vienquang2

TƯ TƯỞNG TÁNH KHÔNG theo Tác Giả PHỔ NGUYỆT

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Lời Tựa
Con đường luận pháp nhứt là trực chỉ nhân tâm hay trở về chân nguyên, tức là phải rõ đệ nhất nghĩa các kinh Phật dạy mà hành đúng pháp, là một việc cần liễu tri và tinh thông thành phần và mục đích pháp học mới có thể mở ra lối đi chân chánh giác ngộ niết bàn.
Giải thoát khỏi dòng tâm thức vẩn đục (vô minh) để được minh tâm kiến tánh là hướng đi của mọi tu sĩ. Phổ Nguyệt mong mỏi pháp Phật nhiệm mầu được soi sáng bằng tuệ quán của mỗi người chúng ta cố gắng thâm cứu và thực hiện hoàn mỹ hơn đem lại nhiều lợi ích hơn trong việc tu học.
Phổ Nguyệt 2007

***

Bài 1.- Giới thiệu Cư Sĩ Phổ Nguyệt.

Kính các Bạn. Hôm nay VQ kính giới thiệu Nhà nghiêng cứu Phật Học, một vị Bồ Tát hiện thế.- Đó là Cư Sĩ Phổ Nguyệt.
Tư Tưởng Tánh Không.- của tác giả Phổ Nguyệt. Phongu11


Cư Sĩ Phổ Nguyệt
Email: [email protected]

Phổ Nguyệt là Pháp Danh của Huỳnh tấn Ban, sanh năm 1937 tại Long An, VN.
1957-1960 : Tốt nghiệp trường QG Sư Phạm Saigon;
1960-1963 : Giáo sư trường Trung học Kiến Hòa;
1968-1975 :- Giáo sư, Tổng Giám Thị trường Trung học Vũng Tàu;
- 72-75 : ĐH Văn Khoa Saigon, Ban Cử Nhân Triết;
1990 : Định cư ở Mỹ;
1990-1997 : MS, Ph.D in Counseling Psychology tại ĐH Columbia S USA; ( Tư Vấn Tâm lý )
2002--- :Tịnh Tâm Dưỡng Tánh, hoạt động trong lãnh vực Tâm Linh.

Giống như thông lệ. Khi kèm theo bài viết VQ sẽ có những ý kiến nhận xét và giải thích thuật ngữ.- Mong các Bạn thông cảm.- Và Mời các Bạn đón xem.
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Phần 1.- Tuệ Giác: Cái Biết Sat Na Hiện Tiền.

Bài 2.- Huyễn Vọng :


Chánh văn:

Trần gian là một thế giới vô thường, với ánh sáng trí tuệ của Đức Phật đã soi sáng rõ ràng là mọi sự vật thường biến đổi.

Màn vô minh đã che mờ nhận thức của thế gian. Vì vô minh nên mọi hoạt động của tâm trí, tình cảm và hành động được chúng sanh tư duy một cách sai lạc.

Trong thập nhị nhân duyên chỉ rõ, vì vô minh, nên hành hoạt động nào cũng tạo ra thức. Như đã trình bày trên, thức hay tâm thức thì không thật. Biết rằng Tâm không có tự tính, và biến diệt. Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm không có tự tính.

Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật. Theo Shamar Rinpoche, THẾ GIỚI HIỆN TƯỢNG CỦA TÂM được diễn tả như sau:

"Trong sự nhận biết có hai thành phần:


  • chủ thể nhận biết và
  • vật được nhận biết.

Hiển nhiên là có sự liên quan giữa hai bên, vì có hiệu ứng của các đối tượng trên Tâm. Đối tượng xinh đẹp sinh ra tham muốn, đối tượng không hấp dẫn gây ra ghét bỏ và đối tượng trung tính mang lại sự vô tâm.- Vậy, hoặc tâm và các đối tượng có cùng tính chất chính yếu, hoặc có một liên hệ nhân quả giữa hai bên, như liên hệ giữa khói và lửa...

Vậy chỉ có một kết luận: đối tượng chính là tâm thức, như vậy những vấn đề trên không hiện hữu.

Tuy nhận biết đối tượng vì chúng là sản phẩm của tâm, và tâm có thể sinh ra tâm.

Thí dụ trong giấc mộng: nếu một người mơ thấy con ngựa, người đó có thể cảm nhận con ngựa, vì nó là vật do tâm tạo. Nó được sinh ra bởi tâm và có cùng tính chất với tâm.

Cũng vậy, tất cả những đối tượng khác nhau và những cảm giác về chúng đều nạp vào dòng tâm thức đều do tâm tạo."


+++++++++++++++++++++++=

Thảo luận:

* TÂM: có 2 đặc tính là: Tịch & Chiếu.

+ Sáu thức hay tâm thức.- Là phần "Chiếu" của Tâm. Nó là pháp Huyễn vọng.- do duyên 6 căn hợp với 6 trần nên là pháp Vô Thường.- đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.- Nên gọi là Vọng Tâm.

+ Vọng Tâm không có tự tính, và biến diệt.- Nên hành giả tu tập không nên lầm chấp vào cái Vọng Tâm này.
Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. Huyan_11
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 3.- Lộ trình của Tâm Thức -.

Chánh văn:

Diễn tiến Nhận thức Giác Trí Tuệ hay Thể cách Tri nhận Tự Tính Tuyệt Đối hay Tuệ Giác.

Nhất niệm hay cái Thức nguyên sơ là Thực Tại Điểm trong tiến trình nhận thức khởi đầu của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhị Nguyên tính của Năng Sở, Chủ Khách, Căn Trần;

Giác Trí là tiến trình tri nhận đầu nguồn của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhất Nguyên Tính Tương Đối của Trí Thức hay Tư Tưởng. Nhất Nguyên là vì khi Ý Tác Động của Căn (Ý thức) tiếp xúc với đối tượng (thực tại giả lập), thành Giác Thức (hay Tâm Thức), lập tức được Ý Tác Năng (Ý Trí) ý niệm hóa Giác Thức thành Giác Trí (hay Tâm Trí). Tâm Thức và Tâm Trí cùng một Tâm. Thức chuyển thành Trí. Giác Trí Đang Là (hiện tại), dù nằm trong đạo lý nhất nguyên, nhưng nó cũng huyễn hóa theo thời gian. Cái Đang Là là sự nối tiếp những điểm sát na sanh diệt liên tục. Dòng Giác Trí ấy trôi chảy làm cho Trí và Thức liên hợp sanh ra Tư Tưởng. Còn tư tưởng là còn có sự thay đổi, nên chưa phải là chân lý.

+++++++++++++++++++

Thảo luận:

Ở K. Niết Bàn. Đức Phật có dạy về Tứ Y Pháp.

Tứ y pháp bao gồm: Y pháp, bất y nhân; Y nghĩa, bất y ngữ; Y trí, bất y thức; Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh. Cũng gọi là Tứ y tứ bất y, là bốn điều mà một người tu cần nương tựa và bốn điều không nên nương tựa.

Ở đây chúng ta ứng dụng: Y Trí Bất Y Thức.

+ Thức: Sáu thức hay tâm thức.- Là phần "Chiếu" của Tâm.- Là 6 Thức, đã nói trên, gồm: Nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý.- Đây là 6 sự "tinh minh chiếu diệu" của 6 Căn. (mắt, tai, mủi, lưỡi, thân, và bộ não)

- Khi nào gọi là Thức ?
Đáp.- Đó là: "Nhất niệm hay cái Thức nguyên sơ là Thực Tại Điểm trong tiến trình nhận thức khởi đầu của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhị Nguyên tính của Năng Sở, Chủ Khách, Căn Trần"

- Ở Vi Diệu Pháp, nói về Lộ tình Tâm.- Có diễn tả về "Thức Tâm" này. như sau:

Là tiến trình sanh diệt của tâm. Tùy theo trường hợp sanh khởi lộ trình tâm được phân ra lộ dài, lộ ngắn, lộ lớn, lộ nhỏ. Tùy theo nơi chốn sanh khởi, lộ trình tâm được phân biệt làm hai loại: lộ trình qua ngũ môn và lộ trình qua ý môn. Ðơn vị đo lường trong lộ trình tâm được gọi là tâm Sát Na.

A- Tâm Sát na của Lộ trình tâm.

Trong trạng thái thụ động, khi tâm không bị kích thích bởi đối tượng, được gọi là tâm Hộ kiếp (Bhavaṅga). Khi bị kích thích bởi đối tượng thì một tâm sẽ khởi lên trên mặt tâm Hộ kiếp, rồi chìm xuống để một tâm khác khởi lên (thông thường chúng ta không thể giữ mãi một tâm không cho chìm vào tâm Hộ kiếp). Như vậy, đời sống của một tâm bao gồm 3 giai đoạn: Sanh (Uppāda), Trụ (Ṭhiti) và Diệt (Bhaṅga). Ðời sống đó được gọi là tâm sát na (Cittakhana).

I) Lộ trình qua ngũ môn.

(Cái biết của 6 Thức) Là dòng tâm thức sinh khởi qua năm căn môn: Nhãn môn, Nhĩ môn, Tỷ môn, Thiệt môn và Thân môn. Lộ ngũ môn được phân thành hai loại:

1) Lộ ngũ môn bình nhật.

Lộ ngũ môn bình nhật là lộ trình tâm xuyên qua ngũ môn để tiếp thu và xử sự với cảnh trong đời sống hàng ngày.(hết trích)
Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. So-do-10


Kính các Bạn:

* đời sống của một tâm bao gồm 3 giai đoạn: Sanh (Uppāda), Trụ (Ṭhiti) và Diệt (Bhaṅga). Ðời sống đó được gọi là tâm sát na (Cittakhana).- Mà ở đây CS Phổ Nguyệt gọi là:

+ Nhất niệm hay cái Thức nguyên sơ là Thực Tại Điểm trong tiến trình nhận thức khởi đầu của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhị Nguyên tính của Năng Sở, Chủ Khách, Căn Trần;

+ Cái Đang Là là sự nối tiếp những điểm sát na sanh diệt liên tục. Dòng Giác Trí ấy trôi chảy làm cho Trí và Thức liên hợp sanh ra Tư Tưởng. Còn tư tưởng là còn có sự thay đổi, nên chưa phải là chân lý.(hết trích)

* Những lộ trình Tâm, nói ở đó chưa phải là chân Trí, mà chỉ là Thức.

Vậy TRÍ tìm thấy ở đâu ?
(Chúng ta sẽ truy nguyên ở phần kế đây)
 
Sửa lần cuối:

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,483
Điểm tương tác
1,109
Điểm
113
Bài 3.- Lộ trình của Tâm Thức -.

Chánh văn:

Diễn tiến Nhận thức Giác Trí Tuệ hay Thể cách Tri nhận Tự Tính Tuyệt Đối hay Tuệ Giác.

Nhất niệm hay cái Thức nguyên sơ là Thực Tại Điểm trong tiến trình nhận thức khởi đầu của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhị Nguyên tính của Năng Sở, Chủ Khách, Căn Trần;

Giác Trí là tiến trình tri nhận đầu nguồn của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhất Nguyên Tính Tương Đối của Trí Thức hay Tư Tưởng. Nhất Nguyên là vì khi Ý Tác Động của Căn (Ý thức) tiếp xúc với đối tượng (thực tại giả lập), thành Giác Thức (hay Tâm Thức), lập tức được Ý Tác Năng (Ý Trí) ý niệm hóa Giác Thức thành Giác Trí (hay Tâm Trí). Tâm Thức và Tâm Trí cùng một Tâm. Thức chuyển thành Trí. Giác Trí Đang Là (hiện tại), dù nằm trong đạo lý nhất nguyên, nhưng nó cũng huyễn hóa theo thời gian. Cái Đang Là là sự nối tiếp những điểm sát na sanh diệt liên tục. Dòng Giác Trí ấy trôi chảy làm cho Trí và Thức liên hợp sanh ra Tư Tưởng. Còn tư tưởng là còn có sự thay đổi, nên chưa phải là chân lý.

+++++++++++++++++++

Hề hề,

Văn ngôn diễn đạt của tác giả theo văn triết học nên Trừng Hải phải đọc nhiều lần mới biết phần nào nội dung mà tác gia Phổ nguyệt muốn trình bày.
Trước hết phải làm rõ các "thuật ngữ" mà tác giả sử dụng để làm rõ văn ngôn từ đó nắm biết nội dung.
Giác thức: cái "nhận biết" của Thức về cảnh trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sự nhận biết này chỉ là sự quan sát thấy cảnh trần hiện diện ngang mức hình tướng. Ví dụ như nhãn thức thấy màu nhưng không nhận biết đó là màu gì trên bảng màu; hay Thiệt thức nhận biết vị chua nhưng không biết nguồn gốc của vị chua đó (như vị chua của chanh)...
Giác trí: chính là sự "xác định" đối tượng từ tiền ngũ thức hiện diện ở Ý thức. Ví dụ như biết màu sắc xanh trên bảng màu; vị chua của chanh...
Nhất nguyên: không phải chỉ thực tại tuyệt đối, Thể Tánh theo từ nguyên mà tác giả lại sử dụng để chỉ đến Thể Tướng tương đối: Đó chính là Duy Thức, vạn pháp chỉ là Thức (Được tác giả gọi là Nhất nguyên tính tương đối, hề hề)

Quá trình nhận thức của tác gia Phổ nguyệt chỉ có chỗ khác biệt là thay vì theo truyền thống thì khởi đầu từ căn xúc cảnh (Hê hê, trái xoài rơi) lại lấy chỗ lập cước Ý căn (Mana duyên Alaya, hằng thẩm hay luồng hộ kiếp Bhavana rúng động); Nên dù tác giả gọi là Giác thức hay Giác trí và dựa trên từ ngữ này mà cho rằng Thức chuyển thành Trí; nhưng thực chất đó cũng chỉ là (Duy) Thức mà thôi, hề hề. Không phải là sự chuyển y Bát thức thành Tứ trí, nên nhớ.


Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 4.- Phân biệt TRÍ & THỨC ở: PG và Thế Gian.

+ Ở trên Thế gian.- Người ta định nghĩa: "Trí thức" trong tiếng Việt có thể được hiểu là người có kiến thức sâu rộng về một hoặc nhiều lĩnh vực, thường là người có trình độ học vấn cao và chuyên môn sâu trong lĩnh vực của mình, có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo. Ngoài ra, "trí thức" còn có thể chỉ về tầng lớp xã hội những người lao động trí óc, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy văn hóa và tiến bộ xã hội.
Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. Phquan10


* Nhưng đối với Phật học: TRÍ & THỨC không mang ý nghĩa đó.- Mà có Vị trí hoàn toàn khác định nghĩa của Thế gian.- Nếu mang nghĩa của thế gian để học Đạo.- thì không thể đồng bộ với Phật Học.

- Sự khác biệt. Đại khái như:

+ THỨC: Là loại công năng đặc trưng của các giác quan. Như con mắt có Nhãn Thức, mũi có Tỷ Thức v.v...

+ TRÍ: Là do tu tập, hoặc Thiền Định mà các Thức kết tinh, thăng hoa. sự thăng hoa các Thức gọi là Thức chuyển thành TRÍ.

Trong kinh có nói về các TRÍ, như:

1. Căn bản trí
2. Hậu đắc Trí
3. Chân Trí hay Giác Trí Tuệ hay cái Trí Nguyên Sơ
4. Bát Nhã Trí (Trí Không)
5. Nhất Thiết Chủng Trí. v.v...
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 5.- Trí Nguyên Sơ - Tuệ Giác.- Căn Bản Trí.

Chánh văn:

Chân lý thì thường hằng bất biến. Do đó Giác Trí Đang Là thuộc diện tương đối;

Chân Trí hay Giác Trí Tuệ hay cái Trí Nguyên Sơ được nhận thức ngay nơi thực tại điểm khởi đầu tiến trình của động tác Giác Trí Đang Là, cũng là Nhất Nguyên Tính Tuyệt Đối của Năng Sở song vong và vô Thời Không.

Vậy Chân lý tối hậu hay Tự tính tuyệt đối, hay đạo lý Nhất nguyên tuyệt đối là Nhận thức vượt Thời Không, là Tánh Giác hay Tánh Không.

Không dùng Tư Tưởng suy nghĩ bàn luận mà dùng pháp môn không hai, hay nói khác đi là Thể hiện, là im lặng không dùng ngôn ngữ mà là Hành là Thiền. Đó là pháp "Bất Khả Tư Nghị", là Trung Đạo, là cái biết trong sat-na hiện tiền tức là Tuệ Giác vậy.

+++++++++++++++

Thảo luận:
+ Căn bản trí: Còn gọi là Chân Trí, Chánh Trí, Như Lý Trí, Vô Phân Biệt Trí, nghĩa là hiểu biết rõ chân lý mà không có sự phân biệt năng duyên hay sở duyên, đây là trí sanh ra nhất thiết chân lý và công đức, đối lại với “hậu đắc trí”.

+ Gọi là Căn bản trí.- Vì Trí này có sẳn trong Tâm. Không do học hỏi hay tu tập rồi mới có.- Sở dĩ chưa phát hiện là do Vô minh ngăn che khuất lắp.

* Câu văn: Chân lý thì thường hằng bất biến.- Đây là nói về Căn Bản Trí.- Đây là Bản Giác.

* Để khai mở khế hợp với Chân Như Lý này.- Hành Giả Không dùng Tư Tưởng suy nghĩ bàn luận mà dùng pháp môn không hai, hay nói khác đi là Thể hiện, là im lặng không dùng ngôn ngữ mà là Hành là Thiền. Đó là pháp "Bất Khả Tư Nghị", là Trung Đạo, là cái biết trong sat-na hiện tiền tức là Tuệ Giác vậy.- Hành Thiền để khế hợp với Chân Như.- Là Hậu Đắc Trí.

* cái Trí Nguyên Sơ được nhận thức ngay nơi thực tại điểm khởi đầu tiến trình của động tác Giác Trí Đang Là, cũng là Nhất Nguyên Tính Tuyệt Đối của Năng Sở song vong và vô Thời Không. Vậy Chân lý tối hậu hay Tự tính tuyệt đối, hay
đạo lý Nhất nguyên tuyệt đối là Nhận thức vượt Thời Không, là Tánh Giác hay Tánh Không.
+ Nghĩa là: Căn Bản Trí được vén mở, nhận thức ngay nơi thực tại điểm khởi đầu.- Tức là lúc CĂN duyên tác với TRẦN.- Ở đệ nhất satna, chưa có thọ, tưởng, hành xen tạp.- Ngay đó gọi là Hậu Đắc Trí.

* Đem Hậu Giác khế hợp với Căn Bản Giác.- Đây là mục đích Tu hành.

Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. A_beo_10
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 6.- Tuệ Giác.- Như Thị Tri Kiến.

Chánh Văn:

-Tuệ Giác là Thường Biết Rõ Ràng. Khi ta thấy biết rỏ ràng sự vật, nghĩa là sự vật mà ta biết chính là sự vật nguyên thủy, rõ ràng và chính xác, không gì ngoài sự vật. Cái biết rõ ràng đó không phải là sự vật lập lại. Cái thường biết thì hằng hữu.

- Tuệ Giác là Cái Biết Như Chơn Như Thật Phật đã giải về nhản căn sắc trần và nhãn thức theo chơn trí. Chúng ta nhìn một vật thì thấy và biết như chơn mắt, thấy biết như chơn các sắc, thấy biết như chơn nhãn thức vì chúng ta đã hiểu được chơn mắt, chơn các sắc, và chơn nhãn thức theo thật tướng của chúng như đã trình bày trên. Chơn mắt, chơn sắc, và chơn nhãn thức là một khi nhìn một vật gì thì sử dụng một lần mà thôi (vô thời gian). Nếu không kéo dài thời gian thì vật đó còn nguyên thủy: nó-là-nó tại đó và lúc đó, vô thời không hay mắt, sắc (vật), hay thấy (nhãn thức) vẫn còn chơn nguyên, thấy biết không bị xúc thọ ái lăn trôi theo thời gian mà có những khái niệm, nên mắt, sắc, thấy biết không thay đổi, cố định. Nói chung, trong Trí (hay Tâm) chúng ta đều có chứa sẵn biểu hiện Trí Năng, Tình Năng và Hoạt Năng, nên dây thần kinh dẩn truyền lên não hình ảnh của chơn sắc từ chơn mắt để có chơn nhãn thức thì đồng thời đã xúc chạm dây thần kinh thị giác, có nhân nhãn xúc; do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vì chúng ta thấy biết chơn cảm thọ không có thời gian, nên không có ái trước (trong A Lại Da thức) đối với mắt (mắt không lập lại), không có ái trước đối với các sắc (hình ảnh các sắc có sẵn tích tụ) và ái trước đối với nhãn xúc (Xúc có sẵn trong A-Lai-Da Thức: ký ức).
Từ đó do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ , bất khổ bất lạc thọ mà không có ái trước đối với cảm thọ ấy. Như vậy thì cái biết đó chơn thật.

+++++++++++++++++++

Thảo Luận:

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm phương tiện, Đức Phật nói lời khẳng định với ngài Xá Lợi Phất : “Này Xá Lợi Phất, chư Phật chỉ vì một việc trọng đại lớn duy nhất mà thị hiện ra nơi đời (cõi người), đó là “khai thị chúng sanh, ngộ nhập tri kiến Phật”.- Khai, nghĩa là mở ra.Thị là thấy. Nói cho đủ mở ra để thấy. Mở cái gì, để thấy cái gì ? Toàn bộ câu trên, có nghĩa là mở cái tâm chúng sanh ra (khai thị chúng sanh), để cho chúng sanh thấy Phật (tri kiến Phật).

Phổ Nguyệt .- Ở đoạn này.- Là nói về cái "Tri Kiến Phật".- Tức là Tuệ Giác.

Kinh thường nói: Chỉ PHẬT với Phật mới biết Được THẬT NGHĨA. - Ý là PHẬT (toàn giác) nói kinh cho chúng sanh nghe.- Chỉ khi nào Chúng Sanh "Giác" (tức Phật ) mới thấy được THẬT NGHĨA.- Nghĩa là phải dùng Giác Tâm, Giác Tánh, Giác Tri Kiến (Ở đây gọi là TUỆ GIÁC) mới thấy được THẬT NGHĨA.
Giác Tâm, Giác Tánh, Giác Tri Kiến, Tuệ Giác Ở kinh Pháp Hoa gọi là TRI KIẾN PHẬT.

Dùng TRI KIẾN PHẬT mới tri nhận được THẬT TƯỚNG, THẬT NGHĨA mà PHẬT TOÀN GIÁC dạy.

Thế nào là TRI KIẾN PHẬT ?

Đáp: Tri kiến Phật. Không có nghĩa là Tri Kiến (của) Phật.- Mà là Tri- Kiến (kiểu) Phật (của chính ta).

Kinh Pháp Hoa nói: "Các đức Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời."

Thế nào là : Tri- Kiến (kiểu) Phật (của chính ta) ?
Kinh Lăng Nghiêm nói: "Tri kiến Vô Kiến tư tức Niết Bàn. Tri kiến lập Tri, tức vô minh bổn".
Nghĩa là: Thấy biết mà vựng lập nơi Thấy biết là gốc của Vô Minh; Thấy biết mà không vựng lập nơi Thấy biết là gốc Niết Bàn.

Các Kinh điển hệ Nikaya có nói về 4 cấp độ Tri kiến:

+ Tưởng tri: giống như đứa trẻ không biết gì khi trông thấy đồng tiền, vì nó chỉ thấy cái tướng của đối tương như màu xanh, vv. Hoặc như người chưa có Chánh kiến, chỉ thấy biết bằng tưởng uẩn.

+ Thức tri: Sự biết bằng 6 giác quan, bằng Ý thức phân biệt.

+ Thắng tri (abhijànàti) nghĩa là thấy biết thù thắng, vượt lên trên sự hiểu biết thông thường của thế gian, sự thấy biết đưa đến ly tham, phát khởi nhờ tu tập Tăng thượng giới (Adhisìla), Tăng thượng tâm (Adhicitta), Tăng thượng trí tuệ (Adhipanna), thấy biết trực diện, thuộc Chánh niệm (Sammàsati) và Chánh định.

+ Liễu Tri: Sự Thấy biết của Bậc giác Ngộ, không còn Vô minh che tâm.


Kính các Bạn:

+ Tưởng Tri và Thức Tri là Tri Kiến Phàm phu và chúng sanh.- Nó đầy dẩy phân biệt, suy lường theo Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.- Nên là Vọng Tưởng, Vọng Tâm.

+ Thắng Tri: Là sự Thấy biết qua Thiền Định của Thanh Văn Duyên Giác.

+ Liễu Tri: Là ""Tri kiến Vô Kiến tư tức Niết Bàn".- Sự Thấy biết bằng Thập Trí Lực của Chư Phật, Thấy biết Như Thị Nhân, Như Thị Duyên, Như Thị Cứu Cánh Bản mạc. v.v....- Đây là TRI KIẾN PHẬT.

Như vậy.

  • Chúng ta nên tự quán, tự chiếu xem mình dùng cái Tri kiến nào để Văn- Tư- Tu hầu tri nhận được THẬT NGHĨA của Kinh Phật dạy.
  • Điều trọng yếu là chúng ta nên sống bằng Tri- Kiến (kiểu) Phật (của chính ta).- Đó là Nhập Tri Kiến Phật.

# Ở đây.- Phổ Nguyệt nói:

  • Tuệ Giác là Thường Biết Rõ Ràng.
  • Khi ta thấy biết rỏ ràng sự vật, nghĩa là sự vật mà ta biết chính là sự vật nguyên thủy, rõ ràng và chính xác, không gì ngoài sự vật.
  • Cái biết rõ ràng đó không phải là sự vật lập lại. Cái thường biết thì hằng hữu. (hết trích)

Tóm lại:

  • Tuệ Giác là cái biết đầu nguồn, đệ nhất satna.- khi căn trần tiếp xúc, mà không bị 18 giới cuốn trôi theo thời gian & không gian.
  • Tuệ Giác là Thường Biết Rõ Ràng.- Nghĩa là sự vật mà ta biết chính là sự vật nguyên thủy không qua lăng kính Thức & Tưởng.- Đó là Phật Tri Kiến.

Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. Chuaad15
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 7.- Tuệ Giác & Hành Uẩn.

Chánh Văn:

-Tuệ Giác Là Tuệ Quán Không Động Không Rung Chuyển.(Kinh Nhất Dạ Hiền) -Tuệ Giác Là Thực Tại Điểm Có Thật Trong Động Tác Giác Trí Đang Là.
Dòng tâm thức nối tiếp từng sát na sanh diệt liên tục luôn trôi chảy không ngừng, do đó tri giác không thế nào nắm bắt thực tại một cách toàn diện được. Không gian bao la, ngũ giác quan không định vị chính xác được vì mỗi căn chỉ cảm nhận phần chức năng của mình, chẳng hạn như mắt chỉ thấy không thể nghe v.v...Thực tại toàn diện không thể giao cho tiền ngũ căn nhận thức trong không gian và thời gian trọn vẹn.
Thời gian huyễn hóa. Quá khứ đã qua và đã đoạn tận, tri giác không thể nhận diện., nên không truy tìm. Tương lai chưa đến, đối tượng không có mặt làm sao cảm nhận được, nên không ước vọng trong tương lai. Hiện tại là thời gian đang trôi chảy nối tiếp những điểm li ti sát na sanh diệt, là cái Đang Là, không nắm bắt được. Tam thời bất khả đắc, nên Phật dạy, quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, và không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại. Nhưng chỉ có pháp hiện tại, thì Tuệ Quán mới có thể nắm bắt đựợc. Tuệ quán được hiển lộ thực sự trong chuyển động của pháp hiện tại trong động tác đang là).
Trong động tác đang là cuả pháp hiện tại nối tiếp những điểm sát na sanh diệt. Nhận thức ngay thực tại điểm của tri giác nguyên sơ và liền xa lìa nhận thức đó. Tri giác nguyên sơ là chơn thức vừa cảm nhận (vừa sanh) là vừa nhận biết thì chơn thức ấy (giác thức nguyên sơ) biến thành Giác Trí, nên gọi là Chơn thức sanh mà vô sanh vì điểm sát na sanh mà không bị diệt, do mủi tên Tuệ quán nhắm trúng và đã chuyển thức thành trí rồi. Cho nên Phật dạy, Tuệ Quán ở nơi pháp hiện tại, không động không rung chuyển. Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác. Thực tại điểm nầy thì không động, không rung chuyển vì một điểm có thật một cách toàn diện không thêm không bớt, chính nó là nó ở đó và lúc đó (vô thời không). Vậy tri nhận thực tại điểm của giác thức nguyên sơ, chúng ta có tri thức nguyên thủy của chân trí. Thí dụ, khi gặp con bò đang đi, ta nhận diện hình ảnh con bò đầu tiên khi thấy nó (cảm giác: first sensation), nhận biết (perceive) tên con bò là nhản thức nguyên sơ (first visual consciousness, hay chơn thức: pure perception; gọi chung là tâm thức nguyên sơ); tri nhận nhản thức đó là ta có tri thức nguyên thủy (pure cognition) cuả chân trí (True mind without time). Nói khác đi, khi ta thấy (niệm đầu) con bò (perception), ta biết có tánh thấy (cognize the pure erception). Vì không có thời gian kéo dài cái tri thức nguyên thủy đó nữa nên niệm đầu (thực tại điểm) của dòng tâm thức đang lăn trôi (cái đang là), nên không có trí và thức liên hợp, tư tưởng, hay khái niệm gì về con bò cả). Đó mới thật sự Giác Ngộ mọi sai lầm của Tri Giác và Giải Thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử.
Thật vậy, chỉ có trong pháp hiện tại, bậc an tịnh nhiệt tâm trú quán như vậy ngày đêm không mệt mỏi, mới xứmg đáng là "Nhứt dạ hiền giả." (tham khảo kinh Nhứt Dạ Hiền Giả,
HT. Thích Minh Châu Việt dịch)


++++++++++++++++++++++

Thảo luận:

Khi nói về Tuệ Giác. Phổ Nguyệt liên kết với sự dừng lặng "Hành Uẩn" để hiển bày Tri Kiến Phật.

Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. Buc_lu10


PN nói: Dòng tâm thức nối tiếp từng sát na sanh diệt liên tục luôn trôi chảy không ngừng, do đó tri giác không thế nào nắm bắt thực tại một cách toàn diện được. Không gian bao la, ngũ giác quan không định vị chính xác được vì mỗi căn chỉ cảm nhận phần chức năng của mình, chẳng hạn như mắt chỉ thấy không thể nghe v.v...Thực tại toàn diện không thể giao cho tiền ngũ căn nhận thức trong không gian và thời gian trọn vẹn.
Thời gian huyễn hóa. Quá khứ đã qua và đã đoạn tận, tri giác không thể nhận diện., nên không truy tìm. Tương lai chưa đến, đối tượng không có mặt làm sao cảm nhận được, nên không ước vọng trong tương lai. Hiện tại là thời gian đang trôi chảy nối tiếp những điểm li ti sát na sanh diệt, là cái Đang Là, không nắm bắt được.(hết trích)

Đây là diễn tả "Hành Uẩn"

Thế nào là Hành Uẩn ?

Đáp: Hành nghĩa là đổi dời, biến hóa, tạo tác. Uẩn nghĩa là chứa nhóm, chia loại.
+ Có 3 chỗ "Hành Uẩn" biểu hiện:

1. Thân Hành
2. Khẩu hành.
3. Ý Hành.

+ Hành Uẩn là 1 trong 5 yếu tố hình thành Ngã Chấp.


  • Đối vởi kẻ phàm phu: Thân, khẩu, ý Hành.- Do Vô Minh tác động.
  • Đối với Bậc Thánh: Thân, khẩu, ý Hành.- Do Trí Tuệ dẫn đạo.

* Đặc biệt: Ý HÀNH.- Là Dòng tâm thức nối tiếp từng sát na sanh diệt liên tục luôn trôi chảy không ngừng, Hằng Chuyển Như Bộc Lưu.- Vừa Hằng mà vừa Chuyển.-Là đặc tính của Hành Uẩn.

+ Hành Uẩn có thể là Thiện, có thể là Bất Thiện.- Nhưng dù Thiện hay Bất Thiện đều đã xa lìa Chân Như . - Như Tổ Huệ Năng nói: Chớ nghĩ thiện, chớ nghĩ ác.- Nơi đó là "Bản Lai Diện Mục" .

+ Bởi thế.- Để thể nhập Tuệ giác, hay Chân Như Lý .- Hành giả phải đến chỗ "Tâm Hành Xứ Diệt".

Chỗ tâm hành dứt bặt, nghĩa là cảnh giới vắng lặng, không còn suy tư phân biệt. Đại thừa khởi tín luận nghĩa kí quyển trung phần đầu (Đại 44, 252 thượng) nói: Lìa tâm duyên, vì chẳng phải ý và lời có thể phân biệt; chỗ tâm hành diệt, vì chẳng phải cảnh của Tư tuệ. Đây chính là chân như pháp tính, không thể dùng lời nói để giảng giải, cũng chẳng phải chỗ Tư tuệ phân biệt mà biết được. [X. Pháp hoa kinh huyền nghĩa Q.1, hạ; Đại nhật kinh sớ Q.19; Tông kính lục Q.92].

Nói đủ là “tâm-hành-xứ diệt, ngôn-ngữ-đạo đoạn”. Là chân-lý cứu-cánh. Đường ngôn-ngữ dứt (ngôn-ngữ-đạo đoạn). Không thể ngôn-thuyết được; chỗ tâm-niệm diệt (tâm-hành-xứ-diệt), không thể nhớ nghĩ được. Đó là cảnh-giới bất-khả tư-nghị.


Cắt đứt con đường ngôn ngữ
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.

Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi:
– Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không?
Bụt im lặng không trả lời.

Lát sau Vacchagotta hỏi:
– Như vậy là không có linh hồn phải không?
Bụt cũng ngồi im lặng.

Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra.

Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt:
– Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta?
Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…

* Trong truyền thống thiền cũng có những cuộc đối thoại tương tự.

Có một thiền sinh tới tham vấn vị Thiền sư.
Theo truyền thống, vị thiền sinh nào được vào tham vấn đều được vị thị giả mời một chén trà.

Vị thiền sinh chắp tay hỏi:
– Con chó có Phật tánh không?

Vị Thiền sư nói:
– Uống trà đi

Sau đó có một vị thiền sinh khác đến tham vấn.
Vị này chắp tay hỏi:
– Bạch Thầy, như vậy là con chó không có Phật tánh, phải không?

Vị Thiền sư nói:
– Uống trà đi.

Sau khi vị thiền sinh thứ hai này đi rồi, vị thị giả của thiền sư chắp tay hỏi:
– Bạch Thầy, tại sao vậy? Tại sao hỏi con chó có Phật tánh hay không thì Thầy nói uống trà đi. Và khi hỏi con chó không có Phật tánh phải không thì Thầy cũng nói uống trà đi. Như vậy nghĩa là sao? Xin Thầy cắt nghĩa cho con.

Vị Thiền sư nhìn vị thị giả và nói:
– Uống trà đi.

* Phương pháp của Thiền là cắt đứt con đường nói năng và dập tắt khung trời khái niệm trong đó ý thức cứ tiếp tục tư duy và đi tìm kiếm những ý niệm để cố gắng tìm hiểu thực tại (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt).

Ngôn ngữ đạo đoạn là cắt đứt con đường ngôn ngữ.

Tâm hành xứ diệt nghĩa là dập tắt vùng trời của sự suy tư bằng khái niệm, đừng để tâm ý đi tìm những ý niệm: có-không, sanh-diệt,… đi tìm những ý niệm đó để mong cắt nghĩa sự thật.

Cho nên những câu: “Uống trà đi, uống trà đi, uống trà đi” lặp lại ba lần cho ba người, có nghĩa là:”Hãy chấm dứt con đường suy tư đi, hãy dập tắt vùng trời khái niệm đi thì mới có cơ hội tiếp xúc với sự thật”.

Trong câu chuyện của vị Thiền sư này, câu nói “uống trà đi” không những giúp cho hai vị thiền sinh cắt đứt được con đường suy tư và dập tắt được khung trời khái niệm, mà cũng giúp được cho cả vị thị giả làm được chuyện đó.

Tóm lại: PN nhắc nhở.- Dứt bặc Hành Uẩn để vào Thiền Định.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 8.- Vô Niệm.

+ Tuệ Giác là Cái Biết Sáng Suốt Vô Thời Không hay Tuệ Giác là Cái Biết trong sát-na hiện tiền.

+ Tuệ Giác là thực tại tuyệt đối hay thực tại toàn diện, không thêm (không thêm niệm nào ngoài cái chơn thức (vô niệm); không thêm ảo ảnh nào trong không gian ngoài chơn thức (Vô tướng, không có thêm hình ảnh nào trong không gian); và không bớt thức, nếu không có thức thì không có trí, thì cũng không có tuệ giác hay là thưc tại toàn diện,; và khi tri nhận được chơn thức thì không lập lai, không có thờì gian (vô trụ).

Thật vậy, theo Đốn Pháp của Lục Tổ (Vô Niệm, Vô Tướng và Vô Trụ, Phổ Nguyệt, 2006) thì:

1. Vô Niệm.

Lục Tổ dạy," Nầy Thiện tri thức! Trí tuệ quán chiếu trong ngoài sáng suốt, biết bổn tâm mình, nếu biết bổn tâm tức là gốc của sự giải thoát.

Nếu được giải thoát tức là Bát Nhã tam muội, tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là vô niệm."

Trí tuệ quán chiếu trong ngoài tức là thấy biết như chơn như thật lục căn lục trần lục thức, nói chung thấy biết tất cả các pháp như chơn như thật.

Quán chiếu sáng suốt là tuệ tri hay biết một cách sáng suốt tức là biết rõ ràng (do bổn tâm) các pháp như là các pháp, chỉ có các pháp đó mà thôi, không có gì ở ngoài các pháp đó, không có niệm nào khác nữa..

Khi chúng ta quán chiếu các pháp hay các đối tượng mà bản tâm thanh tịnh, đó là vô niệm;nghĩa là lục căn tự nhiên tiếp xúc với sáu trần nên có sáu thức, ta tri nhận trọn ven chỉ có sáu thức đó mà thôi, không thêm thức nào khác.

Thí dụ, tôi thấy con bò (giác thức nguyên sơ), biết có tánh thấy (con bò) thôi (giác trí tuệ), (chỉ biết có thấy con bò mà thôi, không thêm niệm nào khác nữa; nếu biết con bò rồi còn tìm hiểu thêm đặc tính con bò hay thêm trần cảnh khác nữa thì tạo ra quan niệm, tư tưởng, lý luận để phát sanh ái thủ hữu, là gây ra dây oan trái, là tà niệm rồi, không phải là vô niệm.).- Vô niệm đây, nói theo tâm lý học, là giác trí tuệ.

Khi ta nhận thức niệm đầu cảm giác để có chơn thức, rồi tri nhận chơn thức đó là ta có giác trí tuệ Đầu tiên ta thấy (Cảm giác) hình ảnh con vật, nhận thức được tên nó là con bò (nhãn thức hay tâm thức, giác thức) tri nhận giác thức đó mới có giác trí); và nếu ta nhận thức niệm đầu của con bò để có chơn thức, rồi tri nhận chơn thức đó mới có giác trí tuệ.

Như trong kinh Kim Cang Phật dạy cách hàng phục tâm bằng cách, đưa tất cả các thực tại giả lập (chúng sanh) vào thực tại tuyệt đối (vô vi niết bàn: hư không) mà không còn thấy các thực tại giả lập đó nữa.

Nên muốn hàng phục tâm (vô niệm), hành giả trực nhận (quán chiếu) thể không của sự vật, ngay đó lìa tứ tướng (Xa bốn tướng: Ngã, Nhân, Chúng sanh, Thọ giả, là không có khái niệm, không lập lại, để có ý tưởng về sự vật.).

Kỹ thuật để kiến tánh là tri nhận thực tại điểm của giác trí. Chúng ta biết rằng giác trí có thời gian vẫn còn liên hợp với thức sanh tư tưởng vẩn vơ nên xem như là giác thức, tâm thức, hay vọng tâm.

Dòng tâm thức trôi chảy, tam thời bất khả đắc.Quá khứ đã qua tiền ngũ căn không thể nắm bắt, tương lai chưa đến làm sao nắm bắt được, hiện tại là cái đang là nối tiếp những sát na sanh diệt không ngừng, cũng không thể nắm bắt được. Tuy nhiên cái đang là của dòng tâm thức là cơ hội tốt để chúng ta có thể dùng tuệ quán nhắm ngay thực tại điểm của giác trí đang là. Vọng tâm và chân tâm cùng ở một tâm.

Cái chuyển động là vọng, cái cố định là chân. Cho nên BT Long Thọ nói, cái đến có thật trong cái đang đến.

Vậy cái chân tâm có thật trong cái vọng tâm, hai cái tuy hai mà một, và chân lý không đến từ cái bất động.

Vậy, chúng ta nên nhớ, để trực chỉ minh tâm kiến tánh thành Phật cũng đồng với pháp vô niệm của Huê Năng,

++++++++++++

Thảo luận:

PN:

+ Tuệ Giác là thực tại tuyệt đối hay thực tại toàn diện, không thêm (không thêm niệm nào ngoài cái chơn thức (vô niệm).(Hết trích)

  • Căn nguyên của Tuệ giác là VÔ NIỆM.
  • Vô Niệm là CHƠN THỨC. (mà PN nói: không thêm niệm nào ngoài cái chơn thức .- vô niệm)


+ Niệm tiếp Niệm là Ý HÀNH.

+ Niệm chính là Tâm. Trong Mục ngưu đồ, nói về Tìm Tâm ở đâu ?
- Tìm thấy Niệm niệm sanh khởi là thấy dấu vết của Tâm. Lần theo dấu vết thì thấy Tâm.- Đây là phép chăn trâu (Mục ngưu đồ)

Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. Thiy_d10

+ Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là "vô niệm."

Như trên đã nói.- Dừng bặc Hành Uẩn.- Là con đường để đến "Tuệ Giác".- Nhưng cội nguồn của Hành Uẩn là Ý NIỆM.
TÂM của Con người luôn khởi lên "Niệm" đó là đặc tính "CHIẾU". Khởi Niệm và Chấp Niệm khởi.- Đó là đặc tính của Hành Uẩn.- Muốn Dừng bặc Hành Uẩn thì phải Vô Niệm.

+ Thấy trạng thái vạn pháp là cảnh giới Vô Tâm.- Đó mới là Thiền Quán.

+ Thiền quán không phải là ngồi tưởng tượng.- Thiền quán là trạng thái Vô Tâm.
Con người ở trạng thái Vô Tâm mới ngưng suy nghĩ phân biệt.- Suy nghĩ phân biệt là để Duyên Sanh Diệt dẫn dắt mình sanh tử.

+ Trạng thái Vô Tâm- Vô Niệm là trạng thái tịch tĩnh của vạn pháp.

+ Vô Niệm là trạng thái "giải trừ Ý thức", là KHÔNG VỌNG TƯỞNG PHÂN BIỆT. là Không Vọng Tâm.

+ Những Tâm niệm nào là "Vọng Tâm" ?
- Đó là: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, là Thân kiến, biên kiến, tà kiến, giái kiến thủ. Là phẩn, hận, phú não, tật ,san, vô tàm, vô uý, là trạo cử, hôn trầm, tán loạn, thất niệm, bất chánh tri. Là Hỷ ,nộ, ai, ố, dục, lạc, cụ v.v...Nghĩa là các Tâm niệm Thập triền, thật sử, thất tình, lục dục mà trong kinh Phật đã dạy.

* PN nói: Cái chuyển động là vọng, cái cố định là chân. Cho nên BT Long Thọ nói, cái đến có thật trong cái đang đến.
Vậy cái chân tâm có thật trong cái vọng tâm, hai cái tuy hai mà một, và chân lý không đến từ cái bất động.- Vậy, chúng ta nên nhớ, để trực chỉ minh tâm kiến tánh thành Phật cũng đồng với pháp vô niệm của Huê Năng,(Hết trích)

Đây là nói:

  • Hành Uẩn là Vọng Tâm. Là phần Chiếu.
  • Vô Niệm là Vô Tâm. Là phần Tịch.
  • Tịch - Chiếu đồng hành.- Sắc - Không Bất Dị.

* Bằng phương pháp Thiền Định. Hành giả Thoát khỏi mọi vọng niệm (như trên).- Thì được VÔ NIỆM.- Đắc Tuệ Giác.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 9.- 2. Vô Tướng.

Chánh Văn:
Vô tướng là như thế nào? Ngay nơi tướng mà lìa tướng đó gọi là vô tướng. Tổ lại định nghĩa thế nào lấy vô tướng làm thể. " Ngoài lìa tất cả tướng gọi là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là pháp thể thanh tịnh." Ngay các tướng chúng ta không dính mắc các tướng thì đó là pháp thể của mình lúc nào cũng thanh tịnh.

Trong kinh Kim Cang,Phật đã chỉ rõ về thân tướng không của "Sắc thinh hương vị xúc pháp' khi tri nhận là đã hòa nhập vào tánh giác mà tánh giác là thiệt hư không bao la vô giới hạn. Khi ta thể hiện tánh không, dòng tâm thức không còn vẩn đục nghĩa là trong sáng hay còn gọi là phước đức. Vậy khi hàng phục tâm và an trụ được tâm là ta đã tạo ra nhiều phước đức không thể nghĩ lường ví như hư không vậy.

Phàm những gì có tướng đều là hư vọng, giả lập hay duyên khởi, nên không thể thấy Như Lai bằng thân tướng được. Thân tướng thật không phải thân tướng, vì khi nhận thức thân tướng của đối tượng nào, ta chỉ thấy thể không của nó ở lục căn mà thôi. Khi tri nhận thể không của Như Lai (Biết được, Tánh Giác), thể không của thân tướng đã hòa nhập vào hư không, nên thấy các thân tướng không phải là tướng nữa mà là tánh hư không là thật tướng không của Như Lai.

+++++++++++++++

Thảo Luận:

Tại sao vào Vô Niệm, mà đắc Tuệ giác ?
Đáp: "Tâm địa nhược Không, huệ nhật tự chiếu" có nghĩa là "khi gạt hết mù ám trên đất tâm thì mặt trời Tuệ sẽ tự nhiên rọi sáng".- Đây là câu khai thị của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (720-814) đã làm cho ngài Vô Ngôn Thông (?-826) bừng tỉnh và đạt ngộ.

PN nói:

  • Ngay nơi tướng mà lìa tướng đó gọi là vô tướng.
  • Phàm những gì có tướng đều là hư vọng, giả lập hay duyên khởi,
  • Tánh hư không là thật tướng không của Như Lai.
  • Khi ta thể hiện tánh không, dòng tâm thức không còn vẩn đục nghĩa là trong sáng hay còn gọi là phước đức
(hết trích)

Đây là nói chỗ Vô Tướng, Chỗ Tâm Địa như Hư Không.- Để Tuệ Giác hiển bày.

* 2 câu: 1 Ngay nơi tướng mà lìa tướng đó gọi là vô tướng.
2. Phàm những gì có tướng đều là hư vọng, giả lập hay duyên khởi,

Đây là chỗ mà k. Kim Cang Phật dạy: Phàm sở hữu tướng gia thị hư vọng. Nhược kiến chư Tướng.- Phi Tướng tức kiến Như Lai.- Nghĩa là không trú vào các Tướng, thì kiến Chân Như.

* PN Câu: 3. Tánh hư không là thật tướng không của Như Lai.
Đây không phải nói cái Hư Không sắc tướng bình thường.- Mà nói Hư Không Vô Vi.- Tức là: Hư không vô vi: không ngã không pháp rời các cấu nhiễm rỗng rang như hư không, chơn như, pháp tánh. Không dùng ý thức suy nghĩ, nó phi sắc phi tâm, không cấu tịnh, sanh, diệt và tăng giảm nên gọi là vô vi.

* PN câu: 4. Khi ta thể hiện tánh không, dòng tâm thức không còn vẩn đục nghĩa là trong sáng hay còn gọi là phước đức.

Đây là nói khi đã đến Vô Tướng Tam Muội (Tam tam muội).- Thì Tuệ Giác tự hiện.


Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. Phyt6_10
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 10.-3. Vô Trụ.

Chánh văn:
Vô trụ là thế nào? Bản tánh con người là vô trụ, nên mới lập vô trụ làm bản, tức là bản tánh của chúng ta không dính, không mắc, dính mắc đó là vọng chớ không phải bản tánh. Vô trụ là ngay nơi cảnh không dính không kẹt.

Ngay khi thể nhận thực tướng của sự vật (các chúng sanh, những thực tại giả lập hay đối tượng), liền lìa ngay tướng giả lập đó (đối tượng) và cả tứ tướng, tức là không có thời gian kéo dài sự tri nhận ấy. Cho nên trong kinh Kim Cang, Phật bảo Tu-bồ đề cách thức an trụ tâm như sau" Khi chơn tâm hiển bày (hàng phục tâm rồi) thì phải gìn giữ chơn tâm ấy bằng cách: Bồ-tát không có chỗ trụ mà bố thí, tức là không trụ vào Sắc,thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà bố thí." Trụ là bám vào, dựa vào, lập lại. Bố thí là ban bố, cho ra cái mình có, cái mình biết, xả bỏ. Muốn an trụ tâm Bồ-tát không bám vào, không trụ vào (không lập lại, vô thời gian) tất cả các thực tại giả lập (Sắc thinh hương vị xúc pháp) mà phải xả bỏ cái mình biết đó (dứt ngay sự tri nhận ấy).

Tuệ Giác là Thực Tại Tòan Diện, không thêm, không bớt. Tuệ Tri, Tuệ Quán, Thường Biết Rõ Ràng, Cái Biết Sáng Suốt, Biết Vô Thời Gian, hay Biết sat-na hiện tiền, v.v.. là hành trình đi đến Giác Ngộ (Bắt Gặp Thực Tướng Sự Vật) hay nói chung là Tánh Giác. Tuệ Giác là Cái Thực và Bất Biến. Cái Thực của Chơn Tâm hay Tuệ Giác (Thực Tại Tuyệt Đối) thì thường hằng và không bị định luật nhân quả chi phối nó cố định vô thời khôngCòn Cái Thực của Tâm Thức (Thực Tại Giả Lập) thì vô thường và bị định luật chi phối, vì nó thay đổi và lăn trôi theo thời không. Nếu cái thực ấy mà còn định luật nhân quả chi phối thì cái thực ấy chỉ là khổ đau, nhiệt não, tử sanh. Nếu cái thực ấy không còn bị định luật nhân quả chi phối thì đồng nghĩa với hư vô, cái không thực hữu, cái vô tự tính, cái ngoang không niết bàn.

+++++++++++++++

Thảo Luận:

PN: Vô trụ là thế nào? Bản tánh con người là vô trụ, nên mới lập vô trụ làm bản, tức là bản tánh của chúng ta không dính, không mắc, dính mắc đó là vọng chớ không phải bản tánh. Vô trụ là ngay nơi cảnh không dính không kẹt.(Hết trích)

Do vậy:
+ Muốn Tuệ giác tỏa sáng thì hành giả phải Vô Niệm Vô Trụ.- Đó là trờ về Bản Giác.

  • Vô Niệm thì Tu Chánh Niệm.
  • Vô Trụ thì phải Xã ly (Bố Thí).- Như bài kinh Bát Nhã sau:

V/đ Bố thí Ba la mật.
Kinh dạy: Bố thí "Nội Tài" ; tức là tài sản bên trong Tâm mình. Như:


  • Tâm ly sắc, buông bỏ vật chất
  • Tâm ly thanh, buông bỏ âm thanh
  • Tâm ly hương, buông bỏ hương thơm
  • Tâm ly vị, buông bỏ vị ngon
  • Tâm ly xúc, buông bỏ khoái cảm
  • Tâm ly pháp, buông bỏ niệm lự viễn vong...

* Nghĩa là xả bỏ mọi ý niệm, để niệm niệm vào vô sanh.- Mà ở đây gọi là ƯNG VÔ SỞ TRỤ. Chẳng trụ nơi sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp v.v...là Bố Thí Ba la mật của người tu Thiền Định.(trích ĐT ĐL)

* Bố Thí Nội Tài Ba la mật.- Thì vào được Vô Trụ.

* Nhưng chúng ta cũng cần ĐẶC BIỆT CHÚ Ý.

+ Xã bỏ tất cả nhưng phải có phương pháp. Vì Nếu:

* Xã không đúng pháp. Thì Vô Trú mà rơi vào PHI PHÁP (Sai đường Phật dạy). Ví dụ như:

#/. Có người chấp rằng: Tôi xã bỏ. Nên không cần Trì giới. Xã bỏ nên không cần Thiền Định. Xã bỏ nên không cần Tu Trí Huệ.- Như vậy là Rơi vào PHI PHÁP.- Bị Vô Minh sai sử, và vào sinh tử luân hồi ưu bi khổ não.


* Xã Đúng Pháp. Thì Trú mà Trú Nhi Bất Trú (Vô Trụ):

+ ĐT ĐL cũng dạy về: Trú Nhi Bất Trú (Vô Trụ). Như sau:


KINH:

....... Bạch Thế Tôn ! Bồ tát thật hành Bát nhã Ba- la- mật chẳng nên trú trong sắc,..., dẫn đến chẳng nên trú trong thức, chẳng nên trú trong sắc,..., dẫn đến chẳng nên trú trong pháp, chẳng nên trú trong nhãn,..., dẫn đến chẳng nên trú trong ý, chẳng nên trú trong nhãn thức,..., dẫn đến chẳng nên trú trong ý thức, chẳng nên trú trong nhãn xúc,..., dẫn đến chẳng nên trú trong ý xúc, chẳng nên trú trong nhãn xúc nhân duyên sanh thọ,..., dẫn đến chẳng nên trú trong ý xúc nhân duyên sanh thọ, chẳng nên trú trong địa, thủy, hỏa, phong, chẳng nên trú trong vô minh,..., dẫn đến chẳng nên trú trong lão tử.

....... Vì sao ? Vì sắc và sắc tướng đều là không,..., dẫn đến thức và thức tướng đều là không.

....... Bạch Thế Tôn ! Sắc không thì chẳng thể gọi là sắc, mà ly không lại cũng chẳng có sắc. Vì sao ? Vì sắc tức là không và không tức là sắc.

....... Thọ, tưởng, hành, thức không, thì chẳng thể gọi là thọ, tưởng, hành, thức được, mà ly không lại chẳng có thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao ? Vì thọ, tưởng, hành, thức là không, và không cũng tức là thọ, tưởng, hành, thức.

....... Dẫn đến lão tử và lão tử tướng đều là không. Lão tử không thì chẳng thể gọi là lão tử, mà ly không lại chẳng có lão tử. Vì sao ? Vì lão tử tức là không, và không cũng tức là lão tử.

....... Bạch Thế Tôn ! Bởi vậy nên Bồ tát thật hành Bát nhã Ba- la- mật chẳng nên trú trong sắc,..., dẫn đến chẳng nên trú trong lão tử.

....... Lại nữa, bạch Thế Tôn ! Bởi vậy nên Bồ tát thật hành Bát nhã Ba- la- mật chẳng nên trú trong 4 niệm xứ,..., dẫn đến chẳng nên trú trong 18 bất cộng pháp. Vì sao ? Vì 4 niệm xứ và 4 niệm xứ tướng đều là không,..., dẫn đến 18 bất cộng pháp và 18 bất cộng pháp tướng đều là không.

....... Bạch Thế Tôn ! 4 niệm xứ,..., dẫn đến 18 bất cộng pháp và 18 bất cộng pháp tướng đều là không.

....... Bạch Thế Tôn ! 4 niệm xứ,..., dẫn đến 18 bất cộng pháp đều là không thì chẳng nên phân biệt, chẳng nên thủ tướng.

....... Bồ tát phải thường hành, thường niệm, chẳng ly Bát nhã Ba- la- mật mới gọi là học Bát nhã Ba- la- mật. Lại còn phải tu học các phương tiện quán, để biết rõ các pháp là thị hay là phi, là đắc hay là thất. Như vậy mới gọi là chánh tư duy. Bồ tát học và tư duy như vậy là cùng với tâm thiền định cộng hành, mới gọi là tu Bát nhã Ba- la- mật đạo

....... Bồ tát học như vậy là chẳng phải trú, mà cũng chẳng phải chẳng trú. Đây chính là nghĩa "trú nơi bất trú" vậy.(Hết trích)

(VQ):Nếu chỉ nói lý thuyết mà không nói Pháp Hành, thì Hành giả khó vào Chánh Pháp. Nên ĐT ĐL có dạy rõ 4 chỗ nên Trú.- Mà Bất Trú:

- 1. Trú Tuệ Xứ.: Khởi 1 niệm , niệm đó phải là cái dụng của tự tánh, phải hoàn toàn sáng suốt, niệm đó là Trú Tuệ Xứ.

- 2. Trú Đế Xứ.: Khởi 1 niệm phù hợp với chân lý phù hợp bản thể vô sanh của các pháp .- đó là Trú Đế Xứ.

- 3. Trú Xả Xứ.: Khởi 1 niệm không trú chấp và không bị trói buộc.đó là Trú Xả Xứ.

- 4. Trú Diệt Xứ.: Khởi 1 niệm vào thể vô vi bất động đó là Trú Diệt Xứ.
(bài giảng ĐTĐL 031A HT. Thích Thiện Trí)

tư duy:
* Sao gọi là .- Chẳng trú, cũng chẳng phải chẳng trú mới gọi là "vô sở trú" ?

+ Nghĩa là:
- Làm tất cả thiện pháp, tu tất cả pháp môn.- Đó là Chẳng phải chẳng trú mà chẳng trú chấp vào tất cả pháp môn. - Đó là chẳng trú.. Gộp cả hai pháp đó lại trong mỗi niệm, mỗi niệm .-Đó là "vô sở trú".

Ở nơi hết thảy các pháp, chẳng trú cũng chẳng phải chẳng trú mới gọi là "vô sở trú". Được như vậy thì tâm mới thật rốt ráo thanh tịnh. Bồ tát thật hành Bát nhã Ba- la- mật, phải nương theo Phật tâm mà tu tập Vô Trụ như vậy.
(Đây cũng là chỗ mà PN nói: Nếu cái thực ấy mà còn định luật nhân quả chi phối thì cái thực ấy chỉ là khổ đau, nhiệt não, tử sanh. Nếu cái thực ấy không còn bị định luật nhân quả chi phối thì đồng nghĩa với hư vô, cái không thực hữu, cái vô tự tính, cái ngoang không niết bàn.)

Tư Tưởng Tánh Không.- theo tác giả Phổ Nguyệt. Ei_hen10
Cổ Đức dạy:

Thật tế LÝ Địa Bất Thọ nhất trần.
Vạn HẠNH môn trung Bất Xã nhất Pháp.
(Phải khéo hiểu.- Nghĩa nơi giữa 2 hàng Chữ)
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 11.-Tuệ giác hư không hóa mọi tâm thức hay tâm trí, là cái biết sat-na hiện tiền.

Chánh văn:
Cái thực ấy (Tuệ Giác) là cái sáng suốt, mặt trời đại huệ. Cái thấy từ tâm, trí, tư tưởng trí
mà có, từ tuệ, tuệ minh, cái tuệ minh ấy nó có trong tâm của bậc giác ngộ, bậc A La Hán,
kẻ đã đoạn tận lậu, hoặc giải thoát khổ đau và phiền não.
"Tuệ Giác, là cái Biết sat-na hiện tiền thực hiện bằng cách, [Nhận thức niệm đầu của Cảm
Giác về trần cảnh để có Chơn Thức. Rồi tri nhận Chơn Thức nầy để có Giác Trí Tuệ và xa
lìa tứ tướng (Với tiền ngũ căn). Với tâm thức, khi vọng khởi (suy nghĩ, tư tưởng, tưởng
tượng, nhớ lại v.v...), ta Biết là tưởng thức và xa lìa nó ngay; và cứ như thế, chúng ta ttếp
tục tri nhận từng sự việc vô thời gian]." (Phổ Nguyệt)
Đó là An Trú vào Không Tánh (Pháp Chánh Niệm Lúc Đi Đứng, Phổ Nguyệt, 2006, trong
Kinh Khất Thực Thanh Tịnh do HT. Thích Minh Châu Việt dịch)
Hành giả tu tập pháp chánh niệm lúc đi đứng, thiền hành hay khất thực thì các căn được
sáng suốt, diện mạo trong sáng thanh thản.
Kinh viết:, "Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc
(Kalandakanivapa).
Rồi Tôn giả Sariputta vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau
khi dến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sariputta đang
ngồi một bên:
-- Này Sariputta, các căn của Ông rất sáng suốt, sắc da của Ông thanh tịnh trong sáng. Này
Sariputta, Ông nay đang phần lớn an trú với loại an trú nào?
-- Bạch Thế Tôn, con nay đang phần lớn an trú với Không trú. -- Lành thay, lành thay! Này Sariputta, Ông nay đang phần lớn an trú với sự an trú của bậc
Ðại nhân. Này Sariputta, sự an trú của bậc Ðại nhân tức là không tánh. Do vậy, này
Sariputta, nếu Tỷ-kheo ước mong rằng: "Mong rằng tôi nay phần lớn an trú với sự an trú
không tánh", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Trên con đường
ta đã đi vào làng để khất thực, tại trú xứ ta đã đi khất thực, và trên con đường từ làng ta đi
khất thực trở về, tại chỗ ấy, đối với các sắc do mắt nhận thức, có khởi lên ở nơi ta dục,
tham, sân si, hay hận tâm không?"
Thật vậy, nếu lục căn thanh tịnh, là Nhãn Nhĩ Tỷ Thiệt Thân Ý được thấy biết như thật như
chơn, hay đưa lục căn giả lập nầy vào tánh giác, cái biết sáng suốt, trong sát na hiện tiền vô
thời không, thì làm gì có chỗ nào mà an trú. Nói rõ hơn là lục căn an trú vào tuệ tri, cái biết
sáng suốt, cái hư không, thì an trú vào cái không an trú (trong hư không). Vậy khi lục căn
thanh tịnh hay biết sắc thọ tưởng hành thức sáng suốt thì sắc da của con người trong sáng,
tâm địa thanh thản. Sắc da dụ cho vật lý mà vật lý ảnh hưởng đến tâm lý. Người mà sống
ung dung tự tại thì thân tâm thường an lạc.Đó là an trú nơi không tánh. Như đi đến trở về
trên con đường, nếu mắt thấy sắc, thì sự thấy biết như chơn các sắc thì không khởi lên dục
(vì tuệ tri các sắc hay biết một cách sáng suốt vô thời không), không có dục thì không ái
thủ hữu, thì tham sân si hay hận tâm không có.
Không Trụ Tướng, Phước Đức Khôn Lường (Kinh Kim Cang):
Diệu Hạnh Vô Trụ (trong đoạn 4): Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ-tát với pháp nên không có chỗ trụ mà làm việc bố thí, gọi là chẳng
trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí. Này Tu-bồ-đế, nên như
thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì cớ sao? Nếu Bồ-tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước
đức không thể nghĩ lường.
-Tu Bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Hư không ở phương Đông có thể nghĩ lường được chăng?
-Bạch Thế Tôn, không vậy.
-Này Tu-bồ-đề, hư không phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phía trên dưới có
thể nghĩ lường được chăng?
-Bạch Thế tôn, không vậy.
-Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát không trụ tướng mà bố thí, phước đức cũng lại như thế, không thể
nghĩ lường. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát chỉ nên như lời dạy mà trụ. (HT. Thích Thanh Từ dịch)
Sức Mạnh của sat-na hiện tiền "Tất cả mọi dục vọng đều là hoạt động của tâm trí nhằm tìm cầu sự cứu rỗi hay thỏa mãn ở
các sự vật bên ngoài và trong tương lai, thay thế cho niềm vui của Bản thể hiện tiền. Bao
lâu tôi còn là tâm trí của tôi, thì bấy lâu tôi vẫn là các dục vọng ấy, các nhu cầu, các ham
muốn, các ràng buộc, cùng các sự ghét bỏ ấy, và ngoài chúng không có “tôi” ngoại trừ một
điểm: chúng đơn thuần chỉ là một khả năng, một tiềm năng không được thỏa mãn, một hạt
giống chưa đâm chồi. Trong trạng thái đó, ngay đến mong ước được tự do hay giác ngộ
cũng chỉ là một khát vọng được thỏa nguyện hay được trọn vẹn trong tương lai. Cho nên,
đừng tìm cách giải thoát khỏi dục vọng hay “đạt đến” giác ngộ. Bạn hãy hiện trú trong
khoảnh khắc hiện tại. Hãy lưu trú ở đó với tư cách chủ thể quan sát tâm trí. Thay vì trích
dẫn lời của Đức Phật hạy là Đức Phật, hãy là “người thức tỉnh”, bởi vì đây chính là ý nghĩa
của từ Phật Đà (Buddha) vậy. ... Khi nói “Thời gian là ảo tưởng”, tôi không nhằm đưa ra
một quan diểm triết học. tôi chỉ nhắc nhở bạn về một sự thực đơn giản - nó hiển nhiên đến
mức bạn thấy khó hiểu và thậm chí cho là vô nghĩa - nhưng một khi bạn triệt ngộ rồi, nó sẽ
là lưỡi gươm bén giúp bạn chém đứt phăng các tần lớp trùng trùng mọi “vấn đề” phức tạp
do tâm trí tạo dựng ra. Xin được nhắc lại ở đây: khoảnh khắc hiện tại là tất cả mọi thứ bạn
từng có được. Chưa hề có lúc nào mà cuộc đời bạn không phải là “khoảnh khắc này” cả.
Đây chẳng phải là sự thực sao?..."(Sức Mạnh của Hiện Tiền [The Power Of Now], Phi
Thời Gian, Eckhart Tolle)
[Pure Cognition. Xem " Zen: A Cognition to the Mind, Phổ Nguyệt"]

Kết luận. Tuệ giác hư không hóa mọi tâm thức hay tâm trí, là cái biết sat-na hiện tiền. Sức
mạnh của cái biết sat-na hiện tiền là làm trong sạch hóa dòng tâm thức (vô niệm), không
mải mai bụi trần (vô tướng), không lăn trôi theo thời gian, không lập lại (vô trụ). Không
tánh ấy làm tâm thức không còn vẩn đục, là phước đức như hư không, không thể đo
lường.Tuệ giác cũng là thấy biết như chơn mắt, chơn sắc, chơn nhãn thức...chơn lục căn,
chơn lục trần, chơn lục thức (Đại Kinh Sáu Xứ), như đã hàng phục được vọng tâm và an trụ tâm (kinh Kim Cang), tri kiến Phật (kinh Pháp Hoa), minh tâm kiến tánh thành Phật
(kinh Lăng Già), viên giác v.v...Nói tóm, Tuệ Giác là cái Biết sat-na hiện tiền có sức mạnh
không thể nghĩ lường.
Tham khảo
Cốt Tủy các Kinh Căn Bản Phật Giáo, Phổ Nguyệt, 2006. Trích kinh Kim Cang, kinh Nhất
Dạ Hiền, và Pháp Vô
Niệm: Đốn Giáo của Lục Tổ, v.v..., đăng trong website Tạng Thư Phật học:
www.tangthuphathoc.net
Sức Mạnh của Hiện Tiền (The Power Of Now), Phi Thời Gian, Eckhart Tolle, Hồ Kim
Chung-Minh Đức biên dịch (sách) đăng trong Website Thư Viện Hoa Sen:
http://thuvienhoasen.org, tháng May.2007)
Zen: A Cognition to the Mind, Phổ Nguyệt, 2006" đăng trong website Tạng Thư Phật Học:
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,363
Điểm tương tác
1,335
Điểm
113
Bài 12.- Nhận xét về Không Tánh & Phủ nhận... bỏ lửng...

PN Kết luận:

Tuệ giác hư không hóa mọi tâm thức hay tâm trí, là cái biết sat-na hiện tiền. Sức mạnh của cái biết sat-na hiện tiền là làm trong sạch hóa dòng tâm thức (vô niệm), không mải mai bụi trần (vô tướng), không lăn trôi theo thời gian, không lập lại (vô trụ). Không tánh ấy làm tâm thức không còn vẩn đục, là phước đức như hư không, không thể đo lường.Tuệ giác cũng là thấy biết như chơn mắt, chơn sắc, chơn nhãn thức...chơn lục căn, chơn lục trần, chơn lục thức (Đại Kinh Sáu Xứ), như đã hàng phục được vọng tâm và an trụ tâm (kinh Kim Cang), tri kiến Phật (kinh Pháp Hoa),minh tâm kiến tánh thành Phật (kinh Lăng Già), viên giác v.v...Nói tóm, Tuệ Giác là cái Biết sat-na hiện tiền có sức mạnh không thể nghĩ lường.(hết trích)
++++++++++++++++++

Thảo Luận:


PN cho rằng: Tuệ giác hư không hóa mọi tâm thức hay tâm trí, (hết trích)

Như vậy xem ra cái gọi là "hư không hóa" là Không Tánh ư ?

Ở ĐT ĐL.- Giáo Lý Tánh Không. Tổ Long Thọ. - Phủ nhận luôn cả "Cái Không" .- Đó là Pháp Quán KHÔNG KHÔNG. Như sau:

Biết hết thảy các pháp đều là KHÔNG, người tu hành lại còn phải tu xả luôn cả cái chấp về tướng KHÔNG ấy. Vì Sanh và diệt đều là bất khả đắc. Vậy nên bất sanh bất diệt mới là chân thật pháp.
Phàm phu điên đảo chấp có sanh, có diệt. Người tu hành trái lại, phải biết rõ các pháp vốn chẳng có sanh, chẳng có diệt, vốn là KHÔNG. Biết như vậy rồi lại còn phải xả luôn cái chấp KHÔNG ấy mới vào được Không Không.

Lại nữa, người tu hành vào KHÔNG tam muội, quán 5 ấm là KHÔNG, được 8 Thánh đạo, đoạn các phiền não, chứng Niết bàn an lạc, rồi lại xả luôn cả 8 Thánh đạo, được Không Không tam muội.

Hỏi: Không và Không Không khác nhau như thể nào?
Đáp: Nói không nhằm phá chấp 5 ấm. Nói Không Không nhằm phá chấp về tướng KHÔNG.

Hỏi: Nếu KHÔNG chính là pháp Không, thì như vậy là. đã phá hết thảy các pháp rồi. Còn nếu nói KHÔNG chẳng phải là pháp Không thì còn cỏ gì để phá nữa đâu?
Đáp: Nếu nói KHÔNG chính là pháp Không, nhằm phá hết thảy các pháp tướng, thì sau khi phá các pháp tướng rồi vẫn còn lưu lại cái pháp KHÔNG đó. Như vậy là còn chấp tướng KHÔNG. Bởi vậy nên phải xả bỏ luôn cả pháp KHÔNG đó mới gọi là Không Không.

Ngoài ra quán Không Không cũng chính là duyên KHÔNG, tức là vô duyên vậy. Ví như thuôc dùng đê chữa bệnh, khi bệnh đã lành thì thuốc cũng phải xả bỏ luôn. Vì sao? Vì nếu chẳng xả bỏ thuốc thì lại sanh bệnh khác vậy.

Người tu quán KHÔNG để phá trừ phiền não. Nhưng nếu vẫn thủ chấp lấy cái KHÔNG ấy thì sẽ thành bệnh. Phải xả bỏ luôn chấp KHÔNG mới được Không Không.

Tư duy:

+ Không Không ?
- Nguồn cội các pháp là không có tự tánh. Không tự tánh thì không phải có nghĩa là Không có các pháp, mà là các pháp giả có . Nếu chấp cái Không ấy thì rơi vào Đoạn kiến Không, nếu chấp Đoạn kiến Không thì là Tà kiến. Do vậy phải quán Không Không.

- Không Không là nói các pháp là NHƯ (kể cả Tuệ Giác). - Như là BẤT SANH, BẤT DIỆT, TỊCH DIỆT CHÂN NHƯ, LÀ UYÊN NGUYÊN VẮNG LẶNG BẶC NGÔN NGỮ SUY LƯỜNG.(Trích ĐT ĐL)

* Như vậy. Theo PN:

  • Tuệ Giác là cái Biết sat-na hiện tiền có sức mạnh không thể nghĩ lường.
  • Tuệ giác hư không hóa mọi tâm thức hay tâm trí,(hết trích)

Như vậy Cái gọi là Không Tánh này vẫn còn "Cái Hư Không hóa".- Mà chưa được KHÔNG KHÔNG.

Lại nữa. Như HT Th Trí Siêu nhận định về Tánh Không của tổ Long Thọ rằng:

Bây giờ chúng ta hãy bàn về chữ “không” của kinh Bát Nhã. - Bình thường khi nghe nói “không” thì người ta tưởng là “không có”, bởi vì quá quen thuộc với khái niệm Có và Không (Hữu và Vô). Cái gì mắt thấy, tai nghe hay sờ mó được thì cho là Có. Còn cái gì không thấy, nghe, sờ mó được thì cho là Không có.

+ Chữ “Không” theo nghĩa thế gian là không có mặt, không hiện hữu, không có hình tướng, thuộc về không gian, vật chất.

+ Chữ “không” của kinh Bát Nhã là thuộc về tánh, cho nên gọi là Tánh Không (sunyata).- Tánh Không không có nghĩa là không có gì hết. Cái “không” này không thể thấy bằng mắt, nghe bằng tai, mà phải thấy bằng lý trí, bằng sự quánchiếu.

Mọi sự vật đều có hình tướng, nhưng không có tự tánh độc lập, cho nên gọi là Tánh Không. Tánh Không không từ chối sự có (hiện hữu) của sự vật. Chúng do nhân duyên hợp lại với nhau thành hình này, tướng nọ làm chúng ta cảm tưởng là có, nhưng chúng không có một bản tánh độc lập, tự hữu.

Ở 1 đoạn khác ngài nói:
Theo Luận sư Long Thọ chữ “không” đồng nghĩa với duyên sinh, giả danh, và trung đạo. Nhưng trong phái Trung Quán, “không” hay tánh Không đã trở thành một phương pháp biện chứng phủ định để phá ngã chấp và pháp chấp của Nhị thừa và ngoại đạo. Tánh Không không phải là một định nghĩa về thực tại, mặc dù trong đó như có hàm ngụ ý nghĩa bản tánh của Thực tại là Không. “Bản chất hiện hữu của thực tại là Không, “vô tự tính”, nghĩa là không có yếu tính quyết định. Đó là ý nghĩa phủ định trong tiền đề Không của Trung Quán”. Tánh Không này là một loại phủ định tuyệt đối, không chừa một khe hở nào cho khẳng định có thể chui ra. Bình thường khi nói “không phải là cái này” thì tức là cái kia, đây là phủ định cái trước để khẳng định cái sau. Nhưng Tánh Không cũng phủ định luôn cả cái sau. Hễ đưa ra cái nào là bị phủ định cái đó. Chỉ có phủ định mà không khẳng định, nói cách khác đó là một loại phủ định bỏ lửng. Bởi thế Tánh Không là một phương thức luận lý mâu thuẫn hóa nhằm đẩy ngôn ngữ đi đến tận cùng khả năng của nó. “Thực tại tuyệt đối không thể định nghĩa, mà điều cần thiết là phải nhận thấy rõ những uẩn khúc của ngôn ngữ và vai trò của nó”. “Đặc tính của ngôn ngữ là mô tả. Thất bại của nó là không mô tả nổi Tuyệt đối Niết bàn”. Nói là cái này hay cái kia đều là sai, là bị kẹt. Nó dồn hành giả tới đường cùng, không thể dùng ngôn ngữ hay ý thức được nữa, may ra từ đó hành giả có thể đạt tới Thực tại. Vì Thực tại vượt ngoài ngôn từ, bất khả thuyết. Nhưng nếu hành giả không hiểu điều đó mà lại lay hoay trong suy luận trí thức thì Tánh Không rất dễ trở thành Hư vô luận, cái gì cũng bác hết để rồi không đưa tới đâu, hoặc tới chủ nghĩa hư vô đoạn diệt. (hết trích)

Kính các Bạn: Đưa ra Không Tánh Luận của HT Th Trí Siêu mà so sánh với Không Tánh Luận của PN.- Không phải để nói Đúng- Sai.

VQ chỉ đưa ra thêm một Luận kiến để dễ tìm vào KHÔNG TÁNH - Vậy thôi.- Ai có cơ duyên với nào thì dễ thâm nhập với nấy.

Mô Phật.
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top