vienquang2

TƯ TƯỞNG TÁNH KHÔNG theo Tác Giả PHỔ NGUYỆT

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,353
Điểm tương tác
1,325
Điểm
113
Lời Tựa
Con đường luận pháp nhứt là trực chỉ nhân tâm hay trở về chân nguyên, tức là phải rõ đệ nhất nghĩa các kinh Phật dạy mà hành đúng pháp, là một việc cần liễu tri và tinh thông thành phần và mục đích pháp học mới có thể mở ra lối đi chân chánh giác ngộ niết bàn.
Giải thoát khỏi dòng tâm thức vẩn đục (vô minh) để được minh tâm kiến tánh là hướng đi của mọi tu sĩ. Phổ Nguyệt mong mỏi pháp Phật nhiệm mầu được soi sáng bằng tuệ quán của mỗi người chúng ta cố gắng thâm cứu và thực hiện hoàn mỹ hơn đem lại nhiều lợi ích hơn trong việc tu học.
Phổ Nguyệt 2007

***

Bài 1.- Giới thiệu Cư Sĩ Phổ Nguyệt.

Kính các Bạn. Hôm nay VQ kính giới thiệu Nhà nghiêng cứu Phật Học, một vị Bồ Tát hiện thế.- Đó là Cư Sĩ Phổ Nguyệt.
Tư Tưởng Tánh Không.- của tác giả Phổ Nguyệt. Phongu11


Cư Sĩ Phổ Nguyệt
Email: [email protected]

Phổ Nguyệt là Pháp Danh của Huỳnh tấn Ban, sanh năm 1937 tại Long An, VN.
1957-1960 : Tốt nghiệp trường QG Sư Phạm Saigon;
1960-1963 : Giáo sư trường Trung học Kiến Hòa;
1968-1975 :- Giáo sư, Tổng Giám Thị trường Trung học Vũng Tàu;
- 72-75 : ĐH Văn Khoa Saigon, Ban Cử Nhân Triết;
1990 : Định cư ở Mỹ;
1990-1997 : MS, Ph.D in Counseling Psychology tại ĐH Columbia S USA; ( Tư Vấn Tâm lý )
2002--- :Tịnh Tâm Dưỡng Tánh, hoạt động trong lãnh vực Tâm Linh.

Giống như thông lệ. Khi kèm theo bài viết VQ sẽ có những ý kiến nhận xét và giải thích thuật ngữ.- Mong các Bạn thông cảm.- Và Mời các Bạn đón xem.
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,353
Điểm tương tác
1,325
Điểm
113
Phần 1.- Tuệ Giác: Cái Biết Sat Na Hiện Tiền.

Bài 2.- Huyễn Vọng :


Chánh văn:

Trần gian là một thế giới vô thường, với ánh sáng trí tuệ của Đức Phật đã soi sáng rõ ràng là mọi sự vật thường biến đổi.

Màn vô minh đã che mờ nhận thức của thế gian. Vì vô minh nên mọi hoạt động của tâm trí, tình cảm và hành động được chúng sanh tư duy một cách sai lạc.

Trong thập nhị nhân duyên chỉ rõ, vì vô minh, nên hành hoạt động nào cũng tạo ra thức. Như đã trình bày trên, thức hay tâm thức thì không thật. Biết rằng Tâm không có tự tính, và biến diệt. Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm không có tự tính.

Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật. Theo Shamar Rinpoche, THẾ GIỚI HIỆN TƯỢNG CỦA TÂM được diễn tả như sau:

"Trong sự nhận biết có hai thành phần:


  • chủ thể nhận biết và
  • vật được nhận biết.

Hiển nhiên là có sự liên quan giữa hai bên, vì có hiệu ứng của các đối tượng trên Tâm. Đối tượng xinh đẹp sinh ra tham muốn, đối tượng không hấp dẫn gây ra ghét bỏ và đối tượng trung tính mang lại sự vô tâm.- Vậy, hoặc tâm và các đối tượng có cùng tính chất chính yếu, hoặc có một liên hệ nhân quả giữa hai bên, như liên hệ giữa khói và lửa...

Vậy chỉ có một kết luận: đối tượng chính là tâm thức, như vậy những vấn đề trên không hiện hữu.

Tuy nhận biết đối tượng vì chúng là sản phẩm của tâm, và tâm có thể sinh ra tâm.

Thí dụ trong giấc mộng: nếu một người mơ thấy con ngựa, người đó có thể cảm nhận con ngựa, vì nó là vật do tâm tạo. Nó được sinh ra bởi tâm và có cùng tính chất với tâm.

Cũng vậy, tất cả những đối tượng khác nhau và những cảm giác về chúng đều nạp vào dòng tâm thức đều do tâm tạo."


+++++++++++++++++++++++=

Thảo luận:

* TÂM: có 2 đặc tính là: Tịch & Chiếu.

+ Sáu thức hay tâm thức.- Là phần "Chiếu" của Tâm. Nó là pháp Huyễn vọng.- do duyên 6 căn hợp với 6 trần nên là pháp Vô Thường.- đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.- Nên gọi là Vọng Tâm.

+ Vọng Tâm không có tự tính, và biến diệt.- Nên hành giả tu tập không nên lầm chấp vào cái Vọng Tâm này.
Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. Huyan_11
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,353
Điểm tương tác
1,325
Điểm
113
Bài 3.- Lộ trình của Tâm Thức -.

Chánh văn:

Diễn tiến Nhận thức Giác Trí Tuệ hay Thể cách Tri nhận Tự Tính Tuyệt Đối hay Tuệ Giác.

Nhất niệm hay cái Thức nguyên sơ là Thực Tại Điểm trong tiến trình nhận thức khởi đầu của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhị Nguyên tính của Năng Sở, Chủ Khách, Căn Trần;

Giác Trí là tiến trình tri nhận đầu nguồn của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhất Nguyên Tính Tương Đối của Trí Thức hay Tư Tưởng. Nhất Nguyên là vì khi Ý Tác Động của Căn (Ý thức) tiếp xúc với đối tượng (thực tại giả lập), thành Giác Thức (hay Tâm Thức), lập tức được Ý Tác Năng (Ý Trí) ý niệm hóa Giác Thức thành Giác Trí (hay Tâm Trí). Tâm Thức và Tâm Trí cùng một Tâm. Thức chuyển thành Trí. Giác Trí Đang Là (hiện tại), dù nằm trong đạo lý nhất nguyên, nhưng nó cũng huyễn hóa theo thời gian. Cái Đang Là là sự nối tiếp những điểm sát na sanh diệt liên tục. Dòng Giác Trí ấy trôi chảy làm cho Trí và Thức liên hợp sanh ra Tư Tưởng. Còn tư tưởng là còn có sự thay đổi, nên chưa phải là chân lý.

+++++++++++++++++++

Thảo luận:

Ở K. Niết Bàn. Đức Phật có dạy về Tứ Y Pháp.

Tứ y pháp bao gồm: Y pháp, bất y nhân; Y nghĩa, bất y ngữ; Y trí, bất y thức; Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh. Cũng gọi là Tứ y tứ bất y, là bốn điều mà một người tu cần nương tựa và bốn điều không nên nương tựa.

Ở đây chúng ta ứng dụng: Y Trí Bất Y Thức.

+ Thức: Sáu thức hay tâm thức.- Là phần "Chiếu" của Tâm.- Là 6 Thức, đã nói trên, gồm: Nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý.- Đây là 6 sự "tinh minh chiếu diệu" của 6 Căn. (mắt, tai, mủi, lưỡi, thân, và bộ não)

- Khi nào gọi là Thức ?
Đáp.- Đó là: "Nhất niệm hay cái Thức nguyên sơ là Thực Tại Điểm trong tiến trình nhận thức khởi đầu của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhị Nguyên tính của Năng Sở, Chủ Khách, Căn Trần"

- Ở Vi Diệu Pháp, nói về Lộ tình Tâm.- Có diễn tả về "Thức Tâm" này. như sau:

Là tiến trình sanh diệt của tâm. Tùy theo trường hợp sanh khởi lộ trình tâm được phân ra lộ dài, lộ ngắn, lộ lớn, lộ nhỏ. Tùy theo nơi chốn sanh khởi, lộ trình tâm được phân biệt làm hai loại: lộ trình qua ngũ môn và lộ trình qua ý môn. Ðơn vị đo lường trong lộ trình tâm được gọi là tâm Sát Na.

A- Tâm Sát na của Lộ trình tâm.

Trong trạng thái thụ động, khi tâm không bị kích thích bởi đối tượng, được gọi là tâm Hộ kiếp (Bhavaṅga). Khi bị kích thích bởi đối tượng thì một tâm sẽ khởi lên trên mặt tâm Hộ kiếp, rồi chìm xuống để một tâm khác khởi lên (thông thường chúng ta không thể giữ mãi một tâm không cho chìm vào tâm Hộ kiếp). Như vậy, đời sống của một tâm bao gồm 3 giai đoạn: Sanh (Uppāda), Trụ (Ṭhiti) và Diệt (Bhaṅga). Ðời sống đó được gọi là tâm sát na (Cittakhana).

I) Lộ trình qua ngũ môn.

(Cái biết của 6 Thức) Là dòng tâm thức sinh khởi qua năm căn môn: Nhãn môn, Nhĩ môn, Tỷ môn, Thiệt môn và Thân môn. Lộ ngũ môn được phân thành hai loại:

1) Lộ ngũ môn bình nhật.

Lộ ngũ môn bình nhật là lộ trình tâm xuyên qua ngũ môn để tiếp thu và xử sự với cảnh trong đời sống hàng ngày.(hết trích)
Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. So-do-10


Kính các Bạn:

* đời sống của một tâm bao gồm 3 giai đoạn: Sanh (Uppāda), Trụ (Ṭhiti) và Diệt (Bhaṅga). Ðời sống đó được gọi là tâm sát na (Cittakhana).- Mà ở đây CS Phổ Nguyệt gọi là:

+ Nhất niệm hay cái Thức nguyên sơ là Thực Tại Điểm trong tiến trình nhận thức khởi đầu của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhị Nguyên tính của Năng Sở, Chủ Khách, Căn Trần;

+ Cái Đang Là là sự nối tiếp những điểm sát na sanh diệt liên tục. Dòng Giác Trí ấy trôi chảy làm cho Trí và Thức liên hợp sanh ra Tư Tưởng. Còn tư tưởng là còn có sự thay đổi, nên chưa phải là chân lý.(hết trích)

* Những lộ trình Tâm, nói ở đó chưa phải là chân Trí, mà chỉ là Thức.

Vậy TRÍ tìm thấy ở đâu ?
(Chúng ta sẽ truy nguyên ở phần kế đây)
 
Sửa lần cuối:

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,481
Điểm tương tác
1,108
Điểm
113
Bài 3.- Lộ trình của Tâm Thức -.

Chánh văn:

Diễn tiến Nhận thức Giác Trí Tuệ hay Thể cách Tri nhận Tự Tính Tuyệt Đối hay Tuệ Giác.

Nhất niệm hay cái Thức nguyên sơ là Thực Tại Điểm trong tiến trình nhận thức khởi đầu của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhị Nguyên tính của Năng Sở, Chủ Khách, Căn Trần;

Giác Trí là tiến trình tri nhận đầu nguồn của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhất Nguyên Tính Tương Đối của Trí Thức hay Tư Tưởng. Nhất Nguyên là vì khi Ý Tác Động của Căn (Ý thức) tiếp xúc với đối tượng (thực tại giả lập), thành Giác Thức (hay Tâm Thức), lập tức được Ý Tác Năng (Ý Trí) ý niệm hóa Giác Thức thành Giác Trí (hay Tâm Trí). Tâm Thức và Tâm Trí cùng một Tâm. Thức chuyển thành Trí. Giác Trí Đang Là (hiện tại), dù nằm trong đạo lý nhất nguyên, nhưng nó cũng huyễn hóa theo thời gian. Cái Đang Là là sự nối tiếp những điểm sát na sanh diệt liên tục. Dòng Giác Trí ấy trôi chảy làm cho Trí và Thức liên hợp sanh ra Tư Tưởng. Còn tư tưởng là còn có sự thay đổi, nên chưa phải là chân lý.

+++++++++++++++++++

Hề hề,

Văn ngôn diễn đạt của tác giả theo văn triết học nên Trừng Hải phải đọc nhiều lần mới biết phần nào nội dung mà tác gia Phổ nguyệt muốn trình bày.
Trước hết phải làm rõ các "thuật ngữ" mà tác giả sử dụng để làm rõ văn ngôn từ đó nắm biết nội dung.
Giác thức: cái "nhận biết" của Thức về cảnh trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sự nhận biết này chỉ là sự quan sát thấy cảnh trần hiện diện ngang mức hình tướng. Ví dụ như nhãn thức thấy màu nhưng không nhận biết đó là màu gì trên bảng màu; hay Thiệt thức nhận biết vị chua nhưng không biết nguồn gốc của vị chua đó (như vị chua của chanh)...
Giác trí: chính là sự "xác định" đối tượng từ tiền ngũ thức hiện diện ở Ý thức. Ví dụ như biết màu sắc xanh trên bảng màu; vị chua của chanh...
Nhất nguyên: không phải chỉ thực tại tuyệt đối, Thể Tánh theo từ nguyên mà tác giả lại sử dụng để chỉ đến Thể Tướng tương đối: Đó chính là Duy Thức, vạn pháp chỉ là Thức (Được tác giả gọi là Nhất nguyên tính tương đối, hề hề)

Quá trình nhận thức của tác gia Phổ nguyệt chỉ có chỗ khác biệt là thay vì theo truyền thống thì khởi đầu từ căn xúc cảnh (Hê hê, trái xoài rơi) lại lấy chỗ lập cước Ý căn (Mana duyên Alaya, hằng thẩm hay luồng hộ kiếp Bhavana rúng động); Nên dù tác giả gọi là Giác thức hay Giác trí và dựa trên từ ngữ này mà cho rằng Thức chuyển thành Trí; nhưng thực chất đó cũng chỉ là (Duy) Thức mà thôi, hề hề. Không phải là sự chuyển y Bát thức thành Tứ trí, nên nhớ.


Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,353
Điểm tương tác
1,325
Điểm
113
Bài 4.- Phân biệt TRÍ & THỨC ở: PG và Thế Gian.

+ Ở trên Thế gian.- Người ta định nghĩa: "Trí thức" trong tiếng Việt có thể được hiểu là người có kiến thức sâu rộng về một hoặc nhiều lĩnh vực, thường là người có trình độ học vấn cao và chuyên môn sâu trong lĩnh vực của mình, có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo. Ngoài ra, "trí thức" còn có thể chỉ về tầng lớp xã hội những người lao động trí óc, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy văn hóa và tiến bộ xã hội.
Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. Phquan10


* Nhưng đối với Phật học: TRÍ & THỨC không mang ý nghĩa đó.- Mà có Vị trí hoàn toàn khác định nghĩa của Thế gian.- Nếu mang nghĩa của thế gian để học Đạo.- thì không thể đồng bộ với Phật Học.

- Sự khác biệt. Đại khái như:

+ THỨC: Là loại công năng đặc trưng của các giác quan. Như con mắt có Nhãn Thức, mũi có Tỷ Thức v.v...

+ TRÍ: Là do tu tập, hoặc Thiền Định mà các Thức kết tinh, thăng hoa. sự thăng hoa các Thức gọi là Thức chuyển thành TRÍ.

Trong kinh có nói về các TRÍ, như:

1. Căn bản trí
2. Hậu đắc Trí
3. Chân Trí hay Giác Trí Tuệ hay cái Trí Nguyên Sơ
4. Bát Nhã Trí (Trí Không)
5. Nhất Thiết Chủng Trí. v.v...
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top