- Tham gia
- 12/7/07
- Bài viết
- 1,087
- Điểm tương tác
- 1,027
- Điểm
- 113
Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.
Ngân hàng Vietcombank
DUONG THANH THAI
0541 000 1985 52
Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)
chỉ là gai góc. Lạc đà còn khó nhằn. - Đổi cái này đi nhaNAM MÔ PHÂT BẢO THƯỜNG TRỤ
NAM MÔ PHÁP BẢO THƯỜNG TRỤ
NAM MÔ TĂNG BẢO THƯỜNG TRỤ.
Con Xin Cung Kính Cúng Dàng :
chỉ là gai góc. Lạc đà còn khó nhằn. - Đổi cái này đi nha
VQ tùy hỷ công đức Bạn An LongKính Thầy Viên Quang .
Phật Tử An Long Cung Kính Cúng Giàng Bằng Tấm Lòng Chân Thật .
-Cách Đây Hơn 30 Năm An Long Đang Hoảng Lạc Sâu Trong Rừng Rậm , May Có Duyên Gặp Được Cuốn " BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT"( Hồi Đó Kinh Sách Rất Hiếm, Và Bản Thân: CŨNG CHƯA BIẾT ĐẾN PHẬT PHÁP Mà TẦM CẦU ,TIẾP CẬN) Của Hòa Thượng Thích Thanh Từ Mới Biết Đến PHẬT PHÁP , Tiếp Đó Là Thiện Duyên Với BĂNG NIỆM HỒNG DANH PHẬT A DI ĐÀ Do Lão Tăng Vô Danh Xướng Tụng Mới Phát Hiện Tìm Đường Mà Ra ...Và Cả KINH ĐIỂN PHẬT PHÁP Lưu Hành Do Các CHƯ TĂNG Dầy Công Dịch Việt Ngữ ( Bản Thân Nửa Chữ Ngoại Ngữ Cũng Không Biết ...Và Đã Cố Học Nhưng Không Được )
...Cùng Những Cổ Tháp Nơi Các Ngôi Chùa Nghiêm Tịnh...
Ân Sủng Này Thật Là Vô Lượng...Mượn Bó Giả Hoa Kính Dâng - Kính Ngưỡng : PHẬT & PHÁP & TĂNG THƯỜNG TRỤ .
Trong chúng ngoại đạo có Bà La Môn Xà Đề Thủ Na lên tiếng hỏi:” Nầy Cù Đàm ngài nói Niết Bàn là pháp thường trụ phải chăng?” _ Nầy Đại Bà La Môn! Đúng như vậy. _ Nếu Cù Đàm nói Niết Bàn là thường trụ thời không đúng nghĩa. Vì như những sự vật trong đời, từ hột sanh ra trái nối luôn chẳng dứt, như từ đất sét làm ra cái bình, từ những sợi chỉ mà có cái áo. Cù Đàm thường nói rằng tu quán tưởng vô thường chứng được Niết Bàn. Nhơn là vô thường sao quả lại thường trụ? Cù Đàm lại nói giải thoát dục tham chính là Niết Bàn, giải thoát sắc tham và vô sắc tham chính là Niết Bàn. Dứt vô minh v.v… tất cả phiền não thời là Niết Bàn. Từ dục, sắc, nhẫn đến vô minh phiền não đều là vô thường. Nhơn đã vô thường thời quả Niết Bàn cũng phải vô thường. Cù Đàm lại nói từ nghiệp nhơn nên sanh cõi Trời, do nghiệp nhơn nên sanh địa ngục, do nghiệp nhơn mà được giải thoát, nên các pháp đều do nơi nhơn mà sanh. Nếu đã từ nơi nhơn sanh mà được giải thoát, sao lại nói Niết Bàn là thường? Cù Đàm cũng nói rằng sắc theo duyên mà sanh nên gọi là vô thường, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Giải thoát như vậy, nếu là sắc thời là vô thường, nếu là thọ tưởng hành thức cũng là vô thường. Nếu ngoài năm ấm mà có giải thoát, thời giải thoát nầy chính là hư không. Nếu đã là hư không thời chẳng được nói rằng do nhơn duyên sanh, vì hư không là thường là duy nhứt, là khắp tất cả. Cù Đàm cũng nói rằng: Phàm do nhơn duyên sanh ra thời là khổ, nếu đã là khổ sao lại nói giải thoát là lạc. Cù Đàm lại nói: Vô thường là khổ, khổ là vô ngã. Nếu đã là vô thường, là khổ, là vô ngã thời là bất tịnh. Tất cả những pháp do nhơn duyên sanh ra, đều là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, sao lại nói Niết Bàn là thường, lạc, ngã tịnh? Nếu Cù Đàm nói rằng cũng là thường cũng vô thườntg, cũng khổ cũng vui, cũng là ngã cũng là vô ngã, cũng tịnh cũng bất tịnh, như thế há chẳng phải là hai lời ư? Tôi cũng từng nghe bực tôn túc nói nếu Phật ra đời thời lời nói không hai. Nay Cù Đàm nói hai lời, lại xưng rằng Phật chính là thân ta đây. Xin giải thích những điều tôi đã hỏi. Phật nói: Nầy bà La Môn! Cứ theo lời của ông, nay tôi hỏi ông tùy ý ông đáp. Nầy Bà La Môn! Tánh của ông là thường hay là vô thường? _ Tánh của tôi là thường. Nầy Bà La Môn! Tánh ấy có thể làm nhơn cho tất cả pháp trong và ngoài chăng? _ Chính thế, thưa Cù Đàm. _ Nầy Bà La Môn! Tánh ấy làm nhơn như thế nào? _ Thưa Cù Đàm! Từ tánh sanh ra đại, từ đại sanh mạn, từ mạn sanh mười sáu pháp: Năm đại là địa, thủy, hỏa, phong, không, năm tri căn là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, năm nghiệp căn là tay, chơn, miệng tiếng, nam căn, nữ căn, cùng tâm bình đẳng căn. Mười sáu pháp nầy do năm pháp: Sắc, thinh, hương, vị, xúc sanh ra. Hai mươi mốt pháp nầy có ba pháp căn bổn: Nhiễm, thô và đen. Nhiễm là ái, thô là sân, đen là vô minh. Hai mươi ba pháp nầy, đều nhơn nơi tánh mà sanh. _ Nầy Bà La Môn! Những pháp đại, mạn v.v… là thường hay vô thường? _ Thưa Cù Đàm theo giáo pháp của tôi thời tánh là thường, những pháp đại v.v… đều là vô thường. _ Nầy Bà La Môn! Như trong pháp của ông nhơn là thường còn quả là vô thường. Trong pháp của ta dầu nhơn là vô thường nhưng quả là thường, thời có lỗi gì? Nầy Bà La Môn! Trong pháp của các ông có hai nhơn chăng? _ Thưa Cù Đàm, có. _ Thế nào là hai? _ _ Thưa Cù Đàm! Một là sanh nhơn, hai là liễu nhơn. _ Thế nào là sanh nhơn? Thế nào là liễu nhơn? _ Sanh nhơn như đất sét làm ra cái bình. Liễu nhơn như đèn soi đồ vật. _ Hai nhơn nầy là một tánh. Đã là một tánh có thể khiến sanh nhơn làm liễu nhơn chăng? Có thể khiến liễu nhơn làm sanh nhơn chăng? _ Thưa Cù Đàm! Không. _ Nếu như sanh nhơn chẳng làm liễu nhơn, liễu nhơn chẳng làm sanh nhơn, có thể nói là nhơn tướng chăng? _ Thưa Cù Đàm! Dầu hai nhơn chẳng làm thành lẫn nhau, nhưng vẫn có nhơn tướng. _ Nầy Bà La Môn! Vật của liễu nhơn chiếu rõ có đồng với liễu nhơn chăng? _ Thưa Cù Đàm! Không. Phật nói: Trong pháp của ta, dầu do từ vô thường chứng đặng Niết Bàn, nhưng Niết Bàn nầy chẳng phải là vô thường. Do từ liễu nhơn mà được nên là thường, lạc, ngã, tịnh. Do từ sanh nhơn mà được nên là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Do đây nên đức Như Lai nói có hai thuyết thường và vô thường. Hai thuyết nầy không có hai lời, nên Phật gọi là không nói hai lời. Như lời ông nói từng nghe bực tôn túc bảo rằng Phật ra đời không có hai lời. Lời nói trên đây rất đúng. Tất cả chư Phật mười phương ba đời không bao giờ có lời nói sai, vì có thời đồng nói có, không thời đồng nói không, nên gọi là đồng một nghĩa, do đây nên gọi Phật không nói hai lời. Nầy Bà La Môn! Đức Như Lai dầu gọi là hai lời, nhưng vì để hiểu rõ một lời. Thế nào là hai lời để hiểu rõ một lời? Như nhãn căn cùng sắc trần đây là hai lời, sanh ra thức đây là một lời. Nhẫn đến ý căn cùng pháp trần sanh ra thức cũng như vậy. _ Cù Đàm khéo phân biệt được ngữ nghĩa như vậy. Nay tôi chưa hiểu dùng hai lời để hiểu rõ một lời. Đức Thế Tôn liền vì Bà La Môn mà tuyên nói pháp tứ đế: Nầy Bà La Môn! Khổ Đế cũng hai cũng một, nhẫn đến đạo đế cũng hai cũng một. Bà La Môn thưa: “ Bạch Thế Tôn! Tôi đã hiểu biết rồi”. _ Nầy Thiện Nam Tử! Ông hiểu biết như thế nào? _ Bạch Thế Tôn! Khổ đế, tất cả phàm phu thời hai, còn thánh nhơn thời một. Nhẫn đến đạo đế cũng như vậy. _ Lành thay! Đã hiểu. _ Bạch Thế Tôn! Nay tôi nghe pháp đã được chánh kiến, tôi quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Cúi xin Đức Đại Từ cho tôi xuất gia. Đức Phật bảo Kiều Trần Như: ‘ Ông nên cạo bỏ râu tóc cho Xà Đề Thủ Na, cho ông xuất gia”. |
Kinh văn: Lại có Phạm Chí Bà Trư Tra hỏi Phật: “ Cù Đàm nói Niết Bàn là thường trụ phải chăng?” _ Nầy Phạm Chí! Đúng như vậy. _ Cù Đàm toan chẳng nói rằng không phiền não là Niết Bàn ư? _ Nầy Phạm Chí! Đúng như vậy. _ Thưa Cù Đàm! Ở thế gian có bốn thứ gọi là không: Một là những pháp chưa có ra thời gọi là không, như cái bình lúc chưa ra khỏi viên đất thời gọi là không có cái bình. Hai là những pháp đã diệt mất gọi là không, như cái bình đã hư bể thời gọi là không. Ba là lẫn không có tướng loại khác mà gọi là không, như trong bò không có ngựa, trong ngựa không có bò. Bốn là rốt ráo không nên gọi là không, như lông rùa sừng thỏ. Thưa Cù Đàm! Nếu vì đã dứt trừ phiền não mà gọi là Niết Bàn, thời Niết Bàn là không có. Nếu đã là không Niết Bàn, sao lại nói có thường, lạc, ngã, tịnh? _ Nầy Thiện Nam Tử! Niết Bàn đây chẳng phải là trước không có như cái bình lúc còn là viên đất, cũng chẳng phải dứt mất thành không như cái bình lúc hư bể, cũng chẳng phải rốt ráo không như lông rùa sừng thỏ. Niết Bàn nầy đồng với khác loại mà không. Như lời ông nói, dầu trong bò không có ngựa, nhưng chẳng được nói rằng bò cũng là không. Dầu trong ngựa không có bò nhưng cũng chẳng được nói rằng ngựa cũng là không. Niết Bàn cũng như vậy: Trong phiền não không Niết Bàn, trong Niết Bàn không phiền não, do đây nên gọi là lẫn không có tướng khác nhau. Thưa Cù Đàm! Nếu cho Niết Bàn là lẫn không tướng khác nhau, sự không nầy không có thường, lạc, ngã, tịnh, sao Cù Đàm lại nói Niết Bàn là thường, lạc, ngã, tịnh? _ Nầy Thiện Nam Tử! Như không tướng khác nhau của ông nói có ba thứ không: Bò, ngựa đều là trước không sau có, đây gọi là trước không ; đã có trở thành không đây gọi là hư hoại mà không ; không có tướng khác nhau thời như ông đã nói. Niết bàn không có ba tướng nầy, nên Niết Bàn là thường, lạc, ngã, tịnh. Như ba thứ bịnh của người đời ; Bịnh nhiệt, bịnh phong, bịnh hàn. Ba thứ thuốc có thể trị được: Tô trị được bịnh nhiệt, dầu trị được bịnh phong, mật trị được bịnh hàn. Nầy Thiện Nam Tử! Trong bịnh phong không có dầu, trong dầu không có bịnh phong, nên dầu có thể trị được bịnh phong. Hai thứ kia cũng như vậy. Tất cả chúng sanh có ba thứ bịnh: Tham, sân và si. Có ba thứ pháp dược trị được ba bịnh nầy: Bất tịnh quán là thuốc trị được bịnh tham, từ tâm quán là thuốc trị được bịnh sân, nhân duyên quán là thuốc trị được bịnh si. Nầy Thiện Nam Tử! Vì trừ tham nên quán pháp chẳng phải tham, vì trừ sân nên quán pháp chẳng phải sân, vì trừ si nên quán pháp chẳng phải si. Trong ba thứ bịnh không ba thứ thuốc pháp, trong ba thứ thuốc pháp không ba thứ bịnh. Nầy Thiện Nam Tử! Vì trong ba thứ bịnh không có ba thứ thuốc pháp, nên là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Trong ba thứ thuốc pháp không có ba thứ bịnh nên được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh. _ Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai vì tôi nói thường là vô thường. Xin giải thích thế nào là thường, thế nào là vô thường? _ Nầy Thiện Nam Tử! Sắc ấm là vô thường, giải thoát sắc ấm là thường.Nhẫn đến thức ấm là vô thường, giải thoát thức ấm là thường. Nếu có người nào quán sắc nhẫn đến thức là vô thường, nên biết rằng người nầy chứng được pháp thường trụ. _ Bạch Thế Tôn! Nay tôi đã biết pháp thường và pháp vô thường. _ Nầy Thiện Nam Tử! Ông rõ biết pháp thường và vô thường như thế nào? _ Bạch Thế Tôn! Nay tôi biết sắc ấm của tôi là vô thường, được giải thoát là thường, nhẫn đến thức cũng như vậy. _ Lành thay! Nầy Thiện Nam Tử! Nay ông đã đền xong thân nầy. Đức Phật bảo Kiều Trần Như: Bà Trư Tra đã chứng quả A La Hán, ông nên ban cho Bà Trư Tra ba y và bát. Ngài Kiều Trần Như tuân lời Phật trao y bát cho Bà Trư Tra. Lãnh y bát xong, Bà Trư Tra thưa rằng: Bạch Đại Đức Kiều Trần Như! Nay tôi do thân tệ ác nầy mà được quả lành. Xin Đại Đức vì tôi đến bạch với đức Thế Tôn: Tôi là người ác xúc phạm đến họ Cù Đàm của đức Như Lai. Mong Đại Đức vì tôi mà sám hối tội nầy. Tôi cũng không thể ở lâu nơi thân ác độc nầy. Nay xin nhập Niết Bàn. Ngài Kiều Trần Như liền đến bạch Phật: Thế Tôn! Tỳ Kheo Bà Trư Tra sanh lòng hổ thẹn, tự nói là hung dữ xúc phạm họ Cù Đàm của đức Như Lai. Nay ông ấy muốn diệt thân, nhờ tôi sám hối. Phật nói ; Nầy Kiều Trần Như! Tỳ Kheo Bà Trư Tra đã thành tựu căn lành nơi vô lượng Phật quá khứ, nay thọ giáo với ta mà trụ đúng pháp, vì trụ đúng pháp nên chứng được chánh quả. Các ông phải cúng dường thân của ông ấy. Ngài Kiều Trần Như nghe Phật dạy xong, đến nơi thân của Bà Trư Tra mà trần thuyết cúng dường. Lúc thiêu thân, Bà Trư Tra hiện các thứ thần thông. |
Ô ! Vậy Bạn thấy vô ngã chưa ? Hay đích thị là ngã mạn ?Khi đọc lời đức Phật nói không nên cho rằng đức Phật khẳng định là có bất cứ điều gì.
Sự Thật vô ngã là ở chánh kiến, không phải là ở chỗ đức Phật khẳng định là có vô ngã.
...........
Chưa thấy vô ngã nói nhiều về vô ngã là ngã mạn.
Trong chúng ngoại đạo lại có Phạm Chí Phú Na lên tiếng rằng: “ Thưa Cù Đàm! Ngài thấy thế gian là pháp thường trụ mà nói là thường phải chăng? Nghĩa như vậy là thiệt hay hư? Là thường hay vô thường? Là cũng thường, vô thường? Là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường? Là hữu biên, là vô biên? Là cũng hữu biên cũng vô biên? Là chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên? Là thân là mạng? Thân khác mạng khác? Như Lai sau khi diệt độ, như mà đi hay chẳng như mà đi? Cũng như mà đi cũng chẳng như mà đi? Chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi? _ Nầy Phú Na! Ta chẳng nói thế gian là thường là hư là thiệt là vô thường v.v… nhẫn đến cũng chẳng nói chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi. _ Thưa Cù Đàm! Nay thấy tội lỗi gì mà ngài chẳng nói như vậy? _ Nầy Phú Na! Nếu có người nói rằng thế gian là thường, chỉ đây là chơn thật ngoài ra đều là vọng ngữ. Quan niệm nầy gọi là kiến, chỗ bị thấy gọi là kiến hành, gọi là kiến nghiệp, gọi là kiến trước, gọi là kiến phược, gọi là kiến khổ, gọi là kiến thủ, gọi là kiến bố, gọi là kiến nhiệt, gọi là kiến triền. Nầy Phú Na! Phàm phu bị kiến chấp ràng buôc nên không thể xa lìa sanh già, bịnh, chết mà lưu chuyển trong sáu đường, thọ vô lượng sự khổ. Nhẫn đến chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi cũng như vậy. Nầy Phú Na! Ta thấy kiến chấp nầy có lỗi như vậy, nên ta chấp trước cũng chẳng nói với người. _ Thưa Cù Đàm! Nếu thấy tội lỗi như vậy mà chẳng chấp trước chẳng nói. Nay Cù Đàm thấy gì? Trước gì? Tuyên thuyết những gì? Nầy Thiện Nam Tử! Luận về người kiến trước gọi là pháp sanh tử. Như Lai đã rời pháp sanh tử nên chẳng kiến trước. Như Lai gọi là năng kiến, năng thuyết, mà chẳng phãi là chấp trước. _ Thưa Cù Đàm! Thế nào là năng kiến? Thế nào là năng thuyết? _ Nầy Thiện Nam Tử! Ta có thể thấy rõ khổ tập diệt đạo, ta phân biệt tuyên thuyết bốn đế lý nầy như vậy. Vì ta thấy như vậy nên xa lìa được tất cả kiến chấp, tất cả ái, tất cả lưu, tất cả mạn. Do đây nên ta có đủ phạm hạnh thanh tịnh tịch tịnh vô thượng, được thân thường trụ. Thân đây chẳng phải đông tây nam bắc. _ Thưa Cù Đàm! Cớ gì thân thường trụ chẳng phải đông tây nam bắc? _ Nầy Thiện Nam Tử! Nay ta hỏi ông tùy ý ông đáp. Nầy Thiện Nam Tử! Như ở trước ông đốt đống lửa lớn, đương lúc lửa cháy ông có biết là lửa cháy không? _ Tôi biết là lửa cháy. _ Lúc lửa tắt ông có biết là lửa tắt không? _ Tôi biết là lửa tắt. _ Nầy Phú Na! Nếu có người hỏi ông đống lửa trước mặt ông từ đâu mà cháy? Tắt rồi đi về đâu? Thời ông sẽ đáp thế nào? _ Thưa Cù Đàm! Tôi sẽ đáp rằng: Lúc lửa nầy có ra là nhờ các duyên. Duyên cũ đã hết, duyên mới chưa đến thời lửa nầy phải tắt. _ Nầy Phú Na! Nếu họ lại hỏi lửa nầy đã tắt đi đến chỗ nào? Thời ông sẽ đáp ra sao? _ Thưa Cù Đàm! Tôi sẽ đáp rằng: Duyên hết nên tắt chẳng đến chỗ nào. _ Nầy Thiện Nam Tử! Như Lai cũng như vậy. Sắc vô thường nhẫn đến thức vô thường do ái mà cháy lên, vì cháy lên mà phải thọ lấy thân trong hai mươi lăm cỏi. Lúc cháy lên đó có thể nói là Đông, Tây, Nam, Bắc. Hiện tại ái đã diệt, quả báo hai mươi lăm cõi chẳng còn cháy, vì chẳng cháy nên không thể nói là có Đông, Tây, Nam, Bắc… Nầy Thiện Nam Tử Như Lai đã dứt sắc ấm vô thường nhẫn đến dứt thức ấm vô thường, nên thân của Như Lai là thường trụ. Thân đã là thường chẳng nói rằng có Đông Tây Nam Bắc. Phú Na thưa rằng xin trình bày một ví dụ, mong Thế Tôn nghe cho. _ Lành thay! Lành thay! Ông cứ tùy ý mà nói. _ Bạch Thế Tôn! Như ngoài thôn lớn có rừng Ta La, trong rừng có một cây mọc trước khi thành rừng đủ một trăm năm. Lúc đó chủ rừng lấy nước tưới cây nầy, theo thời tiết mà săn sóc. Cây nầy già, mục, vỏ, lá, nhánh đều rơi rớt chỉ còn lõi chắc. Đức Như Lai cũng như vậy: Tất cả những gì có đã cũ hư thảy đều trừ hết, chỉ còn có tất cả pháp chơn thật. Bạch Thế Tôn! Nay tôi rất thích xuất gia tu hành. Phật bảo: “ Thiện Lai Tỳ Kheo!” Vừa dứt tiếng, Phú Na liền biến thành tướng Tỳ Kheo, dứt hết phiền não, chứng được quả A La Hán. |
Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.
Ngân hàng Vietcombank
DUONG THANH THAI
0541 000 1985 52
Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)
Con Đường Phật Tâm Tông.- Phần 1
|
|
Con đường Phật Tâm Tông.- Phần 2
|
|
Chánh kiến Trong Đời Sống Của Những Người Con Phật (New)
|
|
Con Đường Đi Đến Chân Trời Cao Rộng Của Người Xuất Gia
|
|
T |
Công đức lạy phật
|