Thế nào là TÂM (theo Đạo Phật) ? Bài 10-
Tâm Chân Như.
Tâm Chân Như chính là Chân Tâm- Bổn Tánh, là thực tại, cội nguồn của Phật- Chúng sanh- Tâm
Định nghĩa tổng quát:
* Chân Như là thực tại “bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”, nghĩa là thực tại nguyên sơ và tối hậu từ đó tất cả mọi thế giới hiện tượng sinh ra.
* Chân Như là cái dung chứa mọi mâu thuẫn, đối nghịch: có và không, động và tĩnh, một và nhiều, như thật và như huyễn, tướng và vô tướng… đồng thời vẫn thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi chúng.
* Chân Như là cội nguồn của vạn pháp, vạn vật.
Chân Như (zh. 真如, sa., pi. tathatā, bhūtatathatā) là một khái niệm quan trọng của Đại thừa Phật giáo, chỉ thể tính tuyệt đối cuối cùng của vạn sự. Chân như chỉ thể tính ổn định, thường hằng, nằm ngoài mọi lý luận nhận thức. Chân như nhằm chỉ cái ngược lại của thế giới hiện tượng thuộc thân thuộc tâm. Tri kiến được Chân như tức là Giác ngộ, vượt khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể của khách thể và chủ thể. Chân như đồng nghĩa với Như Lai tạng, Phật tính, Pháp thân.
Tổ Mã Minh ở Đại Thừa khởi tín luận, nói về Chân Như, như sau:
“Cái Chân Như của tâm tức là cái thể của pháp môn “Nhất pháp giới đại tổng tướng”. Đó là cái bất sanh bất diệt của tâm tánh, Tất cả các pháp chỉ nương nơi vọng niệm mà có sai khác. Nếu lìa vọng niệm thời không có tướng của bất cứ cảnh giới nào. Cho nên tất cả các pháp, ngay trong bản chất, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên. Rốt ráo bình đẳng. Không có đổi khác. Không thể phá hoại. Chỉ là cái nhất tâm, cho nên gọi là Chân Như.”
Những từ khác về “Chân Như”—Other terms for “Bhutatathata”
Chân Thực Như Thường: The eternal reality.
Bất Biến Bất Cải: Unchanging or immutable.
Tự Tánh Thanh Tịnh Tâm: Self-existent pure Mind.
Phật Tánh: Buddha-nature.
Pháp Thân: Dharmakaya.
Như Lai Tạng: Tathagata-garbha, or Buddha-treasury.
Thực Tướng: Reality.
Pháp Giới: Dharma-realm.
Pháp Tính: Dharma nature.
Viên Thành Thực Tánh: The complete and perfect real nature.
* Những từ ngử khác liên hệ đến Chân Như như:
Chân Như Bổn Tánh: Bổn tánh chơn thật như thường . Đó là bản tánh tự nhiên của chúng sanh, nó chơn thật, không hư vọng. Tánh ấy trống không mà linh thiêng, vắng lặng mà mầu nhiệm, dù trãi qua bao nhiêu kiếp vẫn tồn tại như thế; còn gọi là bổn lai diện mục.
Thiền Tông gọi là Chánh Pháp Nhãn Tạng. Tịnh Độ Tông gọi là Bổn Tánh Di Đà. Khổng Tử gọi là Thiên-Lý. Lão Tử gọi là Cốc-Thần (Cốc là Hang trống; Thần là Hồn Thiêng).
Chơn Như Hải: Biển Chơn Như. Chơn Như, Pháp Tánh hay Phật Tánh có vô lượng công đức bởi vậy nên gọi là Chơn Như hải.
Chơn Như Nội Huân: Chân Như huân tập bên trong, lần lần phát khởi lòng Bồ Đề, chán cõi trần tục, cầu thành Phật Đạo. Đó là do sức Nội Huân từ bên trong tâm mà thành. Cũng có thể hiểu là từ Pháp Thân, Phật Tánh mà phát khởi tính giác, trừ vọng hoặc đến giác ngộ giải thoát; đó gọi là Chân Như Nội Huân.
Chơn Như Tam Muội: đó là Đại Định Chân Như, tu theo phương pháp quán tưởng lý vô tướng của các pháp trừ được những mối vọng hoặc.
Tuy rằng Tâm Chân Như, theo chư Tổ gợi ý khó dùng ngôn ngữ, suy lường mà biết được. Nhưng Đức Phật vẫn có nhiều phương tiện để hiển bày. Như câu chuyện Phật khai thị cho Tôn giả Câu Hy La, sau:
Tích Tôn Giả Câu Hy La- Thể Nhập Chân Như.
Trong kinh Xá Lợi Phất Bản Mạc có chép vè vị Tôn Giả này như sau:
Ông là cậu của ngài Xá lợi Phất, tên là Câu Hy La. Vào một hôm, Câu Hy La luận nghị vói chi là bà Xá Lợi, nhưng chẳng sao có thể bì kịp. Óng bèn nghĩ rằng: Đây chẳng phải do ức của chị ta, ắt phải có một đại trí giả, gá vào bào thai của chị ta, gói lõi qua trung gian cúa me. Vị này chưa sanh mà đã như vậy rồi, ắt về sau sẽ là một bậc có trí huệ đại siêu ”.
Suy nghĩ như vậy rồi, ông sanh tâm kiêu mạn, tật đố, nên liền hạ quyết tâm xuất gia làm Phạm Chí, để được họ thuật nhiều các kinh the nghia. Ông tìm đến xứ Nam Trúc,
tham cúu kinh the. Có nguõi hỏi ông “Muon học nhữg kinh gì?” Ông không chút ngần ngạiđáp rằng: “Ta muốn học đủ cã 18 bộ kinh”. Lai có nguói nói với ông rằng suốt một đời nguói học cho thông suốt một bộ kinh còn khó, huống nữa là học đủ 18 bộ kinh”.
Mặc dù nghe như vậy, ông vẫn không sờn lòng, và phát thệ rằng: “Ta đã bị nguói làm nhục nên ta quyết chẳng cắt móng tay, ta quyết tâm hoc thông suốt hết cã 18 bộ kinh”. Nguói ngoài thấy ông để móng tay dài nên gọi ông là Phạm Chí Trường Trảo.
Trường Trảo dồn hết nghị lực học thông suốt hết cả 18 bộ kinh, rồi dùng trí huệ phá các nghĩa của các luận sư đương thời.
Một hôm, Trường Trão trở về quê cũ, hỏi thăm tin túc về bà chi. Có nguồi nghe ông hói “Chi ta sanh rồi, nay ở đâu?” Liền trả lời: “Con trai cúa chị ông khi minh vừa 8 tuổi đã thông suốt hêt các kinh the; đến năm 16 tuôi đã luận nghị vô ngai thắng hết các luận sư danh tiếng. Hiện nay có minh đạo nhân tên là Cù Đàm, thuộc dòng họ Thích, thu nhận con của chị ông làm đệ tử”.
Trường Trảo nghe xong liền sanh tâm kiêu mạn chẳng tin sự viêc có thể xáy ra như vậy, bên nói với nguõi kia rằng: “Con cúa chi ta thông minh xuất chúng, như vậy đạo nhân Cù Đàm đã dùng tà thuật gì mà dụ dỗ cháu của ta cạo đầu. làm đệ......... tử?”
Nói xong ông liền đi đến chỗ Phât để hỏi cho ra lẽ. Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất vừa mới thọ giới được nữa tháng, đang đứng hầu bên Phật.
Trường Trão nghe Phật hỏi thăm, liền ngồi xuống một bên, dấy niệm rằng: “Trí huệ của ta ví như biển cả mênh mông, có công năng phá được hết thảy các luận nghị. Ta hãy hỏi thử xem đąo nhân Cù Đàm dã dùng luận ngh¡ gì mà thu phục được con của chi ta làm đệ tử?”
Suy nghĩ như vây rồi, ông bèn nói vói Phật rằng: “Này ông Cù Đàm! Hết thày pháp ta đều chẳng thọ. Ý ông nghi sao?”.- Nghĩa là: Mắt thấy sắc không thọ. Tai nghe tiếng không thọ. Mũi ngửi mùi không thọ. Lưỡi nếm vị không thọ. Thân xúc chạm không thọ. Não với Ý thức không thọ.-
Phật đáp: „Hết thảy pháp ngươi đều chẳng thọ. Như vậy, ngươi có thọ kến chấp ấy không?”(nghĩa là chấp Tâm niệm không thọ.)
Lúc bấy giò Trường Trão như con ngựa tốt, vừa thấy bóng roi liền chąy về đúng đuòng. Ông liền xã bỏ tâm kiêu mąn, cúi đầu suy nghĩ “Đã nói chẳng thọ hết thảy pháp, thì làm sao ta thọ kiến chấp ấy được?”
Nghĩ như vậy rồi, ông liền nói vói Phật răng: “Này ông Cù Đàm! Hết thảy pháp ta đều chẳng thọ, kể luôn cả kiến chấp ấy ta cũng chẳng thọ nữa”.
Phật dąy: “Ngươi nói hết thảy các pháp nguoi đều chẳng thọ, đến kiến chấp chẳng thọ đó ngươi cũng chẳng thọ luôn. Như vậy, thì Tâm Bình Đẳng đâu có gì khác "hư không" đâu.- mà ngươi sanh kiêu mąn?” (Ý là khế hợp Chân Như).
Trường Trão biết mình tự mâu thuẫn với chính mình, sanh tâm cung kính Phật, và tự nghĩ rằng: “Ta rớt vào chỗ mâu thuẫn rồi, Phật chẳng vąch trần chỗ mâu thuẫn nơi ý nghĩ của ta; Phật cũng chẳng nói gì trái vói ý nghĩ của ta cả. Thế mới biết tâm Phật thật nhu nhuyễn, thanh tịnh. Hết thảy ngôn ngữ luận nghị đều diệt mới là đąi thâm pháp, là pháp thanh tịnh bậc nhất, chẳng lỗi lầm”. Trường Trẵo rõ biết Phật thuyết pháp chi nhầm đoąn tà kiến cho riêng mình, nên đang ngồi tại chỗ mà ông đã xa lìa được trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. (hết trích).
Đây là ý chỉ của câu kinh Kim Cang mà Đức Phật dạy. Sanh Tâm và Hàng phục Tâm (để trở về Chân Như Tâm).
Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát Ma-ha tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
Nghĩa là:
Phật bảo Tu-bồ-đề:
- Thế nên Tu-bồ-đề, các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia.
Tâm Chân Như là Thế: Bình Đẳng như hư không, không trụ tất cả chỗ.
Như bài kệ:
Giải thoát, đại giải thoát,
Chỉ là Tâm tự tại.
Ngoài không nhiễm sắc, thinh,
Trong không sanh vọng niệm.
Tâm cảnh đều quên hết,
Niệm niệm vào Vô sanh.
Chỗ nào tâm vướng mắc.
Tự tại vô sở đắc,
Ấy vô vị chân nhân,
Giải thoát không nghĩ bàn.
Bạn Hoàng, có bài luận về Chân Như Tâm:
Chân tâm và chơn như là hai khái niệm quan trọng trong Phật giáo, chỉ về bản thể của vũ trụ và của chúng sanh.
- Trong Phật giáo Tiểu thừa, chân tâm thường được gọi là "tâm", "tâm bản nhiên", "tâm thanh tịnh",... Nó được hiểu là cái tâm vốn không sinh, không diệt, không biến đổi, là bản thể của chúng sanh.
- Trong Phật giáo Đại thừa, chân tâm thường được gọi là "chơn như", "thể tính chân thật", "tính giác",... Nó được hiểu là thể tính chân thật của vũ trụ, là bản thể của tất cả các pháp.
Mặc dù có những cách gọi khác nhau, nhưng về bản chất, chân tâm và chơn như đều chỉ một thực tại tối hậu, là nguồn gốc của mọi hiện tượng. Hai khái niệm này đều được sử dụng để chỉ cái thực tại vượt ngoài mọi khái niệm, ngôn từ, không thể dùng tri thức thông thường để hiểu biết.
Có một điểm khác biệt nhỏ giữa hai khái niệm này trong Phật giáo Đại thừa. Trong Phật giáo Đại thừa, chân tâm được coi là tiềm năng giác ngộ của chúng sanh, còn chơn như được coi là bản tính Phật, là trạng thái giác ngộ của chư Phật.
Ví dụ về sự tương đồng giữa chân tâm và chơn như:
- Chân tâm và chơn như đều là thực tại tối hậu, là nguồn gốc của mọi hiện tượng.
- Chân tâm và chơn như đều vượt ngoài mọi khái niệm, ngôn từ, không thể dùng tri thức thông thường để hiểu biết.
Ví dụ về sự khác biệt giữa chân tâm và chơn như trong Phật giáo Đại thừa:
- Trong Phật giáo Đại thừa, chân tâm được coi là tiềm năng giác ngộ của chúng sanh, còn chơn như được coi là bản tính Phật, là trạng thái giác ngộ của chư Phật.
Mối quan hệ giữa chân tâm và Phật tánh:
- Phật tánh là bản tính Phật, là tiềm năng giác ngộ của chúng sanh.
- Chân tâm là bản thể của vũ trụ, là thể tính chân thật của tất cả các pháp.
- Vì vậy, Phật tánh và chân tâm là một thực tại duy nhất, nhưng được thể hiện ở hai khía cạnh khác nhau: khía cạnh tiềm năng (Phật tánh) và khía cạnh hiện thực (chân tâm).
- Ý nghĩa của việc chứng ngộ chân tâm:
- Chứng ngộ chân tâm là đạt được trạng thái giác ngộ, là thấu hiểu được bản chất của vũ trụ và của chúng sanh.
- Chứng ngộ chân tâm là đạt được sự giải thoát, là thoát khỏi mọi khổ đau, phiền não.
- Chân không Diệu hữu
Chân không Diệu hữu là một khái niệm quan trọng trong Phật giáo, chỉ về sự đồng nhất giữa chân không và diệu hữu.
Mối quan hệ giữa chân không và diệu hữu:
- Chân không là sự không có, là sự trống rỗng, là sự vắng bặt của mọi hiện tượng.
- Diệu hữu là sự có, là sự tồn tại, là sự hiện hữu của mọi hiện tượng.
Chân không và diệu hữu không đối lập nhau mà là một. Chân không là thể của diệu hữu, diệu hữu là tướng của chân không.
- Nói cách khác, chân không là bản chất của mọi hiện tượng, còn diệu hữu là biểu hiện của bản chất đó.
- Chân không vô hữu hay ngoan không
Chân không vô hữu là một khái niệm sai lầm về chân không. Chân không không phải là sự không có, là sự trống rỗng tuyệt đối. Chân không là sự trống rỗng của mọi hiện tượng, nhưng nó vẫn có thể chứa đựng mọi hiện tượng.
Ngôn từ không thể diễn tả được chân không một cách trọn vẹn. Vì vậy, có người gọi chân không là
“ngoan không”, nghĩa là không thể dùng ngôn từ để diễn tả.
Phật tánh là bản tính Phật, là tiềm năng giác ngộ của chúng sanh. Tâm sở đắc là những tâm sở, những trạng thái tâm lý mà chúng sanh đạt được trong quá trình tu tập.
Nếu người tu hành thấy tánh thì tâm sở đắc sẽ rơi vào trạng thái "vô niệm". Vô niệm không phải là không có niệm, mà là không có niệm phân biệt, chấp trước.
Trạng thái vô niệm là trạng thái tâm thanh tịnh, sáng suốt, không bị ô nhiễm bởi những vọng tưởng, phiền não. Đây là trạng thái mà chúng sanh có thể chứng ngộ được chân lý, đạt được giác ngộ.
Ý nghĩa của việc đạt được trạng thái vô niệm:
- Vô niệm không phải là không có niệm, mà là không có niệm phân biệt, chấp trước.
- Trạng thái vô niệm là trạng thái tâm thanh tịnh, sáng suốt, không bị ô nhiễm bởi những vọng tưởng, phiền não.
- Trạng thái vô niệm là trạng thái mà con người có thể chứng ngộ được chân lý, đạt được giác ngộ.
(VQ tạm mượn)