- Tham gia
- 19/10/06
- Bài viết
- 1,361
- Điểm tương tác
- 74
- Điểm
- 48
Trích CHƠN LÝ
Bài 27: ĂN VÀ SỐNG
Bài 27: ĂN VÀ SỐNG
Trong đời ai cũng phải ăn đặng sống: Nhưng bởi có cái sống trước, mới có sự ăn sau, vậy nên muốn sống là chớ sát sanh, muốn ăn thì không nên trộm cắp.
Xưa kia có một vị quan văn hiền đức, bị kẻ nịnh âm mưu hãm hại, khiến lịnh vua lại sai Ngài cầm binh đi ra dẹp giặc Hung Nô. Ngài không thế gì tâu xin chi được.
Khi đem binh ra đến nơi, đóng trại xong, Ngài truyền lịnh treo cờ, rải giấy khắp nơi như vầy: “Phải ăn và sống, là đừng sát sanh trộm cắp”. Câu nói ấy nghĩa là: Ai cũng phải sống hết, mà sống là phải nhờ ăn. Vậy nên ăn và sống là hai vấn đề rất liên quan cần thiết. Hai pháp ấy có ra là do sự: không trộm cắp, không sát sanh trước hết của người cư gia hữu lậu.
Ngài dạy rằng: “Nhơn loại phải biết trọng nghĩa khinh tài. Người đừng vì miếng ăn mà liều mạng. Kìa như một bà mẹ, sanh ra một đứa con, cái sống có trước rồi sau đó mới nói đến sự lo ăn. Đành rằng: Có ăn mới sống, không ăn là chết, con vật còn muốn sống, khi đã có cái sống, huống chi người ta, nhưng chúng ta cũng nên biết thêm rằng: no quá là cũng phải chết. con người vì tham ăn mà phải chết, hại nhau, thì có ăn được món chi nữa đâu. Như thế thì sự ăn chốc lát chẳng no ngon bằng sự bền dài. Người ta biết sống, biết ăn để sống; hay biết sống có ăn, thì kẻ ấy há lại vì miếng ăn, mà phải chết hết với nhau sao? Vả lại chúng ta ăn là để sống, chớ nào phải sống để ăn, vì miếng ăn là để chết, tìm chết. Như vậy là người ta nên phải biết trọng nghĩa khinh tài! Người đừng coi tài quá trọng, khinh mạng hơn rơm. Chúng ta nên phải biết rằng: mạng người quý báu, cái sống khó tìm, khi chết đi đâu còn sống lại; chớ của cải trước sau mau chậm, có ngày ta kiếm được. Vậy thì chúng ta muốn sống là phải làm cho mọi người được sống. Ta muốn sống là phải làm cho mọi người có ăn, nếu khi ta có thể tiếp sức cho họ, mà nhứt là đừng phá tán người, để xúi người hãm hại lại mình bằng cách vô lý.
Trước hết ông quan ấy giác-ngộ cho quân binh, bằng sự nhắc tích đến một ông quan kia ngày xưa.
Thuở xưa có một ông vua nước lớn, được người ta cống sứ cho 18 cái lục bình quí rất to. Một hôm có một thái giám vô ý lỡ tay trong lúc lau chùi, làm rớt bể mất một cái. Lịnh vua quá giận, truyền bắt đem đi xử trảm. Khi ấy có một vị quan to, bước ra quì xuống xin tha tội cho người thái giám, mà tâu rằng: kẻ hạ thần đây có thể hàn dính cái lục bình bể ấy lại y như xưa, cho đến không còn dấu vết nứt răn chi được. Vua bèn ưng chịu, cho người dắt ông đến cái tủ đựng lục bình. Ông ấy liền xô cái tủ ngã xuống, để vỡ tan cả 17 cái kia còn lại. Mà đi đến tâu với vua rằng: “Từ khi chưa có những chiếc lục bình ấy thì tâm nhà vua rất trọn lành tròn trịa tốt đẹp, quí báu biết bao nhiêu. Thế mà không dè chỉ vì một cái lục bình bể, mà nhà vua lại thất đức, mê tâm giết hết một mạng người, để phải mất lòng thiên hạ, tánh ác nêu gương, thì sự hư hại lớn lao ấy, sau nầy biết sẽ xảy ra bao nhiêu việc thảm họa, hôm nay nếu tôi còn để 17 cái lục bình nầy nữa, thì còn phải chết thêm 17 mạng người vô tội như kia nữa. Vậy tôi muốn xin liều chết một mình để cứu mạng cho 17 người sau nầy, cùng việc mất lòng thiên hạ, có như thế, nhà vua mới khỏi mang tiếng là: không sanh ra người được, mà sao lại nỡ giết hại người, khinh mạng người rẻ hơn đồ vật.
Khi đó, nhà vua bèn tỉnh ngộ hối quá, lấy tâm mình tha chết cho cả hai, mà lại trọng thưởng vị quan kia thêm nữa. Và từ ấy về sau, nhà vua hằng lo trau tâm gìn đức, trở nên một ông vua nhân từ đức hạnh, thiên hạ khắp nơi thảy đều tùng phục”.
Ông quan văn ấy thường giảng bài cho binh nghe như vậy, nên không còn ai muốn ham đánh giặc, giết chết nhau nữa.
Ông truyền đem phân nữa số của cải tiền lương giúp đỡ, sự đói rách nóng lạnh, bịnh đau cho dân mọi. Ông dẹp bỏ lần lần hết khí giới; ông cất lập nhà thương, nhà dưỡng lão, nhà mồ côi, trường học, nhà bảo sanh, nhà chẩn tế, để giúp đỡ cho dân mọi. Giúp vốn cho kẻ làm ăn, nhứt thiết cái chi chi, ông đều bố thí ra, mà không cần thâu vô vụ lợi. Ông dạy quân lính phải biết tự lo làm ăn. và dư ra là nên bố thí, để cho sự sống và ăn của hai bên không chênh lệch nhau, thì mới được yên vui, cho cả thảy được. Ông lại bầy cho sự cưới gã với nhau, để cho hai sắc dân hòa hợp, mà tạo nảy kết quả của một khối thương yêu mật thiết, vật-chất lẫn tinh thần, là một sắc dân thứ ba mới lạ. Ông cho đó là sự đúng chơn-lý, lẽ chung, không riêng tư chia rẽ phân biệt. Ông lại tôn thờ cả hai chủ nghĩa tông giáo của hai bên, ông bày cất ra cho nhiều chùa, nhà thờ, nhà giảng, cho khắp nơi dân mọi đến ở. Ông thương dân mọi cũng như ông. ông dạy quân binh phải có bổn phận, như kẻ đàn anh hy sinh giúp đỡ cho đàn em út. Ai ai muốn tu theo đạo giáo bên nào cũng được. Ai muốn bảo giữ đạo của mình tự ý, và chẳng ai được chỉ trích lẫn nhau, mà tốt hơn là mỗi người hãy rán học thêm, những giáo lý của nhau.
Cũng nhờ thế mà dân mọi kháp nơi kéo rũ nhau đến ở trong miếng đất của ông, theo với ông, chịu phục làm dân. Họ bỏ cả gia-đình xã-hội cha mẹ, vua, quan của họ. Họ thân mến ông , là bởi ông không tham lam vụ lợi, ông rất ưa thích cái nghèo, đủ ăn để sống, và ra sức giúp đỡ người người. Ông biết đến chỗ cần thiết của người ta, nên gần ông, là ai ai cũng như no lòng mát dạ. Ông lại học tu theo Pháp Phật, ông biết kính đạo giáo của người, ông thường đem đạo lý chỉ giải cho mọi người. Vì thế mà ai ai thảy đều kính phục những việc làm lời nói đúng đắn cho ông hết. Ông rất quí trọng sự bình đẳng. Ông không cho ai kêu gọi ông là quan. ông khuyến khích mọi người, nâng cao gương đức hạnh, mộ tu, ham học: bởi đó mà các quan vua mọi, lại cũng đến lui thân mật với ông, ông hằng tiếp rước họ tại chùa, nhà thờ, nhà giảng của họ, để bàn luận đạo lý, mà không hề nhắc tới chiến tranh chi cả. Thế nên chẳng bao lâu, xứ mọi ấy thảy theo ông, theo bằng đại đức của ông, Ông là thủy tổ của một giống dân màu da mới. Người ta tôn thờ ông như một vị giáo chủ, như trời, hơn vua: vì bởi ông đức lớn trong sạch hơn hết. Ông không có vợ con, ông biết quý trọng miếng ăn, sanh mạng của người, của vật. Ông không sát sanh, trộm cắp, dâm dục, không nói dối, khoe khoang, dâm thọc, rủa chửi, không uống rượu, ông không ngồi ghế cao, nằm giường rộng, chiếu lớn, xinh đẹp, như vua; không nghe xem hát múa đờn kèn, chỗ đông vui yến tiệc như quan, không chưng diện trang điểm áo quần như giàu sang, ông ngày ăn chay một ngọ, và không rớ đến bạc tiền của quý, ông lại có giữ đủ oai nghi hạnh kiểm trang nghiêm khắc kỷ.
Ông thật là một người tốt đẹp xinh lịch đủ cách về tin thần. Cho nên ai ai thảy đều sùng tôn bái trọng. Như thế tức là ông đã thành công, ông thành công trong chỗ chết, ông thành công làm cho tất cả ta và người, ăn và sống phải như nhau, bằng nhau, biết sống để ăn, biết ăn để sống.
Sau khi ông thành công chỗ đó xong, ông lại đi đến những nơi loạn lạc rối khổ khác; để tế độ họ, cũng y như vậy. Trọn đời của ông, ông tạo lập ra không biết bao nhiêu xứ thiên đường cho nhơn loại, nơi những chỗ có chiến tranh. Ông là võ-trụ tạo hóa sanh ra miếng ăn và sống, cho những chúng-sanh tai nạn.
Về sau nhà vua hay biết được việc thành công đạo đức của ông, bấy giờ rất mến trọng ông, cho triệu ông về phong thưởng chức quyền to, nhưng ông không chịu nhận. Nhà vua phong tước phong vương cho ông và cho luôn cai quản những dân đất ấy, ông không chịu lãnh, vì ông chỉ muốn thong thả rảnh rang, giúp sự chi bảo cho người, chớ không mong danh lợi. Chính ông cũng như một người tu, ông là một người tu xứng đáng, ông cũng như một vị vua trời, một vị bồ tát, để cho thiên hạ hưởng nhờ nương dựa. Ong là một đấng cứu thế, dạy đạo lo đời, ông là mạng sống, miếng ăn của loài người, và chỉ có ông mới là một người biết bỏ khí giới chiến tranh, không dùng đến khí giới chiến tranh ở trong đời, do đó mà ông đặng chỗ hôn người là bởi ông biết trong đời, do đó mà ông đặng chỗ hơn người là bởi ông biết trọng giáo lý, chủ nghĩa, lòng tự trọng, chỗ khát khao của người người. Ông hơn người ở chỗ giải quyết xong sự khó nhứt của loài người: là “ăn và sống”, một cách rành rẽ. Người ta mà tôn trọng, bởi độ lượng cao lớn rộng rãi của ông; vì ông cho rằng ai cũng là phải hết! giáo lý chủ nghĩa nào, cũng là phải cho nhơn duyên trình độ mỗi lúc, mà kẻ kia là chưa giống theo kẻ nọ trong ngày hôm nay được. Như thế tức là ông không có tranh đấu, ích kỷ, tư vị, cá nhân, chia rẽ. Ong biết dùng người, biết dùng tất cả, chẳng bỏ sót ai ai, với đức tánh nhân từ đạo đức của ông. Ông mà được giải thoát trong sạch, là bởi ông biết tôn thờ nghĩa vụ lên trên, mà giải thoát trong sạch vợ con, chỗ ở, món ăn, sự mặc. Ông mà tính tấn được là nhờ ở chỗ không nghĩ đến bịnh hoạn của xác thân mình; bởi ông cố gắng lo cho người ta, nên ai ai cũng hết lòng lo cho ông trả lại. Ông mà được sống dai, không phải chết, và nên đạo được, là bởi nhờ ông biết đem tài hộ đạo, đem phân nữa của cải ra bố thí, giúp đỡ cho người được ấm no, đặng sau nầy dạy dỗ cho họ tấn hóa thêm.
Cũng vì tấm lòng từ-bi thương xót của ông, và sự thật tâm của ông, mà tất cả đều xem ông như một ông cha hiền cao quý. Người ta, trẻ nhỏ, kẻ ác, không ai tranh cạnh ông, là bởi việc làm ông là hy sinh khổ nhọc, không không danh lợi. Vì thế mà ông được yên vui lắm, tự chủ lắm; ông làm cũng yên vui, mà nghỉ cũng yên vui, nói cũng yên vui, mà nín cũng yên vui, lo nghĩ, hay lo nghĩ, thảy đều yên vui cả. Đời của ông tức là đời yên vui, cõi đời là cõi yên vui đối với ông. Chính ông là bậc giác-ngộ, đúng chơn-lý tiến hóa nên hay ích lợi lắm. Ong là bậc đi trên trước kiểu mẫu, xưng đáng cho những kẻ đàng sau noi theo. Người ta nói rằng: ông không phải chết vì tay kẻ mọi kia, là bởi ông không tham lam tiếc giữ của cải vô ích, ông biết đem của cải dùng trúng cách hạp thời. cũng như ông muốn được yên thân, là ông đem tiền phân nửa ra mướn mọi làm tôi tớ, giữ nhà cho ông.
Ông cho rằng: “Ăn và sống là phải bằng nhau!”. Ông cũng như một cậu công tử bé con, ở trong một lầu đài sang cả, còn đám mọi xung quanh, àl những gia-đình to lớn đông nhiều, mà lại đói khát nghèo nàn, thì hỏi thử, ai mà lại không phải giặc nghịch đối với ông, vì đói quá. Và ông tự hỏi thủ, có phải cậu bé ấy, lại ỷ của, bỏn sẻn, mà đem sức lực đánh dẹp người ta nổi không? Với cả trăm ngàn đám giặc, vì ai cũng là giặc, bởi tham và thiếu. Nào chúng ta có ai lại dám nói rằng: là cậu bé ấy phải ỷ sức ỷ tài, mà không phải là giác-ngộ đến đạo đức?
Cũng như kia một kẻ ăn mày đói khát, đi xin ăn nơi trước cửa, có phải cậu bé kia, lại nạt nộ chửi rủa duổi đi và đánh đập họ không? Có phải chúng ta lại nói quát nạt rằng: đồ chết đói, phải đi đi hay không? Có phải là ta cư xử vậy, mà họ đi không? – Chắc hẳn là không! Mà họ còn làm dữ gây thiệt hại cho ta thêm nữa là khác!Vậy sao chúng ta chẳng biết đem cho họ một tô cơm , để cho họ được no rồi họ tự đi, có chẳng là yên vui cho tất cả? Hay là chúng ta nhịn phân nữa chén cơm nơi miệng của chúng ta mà giúp cho họ gọi là ăn và sống là phải bằng nhau đúng phép, như thế có phải quý hơn? Tham lam để chết bậy, với không tham lam để sống, nên hỏi vậy chúng ta tự thử muốn cái nào?