vienquang2

Con đường Phật Tâm Tông.- Phần 3

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,026
Điểm
113
Bài 54.- Niết Bàn & Đại Niết Bàn:

K.NB ph22.

Cao Quý Đức Vương Bồ tát thưa: Thế tôn ! Giờ đây con mới hiểu ra rằng: Tất cả pháp đều không có tánh cố định. Cho nên tội tứ trọng, ngũ nghịch, nhất xiển đề cũng không có tánh cố định. Do nghĩa đó mà Như Lai nhập Niết bàn cũng chẳng rốt ráo vĩnh diệt !

Bạch Thế tôn ! Tu học kinh Đại Niết bàn, nghe được những điều chưa nghe. Xin Thế tôn thương xót dạy cho chúng Bồ tát hiểu rõ THẾ NÀO LÀ NIẾT BÀN ? THẾ NÀO LÀ ĐẠI NIẾT BÀN ?

Đức Phật khen: Lành thay ! Lành thay ! Này Thiện nam tử ! Qua lời thưa hỏi của ông, nói lên rằng ông có tư duy, thường ở trong định tuệ mới có thể nêu câu hỏi như vậy.

Này Thiện nam tử ! Như người đời thường nói: Có biển, có biển lớn. Có núi, có núi lớn. Có thành, có thành lớn. Có nước, có nước lớn. Có đạo, có đạo lớn. Niết bàn cũng vậy. Có Niết bàn, có Đại Niết bàn.

Niết bàn là thế nào ?

_ Ví như người đời được chén cơm ăn, gọi là được an vui. Người bệnh được lành, gọi là an vui. Người sợ hãi có chỗ nương tựa, gọi là được an vui. Người nghèo cùng được nhiều của báu là được an vui. Người tu quán bạch cốt vi trần chẳng sanh lòng dục gọi là được an vui…Tất cả sự an vui ấy cũng gọi là Niết bàn, nhưng không được gọi Đại Niết bàn, vì là cái vui đối đãi.....

......Này Cao Quý Đức Vương ! Chữ đại có nghĩa là mầu nhiệm sâu xa khó nghĩ bàn đối với người có trí bậc hạ và bậc trung. Chỉ có Phật và Đại Bồ tát mới thấy biết hết mà thôi, vì lẽ đó cho nên gọi là Đại. Lại nữa, đại còn có nghĩa: đại tự tại, đại ngã nữa. Đại tự tại thì sở nguyện như ý. Đại ngã thì bất biến, hằng hữu.

Đại Niết bàn có tám điều tự tại mà Niết bàn của nhơn thiên, Thanh văn, Duyên giác không có:

Một, Như Lai có thể thị hiện một thân làm nhiều thân. Số thân lớn nhỏ nhiều như vi trần đầy khắp mười phương vô lượng thế giới. Thực ra thân Như Lai chẳng phải vi trần. Nói như vậy nhằm để nói lên ý nghĩa đại tự tại đấy thôi. Đại tự tại cũng gọi là Đại ngã vậy.

Hai, Như Lai thị hiện thân nhiều như vi trần đầy khắp cõi đại thiên vì thân Như Lai là vô biên thân mà nói như vậy. Thực ra thân Như Lai chẳng đầy khắp cõi đại thiên. Tự tại như vậy gọi đó là đại ngã.

Ba, Như Lai có thể đem thân khắp đại thiên này bay lên hư không nhẹ nhàng đến nơi hai mươi hằng hà sa cõi nước mà không chướng ngại bởi sự nhẹ nặng gần xa. Thực ra Như Lai không bay và cũng chẳng có nhẹ nặng. Đó là nhằm nói lên sự tự tại của Như Lai. Tự tại đó cũng là sự biểu hiện của đại ngã vậy.

Bốn, Tâm Như Lai là bất động tự tại. Do vô lượng thân hóa hiện mà có vô lượng tâm. Do vậy, Như Lai làm một việc thiện, tất cả chúng sanh được lợi ích; Như Lai ở một chỗ mà tất cả chúng sanh cõi nước khác đều thấy. Sự tự tại đó cũng là đại ngã.

Năm, Căn tự tại. Ở một căn, Như Lai có thể sử dụng thay cho cả sáu căn. Sáu căn của Như Lai thực ra chẳng có thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết. Nói sự tự tại của sáu căn nhằm nói lên cái đại ngã của Đại Niết bàn.

Sáu, Pháp tự tại. Như Lai dù có chứng đắc, thấy biết rõ thực tướng của các pháp, nhưng Như Lai không có quan niệm chứng đắc. Do vì không có quan niệm chứng đắc nên Như Lai mới được Đại Niết bàn. Pháp tự tại của Như Lai cũng tức là đại ngã.

Bảy, Diễn thuyết tự tại. Như Lai diễn thuyết chừng một bài kệ, trải vô lượng kiếp mà nghĩa lý vẫn phong phú sâu sắc nhiệm mầu. Nghĩa lý dù sâu sắc nhiệm mầu, nhưng Như Lai chẳng quan niệm rằng: Ta nói, người nghe và bài kệ để cho ta nói. Chỉ vì thuận theo thế tục, mượn ngôn thuyết mà nói vậy thôi. Sự thực tất cả pháp xa lìa văn tự ngôn thuyết. Vì tự tại như vậy cho nên gọi là đại ngã.

Tám, Như Lai biến nhất thiết xứ, nhưng phi nhất thiết pháp, ví như tánh hư không. Vì đại tự tại cho nên chúng sanh có thể thấy được. Tự tại như vậy gọi là đại ngã.

Do đại tự tại như vậy nên gọi là đại ngã. Đại ngã và đại tự tại đủ hai yếu tố đó là có Đại Niết bàn.

Phần Thảo Luận:

Tất cả chúng sanh nhơn tư duy mà được giải thoát. Bởi vì chúng sanh thường bị ngũ dục buộc ràng, không có trí tuệ nên không thấy Đại Niết bàn. Chúng sanh bị "thường", "lạc", "ngã", "tịnh" làm điên đảo. Nhờ tư duy mà thấy được "vô thường", "vô lạc", "vô ngã", "vô tịnh". Do sự nhận thấy đúng lẽ thật mà được giải thoát, gần với Đại Niết bàn.

Thế nào gọi là biết tướng Niết bàn ?

Biết rằng Niết bàn có các đức: thường, lạc, ngã, tịnh, thanh lương, giải thoát…hiểu như thế gọi là hiểu biết tướng Niết bàn. Biết rằng sanh nhơn và tác nhơn không làm ra cảnh giới Niết bàn được.

Nếu Bồ tát trú trong sanh tử mà chẳng có được Thật Trí, thì chẳng có thể nhẫn thọ các việc khó khăn. Đến khi cần đạo quả Thật Trí, thì Bồ tát liền chuyển thế gian thành Niết Bàn. Vì sao ? Vì bồ tát rõ biết cả 3 cõi đều theo duyên hòa hợp sanh, đều không có tự tánh. Vì không có tự tánh nên là Không. Vì là không nên cũng chẳng chấp tướng niết bàn.

....... Bồ tát có trí huệ thâm sâu như vậy, nên xem "Thế gian tức Niết bàn". Hàng Thanh Văn chẳng có trí huệ thâm sâu như Bồ tát, nên chẳng thấy được "Thế gian tức Niết bàn".

....... Trong kinh Phật dạy ngài Tu Bồ Đề rằng:"Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thọ, tưởng, Hành, Thức cũng là như vậy".

....... Không tức là Niết bàn, niết bàn tức là Không, như bài kệ thuyết:

Niết bàn tức Thế gian,
Thế gian tức Niết bàn.
Niết bàn và Thế gian,
Chẳng hai cũng chẳng khác.
(Đây là nghĩa: Đại Niết Bàn Phật, Bồ Tát là Sắc)

....... Bồ tát đã vào được Thật Tướng Pháp, nên chẳng nhàm chán thế gian, mà cũng chẳng đắm chấp niết bàn.

+ Vì sao: Niết bàn tức Thế gian,?

- Vì Tất cả đều là một Thể Chân Như mà hiện ra vậy. Chỉ vì Phàm phu chuyên Động, Nhị Thừa chuyên tịnh.

- Phàm phu chuyên Động, nên ở Chân Như mà thấy có Sanh tử.

- Nhị Thừa chuyên tịnh, nên ở Chân Như mà thấy có Niết Bàn.

- Bồ tát rời hẳn Động và Tịnh nên thấy Sanh tử tức Niết bàn, niết bàn tức Sanh tử. Hai Pháp chỉ là Một Thể Như mà thôi. Nhưng Tướng của sanh tử, lại khác tướng Niết Bàn. vì vậy thật ra Niết Bàn- Sanh tử là.- Bất tức Bất ly.- Nên Bồ tát thấy " Niết bàn- Sanh tử đẳng Không hoa.- Do nghĩa đó mà Như Lai nhập Niết bàn cũng chẳng rốt ráo vĩnh diệt !

ĐT ĐL nói: NB Thanh Văn là vô sắc (Vì Định Diệt Tận, do vì khi chứng nhập định này hơi thở dứt (thân hành diệt), tầm tứ dứt (khẩu hành diệt) và đặc biệt là thọ, tưởng dứt (tâm hành diệt). Còn Đại NB phật là Sắc do nghĩa này.- Đây là Chân Như Vô Vi.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,026
Điểm
113
Bài 55.- Bất Trú Hữu Dư NB, thì vào Vô Dư.

Qua Lộ Trình Cữu Thứ Đệ Định, nếu an trú thì vào NB Thanh Văn.- Đức Phật vào Đại Niết Bàn nên vượt qua như đoạn kinh sau:

K. NB phẩm 27:

"xuất diệt tận định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập bất dụng xứ định, xuất bất dụng xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập nhị thiền xuất nhị thiền nhập sơ thiền."

Phần Thảo Luận: Không trú chấp các định vị, dù là "Diệt Tận Định" của A la Hán.- Kinh gọi là Tam Muội Vương Tam Muội. Nghĩa là Vua của các Tam Muội.- Đây là chỗ mà kinh Kim Cang gọi là "Ưng Vô Sở Trụ nhi sanh kỳ Tâm" (Trụ Tâm vào chỗ Vô Trụ).- Thì đó là cửa ngõ Đại Niết Bàn.

Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 Thian610
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,026
Điểm
113
Bài 56.- Chân Như Tánh Tịnh Niết Bàn.

K.NB ph27

Đức Thế Tôn thuận nghịch nhập các thiền định xong, lại phổ cáo đại chúng: “ Ta dùng thậm thâm bát nhã xem khắp ba cõi tất cả lục đạo chúng sanh, ba cõi nầy bổn tánh rời lìa rốt ráo tịch diệt đồng như hư không, không danh,không thức, dứt hẳn các cõi, bổn lai bình đẳng không có tưởng niệm cao hạ, không thấy nghe, không hay biết, không hệ phược, không giải thoát, không chúng sanh, không thọ mạng, không sanh không diệt, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian, Niết Bàn sanh tử đều không thể được, trước sau bình đẳng vì bình đẳng với các pháp, nhàn cư tịnh trụ không có chỗ thi vi, an trí rốt ráo quyết định bất khả đắc, từ pháp vô trụ pháp tánh thi vi, dứt tất cả tướng, trọn không chỗ có. Pháp tướng như vậy, ai biết rõ thời gọi là người xuất thế, kẻ chẳng biết như vậy thời gọi là đầu mối sanh tử. Đại chúng phải dứt vô minh, diệt đầu mối sanh tử!

Giải thích thuật ngữ:

+ thậm thâm bát nhã : Là Trí Tuệ Tánh Không.

+ bổn tánh : Là Tánh gốc. vốn có tự vô thỉ.

+ rốt ráo Tịch Diệt đồng như hư không. Tịch Diệt là vắng lặng, không khởi mê vọng.

+ "như hư không, không danh,không thức, dứt hẳn các cõi, bổn lai bình đẳng không có tưởng niệm cao hạ, không thấy nghe, không hay biết, không hệ phược, không giải thoát, không chúng sanh, không thọ mạng, không sanh không diệt, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian" .- Đây là nói Bản chất Tổng tướng của CHÂN NHƯ.

+ từ pháp vô trụ pháp tánh thi vi, dứt tất cả tướng, trọn không chỗ có: Đây là nói Bản chất CHÂN NHƯ.

+ Niết Bàn sanh tử đều không thể được,: Nghĩa là ở chỗ Chân Như không khởi niệm thì không có tướng Niết Bàn hay Sanh tử đối lập nhị nguyên.

+ trước sau bình đẳng vì bình đẳng với các pháp: Đây là nói Bình Đẳng Tánh Không của Chân Như

+ nhàn cư tịnh trụ không có chỗ thi vi: Đây là nói Tánh chất Vô Tác , không sanh khởi của Chân Như.

+ an trí rốt ráo quyết định bất khả đắc,: Đây là nói Tánh chất bất Động của Chân Như.

+ dứt tất cả tướng, trọn không chỗ có. Pháp tướng như vậy, ai biết rõ thời gọi là người xuất thế: Đây là nói Tánh chất Vô Sanh, Vô Tướng của Chân Như.

+ Pháp tướng như vậy, ai biết rõ thời gọi là người xuất thế, kẻ chẳng biết như vậy thời gọi là đầu mối sanh tử. Đại chúng phải dứt vô minh, diệt đầu mối sanh tử! : Đây là nói Nẽo vào Đại Niết Bàn Phật.

Tóm lại: Đoạn kinh này Phật chỉ rõ CHÂN NHƯ TÁNH TỊNH NIẾT BÀN.
Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 3 Nb310
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,026
Điểm
113
Bài 56.- Thường Tịch Quang Tịnh Độ là Đại Niết Bàn

K.NB ph27:

Nói xong Đức Phật lại nhập thiền định siêu việt xuất sơ thiền nhập tam thiền nhẫn đến nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhẫn đến nhập sơ thiền.

Nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: “ Ta dùng Phật nhãn xem khắp ba cõi tất cả các pháp, thể tánh của vô minh vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn không thể được. Vì cội gốc đã không nên nhánh lá thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát nên hành đến lão tử đều được giải thoát. Do đây nên ngày nay ta an trụ thường tịnh diệt quang gọi là Đại Niết Bàn.


giải thích:

tịch quang.jpg


Thường tịch quang có nghĩa là:


Từ gọi tắt của Thường Tịch Quang Độ , là cõi Tịnh Độ nơi pháp thân của chư Phật Như Lai an trú, một trong 4 quốc độ của giáo thuyết Thiên Thai Tông, còn gọi là Tịch Quang Tịnh Độ , Tịch Quang Quốc , Tịch Quang Độ , Tịch Quang . Thế giới an trú của chư Phật là bản tánh chân như, không biến hóa, sanh diệt (tức thường ), không bị phiền não nhiễu loạn (tức tịch ) và có ánh sáng trí tuệ (tức quang ), cho nên có tên gọi là Thường Tịch Quang Độ. Đây là quốc độ chư Phật tự chứng bí tạng tối cùng cực, lấy pháp thân, giải thoát và bát nhã làm thể, đầy đủ 4 đức Thường , Lạc , Ngã và Tịnh.

Trong Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh có đoạn rằng: “Thích Ca Mâu Ni Phật danh Tỳ Lô Giá Na Biến Nhất Thiết Xứ, kỳ Phật trú xứ danh Thường Tịch Quang, Thường Ba La Mật sở nhiếp thành xứ, Ngã Ba La Mật sở an lập xứ, Tịch Ba La Mật diệt hữu tướng xứ, Lạc Ba La Mật bất trú thân tâm tướng xứ ( đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật có tên là Tỳ Lô Giá Na Biến Nhất Thiết Xứ [Tỳ Lô Giá Na Biến Hết Thảy Các Nơi], trú xứ của Phật ấy tên là Thường Tịch Quang, nghĩa là nơi được nhiếp thành của Thường Ba La Mật, nơi được an lập của Ngã Ba La Mật, nơi diệt hết các tướng có của Tịch Ba La Mật và nơi không trú vào tướng thân tâm của Lạc Ba La Mật)”. Hơn nữa, quốc độ này được phân thành Phần Chứng và Cứu Cánh với 3 phẩm thượng, trung, hạ. Theo lời dạy trong quyển 1 của Duy Ma Kinh Lược Sớ cho biết rằng cõi của Diệu Giác Pháp Thân cư trú là Thượng Phẩm Tịch Quang Độ , cõi của Nhất Sanh Đẳng Giác là Trung Phẩm Tịch Quang Độ , cõi của Viên Giáo từ sơ trú trở lên là Hạ Phẩm Tịch Quang Độ . Ngoài ra, vị tăng nhà Bắc Tống là Tứ Minh Tri Lễ lấy hai cõi Thật Báo và Tịch Quang phối hợp thành Thỉ Giác và Bản Giác , để xướng ra thuyết “Tịch Quang Hữu Tướng Tịch Quang Có Tướng)”; ngược lại vị tăng Tịnh Giác lại tuyên xướng thuyết “Tịch Quang Vô Tướng ( Tịch Quang Không Tướng).” Trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải của Đại Sư Ngẫu Ích Trí Húc nhà Thanh có đoạn rằng: “Phục thứ, chỉ thử nguyện trang nghiêm nhất thanh A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược vi Thanh Tịnh Hải Hội, chuyển Kiến Trược vi Vô Lượng Quang, chuyển Phiền Não Trược vi Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược vi Liên Hoa hóa sanh, chuyển Mạng Trược vi Vô Lượng Thọ; cố nhất thanh A Di Đà Phật, tức Thích Ca Bổn Sư ư Ngũ Trược ác thế, sở đắc chi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp , lại nữa, chỉ lấy nguyện này trang nghiêm một tiếng niệm A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược thành Hải Hội Thanh Tịnh, chuyển Kiến Trược thành Vô Lượng Quang, chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược thành hoa sen hóa sanh, chuyển Mạng Trược thành Vô Lượng Thọ; cho nên một tiếng niệm A Di Đà Phật là pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề do đức Bổn Sư Thích Ca chứng đắc ở đời ác có Năm Trược).” Hay như trong Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận quyển 6, phần Cảnh Tâm Cư Sĩ Trì Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Kiêm Khuyến Nhân Tự có câu: “Nhất niệm mê Thường Tịch Quang Độ tiện thành A Tỳ Địa Ngục, nhất niệm ngộ A Tỳ Địa Ngục tiện thị Thường Tịch Quang Độ (, một niệm mê bèn thành Địa Ngục A Tỳ, một niệm ngộ tức là Thường Tịch Quang Độ).”

+++++++

Do đây nên Đức Phật an trụ Thường Tịch Quang Tịnh Độ chính là nhập Đại Niết Bàn.
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,026
Điểm
113
Bài 57.- Bất Động Diệt Đại Niết Bàn.

K.NB ph 27

Bảo xong, Đức Thế Tôn nhập thiền định siêu việt: Từ sơ thiền xuất liền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập vô sở hữu xứ định, xuất vô sở hữu xứ định nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập sơ thiền.

Đức Thế Tôn nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, lại bảo đại chúng: “ Ta dùng Ma Ha Bát Nhã xem khắp ba cõi tất cả nhơn pháp hữu tình vô tình thảy đều rốt ráo, không hệ phược, không giải thoát, không chủ, không y, không thể nhiếp trì, chẳng ra ba cõi, chẳng vào các cõi, bổn lai thanh tịnh không cấu nhơ, không phiền não, đồng như hư không, chẳng bình đẳng chẳng phải chẳng bình đẳng, dứt hết những động niệm tư tưởng tâm thức. Pháp tướng như vậy gọi là Đại Niết Bàn, thấy rõ được pháp tướng nầy thời gọi là giải thoát, phàm phu chẳng thấy biết thời gọi là vô minh.


Phần Thảo Luận:

Đây là Đức Phật khai thị Bất Động Diệt Đại Niết Bàn:

Thế nào là Bất Động Diệt Vô Vi ?

Luận Hiển Dương Thánh Giáo rằng: Bất động: "Là rời ý muốn trú cõi Biến tịnh, đắc đệ tứ tĩnh lự, ở khoảng giữa ấy, ly hệ đối với khổ lạc." (hết trích)

Bất động diệt vô vi: đệ tứ thiền lìa được 3 định dưới ra khỏi tam tai (đau binh, thủy, hoả) không bị mừng, giận, ghét, thương,.. làm chao động nơi tâm
**BẤT ĐỘNG DIỆT VÔ VI:Nghĩa là Diệt Đế vốn Như Như Bất Động (Thường trụ - Vô Sanh).

*Thế nào là Bất Động ?

Nghĩa là thể Tâm Lặng yên không đến không đi, không qua không lại .

Niết Bàn Tĩnh lặng bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm.

Bởi vì Tâm Vốn đã cùng khắp,nên không thể sanh diệt, đến đi, thêm bớt.

Niết Bàn Vô Trụ Xứ nên Bất Động Như như.

Triệu Luận viết:

BÀI LUẬN THỨ NHẤT
VẬT BẤT THIÊN

Phàm phu vọng thấy các pháp hình như có lưu động và biến đổi; nếu lấy Bát Nhã mà quán thì liền thấy ngay thật tướng của các pháp ngay đó thể tánh tịch diệt chơn thường, chẳng có chút tướng lưu động hay biến đổi, nên nói chẳng có một pháp được động chuyển là vậy.

Vì duyên sanh nên tánh không, nên mỗi pháp ngay đó vốn không biến đổi, chẳng phải tướng biến đổi mà tánh chẳng biến đổi (nghĩa là tánh với tướng chẳng khác).

Thấy được mỗi pháp không biến đổi, nên tức vật tức chân, chân thì chẳng có một pháp nào dính dáng đến tình cảm, theo đó mà quán tục thì tục tức chân vậy.

Vì do toàn lý thành sự, sự sự đều chân, thì thật tướng của các pháp ngay đó đều được hiển hiện rồi.
lại nói:

Gió bão bay núi mà thường tịnh
Nước sông đổ gấp mà chẳng trôi
Bụi trần lăng xăng mà chẳng động
Trăng qua bầu trời mà chẳng đi.
www.thuvienhoasen.org

* Đây là ý nghĩa bất động diệt Vô Vi
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,026
Điểm
113
Bài 58.- Đại Bát Niết Bàn.

K.NB ph27

Nói xong Đức Phật lại nhập thiền định siêu việt xuất sơ thiền nhập tam thiền nhẫn đến nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhẫn đến nhập sơ thiền.

Nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: “ Ta dùng Phật nhãn xem khắp ba cõi tất cả các pháp, thể tánh của vô minh vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn không thể được. Vì cội gốc đã không nên nhánh lá thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát nên hành đến lão tử đều được giải thoát. Do đây nên ngày nay ta an trụ thường tịnh diệt quang gọi là Đại Niết Bàn.

.............
Đức Thế Tôn nhập siêu thiền định thuận nghịch ba lần, xem khắp pháp giới ba phen phổ cáo đại chúng, Đức Như Lai lần lượt nhập các thiền định hai mươi bảy lần như vậy.
--------

Sau khi ba lần thuận nghịch nhập các thiền định cùng phổ cáo đại chúng, đức Thế Tôn nằm nghiêng bên hữu trên giường thất bảo: Gối đầu phương bắc, chưn chỉ thẳng phương Nam, mặt hướng về phương Tây, lưng day qua phương Đông.

Bốn phía giường, tám cây Ta La chia làm bốn cặp: Một cặp phương Tây ở trước mặt Như Lai, một cặp phương Đông che sau lưng Như Lai, một cặp phương Bắc che trên đầu Như Lai, một cặp phương Nam đứng phía chưn Như Lai.

Lúc đó đúng giữa đêm Đức Như Lai nằm trên giừơng thất bảo trong rừng Ta La nhập tứ thiền yên lặng mà Bát Niết Bàn.


Tổng kết CON ĐƯỜNG PHẬT TÂM TÔNG.

Quán lại Lộ Trình từ Thành Đạo dưới cội Bồ Đề .- Rốt sau đến Ta La song thọ Bát Niết Bàn. Đức Phật đã nhiều lần khai thị, dạy bảo con đường Thiền Định Giác Ngộ rồi dẫn đến Niết Bàn, và cũng xác định Cõi Tịnh Độ cũng chính là Niết Bàn Phật.

Cụ thể. Rốt sau.- Đức Phật từ Tứ Thiền (Sắc Giới mà không ở Vô Sắc Giới) nhập THƯỜNG TỊCH DIỆT QUANG TỊNH ĐỘ.

Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 3 Nb610


Bài viết này VQ xin kết thúc nơi đây.

Rất mong mỏi người Đệ Tử Phật noi theo lời dạy của Đức Phật mà Giác Ngộ, Giải Thoát rốt ráo Đáo Niết Bàn- Vô Vi An lạc.


Nam Mô Thường Tịch Quang Tịnh Độ .- A Di Đà Như Lai Pháp Thân - Thanh Tịnh Khắp Pháp Giới Chư Phật
 
Sửa lần cuối:

trừng hải

Well-Known Member
Thành viên BQT
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,327
Điểm tương tác
955
Điểm
113
1734747238551.png


Phật Pháp Vô Biên
Quang Minh Biến Chiếu
Chuyển Y Vô Ngại
Bến Giác Bờ Mê

Cung kính lãnh thọ ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH


trừng hải
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top