thần thông.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
4.- Sơ tầm Thiền đạo.

TƯ LIỆU NGHIÊNG CỨU.- 9 (cấp độ) THIỀN ĐỊNH Blmon110


Đức Phật sau khi trải qua và vượt qua các tầng thiền vô sắc do hai vị thầy nổi tiếng Alara Kalama và Udaka Ramaputa hướng dẫn đã nhận ra rằng dù sâu xa đến đâu, nếu định không được đặt trên nền ly dục và ly bất thiện pháp thì vẫn không đưa đến giải thoát rốt giáo. - Vì vậy, sơ thiền trong giáo pháp của ngài không chỉ là trạng thái tâm yên tĩnh mà là kết quả tự nhiên khi hành giả sống đời thanh tịnh về giới, biết tiết chế các giác quan và chủ động buông bỏ những dòng tâm bất thiện.

+ Chính yếu tố ly dục và ly bất thiện pháp này đã làm nên sắc thái đặc thù của sơ thiền trong Phật giáo.
Phân biệt nó với các trạng thái định của ngoại đạo vốn vẫn còn nhuốm màu tham cầu hay chấp thủ.

- Các bản kinh trong tăng chi bộ cũng cho thấy Đức Phật giảng sơ thiền cho cả hàng tỳ kheo và cư sĩ. Nghĩa là đây không phải đặc quyền của người xuất gia. - Những cư sĩ tại gia như Tu Đà cấp Cô Độc, Sita Đại Thương gia được ghi nhận là có thể nhập sơ thiền nhờ đời sống đạo đức và thực hành quán niệm liên tục.

- Điều này phản ánh tinh thần khai mở của giáo pháp. Con đường định, tuệ bắt đầu ngay từ bước đầu tiên này. Và bước đầu tiên ấy không phân biệt giai tầng xã hội.

- Nhìn từ toàn bộ kinh tạng Pali, sơ thiền là mắt xích nối giữa giới và tuệ. Nó phát sinh khi giới được giữ trọn và nó là nền tảng để tuệ phát khởi. Đây là lý do khái niệm này luôn được nhắc đến không chỉ trong phần thiền định của Bát Chánh Đạo mà cả trong nhiều bài kinh về tu tập tổng quát.

- Nói cách khác, nguồn gốc của sơ thiền trong kinh tạng Pali không chỉ nằm ở vài câu mô tả kỹ thuật mà thấm đẫm trong toàn bộ bối cảnh giáo pháp của Đức Thế Tôn. Nơi định, giới và tuệ được vận hành như một thể thống nhất.
 
Sửa bởi Amin:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
5.- v/đ Ly Dục ở Sơ Thiền.

Trong bối cảnh sơ thiền, ly dục không chỉ đơn giản là kiêng cữ dục tính theo nghĩa hẹp mà bao hàm một tiến trình buông bỏ rộng lớn hơn nhiều, buông bỏ mọi hình thức ham muốn trói buộc tâm, bất kể chúng đến từ giác quan, vật chất hay những ảo tưởng tinh thần.

TƯ LIỆU NGHIÊNG CỨU.- 9 (cấp độ) THIỀN ĐỊNH Ly_dic10

+ Trong kinh tạng Pali, từ dục thường được giải thích gồm ngũ dục, sắc, thanh, hương, vị, xúc, tức là mọi đối tượng mà sáu căn có thể tiếp xúc và khởi sinh tham ái.

- Điều này có nghĩa rằng khi Đức Phật dạy ly dục, ngài không chỉ nói đến việc xa lìa những hành vi sai trái về tình dục mà còn là sự tình thức trước toàn bộ sự quyến rũ của thế giới cảm giác.

- Ly dục trong thực hành không phải là sự đàn áp hay chối bỏ giác quan mà là chuyển hóa mối quan hệ của tâm với những gì nó tiếp nhận. - Một bông hoa đẹp, một món ăn ngon, một bản nhạc êm, hành giả vẫn có thể tiếp xúc nhưng không để chúng trở thành nguyên nhân tạo ra sự dính mắc, khao khát chiếm hữu hay sợ mất.- Điều này giống như người đứng bên bờ sông, ngắm dòng nước chảy nhưng không nhảy xuống để bị cuốn trôi.

- Khi tâm biết đứng bên bờ như vậy, nó tự nhiên trở nên nhẹ nhàng, không bị ràng buộc.

- Trong đời sống hiện đại, ly dục càng trở nên thử thách vì các phương tiện truyền thông, quảng cáo, mạng xã hội liên tục kích thích giác quan. - Ta không chỉ đối diện với nhu cầu tự nhiên của cơ thể mà còn với một cơn mưa thông tin được thiết kế để đánh vào tâm lý ham muốn.- Do đó, thực hành ly dục ngày nay đòi hỏi một sự tình giác chủ động, biết chọn lọc nội dung tiếp nhận, giới hạn thời gian bị cuốn vào giải trí vô độ và rèn luyện khả năng thỏa mãn với những điều giản
dị.

- Kinh Pháp Cú có câu:

"Không có lửa nào như lửa tham,
không có ác nào như sân hận,
không có khổ nào như khổ uẩn,
không có lạc nào như lạc niết bàn."
(Kinh Pháp Cú 251)


Lời dạy này nhấn mạnh bản chất đốt cháy và tiêu hao của dục vọng. Người bị dục dẫn dắt có thể tạm thấy vui
khi đạt được đối tượng mong muốn, nhưng niềm vui ấy mau tàn, để lại khoảng trống rồi lại bị thôi thúc tìm kiếm tiếp. - Đó là một vòng lặp khiến tâm mãi bất an.

- Ly dục không làm mất đi niềm vui mà giúp ta chạm đến một loại hỷ lạc khác.- Hỷ lạc thanh tịnh do tâm được giải phóng khỏi vòng lặp đó.

- Câu chuyện trong kinh kể về một cư sĩ giàu có vốn mê cờ bạc và tiệc tùng. Sau khi nghe pháp, ông bắt đầu
giảm dần những cuộc vui ồ ào dành thời gian tham thiền và bố thí.

- Ban đầu ông thấy trống trải vì thiếu sự kích thích quen thuộc, nhưng chỉ sau vài tháng ông nhận ra sự an ổn sâu sắc, nhẹ nhõm mà trước đây chưa từng có.

- Sự ly dục của ông không phải là bỏ hết mọi niềm vui mà là thay thế niềm vui dựa vào ngoại cảnh bằng niềm vui nội tâm.

- Trong tiến trình sơ thiền, Ly Dục đóng vai trò như một cánh cửa mở vào định. Khi dục vọng giảm, tâm không còn bị lôi kéo ra ngoài. - Năng lượng tinh thần được thu gom lại, tạo điều kiện cho sự tập trung tự nhiên.

- Nếu hành giả chưa ly dụp, dù có cố gắng ngồi yên, tâm vẫn sẽ bị kéo bởi những hình ảnh, âm thanh hay mọng tường liên quan đến ham muốn. - Ngược lại, khi đã ly dục phần lớn, chỉ cần một chút quán niệm, tâm đã có thể an trú và cảm nhận hì lạc do ly dục sinh ra.- Loại hỷ lạc nhẹ nhàng, bền và trong sáng hơn bất cứ khoái cảm giác quan nào. - Vì vậy, ly dục không phải là một điều kiện phụ mà là yếu tố cốt lõi của sơ thiền. - Nó đòi hỏi sự thực hành bền bỉ cả trong giờ thiền lẫn ngoài đời.

- Bắt đầu từ những việc rất nhỏ, bớt tìm kiếm sự chú ý từ người khác, không nuông chiều vị giác quá mức, biết dừng lại khi giải trí vừa đủ. - Từng bước như thế, tâm trở nên tự do hơn. Và chính sự tự do đó là nền tảng cho mọi tầng định và trí tuệ tiếp theo.
 

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,526
Điểm tương tác
1,162
Điểm
113
Kính Thầy Viên Quang,

Dục, có nhân là Tham, Sân, Si/Klesa gọi là Dục Vọng. Do duyên Căn, Trần, Thức khi "Xúc cảnh sanh Tình (Tình thức, ở đây là Tư tâm sở Dục)" mà sanh quả hiện hành Lục Dục.
Phật giáo Nguyên thủy có công phu tu tập từ Thân vào Tâm nên bước đầu rất chú trọng đến việc thủ hộ căn môn nên quán chiếu nhiều đến Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp tương ưng Thân, Thọ tức Vô thường, Khổ
Phật giáo Phát triển thì lại công phu tu tập từ Tâm đến Thân nên tập trung vào việc giữ Tâm định tĩnh bằng Tịch ngôn, Ly tướng tương ưng Tâm, Pháp tức Không, Vô ngã.

Chung quy lại phép Tu tâm, Dưỡng tánh/Phát triển hay Bhavana/Ly dục, Ly ác pháp/Nguyên thủy đều lấy Tứ Niệm Xứ làm con đường duy nhất đưa đến Giải thoát.

Kính
trừng hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
6. v/đ Ly Bất Thiện pháp ở Sơ Thiền.

- Khi nói đến ly bất thiện pháp trong tín hình sơ thiền, Đức Phật không chỉ đề cập đến việc tạm thời tránh xa những hành động xấu mà là một sự chuyển hóa tận gốc những yếu tố khiến tâm bất an, tán loạn và không thể an trú.

Trong kinh điển Pali, bất thiện pháp là tất cả những trạng thái tâm và hành vi xuất phát từ tham, sân, si. Chúng không chỉ là những tội lỗi hiển nhiên như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối mà còn bao gồm những tâm niệm vi tế như đố kỵ, kiêu mạn, nghi ngờ, lười biếng, hối tiếc.

+ Đức Phật liệt kê 10 bất thiện nghiệp làm căn bản.

- Ba thuộc về thân như: sát sinh, trộm cắp, tà hạnh trong dục.

- Bốn thuộc về khẩu là: nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời vô ích.

- Và ba thuộc về ý như tham lam, sân hận, tà kiến.

+ Ly bất thiện pháp nghĩa là rời xa toàn bộ những nguyên nhân ấy, không để chúng có cơ hội nảy mầm trong tâm.

- Điều này khác với việc cố gắng đè nén hay giả vờ không có. - Vì đè nén chỉ khiến chúng ẩn tạm thời rồi bùng phát mạnh hơn.

+ Ly bất thiện pháp theo lời Phật dạy là nhận diện chúng khi vừa khởi sinh, hiểu rõ bản chất gây hại và buông bỏ bằng trí tuệ.

- Chẳng hạn khi thấy tâm khởi sân, hành giả không biện minh cho cảm xúc ấy, cũng không dồn nén nó mà nhìn thẳng vào cảm giác nóng giận, sự bức bối trong thân tâm, rồi thở chậm, buông ra như đặt xuống một vật nặng.

- Một câu chuyện nổi tiếng trong kinh tương ưng, bộ kể về Angulimala, kẻ từng giết gần 1000 người.- Khi gặp Đức Phật, nhờ trí tuệ và tâm từ của ngài, Angulimala dừng ngay việc sát sinh, xuất gia tu học và cuối cùng chứng quả A La Hán.

- Câu chuyện này minh họa rõ ràng rằng ly bất thiện pháp không phụ thuộc vào quá khứ đã từng phạm lỗi nặng đến đâu mà nằm ở sự truyền hướng ngay trong hiện tại. - Chỉ cần tâm thật sự từ bỏ, bất thiện pháp liền mất sức mạnh.

- Trong đời sống hiện đại, bất thiện pháp xuất hiện không chỉ ở những hành vi vi phạm đạo đức mà còn ở thói quen tinh vi, vội vàng phán xét người khác, thỏa mãn bằng việc hơn thua trên mạng xã hội, tìm niềm vui trong việc chế giễu hay hạ bệ ai đó. - Những hành vi ấy dù không gây tổn hại vật chất ngay lập tức vẫn gieo vào tâm những hạt giống bất an, nghi kỵ và chia rẽ.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
7.- Ngũ Cái: 1 -tham dục, 2 -sân hận, 3 -hôn trầm, 4 -thủy miên, trạo cử, hối quá và 5 - nghi.- Là Các Bất thiện Pháp.

Người thực hành thiền định nếu không nhận diện và buông bỏ sẽ mang chúng vào giờ ngồi thiền khiến tâm khó an trụ.

* Ngũ triền cái : 5 chướng ngại lớn của thiền.- thực chất cũng là những bất thiện pháp: 1 -tham dục, 2 -sân hận, 3 -hôn trầm, 4 -thủy miên, trạo cử, hối quá và 5 - nghi.

- Khi còn vướng một trong những thứ này, tâm không thể đạt được sự nhất tâm cần thiết của sơ thiền. - Chẳng hạn, nếu trước khi ngồi thiền ta vừa tranh cãi gay gắt, năng lượng sân hận vẫn sôi trong lòng thì dù cố gắng nhắm mắt, hơi thở sẽ gấp, ý nghĩ vẫn quay cuồng. - Hoặc nếu tâm còn nghi ngờ về phương pháp, chưa tin tưởng vào giá trị của việc hành thiền, sự dao động ấy cũng phá vỡ sự tập trung. - Ly bất thiện pháp vì thế không phải là một giai đoạn riêng biệt mà là điều kiện song hành cùng mọi bước trên đạo lộ. - Đó là quá trình thanh lọc tâm ngay trong từng hành động thường ngày.

- Nói lời hòa nhã thay cho lời gây chia rẽ, hành xử công bằng thay vì vụ lợi, khởi tâm hoan hỉ thay vì ganh ghét. - Mỗi lần làm được như vậy, ta đang rút dần sức mạnh của bất thiện pháp và bồi đắp mảnh đất thanh tịnh để "định" có thể này mầm.

- Khi tâm lìa xa bất thiện pháp, một loại hì lạc đặc biệt sẽ xuất hiện, không phải niềm vui do đạt được điều mong muốn, mà là sự nhẹ nhõm khi không còn gánh nặng của oán giận, tham lam hay nghi ngờ.- Đức Phật gọi đó là hì lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh.
 

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,526
Điểm tương tác
1,162
Điểm
113
Chỉ cần tâm thật sự từ bỏ, bất thiện pháp liền mất sức mạnh.

- Trong đời sống hiện đại, bất thiện pháp xuất hiện không chỉ ở những hành vi vi phạm đạo đức mà còn ở thói quen tinh vi, vội vàng phán xét người khác, thỏa mãn bằng việc hơn thua trên mạng xã hội, tìm niềm vui trong việc chế giễu hay hạ bệ ai đó. - Những hành vi ấy dù không gây tổn hại vật chất ngay lập tức vẫn gieo vào tâm những hạt giống bất an, nghi kỵ và chia rẽ.

Kính Thầy Viên Quang,

Theo A tỳ đàm Câu xá hay Duy thức luận thì các Tùy phiền não (Phẩn, Hận, Phú, Não, Tật, Khan, Cuống, Siểm...) hiện hành do Tâm sở Vô tàm, Vô quý câu hữu với Bất thiện pháp (Tham, Sân, Si).
Vô tàm là không ghê sợ ác pháp; Vô quý, không biết hổ thẹn khi bản thân làm việc ác.

Theo ngôn ngữ hiện đại thì đó chính là nền tảng đạo đức căn bản của con người (Nhân tánh) hình thành lòng tự trọng nơi mỗi cá nhân. Khi con người đánh mất lòng tự trọng thì xem như không có lương tâm hay mất nhân tính, sẵn sàng làm các việc ác để đạt mục đích bất chấp đạo đức, pháp luật.
Trong một xã hội mà đạo đức suy đồi, tri thức khiếm khuyết mà thủ đoạn có thừa, thì người có lòng tự trọng, đáng buồn thay, thường bị khuynh loát bởi những kẻ vô tàm, vô quý dễ bị cuốn theo xu hướng số đông phàm phu vô văn mà sống đời vô đạo.
Tâm có Tàm, Quý chính là Tâm sở thiện ngăn ngừa hành vi bất thiện và thôi thúc tâm hướng thiện. Được duy trì và phát triển nhờ thân cận bậc thiện tri thức, trao đổi học hỏi Phật pháp và huân tập đa văn..

kính,

trừng hải
 
Sửa lần cuối:

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,526
Điểm tương tác
1,162
Điểm
113
* Ngũ triền cái : 5 chướng ngại lớn của thiền.- thực chất cũng là những bất thiện pháp: 1 -tham dục, 2 -sân hận, 3 -hôn trầm, 4 -thủy miên, trạo cử, hối quá và 5 - nghi.

- Khi còn vướng một trong những thứ này, tâm không thể đạt được sự nhất tâm cần thiết của sơ thiền. - Chẳng hạn, nếu trước khi ngồi thiền ta vừa tranh cãi gay gắt, năng lượng sân hận vẫn sôi trong lòng thì dù cố gắng nhắm mắt, hơi thở sẽ gấp, ý nghĩ vẫn quay cuồng. - Hoặc nếu tâm còn nghi ngờ về phương pháp, chưa tin tưởng vào giá trị của việc hành thiền, sự dao động ấy cũng phá vỡ sự tập trung. - Ly bất thiện pháp vì thế không phải là một giai đoạn riêng biệt mà là điều kiện song hành cùng mọi bước trên đạo lộ. - Đó là quá trình thanh lọc tâm ngay trong từng hành động thường ngày.

Kính Thầy Viên Quang,

Xin góp ý thêm sắc thái (ảnh dụ) của Ngũ Triền cái/Nivarana được ghi trong Kinh Bà la môn Sangàrava, Tăng bộ kinh II, 692/HT Thích Minh Châu để làm rõ hành tướng tại triền:
Tham nhục dục/Kammachanda, được ví nước có nhiều màu sắc do thuốc nhuộm.
Ác ý/Sân hận/Vyapada, được ví như nước đang sôi.
Hôn trầm-Thụy miên/Thina-Middha, được ví như nước bị bao phủ bởi rong, bèo.
Trạo cử-Hối quá/Uddhacca-Kukkucca, được ví như nước xao động nổi sóng cồn do gió.
Nghi tâm/Vicikiccha, được ví như nước vẫn đục bởi bùn nhơ và phù sa.


Kính
trừng hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
8. Năm Thiền Chi.- 1- TẦM, 2- TỨ, 3- HỶ, 4- LẠC và 5- NHẤT TÂM.

Hỷ Lạc này bền vững hơn mọi khoái cảm thế gian vì nó không phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài. - Đây chính là năng lượng nâng đỡ hành giả tiến vào sơ thiền nơi năm chi thiền là: 1- tầm, 2- tư , 3- hỉ 4- lạc, 5- Nhất tâm .- có thể vận hành thuần thục.

- Có thể nói ly dục là đóng cửa với những lôi kéo từ ngoại cảnh.- Còn ly bất thiện pháp là dọn dẹp căn phòng nội tâm để nó trở nên sạch sẽ thoáng đãng.

- Chỉ khi hai yếu tố này cùng hiện diện, tâm mới đủ nhẹ và sáng để an trú vào định.- Do đó, trong lời dạy của Đức Phật, bước đầu tiên để nhập sơ thiền không phải là ép tâm tập trung vào một đề mục mà là quán chiếu và buông bỏ tất cả những gì khiến tâm nặng nề rối loạn. - Đó chính là tinh túy của Ly Bất Thiện Pháp, một hành trình giải phóng từ bên trong, mở đường cho sự an định và trí tuệ nở hoa.

+ Trong kinh điển Pali, khi Đức Phật mô tả sơ thiền, ngài luôn nhấn mạnh đến năm yếu tố đặc trưng gọi là năm chi thiền bao gồm " tầm, tứ, hỉ, lạc và nhất tâm. - Đây không chỉ là những từ ngữ kỹ thuật của thiền định mà là những trải nghiệm sống động mà bất kỳ hành giả nào khi tiếp cận sơ thiền cũng sẽ cảm nhận với cường độ và sắc thái khác nhau tùy mức độ thuần thục.

- Nếu ví sơ thiền như một bông hoa vừa nở thì năm chi thiền chính là năm cánh hoa mở ra hài hòa, nâng đỡ và hoàn thiện nhau, tạo thành một tổng thể an lạc và sáng tỏ.

+ Tâm là sự hướng tâm đến đề mục.

- Trong đời sống thường ngày, tâm ta giống như một con khỉ truyền cành, liên tục bám vào hết ý nghĩ này đến ý nghĩ khác.

- Khi hành thiền, tâm là động tác nhẹ nhàng nhưng dứt khoát của tâm. Đưa toàn bộ sự chú ý quay về một điểm như hơi thở, một câu niệm hay hình ảnh tâm từ.

- Giống như khi đặt chiếc kim la bàn hướng về Bắc, tâm là bước định hướng đầu tiên xác lập mối liên hệ giữa tâm và đề mục.

- Với người mới,:

(1) "TẦM" có thể phải lập đi lập lại nhiều lần vì tâm dễ chạy đi.- Nhưng mỗi lần nhận ra và đưa về, ta đang rèn luyện sức mạnh điều hướng của tâm.

(2) "TỨ" là sự duy trì cọ sát, giữ tâm ở yên với đề mục sau khi đã hướng đến bằng TẦM. - Nếu TẦM là động tác đưa ly nước lên môi thì "TỨ" là quá trình giữ ly và thưởng thức từng ngụm. - Trong ngôn ngữ thiền, TỨ là sự quan sát liên tục và ổn định, không để tâm trôi sang đối tượng khác. Đây không phải là sự gồng dữ mà là một sự an trú mềm mại như dòng suối chảy liên tục quanh một hòn đá. TẦM và TỨ kết hợp giúp tâm không rơi vào hôn trầm hay tán loạn, tạo nền móng vững chắc để các chi thiền sâu hơn xuất hiện.

(3) "HỶ" là niềm vui khởi sinh khi tâm bắt đầu được giải phóng khỏi những áp lực sao động của đời thường. HỶ có nhiều cấp độ từ sự dùng mình nhẹ toàn thân đến cảm giác hân hoan như đón một luồng gió mát giữa ngày hè.

Đức Phật mô tả HỶ trong sơ thiền là hỉ do ly dục sanh.- Nghĩa là niềm vui không dựa trên việc đạt được vật chất hay thỏa mãn dục vọng mà đến từ sự nhẹ nhõm khi buông bỏ.

Với người mới, HỶ có thể xuất hiện như một trạng thái tâm trong sáng, phấn khởi muốn tiếp tục ngồi thiền lâu hơn.

Tuy nhiên, HỶ chỉ là trạm dừng, không phải cứu cánh và nếu bám vào nó, hành già sẽ khó tiến sâu hơn.

(4) "LẠC" là cảm giác dễ chịu, sâu lắng, ổn định hơn hỉ. - Nếu HỶ giống như ngọn sóng dâng trào thì LẠC là mặt nước yên lặng sau cơn sóng.

LẠC trong sơ thiền là sự an ổn của thân và sự nhẹ nhàng của tâm khiến người ngồi thiền cảm thấy như được bao bọc trong một không gian êm ái, không còn bị những khó chịu của thân thể hay lo lắng của tâm trí chi phối. - Đây là lý do nhiều hành giả khi nếm trải LẠC cảm thấy thiền là một nơi chốn trở về, một trú xứ bình yên giữa đời sống.

(5) "NHẤT TÂM". là đỉnh cao của năm chi thiền. Khi tâm an trú hoàn toàn vào một đối tượng duy nhất không còn bị phân tán. - Trong đời sống, trạng thái này giống như khi ta say mê làm một việc đến mức quên cả thời gian. Nhưng trong thiền, nhất tâm không bị pha tạp bởi căng thẳng hay ham muốn thành tựu.- Nó là sự trọn vẹn và toàn diện trong từng khoảnh khắc là điểm hội tụ của TẦM, TỨ, HỶ và LẠC.

Khi nhất tâm xuất hiện, hành giả cảm nhận rõ rệt một sự vững vàng như núi. Dù bên ngoài có tiếng động hay thay đổi, tâm vẫn không lay chuyển.

* Năm chi thiền không phải là năm bước tách rời mà đan sen và hỗ trợ lẫn nhau.

+ TẦM và TỨ tạo nên nền móng định tâm, từ đó HỶ nảy sinh. HỶ dẫn đến LẠC và cả bốn yếu tố này cùng hội tụ vào NHẤT TÂM.

- Với người mới, sự xuất hiện của chúng có thể chập trờn khi có khi mất. Nhưng qua rèn luyện, chúng sẽ dần ổn định và trở thành trạng thái tự nhiên mỗi khi hành thiền.

+ Kinh Tăng Chi Bộ mô tả người đạt sơ thiền như : vị ấy Ly Dục, Ly bất thiện pháp, chứng và chú sơ thiền, một trạng thái hỉ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.

- Điều này cho thấy sơ thiền không phải chỉ là kỹ thuật tập trung mà là kết quả tất yếu của một đời sống thanh lọc
buông bỏ. - Khi tâm không còn bị lôi kéo bởi dục và bất thiện pháp, các chi thiền sẽ tự nhiên hiển lộ như hoa nở khi đất đủ lành, nước đủ mát, ánh sáng đủ ấm.

- Nếu nhìn vào thực tế đời sống, ta cũng thấy nguyên lý này. - Khi ta gạt bỏ những mối bận tâm vụn vặt, tập trung làm một việc thiện với tâm toàn vẹn, niềm vui và sự dễ chịu xuất hiện.

- Và cuối cùng là cảm giác vững vàng, bình yên. - Đó chính là những mầm móng của năm chi thiền và là bằng chứng rằng sơ thiền không xa xôi mà chỉ đợi ta dành cho nó sự kiên trì và một tâm hướng thiện.

tải xuống (3).webp
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
9.- Tiếp Cận Sơ Thiền.

Khi một người mới bắt đầu bước vào con đường hành thiền với mong muốn đạt đến sơ thiền, trải nghiệm của họ thường là một hành trình đầy bất ngờ, vừa giàn dị vừa sâu sắc. Ban đầu họ ngồi xuống với một tâm thế háo hức, nghĩ rằng chỉ cần nhắm mắt, hít thở sâu là sẽ có được sự yên tĩnh và an lạc ngay lập tức.-Nhưng chỉ sau vài hơi thở, họ nhận ra tâm mình giống như một con ngựa hoang chưa từng được thuần dưỡng, cứ chạy tán loạn khắp nơi.

Những suy nghĩ về công việc chưa hoàn thành, lời nói chưa kịp đáp lại, kế hoạch cho ngày mai hay những kỷ niệm xa xưa thi nhau xuất hiện. Đây chính là giai đoạn đầu mà hầu như ai cũng trải qua và cũng là lúc người mới bắt đầu nhận ra sức mạnh của thói quen phóng tâm.

Nếu kiên nhẫn duy trì từng chút một, họ sẽ cảm nhận được sự khác biệt.

TƯ LIỆU NGHIÊNG CỨU.- 9 (cấp độ) THIỀN ĐỊNH Se_thi14


- Ban đầu việc đưa tâm trở lại với hơi thở giống như kéo một đứa trẻ hiếu động ngồi yên. Nhưng dần dần thời gian tâm ở lại với đề mục được kéo dài hơn. Họ bắt đầu cảm nhận được tâm, sự hướng tâm đến hơi thở và tứ sự duy trì tâm ở đó một cách ổn định hơn.

- Cảm giác này không phải là ép buộc hay gồng mình mà là một sự dẫn dắt nhẹ nhàng nhưng kiên định, giống như người trèo lái giữ cho con thuyền không bị trôi khỏi dòng nước mong muốn.

- Rồi sẽ đến một lúc, giữa những phút giây yên lặng đó, một niềm vui nhẹ nhàng trong sáng xuất hiện, không ồn ào, không kịch tính mà giống như ánh nắng sớm mai len lòi qua tán lá, sưởi ấm toàn thân.

- Đây chính là HỶ niềm vui do Ly Dục Sinh. - Một cảm giác thanh thoát khi buông xuống được những gánh nặng vô hình mà trước đây họ không hề nhận ra mình đang mang theo.

- Niềm vui ấy không phải là sự phấn khích mà là sự hân hoan từ bên trong làm cho thời gian ngồi thiền trở nên dễ chịu
hơn bao giờ hết.

- Khi niềm HỶ lắng xuống, một trạng thái dễ chịu sâu lắng hơn bắt đầu lan tỏa khắp thân tâm. - Đó là LẠC. sự êm ái khi không còn bị lôi kéo bởi các ham muốn hay sự khó chịu.

- Trong khoảnh khắc ấy, người mới cảm thấy như toàn bộ cơ thể mình được bao bọc bởi một làn nước ấm áp, tinh khiết và tâm trí thì nhẹ như mây trời.

- Thời gian dường như biến mất, không còn quá khứ hay tương lai, chỉ còn sự hiện diện tĩnh lặng nơi đây và bây giờ.

- Dù vậy, hành trình này không phải lúc nào cũng thẳng tiến.

- Nhiều người mới khi bắt đầu cảm nhận được hỉ và lạc lại vô thức tìm cách lặp lại hoặc giữ chặt trạng thái ấy. Nhưng càng bám víu nó càng tan biến, để lại sự hụt hẫng. Đây là lúc họ cần hiểu rằng HỶ và LẠC chỉ là những hoa trái tự nhiên của việc ly dục, ly bất thiện pháp chứ không phải đích đến để nắm bắt.

- Khi buông được mong cầu ấy, những trạng thái này sẽ tự trở lại và ở lâu hơn.

- Có những khoảnh khắc hiếm hoi, tâm của người mới trở nên tĩnh lặng hoàn toàn, chỉ còn một đối tượng duy nhất thường là hơi thở hiện rõ mồn một. Đó là những giây phút NHẤT TÂM.- ló dạng.

- Nhưng vì chưa thuần thục, trạng thái này thường bị phá vỡ bởi một âm thanh ngoài ý muốn, một suy nghĩ bất chợt hoặc thậm chí là sự vui mừng khi nhận ra mình đang rất định tâm.

- Dù vậy, mỗi khoảnh khắc nhất tâm ấy là một dấu hiệu đáng mừng.- Báo hiệu họ đang ở rất gần ngưỡng cửa của Sơ Thiền.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,482
Điểm tương tác
1,443
Điểm
113
10.- Sơ Thiền cần đề phòng các lầm lẫn.

+ Trên con đường tiếp cận Sơ Thiền, người mới cũng thường vấp phải những nhầm lẫn.

- Có người tưởng mình đã vào định sâu khi thật ra đang rơi vào trạng thái mơ màng, nửa tỉnh nửa ngủ.

- Có người cảm thấy cơ thể thư giãn và cho đó là LẠC của thiền, nhưng thực chất chỉ là sự dễ chịu về thể chất.

- Lại có người nhìn thấy ánh sáng hay hình ảnh trong tâm và nghĩ rằng đó là dấu hiệu của Định. nhưng kỳ thực chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.

+ Để tránh những hiểu lầm này, họ cần duy trì chánh niệm .- và nếu có thể tìm sự hướng dẫn từ những người có kinh nghiệm.

- Điều quan trọng nhất với người mới là hiểu rằng sơ thiền không đến từ nỗ lực ép buộc, cũng không đến từ mong cầu vội vã.- Nó là kết quả tự nhiên của một tâm biết buông bỏ dần những ham muốn trói buộc và các bất thiện pháp giống như mặt hồ trở nên phẳng lặng khi gió ngừng thổi.

- Mỗi lần ngồi xuống, dù tâm có loạn động cũng là một lần gieo thêm một hạt giống định vào mảnh đất tâm thức.

- Khi hạt giống ấy đủ chín, nó sẽ nảy mầm thành trải nghiệm sơ thiền, một nền tảng vững chắc để bước tiếp trên con đường thiền định và giải thoát.
tiểu2.webp
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top