LÒNG THƯƠNG YÊU SỰ SỐNG (THE LOVE of LIFE)

daodietkho

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 10 2006
Bài viết
196
Điểm tương tác
2
Điểm
18
Địa chỉ
??n ?? r?i ra ?i
LÒNG THƯƠNG YÊU SỰ SỐNG (THE LOVE of LIFE)

Tác giả: G.B. Talovick - Người dịch: HT. Thích Trí Chơn
Nhà Xuất Bản TP.HCM, Năm 2003 - 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1

Tập 1

MỤC LỤC

trichon-longthuongyeu.jpg


1. Chú Tiểu Sa Di Cứu Sống Đàn Kiến
2. Đại Sư Hsin Cầu Nguyện Chấm Dứt Nạn Hạn Hán
3. Giải cứu những Con Thỏ Bị Sập Bẩy
4. Đại Tướng Mao Và Con Rùa
5. Những Con chim Lo Việc Mai Táng
6. Đàn Ong Ngăn Chặn Một Vụ Án Xử Oan
7. Con Rùa Chữa Lành Bịnh Cho Người Hầu Gái
8. Một Ông Nhà Giàu Không Có Con
9. Những Viên Ngọc Rắn
10. Giải Cứu Đứa Con Của Long Vương
11. Quả Báo Của Một Việc Làm Ác
12. Một Trăm Mạng Sống
13. Tên Đồ Tể Đền Tội
14. Cái Lưỡi Dê
15. Sự Trả Thù Cuả Những Con Ếch
16. Tên Đồ Tể Biến Thành Miếng Thịt Hầm
17. Bị Đoạ Làm Chó
18. Những Con Lươn Trả Thù
19. Mười Một kiếp Đầu thai Làm Thân bò
20. Ao sen Và Con Rết
21. Một tai Nạn vì Săn bắn
22. Thần Linh trừng Phạt Người Ăn Thịt Chó

CHÚ TIỂU SA DI CỨU SỐNG ĐÀN KIẾN

Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời. Chú học đạo rất nhanh.

Thầy của chú rất sáng suốt có thể đoán biết trước được chuyện tương lai. Lần đầu tiên mới gặp, vị thầy xem tướng biết thọ mạng của chú học trò nhỏ này sẽ kéo dài không lâu. Ngày nọ, ông ta tính ra và nhận thấy rằng chú học trò này chỉ còn sống được bảy ngày nữa thôi. Vị thầy rất buồn.

Ông ta gọi người đệ tử lại và bảo rằng: “Này con, đã lâu lắm con không được gặp mẹ con. Thầy nghĩ con cần nghỉ một thời gian để về nhà thăm mẹ con và sau tám ngày hãy trở lại đây.” Vị thầy dạy như vậy với hy vọng rằng chú này có thể chết tại nhà cha mẹ của chú.

Khi người đệ tử đi rồi, vị Thầy cảm thấy rất buồn cho chú. Ông ta nghĩ rằng ông không bao giờ có thể gặp lại chú nữa.

Tám ngày sau, người đệ tử trở lại. Vị thầy mừng rỡ và rất ngạc nhiên thấy chú vẫn khỏe mạnh. Chú không lộ vẻ gì cho thấy rằng chú giống như người sắp lìa đời.

Cuối cùng, vị thầy muốn tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Ông nói với người đệ tử: “Này con, ta đã nhiều lần xem tướng đoán việc tương lai, và chưa bao giờ sai lầm.

Ta bảo con trở về thăm nhà vì ta biết chắc rằng con sẽ chết trong vòng bảy ngày. Nhưng bảy ngày đã trôi qua, không những con vẫn còn sống mà trông con có vẻ khỏe mạnh. Yểu tướng sắp lìa đời nơi con đã biến mất. Vậy con đã làm sao mà được như vậy?”

Nghe nói thế, người đệ tử sửng sốt. Chú không biết phải trả lời với Thầy thế nào. Vị Thầy liền bắt đầu nhập định và biết rõ sự việc.

“Trên đường về nhà có phải con đã cứu sống một đàn kiến?”

“Thưa thầy, dạ có. Trên đường về nhà, con gặp thấy một đàn kiến rơi xuống nước. Nhìn thấy đàn kiến sắp bị chết đuối, con liền đưa một khúc gỗ xuống để cứu chúng.”

“Ðúng vậy. Do lòng từ bi cứu đàn kiến mà con được sống lâu. Các thánh nhân đã dạy rằng: ‘Cứu một mạng sống, phước đức lớn hơn xây dựng một ngọn tháp bảy tầng.’ Con nhờ cứu hàng trăm chúng sanh, mà con sẽ được sống trường thọ.

“Nay tương lai của con thật huy hoàng, nhưng con vẫn nên tiếp tục cứu độ cho mọi chúng sanh. Con cần phải truyền bá giáo lý của đức Phật. Hãy dạy cho mọi người nên có lòng từ bi. Và khuyên tất cả đừng nên sát sanh. Hãy để cho mọi thú vật sống an lành.”

Người đệ tử không bao giờ quên lời thầy dạy. Chú đã nỗ lực tinh tấn tu hành và trở thành một đại sư. Chú đã sống rất thọ, và trường thọ.



Đại Sư Tín Cầu Nguyện Chấm Dứt Nạn Hạn Hán

Ðại sư Tín là một vị Tăng có nhiều trí tuệ và thần lực. Ðây là thành quả do con người nỗ lực tu tập mới có được. Tánh tình nhà sư rất hiền hậu và có lòng thương bao la.

Một hôm, nhà sư gặp một ông lão già đánh cá, tay xách cái giỏ. Nhìn vào, nhà sư thấy đầy một giỏ rùa. Nhà sư biết rằng ai mua những con rùa này, họ sẽ giết chúng để nấu ăn. Nhà sư liền nghĩ: “Này những con rùa đáng thương, các con không muốn người ta giết thịt phải không?” Vị sư liền lấy tiền ra mua hết giỏ rùa và đem thả chúng xuống “Hồ Nước Sống Giải Thoát.”

Vài năm sau, xảy ra một trận hạn hán khủng khiếp. Mọi người nông dân đều lo lắng, vì nếu trời không mưa, lúa không mọc được thì họ sẽ có thể bị chết đói. Dân chúng biết rõ về hiểm họa chết đói ấy vì nó vẫn thường xảy ra. Khi có nạn hạn hán, hàng trăm người sẽ bị thiếu ăn. Người ta phải ăn cỏ hoặc vỏ cây để sống, và nhiều người sẽ chết đói.

Trước đây khi bắt đầu xảy ra hạn hán, các nông dân thường giết bò và dê cúng tế để cầu mưa, nhưng thường thì không mang lại kết quả mấy.

Lần này có nông dân đưa ra một ý kiến hay: “Chúng ta nên đến nhờ đại sư Tín giúp đỡ. Vì đại sư có nhiều quyền phép nên ngài có thể cứu giúp chúng ta được.”

Ðông đảo dân chúng kéo lên chùa và thỉnh cầu đại sư Tín làm cách nào để có mưa. Vị sư cười và bảo họ: “Chắc chắn được, không khó khăn gì. Tôi sẽ cầu nguyện cho trời mưa, nhưng trước hết quý vị hãy giúp cho điều này. Từ nay đến ngày làm lễ không ai có thể giết hại sinh vật. Ngoài ra, mọi người đều phải ăn chay. Nếu không thì, việc cầu nguyện sẽ không có kết quả.”

Ngay cả những người có tâm địa hẹp hòi không thể sống mà không có thịt nghĩ rằng dùng thực phẩm chay chứ đâu phải nhịn không ăn gì hết đâu nên mọi người đã kính trọng vâng lời đại sư Tín và tất cả đều hứa họ sẽ không giết hại bất cứ sinh vật nào cũng như sẽ không ăn thịt hay thực phẩm làm bằng thịt.

Vào ngày lễ, dân chúng địa phương lên chùa với lễ vật trái cây và hương đèn. Ðại sư Tín đang chờ họ. Khi mọi người đã sẵn sàng, nhà sư thắp hương và bắt đầu khấn nguyện đọc chú: “Om! Dajrta Salo Salo.”

Một vài người nói: “Tôi không hiểu ông ta đọc cái gì.”

Mấy bạn khác hỏi người bên cạnh: “Ông có nghĩ rằng mọi việc đang diễn tiến tốt đẹp?”

Nhiều người nói: “Nếu nhà sư cầu đảo cho mưa được, từ nay tôi sẽ phát nguyện ăn chay.”

Ðại sư Tín chú tâm cầu nguyện, và trước khi cây hương đầu tiên vừa cháy hết, mây đen hiện ra trên bầu trời và đổ mưa như trút nước xuống mặt đất khô cằn. Mọi người đều thành kính quỳ xuống, tỏ lòng biết ơn nhà sư với nước mắt chảy ràn rụa trên mặt của họ chan hòa với nước mưa đẫm ướt.




Giải cứu những Con Thỏ Bị Sập Bẩy

Ngài Huệ Năng, một đại sư Trung Hoa sống vào những năm 638 đến 713 sau Tây Lịch. Gia đình ngài rất nghèo đến nỗi ngài không bao giờ được cắp sách đến trường để học đọc hay viết. Ngài vốn có trí tuệ đặc biệt, và sau khi tìm hiểu Phật giáo, ngài đã xuất gia đi tu. Ngài tinh tấn tu hành, và ít lâu sau ngài chứng quả, giác ngộ. Thầy của ngài, vị tổ thứ năm của Thiền tông đã trao cho ngài y bát của vị tổ đầu tiên, ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, mang từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc. Ngài Huệ Năng trở thành vị tổ thứ sáu của Thiền tông, mà người Nhật gọi là Thiền (Zen).

Sau khi chứng đạo giác ngộ, ngài nhận thấy con người đã tự gây ra sự đau khổ cho mình bởi họ đã giết loài vật để ăn thịt. Ngài khuyên mọi người nên chấm dứt việc sát hại lẫn nhau để khỏi gặp thảm họa nhưng không ai chịu nghe!

Ngài Huệ Năng rất buồn thấy những người thợ săn thường hay giết thú rừng cho nên ngài đã cởi bỏ y áo và giữ tóc dài để không ai biết ngài là nhà sư. Rồi ngài tham gia vào đoàn người thợ săn và theo họ đi săn tháng này qua tháng khác trong rừng hoặc trên núi.

Ngài Huệ Năng không thể bắn hay sập bẫy, bởi vậy đoàn thợ săn đã giao cho ngài trông coi các chiếc lưới. Ðó là công việc mà ngài ưa thích. Khi thấy con nai hay con thỏ nào bị mắc vào lưới. Nếu nhìn xung quanh không có người thợ săn nào, ngài liền tháo lưới để cho những con vật chạy thoát.

Nếu có mặt những người thợ săn, ngài liền van xin yêu cầu họ thả chúng ra.

Ngài chung sống với đoàn thợ săn trong mười sáu năm. Nhờ vậy không những ngài đã cứu thoát được nhiều thú vật, mà còn giáo hóa cho những tên thợ săn thấy được sự tàn ác của việc làm sát sinh này để họ tìm một nghề sinh sống khác lương thiện hơn.

Ngài Huệ Năng về sau đã xây dựng một ngôi chùa. Với lòng thương bao la và trí tuệ sáng suốt của ngài khiến cho mọi người từ khắp nơi xa xôi đã đến học đạo với ngài, và trở thành những người Phật tử. Các đệ tử của ngài đã truyền bá Thiền Tông vào Ðại Hàn, Nhật Bản, và hiện nay sang Châu Âu và Châu Mỹ.




Đại Tướng Mao Và Con Rùa

Tại Trung Hoa và đời nhà Tấn khoảng hơn 1.600 năm trước, có một nhà thông bác tên Mao Bảo rất thương yêu loài vật. Một hôm nọ, trước khi trúng tuyển kỳ thi của triều đình và trở thành một quan chức của chính phủ, ông gặp một người đánh cá đang xách một con rùa anh ta vừa bắt được để mang ra chợ bán. Ông Mao Bảo liền mua con rùa và thay vì làm thịt để ăn, ông mang nó ra thả nơi hồ nước gần đó.

Sau này, ông Mao Bảo trở nên một vị đại tướng có nhiều thế lực. Các đại tướng dù tài giỏi đến đâu, đôi lúc cũng bị thất trận; cho nên tại chiến trường ở Chuch’eng, quân đội của đại tướng Mao bị đánh bại bởi tướng Chilung và quân của Mao phải trốn chạy để tìm đường sống.

Quân thù rượt đuổi theo rất khẩn cấp. Ðại tướng Mao cũng chạy nhanh không kém. Khi ông đến một hồ nước lớn nhưng nhìn quanh ông không thấy một chiếc cầu hay thuyền bè nào. Không có cách gì để vượt qua hồ nước. Ðại tướng Mao cũng không biết bơi; và hơn nữa, mặc áo giáp nhà binh nặng nề, khi xuống nước chắc ông sẽ bị chìm xuống đáy hồ.

Ông nhìn lui thấy quân thù rượt đuổi gần kề. Ông nhìn lên trời và than: “Trời đất đã bỏ rơi tôi rồi!”

Ðể khỏi rơi vào tay kẻ thù, đại tướng Mao nghĩ đến chuyện tự sát. Ngay khi ông vừa muốn tự tử ông liền thấy một vật gì to lớn hiện trồi lên mặt nước và đang tiến sát cạnh bờ hồ, nơi ông dự tính sẽ tự kết liễu đời mình.

Ðại tướng Mao không còn có thì giờ để suy nghĩ về vật thể đang trồi nổi trên mặt hồ. Quân thù rượt đuổi theo càng ngày càng gần ông hơn. Ông tự nghĩ: “Nếu tự sát ở đây, quân thù sẽ cướp lấy thân xác và điều đó sẽ làm nhục cho quốc thể và vị hoàng đế của ta. Vậy tốt hơn ta nên gieo mình xuống hồ nước và như thế quân thù sẽ không tìm thấy xác của ta.” Cuối cùng, ông liền nhảy xuống hồ nước.

Nhưng ông ngạc nhiên thấy chân mình như chạm đứng trên một vật gì và vật đó bắt đầu rời bờ, vượt qua hồ nước tiến sang bờ bên kia. Ðại tướng Mao vô cùng kinh ngạc.

Quân thù rượt đuổi sát cạnh hồ nước. Chúng bắn tên như mưa vào đại tướng Mao, nhưng ông ta đã vượt thoát ra xa. Những mũi tên đều rơi xuống nước và không trúng ông.

Ðại tướng Mao nhìn xuống và nhận thấy mình đang đứng trên lưng một con rùa to lớn. Nó đã mang đưa ông vượt qua đến bờ hồ bên kia. Ðại tướng Mao bước lên bờ. Con rùa hiện trồi lên mặt nước, và chào ông. Rồi nó lặn xuống hồ và bơi đi.

Ðại tướng Mao liền nhớ lại mười hai năm trước ông đã cứu thoát một con rùa và thả nó xuống hồ nước, chính ngay tại hồ này!

Giờ đây khi gặp nạn cùng đường con rùa biết ơn đó đã hiện ra để cứu sống cho ông. Ðúng là, xưa người cứu vật sống, nay vật cứu sống người!




Những Con chim Lo Việc Mai Táng

Ngày xưa, có một vị ẩn tu sống trong một túp lều nhỏ.

Tên của vị đó là Tôn Lương. Ông ta rất nghèo, nhưng tính tình chân thật và có lòng thương loài vật. Ông ta làm nhiều công việc lặt vặt. Và tiền ông kiếm được rất ít. Khi thấy con vật nào bị sập bẫy, nếu có đồng nào, ông liền mua con vật đó để thả cho nó chạy vào rừng.

Bằng cách này, ông đã cứu thoát vô số loài vật, nhưng ông không thể để dành được nhiều tiền, do đó ông vẫn rất nghèo.

Khi đến tuổi già không làm gì được nữa, ông phải đi xin ăn để sống qua ngày. Ngày nọ, khi già trên 70 tuổi ông quá yếu phải nằm trên giường không ngồi dậy nổi và ít lâu sau, ông từ trần.

Tôn Lương không có bạn bè và thân nhân. Ông nghèo đến nổi không có tiền để mua một chiếc hòm. Ðối với người Trung Hoa, điều bất hạnh nhất là khi mình chết mà không có ai lo việc chôn cất. Ông Tôn Lương cũng không có một người thân chăm sóc. Ða số những người láng giềng đều nghèo như ông. Họ không hay biết là ông đã qua đời, nhưng dù họ có biết chăng nữa, chắc chắn họ cũng không có đủ tiền để sắm nổi một chiếc hòm và lo việc mai táng cho ông.

Vào buổi sáng sau khi ông Tôn Lương mất, người hàng xóm ngạc nhiên thấy trên trời hiện ra đầy chim chóc. Hàng nghìn con chim từ khắp nơi bay đến chỗ túp lều của ông. Những người láng giềng đổ xô lại xem cho biết việc gì đã xảy ra. Họ thấy ông Tôn Lương đang nằm chết trên giường. Họ tưởng rằng những con chim đó bay lại để rỉa rứt ăn thịt ông.

Rồi họ ngạc nhiên thấy mỗi con chim ngậm nơi mõ của nó một ít đất và nhả đất này xuống trên thân xác của ông Tôn Lương. Ðàn chim bay lại để tỏ lòng biết ơn và lo việc mai táng cho người đã từng cứu sống chúng.

Hàng nghìn và hàng nghìn con chim đã bay đến. Chúng bay lui bay tới. Vào trước buổi trưa, chúng đã thả đất lấp đầy túp lều của ông; và xây thành một nấm mộ cho ông Tôn Lương.

Những người hàng xóm đều vô cùng xúc động khi nhìn thấy cảnh tượng này. Từ đó về sau, họ không bao giờ đặt lưới hay bẫy sập một con vật nào.



Đàn Ong Ngăn Chặn Một Vụ Xử Oan

Ngày xưa, có ông chủ một quán ăn trông thấy một con ong bay rớt vào trong hủ rượu của ông. Người chủ quán cảm thấy tội nghiệp cho con ong bé nhỏ, ông liền hạ thấp chiếc đũa để cho nó leo lên đó mà bò ra. Ông đặt chiếc đũa xuống và nhìn con ong đang tìm cách tự làm khô mình. Nó đập nhẹ hai cánh để mau khô hơn. Khi con ong hoàn toàn khô rồi, nó bay lên và kêu vo vo.

Sau đó, người chủ quán nhận thấy những con ong khác cũng bị thu hút bởi mùi rượu nên đã bay tới rớt vào và chết đuối trong hủ rượu. Từ đó, ông chú ý đến chúng và đã cứu sống được rất nhiều con ong.

Ông làm việc phước đức này tiếp tục trong nhiều năm. Một ngày nọ, ông giật mình thấy lính của nhà vua vào quán, và không một lời giải thích họ còng tay áp giải ông tới pháp đình. Khi đến nơi, người chủ quán mới biết rằng ông bị người ta vu oan giá họa. Vài tên cướp bị bắt đã tố cáo ông nằm trong băng đảng của họ; cho nên quan tòa thụ lý vụ án đã quyết định xử chém đầu ông cùng với những tên cướp khác.

Người chủ quán đã kêu than rằng ông ta vô tội, nhưng bọn cướp vẫn nhứt quyết bảo rằng ông có tội; cho nên quan tòa đã tuyên bố rằng ông ta phạm tội. Lòng người chủ quán vẫn bìnhthản không chút sợ hãi khi nhìn thấy vị quan tòa cầm bút lông đỏ phê bản án tử hình buộc tội ông ta.

Ngay vừa lúc ông chánh án cầm bút lông định phê bản án thì ông nghe tiếng vo ve ồn ào mỗi lúc một gần và ngày càng rõ hơn. Một đàn ong bay vào cửa sổ và bu đậu nơi đầu bút lông đỏ của vị quan tòa. Ông vảy mạnh ngọn bút lông để hất mấy con ong ra, nhưng nhiều con khác lại tiếp tục bay đến. Ðàn ong không chích đốt, nhưng chúng không chịu bay đi.

Vị quan tòa nhận thấy đây là một việc hết sức kỳ lạ. Ông liền suy nghĩ: “Có thể những con ong này bay đến để ngăn chận không cho ông phê chuẩn một bản án hoàn toàn oan ức.”

Do đó, vị quan tòa cho xem xét lại hồ sơ những tên cướp này và tìm thấy có nhiều mâu thuẩn trong lời khai của chúng. Ông liền cho điều tra bọn cướp trở lại. Lần này ông chắc rằng ông đã kết án một người vô tội.

Chỉ sau khi bản án tử hình của người chủ quán được vị quan tòa hủy bỏ những đàn ong mới chịu bay đi! Rồi ông quan tòa hỏi tên chủ quán có biết tại sao đàn ong bay đến cứu thoát cho ông không?

“Thưa ngài tôi thực sự không biết, nhưng có thể là do tôi đã cứu sống nhiều con ong bị chết đuối trong những hủ rượu của tôi. Chúng ngửi thấy mùi rượu nên bay đến, rơi vào trong đó và không thể thoát ra được. Thấy vậy, tôi luôn luôn cứu sống chúng. Giờ đây, chúng bay đến để cứu giúp lại tôi. Thưa ngài, tôi nghĩ chắc là như vậy.”

“Thực là một việc hết sức mầu nhiệm! Ông gặp cảnh ngộ thập tử nhứt sanh. Nhưng ông thoát chết nhờ ông đã hành thiện. Vậy ông nên cố gắng làm nhiều việc lành hơn nữa. Chắc chắn tương lai ông sẽ hưởng toàn quả phúc

Những lời dạy của vị quan tòa chứng tỏ đã đúng với sự thực. Người chủ quán đã làm tất cả mọi việc lành mà ông có thể. Công việc làm ăn của ông mỗi năm mỗi phát triển. Ông sống cuộc sống trường thọ, giàu sang, hạnh phúc, và chết một cách an lành.



Con Rùa Chữa Lành Bịnh Cho Người Hầu Gái

Vợ chồng ông Trần vì có chút việc bận đi ra ngoài nên đã dặn người đầy tớ gái: “Cô nhớ rửa thật sạch con rùa trước khi nấu chín nó. Vì con rùa quá lớn nên cô phải cẩn thận luộc nó cho thật kỹ. Cố gắng làm tốt công việc của cô nghe.”

Cô hầu gái trả lời: “Chắc chắn, tôi biết nấu mà.” Khi mọi người đi rồi, cô ta vào trong bếp, đứng nhìn con rùa và nghĩ đến cách phải nấu ra làm sao. Ngay lúc cô trông thấy con rùa đang nằm trên nền nhà, cô cảm thấy thương hại nó. Cô bảo thầm: “Này con rùa khốn khổ. Hẳn chắc rằng con thích bơi lội dưới sông hơn là trong nồi nước xúp?”

Tại sao người hầu gái xót thương con rùa đặc biệt này? Cô đã giết nấu nhiều rùa cho gia đình ông Trần vì họ thích ăn thịt rùa. Cô cảm thấy tội nghiệp cho con rùa nên cô đã nhặt nó lên mang ra cửa và thả cho nó bò đi.

Rồi cô nghĩ: “Ta không thể làm vậy được vì khi ông bà Trần trở về mong dự bữa tiệc thịt rùa mà ta lại bảo rằng tôi lấy làm tiếc là đã phóng thích nó đi mất thì họ sẽ bực mình như thế nào? Hơn nữa dù cho ông bà Trần có đánh đập cô thì điều đó cũng không làm cô đau đớn nhiều bằng con rùa bị đem bỏ vào nồi nấu.” Rồi cô quyết định thả cho nó đi.

Khi ông bà Trần trở về nhà sửa soạn dự tiệc thì thấy trên bàn ăn trống trơn, ông bà nổi giận mắng nhiếc và đánh đập người hầu gái. Nhưng cô nhẫn nhục chịu đựng.

Sau này khi trong vùng xảy ra bệnh dịch. Người tớ gái bị đau nặng. Ông bà Trần mời bác sĩ đến khám bệnh cho cô và bác sĩ đã bảo họ nên chuẩn bị mua hòm vì cô sắp chết đến nơi rồi.

Tối hôm đó, người hầu gái nằm mơ thấy một con vật mình ướt và lấm bùn, bò lên khỏi hồ nước. Nó bò gần lại phía cô ta. Mỗi lúc nó càng tiến lại gần sát cô hơn nữa. Rồi con vật đó tiến vào phòng leo lên và bò vào giường cô, nhưng cô không cảm thấy sợ hãi.

Rồi con vật ướt lấm bùn đó bò lên thân mình người tớ gái và cô cảm thấy khắp toàn thân cô mát mẻ. Nhiều ngày qua cô không cảm thấy được dễ chịu như vậy.

Hôm sau, ông bà Trần cầm cái thước dây đi vào phòng đo kích thước để mua hòm cho người hầu gái và thấy cô đã ngồi dậy. Khắp thân mình cô lấm bùn, nhưng trông cô khỏe hơn trước. Bà Trần hỏi:

“Cô đã thức dậy?” Cô đáp: “Vâng, thật là kỳ lạ, hôm nay tôi cảm thấy đã bớt nhiều?”

“Tại sao khắp thân mình cô dính đầy bùn như vậy?”

Cô liền kể cho bà Trần nghe về mọi việc xảy ra tối qua. Bà Trần hết sức lo lắng vì nghĩ rằng người tớ gái đã mê sảng. Ðêm đó, bà quyết định canh chừng để coi.

Vào giữa khuya, ông bà Trần nhìn thấy con rùa lớn mà người hầu gái phóng thích trước kia, nay nó trở lại bò vào phòng và đắp bùn lên khắp thân mình cô ta. Ông bà Trần không tin điều mình thấy là có thật, nhưng vài ngày sau người hầu gái của họ đã bình phục, và cô là người duy nhất sống sót thoát khỏi nạn bệnh dịch.

Cũng từ ngày ấy, ông bà Trần không bao giờ ăn thịt rùa nữa.




Một Ông Nhà Giàu Không Có Con

Vào thời đại nhà Nguyên (1279-1368) khi Thành Cát Tư Hản xua quân Mông Cổ xâm lăng Trung Hoa, có một ông phú hộ rất giàu có nhưng không có một mụn con nào. Cả hai vợ chồng sống rất cô độc. Họ mong ước sinh một đứa con, nhưng không làm sao có được.

Ông nhà giàu luôn luôn buồn rầu về việc đó. Ông ta nghĩ: “Có nhiều tiền mà không con cái để chia xẻ cho chúng nó thì đâu có hạnh phúc gì.”

Bạn ông ta khuyên: “Tại sao ông không lên chùa nhờ thầy trụ trì giúp cho? Vị sư ấy có thể hiểu rõ chuyện xảy ra trong quá khứ và tương lai. Tôi nghĩ ông ta là người có khả năng giúp bạn được.”

Nghe vậy, hai vợ chồng ông phú hộ liền đi lên chùa. Họ vào lễ Phật. Sau đó hai người đến gặp vị sư và quỳ xuống lạy trán cúi sát úp trên nền nhà.

“Thưa thầy, chúng con lạy thầy, nhờ thầy chỉ dạy cho biết chúng con đã gây nên điều ác đức gì. Tại sao chúng con ước mong có một đứa con mà không cách gì có được.”

Vị sư coi tướng số của hai vợ chồng, và dùng thần lực để hiểu biết việc quá khứ lẫn tương lai của họ. Rồi ông bảo người phú hộ.

“Kiếp trước ông đã vay một món nợ to lớn là bởi ông đã giết các sinh vật. Ông đã sát hại nhiều con nhỏ của các thú vật cho nên đời này ông bà không có con được.

“Món nợ đó thực quá sâu dày, ông bà không dễ gì trả hết được. Ông bà cần phải tụng kinh sám hối cho nhiều. Nếu ông bà có thể cứu thoát được tám triệu mạng sống may ra ông bà mới hoàn trả xong món nợ đó. Nếu ông bà vô ý giết thêm một con rệp hay một con sâu ông bà phải cứu thêm một trăm mạng sống nữa để bù vào cho đủ.

“Ðây là phương cách tốt nhất để ông bà cải đổi số kiếp của mình mới mong có con được.”

Ông phú hộ vô cùng cảm động. Ông lên chùa vào chánh điện lễ Phật và phát nguyện sẽ không bao giờ sát sanh nữa. Sau đó, hai vợ chồng về nhà nỗ lực phóng sanh và dùng phần lớn tài sản của họ vào công việc phước đức này. Họ đi chợ mua nhiều heo, gà và ngỗng mang về thả nuôi chúng sống tự nhiên trong vườn chùa. Hai vợ chồng cũng mua cá, cua và lươn đem thả chúng xuống nước. Họ rất thành tâm thường xuyên lên chùa làm nhiều việc phước đức; để sám hối những việc làm tội lỗi của họ đã gây ra trong kiếp trước.

Hai vợ chồng làm các việc lành như thế trong nhiều năm. Sau một thời gian họ cứu thoát đến tám triệu mạng sống của thú vật, nhờ vậy mà bà vợ đã sinh được một cháu trai khỏe mạnh và kháu khỉnh.

Ðứa bé rất thông minh, lớn lên cháu học giỏi, và đỗ đạt dễ dàng các kỳ thi của triều đình.



Những Viên Ngọc Rắn

Một người lính gác hỏi: “Cái gì vậy?” Người bạn của ông ta đáp: “Con rắn. Hãy giết nó đi.” Rồi họ cầm cây giáo định, đâm chết con rắn nhỏ màu sắc đỏ.

Vị chỉ huy của họ la lên “Ðừng giết.” Cả hai tên lính hoảng sợ khi thấy người ra lịnh cho họ không được sát hại con rắn là Quận Công của nhà Tùy ở Trung Hoa. “Các ngươi không thấy nó bị thương rồi sao? Tội nghiệp con vật.” Hẳn chắc họ thấy con rắn đã bị thương nơi đầu.

Viên Quận Công dùng cây gậy nhẹ nhàng nâng con rắn lên và mang nó ra bờ sông. Rồi ông bảo mấy tên lính thả cho con rắn bò đi.

Một lát sau, một người lính gọi anh bạn nói: “Trông kìa, con rắn ban nãy trở lại.”

“Và nó ngậm vật gì nơi miệng.”

“Này, bạn nhìn nơi đó phải không?” Nó mang một viên ngọc!” Những người lính nghe nói vậy liền chạy đến. Con rắn nhỏ vẫn bò hướng về phía trước. Mấy anh lính bảo: “Ðể xem thử nó bò đi đâu.” Họ tránh sang một bên, và con rắn bò thẳng vào lều ông Quận Công và nhả viên ngọc nơi chân của ông.

Viên Quận Công nói với con rắn: “Thực bạn quá tốt với ta, nhưng bạn nên biết rằng là quan chức của triều đình, ta không bao giờ nhận tặng phẩm.” Con rắn vẫn nằm im không nhúc nhích cho đến khi ông Quận Công lượm viên ngọc bỏ vào túi quần.

Ðêm hôm đó, viên Quận Công nằm mơ thấy ông vô ý bước đạp nhằm một con rắn. Ông giật mình thức giấc nhìn xuống tưởng chân ông bị rắn cắn... nhưng không, đó chỉ là điềm chiêm bao. Nhưng cái gì đây? Ông thấy một viên ngọc khác nằm bên cạnh chân ông, và đó là sự thật chứ không phải là giấc mơ.

Hai viên ngọc quá đẹp! Ông Quận Công là người có tâm hiền lành và thực tình ông không muốn nhận được quà thưởng vì đã cứu sống con rắn, nhưng giờ đây ông có hai viên ngọc rất quý mà không biết giao trả cho ai, cho nên ông đành phải cất giữ chúng làm vật kỷ niệm để ghi nhớ việc ông làm phước cứu độ mọi chúng sanh.

Việc làm thiện của ông Quận Công trên đây được loan truyền xa gần khắp nơi và giúp cho nhiều người nhận biết rằng ngay cả loài vật bò trên mặt đất cũng tham sống sợ chết. Câu chuyện này cũng khiến cho những ai có tâm độc ác muốn sát sanh hại vật phải suy nghĩ để cải đổi lối sống của họ. Con người ngày càng biết yêu thương sự sống, chấm dứt việc giết chóc và hành hạ loài vật.

Riêng ông Quận Công nhà Tùy đó là điều quý báu hơn cả hai viên ngọc giá trị!


Giải Cứu Đứa Con Của Long Vương

Ngày xưa, có một vị bác sĩ già tên Tôn. Ông rất hiền lành, và nhất là có lòng thương yêu loài vật.

Vào một ngày mùa thu đẹp trời, trong khi ông đang đi dạo chơi ngoài làng, thình lình ông gặp hai đứa trẻ nhỏ bắt một con rắn. Chúng đùa giỡn với nó và con rắn quá mệt đừ gần như sắp chết. Ông Tôn không muốn nhìn thấy con rắn chết, cho nên đã móc túi lấy tiền ra mua con rắn nơi mấy đứa nhỏ. Rồi ông mang con rắn ra gần bờ ao và thả cho nó bò đi.

Vài ngày sau, khi ông đang ngồi đọc sách nghiên cứu. Ông thiu thiu ngủ thì mơ thấy một người mặc áo màu xanh lục bước vào nhà và bảo bác sĩ Tôn đi theo ông ta. Người lạ mặt dắt ông Tôn đến một lâu đài tráng lệ. Và ông không biết rõ nơi đó là ở đâu.

Khi bác sĩ Tôn và người hướng dẫn ông bước vào cái phòng lớn, một nhân vật quan trọng tiếp đón ông Tôn và nói: “Ðứa con của tôi đi ra ngoài chơi, nếu ngài không cứu giúp nó, thưa bác sĩ, tôi sợ rằng con tôi đã không bảo toàn được mạng sống.”

Rồi ông ta bảo những người giúp việc dọn tiệc đãi ông khách quý. Dùng tiệc xong, người cha lấy tặng đồ nữ trang và châu báu cho ông Tôn, nhưng bác sĩ đã không nhận vật gì hết. Người cha năn nỉ, và ông Tôn biết mình hiện giờ đang ở đâu, cho nên cuối cùng ông nói: “Tôi được biết tại Cung Ðiện Thủy Tinh của Long Vương này, ngài cất giữ nhiều vị thuốc thần diệu có thể chữa lành các thứ bệnh nhẹ và nặng mà người đời mắc phải. Nếu ngài có lòng tốt trao truyền cho tôi một vài toa thuốc đặc biệt của ngài để tôi cứu chữa cho các bệnh nhân khổ đau thì đó sẽ là hành động phước đức vô cùng.”

Người cha hóa hiện thành vị Long Vương, lấy ngay mấy tấm thẻ bằng ngọc có ghi khắc 36 toa thuốc và trao cho ông Tôn

Sau khi nhận các toa thuốc quý, bác sĩ Tôn trở lại công việc nghiên cứu. Ông giật mình thức dậy và nhận biết rằng mọi việc xảy ra vừa qua chỉ là một giấc chiêm bao.

Nhưng điều ý nghĩa nhất là từ đó về sau, khi bác sĩ Tôn khám bất cứ bệnh nhân nào, dù bệnh của họ có nặng đến đâu, họ vẫn được tức khắc chữa lành. Nhờ vậy mà bác sĩ Tôn đã cứu chữa được nhiều, rất nhiều bệnh nhân đau khổ.



Quả Báo Của Một Việc Làm Ác

Ðời nhà Ðường (618-907) bên Trung Hoa có một anh nông phu rất tàn ác. Trưa hôm nọ, ông ta ra xem xét công việc ngoài đồng ruộng. Ông thấy con bò bên nhà hàng xóm chạy lạc vào đám ruộng của ông. Nó đang gặm lúa và dẫm đạp hoa màu.

Người nông dân vô cùng tức giận bảo rằng: “Tao làm lụng cực khổ mới có thóc lúa này, bây giờ mày đến gặm ăn và phá hoại mùa màng của tao! Mày phải trả một giá đắt cho sự ăn vụng này. Ông liền rút dao ra và nói: “Tao không muốn giết chết mày, nhưng vì mày đã ăn hại thóc lúa của tao nên tao phải cắt lưỡi của mày bỏ lại đây. Ðể tao coi mày còn dám ăn vụng, phá hoại mùa màng của tao nữa không!”

Con bò nhận biết mình có lỗi nên nó đã cúi đầu xuống và tỏ vẻ hối tiếc. Người nông dân nghèo khó đã nắm sừng ghì chặt đầu con bò xuống và dùng dao cắt cái lưỡi của nó. Con bò vô cùng đau đớn, nhưng cũng không kêu van gì được.

Về sau, người nông dân tàn ác này đã lập gia đình và có ba đứa con. Nhưng đứa nào cũng bị câm nửa năm đầu trước khi chúng biết nói. Ông không hiểu tại sao mấy đứa con của ông đều bị câm. Ông đưa chúng đi khám nhiều bác sĩ danh tiếng nhưng không một loại thuốc nào của các vị này cho có thể chữa lành giúp chúng nói được.

Người nông dân liền nhớ lại khoảng mười hai năm trước ông đã cắt lưỡi của một con bò đực. Ông ta hiểu rõ nguyên nhân tại sao ba đứa con của ông bị câm. Chính do nhân tàn ác ông gây ra đã mang lại quả báo khổ đau cho mấy đứa con trong gia đình ông



Một Trăm Mạng Sống

“Bữa nay, em cảm thấy khỏe hơn không?” Ông Phan biết vợ mình mắc bệnh lao rất khó chữa lành nên ông đã hết lòng chăm sóc cho vợ.”

Vợ ông mệt mỏi trả lời: “Cám ơn anh đã quá lo lắng cho em.”

Ông Phan đã mời bác sĩ Trần giỏi nhất để chữa bệnh cho vợ ông. Bác sĩ Trần sau khi khám bệnh người vợ, đã gặp riêng ông Phan.

Bác sĩ bảo: “Mặc dù vợ ông bệnh quá nặng đấy nhưng vẫn có cách chữa được. Theo toa thuốc này, cần đến một trăm đầu con chim sẽ để chế vị thuốc đó. Sang ngày thứ ba và thứ bảy, vợ ông cần phải dùng óc của chim sẻ. Ðây là vị thuốc bí mật do ông bà của tôi truyền lại và nó không bao giờ không có kết quả. Nhưng nên nhớ rằng ông phaủi giết đủ một trăm con chim sẻ, chứ thiếu một con cũng không được.”

Ông Phan hết lòng muốn cứu sống vợ nên đã gấp rút đi mua một trăm con chim sẻ. Chúng bị nhốt chật trong một cái lồng lớn. Chúng nhảy nhót và kêu thảm thiết vì không đủ chỗ cho chúng bay nhảy thỏa thích. Có thể chúng cũng biết rằng chúng sắp sửa bị giết chết.

Bà Phan hỏi chồng: “Anh định làm gì với những con chim sẻ đó?”

Người chồng vui vẻ trả lời: “Ðây là vị thuốc đặc biệt của bác sĩ Trần! Anh đang chuẩn bị giết chúng để chế vị thuốc ấy, và em dùng sẽ tức khắc lành bệnh.”

Bà Phan liền ngồi dậy trên giường và nói: “Anh không thể làm một việc ác như thế. Anh không nên giết một trăm mạng sống để cứu lấy sự sống của riêng mình em! Em đành chịu chết còn hơn để anh sát hại một trăm con chim sẻ để cứu mạng sống cho em!”

Ông Phan không biết làm sao.

Bà vợ tiếp tục bảo: “Nếu anh thực tình thương em, thì anh nên nghe lời em là hãy mở lồng thả hết những con chim sẻ đó ra. Như thế dù em có chết em cũng mãn nguyện để nhắm mắt.” Ông Phan đã giải quyết thế nào? Ông mang lồng chim vào trong rừng và phóng sanh tất cả một trăm con chim sẻ đó. Chúng bay vào các bụi rậm, đậu trên cây và kêu hót líu lo. Chúng lộ vẻ vô cùng sung sướng vì được thả tự do.

Vài ngày sau, bà Phan rời khỏi giường, mặc dù bà đã không uống thuốc gì hết. Bà con và bạn bè kéo nhau đến chúc mừng bà đã nhanh chóng bình phục khỏi cơn bệnh hiểm nghèo. Mọi người đều hết sức vui mừng.

Năm sau, bà Phan sinh được một cháu trai. Em bé mạnh khỏe và rất dễ thương, nhưng điều buồn cười là trên mỗi cánh tay của nó có một cái dấu bớt; và các dấu bớt này trông hình giống như những con chim sẻ!



Tên Đồ Tể Đền Tội

Châu là người thô lỗ, nhưng rất giàu, vì ông kiếm được nhiều tiền nhờ bán thịt bò. Mỗi ngày, ông giết thịt ít nhất là ba con bò. Trải qua một thời gian, do bán nhiều thịt bò mà ông trở nên một trong những người giàu nhất trong quận.

Vào khoảng đầu thế kỷ thứ 19, khi ông Châu già cả, con ông là Quang đứng ra lo việc buôn bán cho gia đình. Hai cha con hãnh diện với nghề bán thịt này bằng cách đặt một gốc cây già ngay trước cổng nhà của họ. Nhiều năm qua, họ dùng gốc cây đó làm tấm thớt cắt thịt. Họ thường kê đầu con bò trên đó để đập mạnh cho chết. Khi hành khách đi ngang qua nhìn thấy gốc cây này họ đều biết rằng đó là quán bán thịt.

Nhưng vào đêm nọ, một việc kỳ lạ bất ngờ đã xảy ra. Cái tấm thớt gốc cây biến thành đầu con bò và nó lăn vòng quanh khắp các đường trong thành phố! Mọi người trông thấy đều hết sức kinh ngạc.

Tối hôm đó, khi đi ngang qua nhà ông Châu người ta nghe bên trong có tiếng ồn ào của nhiều con bò húc báng lộn nhau. Nhưng không ai hiểu rõ được việc gì đang xảy ra!

Một hai ngày sau, ông Quang vẫn đứng bán quán như thường lệ, và có một người lính vào mua thịt. Vì là nhân viên của chính quyền nên ông ta muốn mua thịt với giá đặc biệt thật rẻ.

Ông Quang hét to nạt tên lính: “Ông điên rồi sao? Tôi lỗ nhiều quá!” Vì bị mất mát tiền bạc, ông nổi cơn giận dữ. Rồi hai người gây gỗ với nhau. Ông Quang nổi điên cầm dao cắt thịt chém mạnh vào đầu anh lính!

Khi hay tin con mình giết chết tên lính ông Châu hoảng hốt, té xuống ngất xỉu và từ trần.

Ông Quang bị nhà cầm quyền xử tử. Sau này người ta gặp thấy bà vợ và mấy đứa con ông Quang, mặc quần áo rách rưới đi xin ăn ngoài đường phố. Bà con hàng xóm bảo: “Chúng ta thật không ngờ vợ con ông Châu giàu có trước đây ngày nay lại dắt nhau đến xin ăn ngay ở ngôi nhà cũ của họ.”

Theo Phật giáo giải thích: “Chính ông Châu đã gây nên cảnh gia đình suy sụp tan nát, vì họ đã giết hại nhiều thú vật. Nếu bạn làm việc lành, bạn và thân quyến sẽ gặp điều tốt. Nếu bạn hành động ác, gây đau khổ cho kẻ khác, bạn và gia đình sẽ gặp nhiều khổ đau.

“Do đó, bạn không nên ăn thịt. Bạn cần cố gắng dứt trừ tâm độc ác, và nên thương yêu đừng sát hại các sinh vật, nhờ vậy mà mọi chúng sanh đều an lạc.”

Mọi người đều nghĩ rằng đó là điều công bằng hợp lý. Những người giết thịt trong vùng đều nhận biết rằng điều bất hạnh xảy ra cho gia đình ông Châu; một ngày nào cũng có thể dễ dàng xảy đến với họ, cho nên tất cả đều đóng cửa các hàng thịt và họ đã thay đổi tìm nghề sinh sống khác.

Hơn nữa, ngày nay y khoa đã chứng minh cho thấy rằng dùng nhiều thịt bò sẽ gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe con người. Nó sẽ tạo ra các bệnh tim và ung. Cho nên dù bạn có suy nghĩ như thế nào, thì việc ăn nhiều thịt vẫn là điều không tốt cho sức khỏe của bạn.



Cái Lưỡi Dê

Triều đại nhà Ðường từ năm 618 đến năm 907 sau tây lịch là một trong những thời đại huy hoàng nhất của lịch sử Trung Hoa. Bấy giờ ông Phan Quả sống tại kinh đô là một quân nhân nghệ sĩ có tài cho nên ông được mời giữ một chức vụ trong triều đình khi ông còn rất trẻ. Ông dễ dàng kết thân với mọi người; do đó ông có nhiều thân hữu trong số những người bạn trẻ cùng làm chung với ông.

Ngày nọ, nhóm bạn của ông đang đi dọc theo một nghĩa trang. Giữa những ngôi mộ, ông gặp thấy một con dê đi lạc. Nó đang chăm chú gặm cỏ. Ông Phan cùng với mấy người bạn đến bao quanh và lôi con dê về nhà. Nó bắt đầu kêu la. Bọn họ sợ người chăn dê nghe tiếng kêu sẽ đi tìm nó. Cho nên ông Phan đã tới dùng rễ cây mà kéo đứt cái lưỡi con dê ra. Ông ta hãnh diện đã làm cái việc ác đức này quá nhanh.

Sau khi về tới nhà những người bạn của ông Phan đã làm thịt và quay con dê. Rồi họ vui vẻ hả hê nhậu rượu với thịt dê.

Năm sau, ông Phan hoảng hốt khi thấy cái lưỡi của mình co rút lại. Mỗi ngày nó càng ngắn thêm và cuối cùng ông ta không nói được. Ông không thể tiếp tục đến sở làm và rồi ông Phan đành phải nghỉ việc. Ông đi tìm thầy để chữa trị cái lưỡi.

Ông Trịnh, người cấp trên của ông Phan nghĩ rằng ông ta lười biếng nên đã bảo ông đưa lưỡi ra để ông xem thử, ông Pan có thực đau không. Ông Trịnh ngạc nhiên thấy cái lưỡi của ông Pan đã biến mất. Chỉ còn lại một chút nơi gốc cái lưỡi thôi. Ông Cheng muốn tìm hiểu tại sao xảy ra như vậy. Ông Pan cầm lấy bút lông và viết trả lời: “Chắc bởi tại năm ngoái chúng tôi bắt trộm một con dê và khi nó bắt đầu kêu la, tôi liền kéo đứt cái lưỡi nó ra.”

Ông Trịnh biết rằng ông Phan bị mất cái lưỡi để bù trả lại cái lưỡi mà ông đã tướt đoạt của con dê. Ông khuyên ông Phan nên làm những Phật sự và hồi hướng các phước đức ấy cho con dê để mong bù đắp sự khổ đau thiệt thòi của nó. Ông Trịnh bảo ông Phan sao chép lại kinh Pháp Hoa.

Ông Phan ân hận về hành động ác mà ông đã làm. Ông thề nguyền sẽ không bao giờ ăn thịt thú vật nữa và hết lòng cố gắng tạo sự an lạc cho con dê, qua những việc làm phước đức, giúp đỡ chùa chiền và cầu nguyện của ông.

Một năm sau cái lưỡi của ông Phan bắt đầu mọc trở lại. Ông ta vui mừng thấy lưỡi của mình đang từ từ dài ra. Ông Phan đến sở làm để báo tin cho ông Trịnh biết. Ông Trịnh hãnh diện thấy ông Phan đã ăn năn sám hối sửa lỗi của mình.

Khi ông Phan có thể nói được trở lại bình thường, ông Trịnh đã thăng chức cho ông. Ông Trịnh là con người thành thực và sáng suốt, cho nên ông rất được mọi người kính mến. Tiếng đồn về những việc làm tốt của ông Trịnh đã đến tai vua Thái Tông, một trong những vị vua hiền đức nhất trong lịch sử Trung Hoa. Và vào năm 635 tây lịch, tức năm thứ 9 dưới triều đại của ngài, ông Trịnh đã được nhà vua thăng cấp lên đến chức Giám Sát Quan là một trong những chức vụ cao cấp nhất triều đình.

Ông Trịnh tâu với đức vua rằng ông được thăng chức là do điều lành mà ông đã tạo ra nhằm giúp cho con dê đau khổ vì mất lưỡi có được hạnh phúc.




Sự Trả Thù của Những Con Ếch

Ngày xưa có một người thợ cạo tên Lương ở tỉnh An huy nước Trung Hoa. Ông có cặp mắt ty hý như mắt chuột. Mặt mày ông xấu xí. Vẻ đẹp bên ngoài không mấy quan trọng, nhưng ngay cả trong tâm ông cũng không tốt gì. Ông luôn luôn gây gỗ và so đo. Ông không bao giờ cố gắng sửa đổi những thói hư tật xấu của ông.

Ông Lương cũng tham lam. Món ăn ông thích nhất là ếch mà người Trung Hoa gọi là “Gà ở Ðồng Ruộng.” Ông không thể dùng bửa nếu không có món ăn này. Ông sành sỏi đến mười hai cách nấu món ăn thịt ếch. Ông có rất nhiều bạn mà tánh tình của họ cũng chẳng tốt gì hơn ông và tất cả đều bảo rằng nếu ếch mà trao vào tay ông Lương thì nó sẽ biến thành món ăn tuyệt hảo.

Bạn bè càng khen ngợi tài nấu thịt ếch của Lương bao nhiêu ông càng giết chết nhiều ếch bấy nhiêu; chẳng khác gì chúng là những kẻ thù mà ông muốn tiêu diệt. Ông sát sanh như vậy mãi đến năm ông bốn mươi tuổi.

Một đêm nọ, trong lúc đang say ngủ, ông cảm thấy khắp thân mình ngứa ngáy. Rồi ông thấy trên giường bao phủ đầy những con ếch. Chúng ở trong mền và cả trên gối! Chúng cũng có mặt trên ván giường. Ếch khắp mọi nơi!

Ông Lương tự bảo: “Thật kỳ lạ. Ðược rồi, ta có cách giải quyết tụi bây.” Ông bắt những con ếch này bỏ chúng vào trong cái hủ. Ông trở lại phòng ngủ và thấy giường ông phủ đầy nhiều ếch hơn nữa!

Ông Lương đã thức suốt đêm để bắt những con ếch bỏ ra khỏi giường.

Hôm sau, ông gặp mấy người bạn và nói với họ tối qua ông đã lùa những con ếch xuống giường. Các bạn bè của ông không làm sao tin nổi điều đó. Thình lình ông Lương chụp lấy vai ông. Ông hét lên: “Những con ếch trở lại!”

Một người bạn ông nói: “Tôi không thấy gì hết.”

“Ngay đây này, một con ếch ở trên lông mày tôi. Một con khác đang bu trên tóc tôi.” Ông Lương la hoảng lên, nhưng các bạn ông ngạc nhiên, sửng sốt, vì họ không thấy con ếch nào cả. Họ nhìn ông Lương đang chạy quanh tay cầm dao cạo cắt vạch lông mày và tóc của ông. Nhưng không ai nhìn thấy một con ếch nào cả. Họ xầm xì: “Chắc ông ta điên rồi.”

Từ đó, ông Lương thấy những con ếch xúm lại tấn công ông mỗi ngày. Ông cố gắng tự bảo vệ với chiếc lưỡi dao cạo, nhưng những con ếch vẫn tiếp tục hiện đến. Ông cầu cứu các bạn bè giúp ông, nhưng chỉ một mình ông nhìn thấy những con ếch đó, mà thôi. Ông Lương đã sống như một người điên kéo dài đến hơn sáu năm nữa trước khi ông qua đời.

Ông kiệt sức vì phải đương đầu chống trả với những con ếch? Chúng đã trả thù ông? Hay ông trở thành người mất trí?

Không ai có thể trả lời. Tuy nhiên mọi người đều biết rằng ông Lương chắc chắn sẽ không gặp quả báo đau khổ khủng khiếp như vậy nếu ông không giết nhiều ếch để nấu ăn.



Tên Đồ Tể Biến Thành Miếng Thịt Hầm

“Dù muốn hay không mày cũng phải đi!” Người hàng thịt tàn ác đã ra sức kéo sợi dây thừng. Ðằng cuối sợi dây, con bò già biết rõ việc gì đang xảy ra. Nó cúi đầu xuống và không chịu nhúc nhích.

“Hãy nhanh lên mày!” Người bán thịt cầm cây roi vừa mắng nhiếc và quất mạnh vào con bò già. Cả hai tranh chấp dằn co như thế ở ngoài đường, một bên vừa chửi rủa và lôi mạnh đi còn bên kia thì im lặng trì kéo lại.

Khi cả hai tiến đến trước một ngân hàng, con bò bất chợt quỳ gối xuống trước cửa và bắt đầu kêu khóc. Nước mắt chảy ràn rụa xuống khuôn mặt đau thương của nó. Ông giám đốc ngân hàng bước ra nhìn thấy cảnh tượng thật quá thương tâm. Con bò lộ vẻ hết sức buồn rầu!

Ông ta hỏi: “Này anh bán thịt, con bò này giá bao nhiêu?”

“Nó giá 8.000, nhưng tôi không bán nó đâu!”

“Ông nói thế nào? Tôi sẽ trả ông 10.000.” Ông giám đốc ngân hàng nhìn con bò khóc ông vô cùng xúc động, và có ý định muốn cứu mạng sống cho nó.

Nhưng anh bán thịt nhạo báng và nói: “Con bò này đã gây nên nhiều khó khăn cho tôi. Tôi sắp chặt đầu và giết chết nó; và đó là điều mà tôi đang sắp làm. Tôi sẽ không bán nó cho ông, vậy xin ông đừng làm phiền tôi mà tăng giá lên!”

Con bò già dường như hiểu được tiếng người nói. Khi nghe biết vậy, nó thở dài đứng dậy và đi theo người bán thịt.

Anh bán thịt rất giận dữ vì thấy con bò cứ van nài xin tha tội chết cho nó. Thay vì đưa ra chợ ông dắt nó về nhà và chặt con bò ra thành nhiều khúc. Ông bỏ nấu thịt của chúng trong một cái nồi thực lớn.

Ðến khuya, ông đặt nồi thịt bò trên bếp lửa cháy suốt đêm; để sáng mai thịt được nấu chín nhừ và ngon. Rồi ông đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau, bà vợ thấy ông thức dậy. Ông nói: “Ðể tôi xuống coi lửa củi và xem nồi thịt nấu ra sao.” Rất lâu, bà vợ thấy ông đã không trở vào. Bà liền đứng dậy đi tìm ông. Nơi nhà bếp, bà thấy lửa đang còn cháy dưới nồi thịt nhưng chồng bà đã bị té ngã vào trong chiếc nồi lớn để cùng chung nấu với thịt bò!



Bị Đoạ Làm Chó

Phong King là một ngôi làng rất đẹp. Phần đông dân chúng sống ở đó là những nông dân chất phát. Họ rất thật thà và chăm chỉ làm việc. Mọi người đều ăn ở hòa thuận với nhau nên cuộc sống của họ rất hạnh phúc.

Trong làng có một gã hèn mọn xấu xa, tên Trần. Ông ta làm chủ một cửa tiệm nhỏ, việc làm ăn buôn bán khá phát đạt, nhờ vậy lần hồi ông dành dụm được một số tiền nhỏ.

Trần thích uống rượu và ăn thịt chó. Khi rảnh rỗi, ông mua rượu và nấu thịt chó để tổ chức ăn nhậu.

Ông thường nói với mọi người: “Thịt chó có mùi vị thơm tho và ăn thật hết xẩy. Không có gì ăn khoái khẩu bằng thịt chó nấu đúng điệu và nhậu nó với rượu thật ngon!” Ông Trần thích mời bạn bè đến dự tiệc, và trong nhiều năm, ông đã giết một số thịt chó.

Năm 1756 ông Trần bị ốm. Ngày nọ, ông ngất xỉu, phải lên giường nằm, nhưng các bác sĩ không biết ông đau bệnh gì.

Vợ ông hết lòng ở bên cạnh chăm sóc, nhất là sau khi ông bị liên tục té xỉu ngất đi. Vào một đêm khuya, ông Trần quay tròn và nhào lộn, nhưng bà vợ không thể giúp ông được gì. Rồi bà nghe ông nói lảm nhảm. Bà ghé sát tai vào và hoảng kinh khi nghe ông nói:

“Kìa, con chó đen khác đến!

“Con chó vá tới cắn tôi!

“Hai, ba, bốn và nhiều con chó khác nữa đếm không hết, xin bà con đến lôi giúp mấy con chó ra và xua đuổi chúng đi giùm cho!”

Rồi ông Trần la hét lớn tiếng khiến mọi người trong nhà thức giấc. “Hãy giúp tôi! Hãy giúp tôi! Ai đó, hãy đến cứu tôi với!” Mọi người đều nghe tiếng ông, nhưng không ai thấy con chó nào hết. Tất cả đều chứng kiến cảnh ông Trần quay tròn và nhào lộn trên giường với cặp mắt ông nhìn thật dữ tợn.

Các thân nhân của ông đều lắc đầu buồn rầu nói: “Chắc ông ta điên rồi”

Ngay trước khi chết, ông Trần bò quanh dưới giường. Ông khom lưng đi bằng hai tay với hai đầu gối, gầm gừ và sủa như chó cho đến lúc ông qua đời.

Con người vào lúc sắp lâm chung nhắm mắt thường có các tướng trạng hiện ra báo trước cho biết họ sẽ tái sinh vào cảnh giới nào sau khi mất. Người chết một cách an lành, sẽ sinh lên cõi Trời hưởng nhiều phúc lạc. Kẻ nào bị đọa vào địa ngục cũng có thể biết trước. Sự khổ đau bắt đầu hiện ra trước khi họ lìa đời và họ chết một cách đau đớn.

Ông Trần chắc sẽ bị đầu thai kiếp sau làm thân con chó. Và nhìn gương ông bị quả báo nhãn tiền, một số người đã sợ hãi không dám ăn thịt chó nữa.



Những Con Lươn Trả Thù

Qúy Châu là một trong những vùng kém mở mang ỏ Trung Hoa. Nó là tỉnh núi rừng nằm ở phía tây nam. Tại đây có một người tên Lục rất thích ăn thịt lươn đến nỗi ông không thể dùng cơm nếu không có thức ăn nấu với lươn.

Nếu có ai hỏi tại sao ông khoái ăn thịt lươn như vậy, ông luôn luôn trả lời vì “món ăn đó rất ngon.”

Vào năm sáu mươi tuổi, một hôm ông ra chợ mua mấy con lươn rất mập. Người bán hàng hỏi: “Ông muốn mua cá không? Cá sống, tươi và lớn ngay đây.”
Ông Lục hỏi: “Có lươn không?”

Anh bán lươn đáp: “Ngay đây trong hủ này.” Ông Lục vén áo đưa tay vào hủ để lựa những con lươn béo mập. Ông có nhiều kinh nghiệm, bằng cách này, ông có thể chọn mua những con lươn béo mập, mặc dù ông không nhìn thấy chúng.

Hôm đó, mọi việc xảy ra khác hẳn. Khi ông đưa cánh tay vào hủ, mặt ông trở nên tái xanh và ông thét lên một tiếng như con bò đực bị thương. Mọi người đều nhìn vào ông và thấy những con lươn trong hủ đang tấn công, và cắn cánh tay ông dữ dội.

Không ai biết làm sao. Họ không thể giựt mấy con lươn ra khỏi cánh tay ông. Vài người chạy về nhà báo tin và mấy đứa con ông Lục mang kéo nhọn ra cứu ông. Con ông cắt những con lươn ra làm đôi, nhưng đầu của chúng vẫn bám chặt nơi cánh tay và răng chúng cắn sâu vào thịt ông. Một lúc sau, mấy người con ông cắt đứt hết đầu những con lươn với nhiều thịt xẻo khỏi cánh tay ông Lục, và cuối cùng ông chết một cách đau đớn.



Mười Một Kiếp Đầu thai Làm Thân Bò

Vào năm 1815 có một người tên Lâm qua đời. Gia đình và bạn bè ông rất buồn vì ông là người hiền lành.

Ông Lâm nhận biết mình đang ở cảnh giới địa ngục. Lúc ấy vị Diêm Vương đang xử án. Các tên cai ngục toàn là những quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa. Một vài con quỷ khác đang chờ lên dương thế bắt người kế tiếp xuống địa ngục. Trên tường treo đầy các dụng cụ tra tấn khủng khiếp. Ðây là cảnh giới do ý nghĩ và việc làm xấu ác của chúng ta tạo ra chứ không phải bởi thần linh hay ma quỷ nào cả.

Ðến lượt bác sĩ Doản bị dẫn đưa vào tòa án.

Những tên cai ngục quát lớn: “Hãy quỳ xuống!” Ông Doản quỳ và thấy có vài người đang quỳ bên cạnh ông. Rồi ông nhận ra một tội nhân khác – đó là ông Lý người bạn chủ hàng thịt ở địa phương ông.

Giờ đây, ông Lý tỏ vẻ không có chút gì thân thiện. Khi thấy bác sĩ Doản ông chỉ vào mặt và thưa với vị Diêm Vương:“Tất cả đều do lỗi của ông ta! Chính ông là tội phạm! Nếu ông Doản không ăn thịt bò, thì tôi đã không giết bò! Xin ngài hãy bắt ông Doản và thả tôi ra!”

Bác sĩ Doản đáp lại: “Thưa ngài, tôi không có lỗi gì hết. Nếu ông Lý không giết, bán thịt, thì tôi đã không ăn thịt bò.” Ông Lý tức giận khi nghe ông Doản nói vậy. Những tên cai ngục liền can ngăn hai người ra.

Vị Diêm Vương đập mạnh tay xuống bàn và quát lớn: “Hãy im đi!” Một người giết, còn người kia thì ăn. Cả hai đều có tội hết!

Diêm Vương nói: “Các ngươi không có chút lương tâm gì hết sao? Trâu bò cày ruộng để trồng lúa nuôi sống con người mà quý vị đã không biết ơn lại còn giết hại ăn thịt những con vật vô tội này. Nếu người ta ăn nhiều thịt bò, nhiều bò sẽ bị sát hại. Nếu người đời dùng ít thịt thì vài con bò bị giết thôi. Nếu không ai ăn thịt thì sẽ không có con bò nào bị giết chết. Các ngươi có biết như vậy không?” Cả hai đều tuân phục gật đầu.

Diêm Vương phán tiếp: “Ông Lý! Tội của ngươi là không có lòng thương và giết hại các sinh vật, ta đày ngươi vào cảnh giới Ðịa Ngục, để ngươi nhận chịu quả báo bị hành hạ khổ đau cho đến khi nào ngươi biết ăn năn hối cải. Hãy lôi nó đi!” Các tên cai ngục hò hét đá vào ông Lý bán thịt kêu la và lôi dắt ông ta đi.

“Còn bác sĩ Doản! Tội ông là đã ăn quá nhiều thịt bò. Mỗi lần bệnh nhân mời đãi ông dùng cơm tối, ông luôn luôn đòi ăn thịt bò. Nhà ngươi có biết đã dùng thịt hết bao nhiêu con bò rồi không? Vậy ông đã thấy tội của ông chưa?” Bác sĩ Doản ngước lên và gật đầu.

“Không những thế, ông còn giết chết mười một bịnh nhân do sự chữa trị ngu dốt và bất cẩn của ông.”

“Với những tội ác này, ta trừng phạt bắt ngươi phải nhận đâù thai trong mười một kiếp làm thân bò để trả món nợ do sự chữa bịnh sai lầm mà ông đả gây ra cho các bệnh nhân đó.

Ông sẽ kết liễu mỗi kiếp sống của mình một cách đau đớn dưới lưỡi dao của tên hàng thịt để mong chuộc cái tội ông gây đau khổ cho các sinh vật hiền lành. Hảy dắt nó đi!” Bác sỉ Doản kêu thét lên, và những tên cai ngục nắm lôi đẩy ông ra ngoài tòa án.

Diêm Vương lại quay sang ông Lâm, nói với gọng ôn tồn: “Riêng phần ông, vì ăn ở hiếu thảo với cha mẹ và có lòng yêu thương tổ quốc, nên chưa đến phiên ông, vậy nhà ngươi có thể trở về dương thế. Nhưng hãy kể cho mọi người biết những điều ông đả thấy ở đây để họ ăn hiền ở lành hầu tránh khỏi bị đọa vào cảnh giới địa ngục khổ đau này.”

Và nhờ vậy, ông Lâm đã sống trở lại.


Ao Sen Và Con Rết

Vào khoảng 400 năm trước có vị đại sư tên “Liên Trì,” có nghĩa là Ao Sen. Ông cầu mong tất cả mọi người được vãng sanh về Ao Sen nơi cảnh giới Tịnh Ðộ của đức Phật A Di Ðà.

Ngày nọ, vị sư gặp một người xách những con rết được cột vào một thanh tre. Chúng đang đau khổ. Sư Liên Trì hỏi: “Ông có thể mở rộng lòng thương mà thả hết những con rết này ra không?”

“Không được! Những con rít độc hại này dùng làm thuốc rất hay! Tôi không muốn thả chúng ra, nhưng nếu ông mua thì tôi có thể bán.”

“Rất tốt. Ông muốn bán với giá bao nhiêu?” Mặc dù người đó rất thô lỗ, nhưng sư Liên Trì vẫn tươi cười và nói chuyện rất lễ độ. Vị sư mua hết những con rết đó, nhưng vì bị xâu vào que tre cho nên phần lớn chúng đã chết. Chỉ có một con đang còn sống. Nó nhìn sư Liên Trì rất lâu. Rồi nó bò đi.”

“Một lát sau, nhà sư Liên Trì đang ngồi nói chuyện với người bạn về giáo lý đức Phật. Thình lình mặt đạo hữu này bỗng tái đi và ông la lên: “Hãy trông kìa con rết!”

Một con rết to lớn, nhiều lông và ghê rợn đang bò trên tay áo của nhà sư Liên Trì. Người bạn chạy lấy một que gỗ để hất con rết xuống nhưng nó vẫn không chịu đi. Sư Liên Trì tỏ vẻ không chút sợ hãi.

Nhà sư hỏi con rết: “Phải chăng ngươi là con rết mà ta đã mua và thả ra ban nãy? Nếu chính là con thì hãy ở lại đây để ta thuyết pháp cho nghe.”

Con rết nằm yên không cử động, và sư Liên Trì dịu dàng bảo nó: “Bất cứ ai thông suốt những lời dạy của chư Phật đều hiểu biết rằng bản thể của vạn vật trong thế giới vật chất này đều do tâm chúng ta tạo ra.

“Mọi cuộc sống đều do tâm làm chủ. Con người có ý tưởng xấu xa, ích kỷ sẽ trở thành chó sói hay cọp beo. Người nào có tâm nham hiểm sẽ biến thành loài rắn dữ, bò cạp hay loại sâu bọ độc hại khác.

“Kiếp này con làm thân con rết có chất độc. Phải chăng đó chỉ là việc tình cờ? Không phải, mà chính do đời trước con đã có cái tâm ác độc. Nếu con muốn hết khổ đau, con phải dứt trừ cái tâm xấu ác, và con sẽ được giải thoát. Nhưng chỉ có con mới cứu thoát được cho con.

“Con hiểu chưa? Thôi khá đủ rồi. B?
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

daodietkho

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 10 2006
Bài viết
196
Điểm tương tác
2
Điểm
18
Địa chỉ
??n ?? r?i ra ?i
LÒNG THƯƠNG YÊU SỰ SỐNG (THE LOVE of LIFE)

Tác giả: G.B. Talovick - Người dịch: HT. Thích Trí Chơn
Nhà Xuất Bản TP.HCM, Năm 2003 - 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1

Tập 2

MỤC LỤC

1. Phật Cắt Thịt Mình Thế Thịt Chim Bồ Câu
2. Cái Chết Thê Thảm
3. Vận Mạng Có Thể Thay Ðổi.
4. Kẻ Tàn Ác Chết Thảm Khốc
5. Ðồng Tiền Dính Máu
6. Con Rắn Trả Thù
7. Những Con Cua Hạnh Phúc
8. Ăn Chay Thoát Khỏi Ách Nạn
9. Kêu Rên Suốt Ba Tháng
10. Một Bữa Tiệc Sinh Nhật Khủng Khiếp
11. Những Con Ong Trả Thù
12. Bầy Voi Chở Nước Cứu Sống Ðàn Cá
13. Bát Canh Chiếc Ðũa Ngọc
14. Nhờ Cứu Nai Mà Thoát Nạn
15. Sét Ðánh Kẻ Tham Tàn
16. Giết Dê Biến Thành Dê
17. Con Rùa Ðến Ðòi Mạng
18. Thay Ðổi Vận Mạng Nhờ Lòng Từ Bi
19. Thi Ðậu Nhờ Phóng Sinh.
20. Bà Lão Khổng Thoát Nạn Nhờ Phóng Sinh
21. Ông Vương Cắn Lưỡi Chết Vì Sát Hại Chim Sẻ
22. Một Bữa Tiệc Sinh Nhật Lý Tưởng
23. Sự Sống Là Quý Báu
24. Thân Người Với Ðầu Bò
25. Giết Ba Ba Bị Quả Báo
26. Loài Thủy Tộc Trả Ơn
27. Giết Hại Lươn Bị Quả Báo
28. Quét Ốc Gieo Mầm Phước
29. Giết Trâu Bị Quả Báo Nhãn Tiền
30. Bắt Ếch Bị Quả Báo

Phật Cắt Thịt Mình Thế Thịt Chim Bồ Câu

Trời quang mây tạnh, ánh dương chiếu khắp,cảnh sắc tươi vui. Ðức Phật trên đường đi vào rừng bỗng gặp thấy một con chim ưng to lớn đang đuổi theo một con chim bồ câu. Nhận biết chim ưng đang sà xuống để chụp bắt mình, chim bồ câu gặp Ðức Phật, nó bay nhanh tới đậu bên cạnh Ngài để lánh nạn. Ðức Phật liền bảo vệ che chở cho nó khỏi bị chim ưng tấn công.

Chim ưng bèn xếp cánh đáp xuống đậu ở một cành cây và nói: “Ngài thương muốn cứu sống bồ câu, chẳng lẽ để cho tôi chết đói. Như vậy là Ngài không tốt”.

Ðức Phật từ bi hỏi: “Ngươi cần gì để no lòng, ta sẵn sàng cung cấp cho ngươi”.

Chim ưng liền đáp: “Tôi muốn ăn thịt”.

Ðức Phật liền rút ra một con dao, thản nhiên cắt thịt nơi cánh tay của mình. Ngài trao thịt cho chim ưng. Nhưng chim ưng chê ít không bằng thịt bồ câu. Do đó, Ðức Phật lại xẻo thêm thịt nơi cánh tay của Ngài, nhưng khi Ngài cắt tận đến xương thì không còn thịt nữa. Cuối cùng Ngài phải cắt hết tất cả thịt nơi cánh tay của Ngài nhưng vẫn không làm sao cân đủ nặng bằng thịt bồ câu.

Chim ưng hỏi Ðức Phật: “Ngài có hối tiếc khi cắt thịt hủy hoại cánh tay của Ngài không?”

Ðức Phật trả lời: “Ta không có một chút gì hối hận vì hạnh nguyện của Ta là cứu độ tất cả mọi chúng sanh thì một ít thịt nơi cánh tay ta có gì là đáng tiếc?”

Chim ưng nhạo báng tỏ bày: “Ngài nói nghe đạo đức quá mà không biết có thực tâm không”

Ðức Phật liền đáp: “Nếu lời nói này của ta xuất phát từ lòng chí thành thì mong thịt cắt khỏi cánh tay ta sẽ liền lại như trước”. Ðức Phật phát lời thề nguyền vừa xong, thịt cánh tay Ngài tức thời lành dính lại như cũ.

Chim ưng thấy vậy liền bay vút lên không và hiện nguyên hình là vị Ðế Thích (Vua Cõi Trời). Ðế Thích nghe thiên hạ bảo rằng Ðức Phật luôn có lòng thương bao la cứu giúp chúng sanh cho nên Ngài hóa làm chim ưng xuống trần gian gặp để thử Ðức Thế Tôn. Chim ưng hướng về Ðức Phật đảnh lễ với tâm thành cung kính; miệng không hết lời tán thán lòng từ bi vô lượng của Ngài rồi bay đi.

Hàng nghìn năm qua, mọi người ai cũng biết sự tích Ðức Phật xưa kia đã từng hy sinh chặt đứt cánh tay của mình để cứu sống con chim bồ câu.


Cái Chết Thê Thảm

Vào năm 1732 tại huyện Quỳ Hưng (Trung Quốc) có một người họ Ngụy, vốn là dân vô nghề nghiệp, rất giỏi bắn chim. Những con chim bắt được, ông đem đi bán hoặc giết chúng làm thịt nhậu với rượu.

Ông cũng thích bắt lươn, ếch và rùa. Ðôi lúc ông còn dùng thuốc độc để giết chết cá trong ao hồ bắt được nhiều vô số kể. Hoặc y phá tổ chim lấy trứng.

Các bạn bè khuyên ông: “Này ông Ngụy không nên sát sanh. Ông nên cày ruộng hay làm một nghề gì chân chính khác thì tốt hơn”.

Ông Ngụy chẳng bao giờ nghe lời khuyên của họ. Ông còn bảo họ là ganh ghét dòm ngó đến việc làm ăn của ông.

Nhiều năm sau, ông đã giết hại vô số sinh linh, gây ra một món nợ máu to lớn. Cuối cùng ông mắc một chứng bịnh mụt nhọt mọc lên khắp thân người.

Nhiều mụt độc lớn như trứng bồ câu, và trong mỗi mụt có một hòn sắt to bằng viên đạn súng bắn gần. Toàn thân ông Ngụy chứa đầy mũ hôi thối. Ông vô cùng đau đớn, gào thét kêu la thảm thiết chẳng khác gì tội nhân đang bị đọa đày ở cảnh giới địa ngục.

Sau ít ngày xác thân bị hành hạ rồi ông Ngụy nhắm mắt lìa đời. Gia đình ông đi sắm một cổ quan tài. Vào lúc thân quyến đang lo việc đám ma chôn cất, mọi người nghe có tiếng ồn ào kỳ lạ. Nhìn ra họ thấy vô số hàng trăm sinh vật đang tới xâm nhập vô nhà ông Ngụy! Bà con thiên hạ đều hết sức kinh ngạc. Họ sửng sốt nhìn thấy từng đàn chim, nhiều dê, rùa và ếch kéo nhau đến tiến vào nhà ông. Tang quyến trong gia đình chưa kịp phản ứng, thì tất cả những con vật đó đều đồng loạt tấn công vào xác chết ông Ngụy. Chúng gặm và cắn. Chúng cào xé và cắt rạch. Chúng nhai và kéo giật. Vài con lại đá vào thi thể của ông.

Vợ con trong gia đình nhận biết đó là quả báo do các hành động ác giết hại nhiều sinh vật vô tội của ông trước đây gây ra. Trong chốc lát, cái thây ma của ông Ngụy chỉ còn lại bộ xương trắng.


Vận Mạng Có Thể Thay Ðổi

Viên Lưu Trang là một nhà tướng số danh tiếng. Nhìn chỉ tay hay cái mũi của một người nam hoặc nữ, ông có thể đoán biết trước vận mạng tương lai của họ. Một hôm có một vị đại thần dắt con đến nhờ ông xem tướng. Viên Trang coi tướng xong biết đứa bé này vài năm sau sẽ chết. Ông liền bảo cho vị quan kia hay.

Nghe nói vậy, vị quan ấy rất đau khổ. Trên đường về nhà ông đến gặp một vị sư. Vị tăng hỏi: “Có việc gì xảy ra mà trông ngài sầu não như thế?” Vị quan đáp rằng ông vừa mới nghe nhà tướng số báo cho biết một tin chẳng lành.

Hòa Thượng liền xem tướng đứa nhỏ để tìm hiểu vận mạng của nó. Ngài nói với cha em bé: “Chỉ có phước đức mới cứu được mạng sống của cháu. Nhưng cơ duyên làm phước không phải dễ. Nếu ngài muốn có phước đức thì cách tốt nhất là nên phóng sinh. Tạo phước đức bằng hành động thiện không giết hại sinh vật mới có thể bảo vệ mạng sống cho con ông.

Nghe lời Hòa Thượng, vị quan kia liền phát nguyện không bao giờ sát sanh mà lại còn phóng sanh. Ông tinh tấn làm lành như vậy được ít năm; sau đó gặp lại cha con ông, Hòa Thượng bảo: “Chưa đủ! Ông cố gắng tạo thêm nhiều thiện nghiệp nữa mới có thể cứu được mạng sống của con ông”.

Viên quan lại nỗ lực cứu thoát nhiều sinh vật nữa. Khi gặp dịp làm phước giúp đỡ ai, người cũng như thú vật; ông luôn luôn sẵn sàng đóng góp thời giờ lẫn tiền bạc. Nhờ vậy, viên quan đã cứu độ vô số sinh linh, và người con đến năm bị chết yểu nó vẫn sống và biến đổi trở thành một thanh niên khỏe mạnh.

Nhà tướng số Viên Lưu Trang biết sự việc này. Từ đó về sau, mỗi khi coi thấy người nào có vận mạng xấu, ông liền khuyên bảo họ nên cố gắng làm việc phước đức và đừng bao giờ sát sanh. Nhờ tu nhân tích đức mà nhiều người đáng lý sẽ phải chết sớm khổ đau, họ lại sống trường thọ; nhiều kẻ nghèo khó trở nên giàu sang.



Kẻ Tàn Ác Chết Thảm Khốc

Bây giờ chúng tôi kể cho quý vị nghe một câu chuyện khủng khiếp.

Thuở xưa, có một viên tri huyện ngày thường thích ăn chân vịt và tim dê sống. Khi muốn thưởng thức chân vịt thì ông sai người nhà treo con vịt trên cái chảo rồi đốt lửa ở dưới. Khi lửa đốt chảo nóng, con vịt bị nóng quằn quại kêu la thảm thiết nhưng viên quan huyện vẫn thản nhiên không chút động lòng. Vì lửa thiêu quá nóng cho nên chân vịt phồng to lên. Sau cùng, máu toàn thân dồn xuống đôi chân và con vịt bị đốt cháy đến chết. Sửa soạn một món ăn bằng cách đó thì thực là quá sức tàn ác!

Kế đến, ông sai người nhà đem con dê buộc chặt vào cái cọc. Rồi người làm bếp dùng dao lột da xương sườn và dùng tay móc lấy tim gan sống của dê. Họ nấu các thứ này làm món ăn để nhắm với rượu. Lúc ấy con dê khốn khổ kêu la be be thảm thương đau đớn cho đến chết.

Bấy lâu nay, viên quan huyện đã giết hại và ăn thịt nhiều con vịt và dê một cách tàn nhẫn như vậy. Một ngày kia, có một nhà thức giả đến khuyên ông nên thay đổi cuộc sống và chấm dứt ngừng sát hại những con vật vô tội. Quan huyện chẳng những không thèm nghe mà còn chửi mắng và nguyền rủa người ấy. Vị thức giả liền bảo:

“Ông sắp mắc bệnh hiểm nghèo rồi chết đó”. Nói xong, vị thức giả liền bỏ đi.

Viên quan huyện vẫn tiếp tục lăng mạ sỉ vả ông ta. Nhưng không lâu sau đó khắp thân thể quan huyện mọc lên những mụt nhọt lở loét. Hằng ngày ông sống trong đau đớn. Ông đến gặp nhiều vị danh y nhờ chữa trị nhưng không ai có thể chữa lành được căn bệnh quái ác ấy. Cuối cùng quan huyện đã sớm lìa đời và mùi hôi thối nơi thân ông xông lên thấu tận trời xanh không ai dám đến gần.


Ðồng Tiền Dính Máu

Triệu Dung là người hay ngồi lê đôi mách. Ông sống bằng nghề bắt cua đem bán. Do đó, ông đã giết hại nhiều sinh vật, nhưng ông là một người con rất tốt. Triệu Dung không dùng tiền kiếm được cho chính bản thân mình. Ông đã lấy tiền đó để nuôi nấng chăm sóc cho bà mẹ già. Mọi người đều khen ông là một đứa con rất có hiếu.

Người con thì tốt, nhưng bà mẹ lại xấu. Bà không bao giờ khuyên dạy con làm điều thiện. Bà dùng tiền của người con cung cấp vào việc tiêu xài ăn uống cho bằng thích.

Một ngày nọ, bà ngã bệnh nằm trên giường. Bà kêu rên đau đớn. Khi Triệu Dung về đến nhà, ông nhìn thấy xảy ra một cảnh tượng quá khủng khiếp. Mẹ ông có hành động như một người điên mất trí. Bà lấy cái dây gai mà hằng ngày ông dùng để cột cua, nhét đưa vào miệng và nhai nuốt xuống bụng! Ông Triệu Dung chạy đến ngăn chận thì bà cụ lại đưa tay ra cự tuyệt. Trong chốc lát, bà lôi hết sợi dây gai ra; vừa kéo ra xong, bà lại nuốt vào. Rồi bà cụ rên rỉ và nôn ọe. Những người hàng xóm nghe tiếng ồn xúm lại coi thử bà đau ốm ra làm sao.

Một lát sau, người ta thấy sợi dây gai dính đầy máu và những chất dơ bẩn kéo theo từ trong phổi cũng như gan ruột của bà. Khắp phòng bay mùi tanh hôi và trước cảnh tượng quá dơ bẩn khủng khiếp đã khiến cho nhiều người hàng xóm ghê tởm nôn mửa khắp nền nhà.

Sau cùng, bà cụ của Triệu Dung ngồi dựa lưng vào chiếc gối. Bà lẩm nhẩm nói một mình: “Con ta đã bắt giết hại nhiều cua bán để kiếm tiền. Ðây là hành động tội ác chống luật thiên nhiên, nhưng nó có hiếu đã dùng tiền đó cấp dưỡng nuôi ta. Nhưng rất tiếc là ta đã không biết dùng số tiền này để làm việc phước đức! Mà ta đã tiêu xài lãng phí những đồng tiền dính máu đó vào sự ăn uống của ta cho bằng thích; bởi vậy giờ đây ta đành chịu quả báo trả món nợ máu khủng khiếp này! Ta phải rửa sạch nội tạng trong thân thể của ta hay là ta sẽ chịu khổ đau do hành động ác đức của mình gây ra”.

Triệu Dung hối hận vì nghề sinh sống của y đã tạo nên sự giết chóc đau khổ cho những con cua vô tội. Rồi hai mẹ con cùng khóc và khóc thảm thiết; nhưng sau nhiều ngày trôi qua, bà mẹ của Triệu Dung đã từ trần một cách đau đớn.



Con Rắn Trả Thù

Tại vùng đất phía nam thành Giang Sơn ở Trung Hoa, có một nông dân tính ưa sát sanh. Ông lập gia đình nhưng đã hơn bốn mươi tuổi mà chỉ có một đứa con trai nhỏ chín tuổi.

Vào một ngày trong tháng 05 năm 1868 người nông dân này vác cuốc ra đồng làm ruộng như thường lệ. Trên đường đi bổng ông gặp một con rắn lớn. Con rắn khi thấy người nông dân liền trừng mắt nhìn ông ta và le lưỡi dài ra. Nó có vẽ sợ sệt và muốn cầu cứu xin ông tha tội chết.

Người nông dân tự bảo: “Chắc là tao phải giết mày thôi”. Con rắn muốn tìm đường chạy thoát. Rồi trong chớp nhoáng người nông dân dùng lưỡi cuốc chặt con rắn đứt làm hai khúc.

Nhìn con rắn chết nằm bất động, anh ta vác cuốc lên vai trở về nhà vừa đi vừa ca hát vui vẻ.

Ngay chiều hôm đó, đứa con ông nằm mơ thấy một con rắn lớn đến cắn nó. Người con quá hoảng sợ và thức dậy. Nó lên cơn sốt và nóng lạnh. Rồi miệng đứa bé nói lầm rầm: “Rắn cắn con! Rắn cắn con đau quá!

Người cha hoảng hốt không biết vì sao đứa con kêu la như vậy. Vào lúc ông chuẩn bị đi mời thầy thuốc đến chữa trị thì thấy đứa con le lưỡi ra rất là dài! Nó không giống cái lưỡi của con ông chút nào mà tựa hồ như lưỡi của một con rắn! Người nông dân đau đớn kêu la thất thanh: “Con ôi! Con yêu quí của ba!” Nhưng rất tiếc là đã quá trễ. Trong giây lát, đứa bé đáng thương ấy đã nhắm mắt lìa đời.


Những Con Cua Hạnh Phúc

Lương Thối An tiên sinh là một vị lương y không những chỉ cứu giúp người, mà ông độ thoát cho nhiều chúng sanh. Hẳn nhiên, ông ta là người ăn chay.

Một buổi chiều, bạn ông là Tề Phi mang đến biếu hai giỏ cua đồng để ông nhắm nháp với rượu. Người sành ăn đều biết rằng thịt cua vào mùa thu mà nhậu với rượu thì hết xẩy. Nhưng ông Lương hành động khác hẳn. Ông không vào bếp luộc nấu mấy con cua này mà đã mang chúng ra thả nơi dòng sông ở gần nhà.

Lúc ấy, một người khách từ Hồ Châu đến thăm thấy vậy liền nói: “Tiên sinh thực là người quá nhân đức. Hành động tốt của ông chẳng khác gì ông Trương Phong ở làng tôi, Gia đình ông ta nhiều đời ăn chay, không sát sanh; nhờ phước đức ấy mà anh em con cháu trong nhà đều thi đổ được làm quan vinh hiển ở triều đình. Nay tiên sinh tạo phước lành như thế, tôi nghĩ tương lai các con của ông sẽ đỗ đạt thành danh có chức trọng quyền cao giống như gia đình ông Trương Phong”.

Ông Lương mỉm cười nói: “Làm việc thiện là bổn phận của con người, đâu cần gì mong được sự báo ứng tốt đẹp. Từ trước đến nay khi làm phước giúp ai tôi không hy vọng để người ta nhớ ơn đền trả cho tôi hay gia đình tôi.

Và ông biết rằng phải chăng những con cua đó sẽ thấy sung sướng khi được bơi lội dưới sông hơn là trong nồi nước sôi? Ðó là phần thưởng khá đủ cho tôi rồi”.

Về sau, người con trai của Lương Thối An là Tể Thanh lớn lên, học hành thi đổ với đám rước linh đình và được nhà vua bổ nhiệm làm quan tại Cao Châu. Khi Tể Thanh được triều đình phái đến cai trị quận Mân, ông ta gặp lại người bạn thân là ông Trương cũng đang làm quan tại đó. Sau này Tể Thanh biết ông Trương con của tiên sinh Trương Phong cũng ăn chay. Ông Trương đến ở lại chơi nhà ông Lương Tể Thanh một tháng. Ông vui mừng nhận thấy mọi người trong gia đình không dùng thịt cá. Phần lớn các thức ăn vào buổi cơm chiều hoàn toàn là đồ chay.

Cư sĩ Lương Tể Thanh rất mến phục ông Trương. Ông Trương là người chất phác và siêng năng làm việc. Ông sống và ăn uống giản dị. Mỗi sáng, ông dùng điểm tâm nhẹ rồi đến sớm văn phòng làm việc. Ông ít khi nào đi trễ như một vài quan chức cao cấp khác. Và ông Trương cũng không bao giờ trì hoãn trong mọi công vụ trách nhiệm của mình.

Các bạn nên suy nghĩ đến những hành động lành của ông Trương. Nếu mọi người đều giữ giới không sát sanh; ăn uống đơn giản. Nếu ai cũng hết lòng làm việc, không ồn ào khoe khoang, háo danh hoặc tham nhũng. Và nếu tất cả đều ăn hiền ở lành, ngay thật; được như vậy, phải chăng chúng ta đang sống trong một thế giới hòa bình an lạc?

Nếu các bạn muốn sống trong thế giới thiên đường này thì chính quý vị phải bắt đầu xây dựng cảnh giới đó. Các bạn không thể mong chờ kẻ khác đối xử tốt và thành thật với mình nếu quý vị không thực hiện trước các hành động đạo đức ấy.


Ăn Chay Thoát khỏi Ách Nạn

Vào đời nhà Minh (1368-1661) ở Trung Hoa có một Phật tử tên Vương Thành, thường ngày hay làm phước giúp đỡ mọi người; nhất là những trẻ mồ côi và nghèo khổ.

Cư sĩ tụng kinh niệm Phật mỗi ngày. Nói chung, cư sĩ là một Phật tử rất thuần thành. Nhưng rất tiếc vì một vài lý do, cư sĩ đã không giữ được giới không sát sinh và thường ăn mặn.

Ông sống gặp thời nhiễu nhương. Thiên hạ chịu nhiều cảnh thiên tai, nạn trộm cướp hoành hành khắp nơi trong nước. Lòng cư sĩ Vương xót xa lo lắng. Nghe đồn tại một hang động có một vị Hòa Thượng tu hành đắc đạo, có thể biết chuyện quá khứ và tương lai. Ðại sư cũng thấu triệt lý thuyết gây nhân và chịu quả của Phật Giáo. Mặc dù đường xa và nguy hiểm, Vương cư sĩ quyết tâm muốn đến đó gặp Ngài để tham vấn.

Sau cùng, trải qua nhiều khó khăn gian khổ, ông ta đã tới được động tu của vị Tăng. Lúc gặp hòa thượng, ông thưa: “Kính bạch tôn đức, hiện nay xã hội đang bị trộm cướp, đạo tặc tung hoành. Dân chúng bị đàn áp cướp bóc bởi những người mang vũ khí đó. Chúng con không biết làm sao bảo vệ cuộc sống bình an. Chúng con đang bị chìm đắm trong biển khổ của tai ương, thảm họa. Chúng con ngưỡng mong tôn sư mở lòng từ bi giang tay cứu độ sinh linh”.

Hòa thượng mỉm cười hỏi: “Phải chăng ông là Vương Thành?”

Vương hoảng kinh đáp: “Ðệ tử chính là Vương Thành đây nhưng làm sao hòa thượng biết tên con?

Hòa thượng đáp: “Nếu ông không thể giữ giới ăn chay thì có hỏi việc gì cũng vô ích thôi”.

Vương lại hỏi nữa nhưng vị đại sư vẫn không trả lời. Sau đó, Vương trở về nhà và suy nghĩ đến điều mà hòa thượng đã dạy bảo. Từ đó, ông ta quyết tâm chấm dứt việc ăn thịt các thú vật chết.

Ít năm sau Vương trở lại động tu của vị đại sư. Gặp lại ông, hòa thượng cười bảo: “Khá tiến bộ đấy! Nay ông đã liễu đạo, tâm ông đã thấm nhuần giáo lý Từ Bi”.

“Hiện nay chúng ta đang sống trong thời đại dối trá đảo điên. Bọn đạo tặc lộng hành khắp bốn phương. Chỉ có những ai giữ giới không sát sinh mới sống trong hòa bình an lạc. Ðây là luật vay trả trong vũ trụ”.

Nói xong, hòa thượng nhắm mắt tiếp tục thiền định.

Vương Thành trở về nhà tích cực thuyết giảng cho mọi người hiểu rằng không ai sát sanh hại vật mà có thể mong sống trong an lạc. Bởi vì người gây nhân giết chóc sẽ gặt quả giết chóc.

Cho dù các bạn làm điều thiện, nhưng các bạn ăn thịt, các bạn phải chịu trách nhiệm về những con vật bị giết chết, thì không bao giờ có được sự an lạc chân chính. Muốn có an lạc, bạn phải tạo sự an lạc, chứ không phải tạo khổ đau cho mọi chúng sanh. Phương cách tốt nhất để thực hiện điều đó là chúng ta nên tôn trọng sự sống của mọi loài và luôn luôn ăn chay.



Kêu Rên Suốt Ba Tháng

Ánh đèn leo lét, lập lòe trong gió lạnh.

Dân chúng Trung Hoa tin rằng gặp thời tiết lạnh lẻo, dùng thịt chó sẽ giúp cơ thể con người ấm áp. Cho nên vào ngày giá rét này trong quán ăn thịt chó người ta thấy không còn một chỗ trống. Giữa khung cảnh đầy mùi thịt chó, đông đảo thực khách vào ăn nói chuyện ồn ào huyên náo.

Phía bên phải ở đàng sau quán, Tào Thăng Nguyên đang xách một con chó đã giết chết bỏ vào trong một cái thùng để nấu thịt. Trong nhiều năm, y sinh sống bằng nghề giết chó, và cuối cùng y mở quán nhậu thịt chó này. Công việc làm ăn phát đạt, y đã mướn thêm người giúp việc.

Người này cao hứng nói nhỏ với y: “Tào đại ca, con chó này mập thật đấy!”

Tào Thăng Nguyên tủm tỉm cười nói: “Lão đệ, chú thật là sành nghề. Con này chắc chúng ta sẽ kiếm được nhiều tiền lời lắm đó nghe!”

Chủ tớ hai người ngồi cạnh thùng nước sôi tiếp tục mài dao chuẩn bị nấu thịt chú chó này.

Thình lình xác con chó từ trong thùng vượt nhảy ra ngoài. Nó bay lên không nhắm thẳng đến Tào Thăng Nguyên ngoặm và cắn vào cổ y. Tào Thăng Nguyên hốt hoảng kêu la cứu mạng thất thanh!

Nghe tiếng kêu cứu, các thực khách đang ngồi trong quán ăn vội chạy đến xem. Họ thấy cảnh thây con chó chết đang cắn vào cổ Tào Thăng, máu đỏ tươi từ vết thương phun ra lai láng. Thật là khủng khiếp không ai dám nhìn!

Sau khi giật được xác con chó chết ra khỏi cổ, Tào Thăng Nguyên đi khắp nơi tìm gặp nhiều thầy thuốc giỏi, nhờ chữa trị vết thương. Nhưng chẳng may không có loại thuốc nào công hiệu. Vết thương ngày càng lở loét và nhức nhối nặng thêm. Tào Thăng kêu la rên rỉ suốt ngày đêm.

Sau ba tháng hành hạ xác thân đau đớn, cuối cùng Tào Thăng lìa đời. Những người hảo ăn thịt chó ở trong vùng chứng kiến cảnh tượng hãi hùng ấy, từ đó về sau, không ai còn dám ăn thịt chó nữa vì nhận biết rằng bất cứ con vật nào bị giết thịt, nó đều cảm thấy đớn đau vô cùng.



Một Bữa Tiệc Sinh Nhật Khủng Khiếp

Ngày xưa, có một viên quan huyện phát nguyện ăn chay không bao giờ sát sanh, nhưng bà vợ của ông tính tình rất tàn ác lại thích ăn miếng ngon. Hằng ngày bà sai người nhà giết các sinh vật nấu thức ăn ngon cho bà. Chồng bà không bao giờ dùng thịt các con vật chết đó.

Năm nọ, bà bảo các đầu bếp nấu một bữa tiệc thịnh soạn vào dịp sinh nhật của bà để đãi khách. Dưới nhà bếp, những con heo, dê, gà, vịt kêu la thảm thiết bởi vì chúng biết sắp bị người ta giết để làm thịt.

Nhìn cảnh tượng thương tâm ấy, lòng ông cảm thấy quá bất nhẫn. Ông nói với bà vợ: “Ngày mai là ngày sinh nhật của bà mà những con vật lại bị giết chết, thật quá tội nghiệp. Bà nên mở rộng lòng từ, gieo trồng cội phúc”.

Bà ta nỗi giận nói: “Cứ theo lời ông bảo thì tất cả chúng ta nên quy y theo Phật và giữ giới không sát sanh hết? Nếu mọi người đều tu rị như thế thì trong vài năm nữa trái đất này sẽ đầy ắp loài cầm thú”.

Hôm sau, bà sung sướng chờ đợi giờ khai diễn bữa tiệc của mình. Trước tiên khi con heo được lôi ra thọc huyết thì hồn của bà gá vào thân heo để chịu nổi thống khổ bị dao cắt xẻ da thịt rã rời từng miếng!

Kế đến con dê bị giết, hồn bà gá vào thân dê để chịu nổi đau đớn của sự lăng trì xẻo thịt. Ðến lượt giết gà hồn bà gá vào thân gà để chịu cực hình bị vặn bẻ cổ.

Bà chưa bao giờ phải chịu sự hành hạ khổ đau khủng khiếp nhiều đến như thế. Mỗi lần một con vật bị giết, thân xác bà ta cảm thấy vô cùng đau đớn. Lúc ấy bà nhận biết mình đã làm một việc quá tàn ác. Bà ta liền bảo những người đầu bếp ngừng giết những con vật vô tội và thả hết chúng ra.

Từ đó, bà không bao giờ sát sanh hay dùng ăn thịt của bất cứ sinh vật nào. Bà ta nói cho mọi người hiểu rõ về nỗi đau đớn của những con vật bị giết chết và thực là tàn ác khi chúng ta sát hại những súc vật câm nín đó.

Nhờ lòng từ bi không sát sanh hại vật mà bà đã sống trường thọ.



Những Con Ong Trả Thù

Lục Hiếu Chánh là một viên quan nhỏ tại một huyện ở vùng tây bắc Trung Quốc vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ bảy tây lịch, bắt đầu triều đại nhà Ðường (618-905) một trong những thời kỳ sáng chói nhất của lịch sử Trung Hoa.

Rất tiếc ông Lục là người keo kiết. Ông không thể kết bạn với bất cứ ai. Ông ta ít học lại còn hung ác. Nếu người giúp việc làm điều gì ông không thích, ông ta chửi mắng và đánh đập họ. Nếu ông cư xử với mọi người như vậy thì có khác gì ông coi họ như loài thú vật!

Một hôm, ông Lục nhìn thấy trên cây ở trong vườn nhà, có một tổ ong mật. Ông ta bần tiện không muốn bầy ong lợi dụng làm tổ nơi cái cây của mình. Ông bảo người nhà giúp việc phá cái tổ ong đó. Nhưng mấy con ong vẫn bay đến tụ lại làm tổ trên cây ấy mà không chịu dời đi. Và người ở sợ bầy ong chích đốt.

Ông Hiếu Chánh rất tức giận liền sai gia nhân nấu nước sôi mang lại trút ngay lên tổ ong. Ðáng thương thay hàng trăm con ong vô tội bị giết hại một cách oan uổng.

Năm sau vào tháng 05, Hiếu Chánh nằm nghỉ trong phòng và đang ngủ say ngon giấc. Thình lình ông kêu la thất thanh nhảy xuống giường và đưa tay sờ cảm thấy đau nhức nơi miệng!

Thì ra, một chú ong to bự đã bay vào phòng và đốt một phát nơi miệng bên phải của ông. Trong giấy lát, miệng ông Hiếu Chánh sưng húp lên. Ông cảm thấy vô cùng đau đớn nhức nhối. Ông kêu rên và la hét thảm thiết.

Nghe vậy, các gia nhân liền chạy vào xem thử việc gì đã xảy ra. Họ mời thầy thuốc đến thoa thuốc ở vết ong cắn nơi miệng ông, nhưng vẫn không chữa lành được. Miệng của ông ngày càng sưng to lên và cổ không thể nuốt. Ông Lục cũng không cách nào mở miệng để nhai hay ăn uống gì được.

Nhìn bệnh tình của ông như vậy, thầy thuốc lắc đầu nói: “Có thể nọc độc của ông đã xâm nhập vào đến tim ông rồi”.

Những ngày sau, cơn đau nhức nơi ông vẫn không thuyên giảm. Thân thể ông Lục ngày càng tiều tụy và suy yếu. Bấy giờ ông nghĩ nhớ đến hành động thất đức của mình đã sát hại tổ ong ngày trước. Có thể đây là quả báo do tội ác giết chết nhiều ong của ông gây ra. Có thể như vậy. Nhưng đến giờ này ông mới biết hối hận về việc làm vô cùng tổn phước của mình thì đã quá muộn không còn cách gì cứu vãn được nữa.



Bầy Voi Chở Nước Cứu Sống Ðàn Cá

Cách đây hai ngàn năm bên cạnh dòng sông ở xứ Ấn Ðộ, có một hồ nước chứa hàng nghìn con cá. Chúng sống hạnh phúc nơi dòng nước trong. Chúng nhảy, nhởn nhơ bơi lội và lững lờ đuổi bắt nhau một cách thích thú.

Rồi gặp lúc trời nắng hạn trải qua nhiều ngày không có một giọt mưa. Nước trong hồ mỗi ngày bốc hơi dần dần đến lúc hoàn toàn khô cạn. Nếu hồ khô nước thì những con cá sẽ chết dưới ánh sáng mặt trời nóng bức thiêu đốt.

Một ngày kia, trời đang nắng chói chang, bất chợt một ông lão già đến viếng bờ hồ. Ông thấy hồ nước khô cạn liền nảy sinh mối từ tâm. Ông lập tức đến yết kiến vị quốc vương và tâu rằng: “Tâu đại vương, hồ nước sắp khô, không bao lâu nữa đàn cá sẽ chết hết. Xin đại vương cho hạ thần hai mươi thớt voi để chở nước tới đổ vào hồ hầu cứu sống đàn cá”.

Vị vua này vốn là một Phật-tử thuần thành, nên khi nghe lời thỉnh cầu của ông lão già liền nói: “Thực khó gặp được người có lòng từ bi như khanh. Vây khanh có thể đến chuồng voi, cần bao nhiêu tùy ý dắt voi đi chở nước để cứu sống đàn cá khốn khổ sắp lâm nguy”.

Sau khi nghe nhà vua trả lời cho phép, ông lão cùng với hai người con đến chuồng voi chọn lấy hai mươi thớt voi lớn khỏe nhất.

Ðồng thời ông đến quán rượu mượn nhiều bình đựng rượu - tại Ấn Ðộ thuở xưa người ta thường chứa rượu trong bình để mang đi. Rồi ba cha con dắt đàn voi đến con sông lớn nhất trong vùng lấy nước chứa đầy trong tất cả những bình này. Sau đó, hai mươi thớt voi chở những bình nước đầy tới đổ hết nước xuống hồ cá.

Sau nhiều chuyến đi, hồ tràn ngập nước trở lại như lúc chưa bị nắng hạn. Hàng vạn con cá trong hồ được cứu sống! Chúng vui mừng đùa giỡn, vẫy sóng và bơi lội qua lại thỏa thích.

Ông lão đứng nhìn đàn cá sung sướng vẫy vùng trong nước, trên mặt hồ gợn sóng lăn tăn; bao nỗi âu lo phiền muộn nhiều năm chất chứa trong lòng ông bỗng dưng tan biến hết.

Ðến lúc trời tối, ông lão cùng hai người con hân hoan dắt đàn voi trở về chuồng và đến thông báo cho nhà vua biết tin vui là đã cứu sống được hàng vạn con cá mắc cạn.


Bát Canh Chiếc Đũa Ngọc

Ngày xưa tại Ôn Châu tỉnh Tích Giang bên Trung Quốc có một thanh niên tên là Tiêu Chấn. Ðêm nọ, anh ta nằm mộng thấy một vị Thần mặc áo giáp vàng đến nói với anh: “Này chú bé, tuổi thọ của con chỉ có mười tám năm mà thôi”. Khi thức giấc, Tiêu Chấn cảm thấy sợ hãi. Anh ta rất buồn và lo lắng cho mình sẽ chết sớm.

Thân phụ anh vốn là một vị quan thanh liêm ở triều đình. Ông được thăng chức và đổi đến trấn nhậm tại tỉnh xa Tứ Xuyên. Tiêu Chấn không muốn rời nhà đi theo cha, vì anh ta nghĩ rằng mình không còn sống được bao lâu. Thân phụ anh không biết gì về giấc mơ của Tiêu Chấn, cho nên ông lại muốn anh ta theo hầu bên mình.

Một ngày sau khi thân phụ anh đến nhiệm sở nhận chức vụ mới, thì ông được các quan ở tỉnh Tứ Xuyên mở tiệc thết đãi. Và dĩ nhiên Tiêu Chấn cũng bị bắt buộc đến tham dự. Theo tục lệ của tỉnh Tứ Xuyên, hễ sau ba tuần thưởng thức rượu ngon vật lạ thì nhà bếp sẽ dâng lên một món ăn đặc biệt gọi là “Bát Canh Chiếc Ðũa Ngọc”.

Phương pháp nấu tô canh này rất là tàn nhẫn. Người ta nung chiếc đũa sắt nóng đỏ rồi đặt nó dưới vú con bò cái. Sữa nơi vú chảy tràn ra trên chiếc đũa. Khi người đầu bếp lấy chiếc đũa ra trông nó giống như ngọc thạch. Bát canh nấu với sữa đó, trở thành một món ăn tuyệt hảo.

Trong lúc chờ đợi buổi tiệc bắt đầu, bất ngờ Tiêu Chấn đi xuống nhà bếp. Anh thấy con bò bị trói nơi cây cọc, và chiếc đũa sắt được nung trong lò than đỏ. Anh ta liền hỏi người đầu bếp và được ông ta trình bày cặn kẽ cách thức sửa soạn món ăn tàn ác đó. Nghe vậy, Tiêu Chấn hết sức kinh ngạc liền đi đến gặp thân phụ nài nỉ ông bảo người đầu bếp hãy ngưng không nấu thực đơn ấy. Anh nói: “Người ta đem chiếc đũa sắt nóng đỏ nung vào vú con bò để làm thành món ăn tuyệt hảo ấy; như thế chắc con bò sẽ đau đớn vô cùng! Vậy xin thân phụ ra lệnh đình chỉ việc chế biến một thức ăn vô cùng ác đức như thế!”

Thân phụ của Tiêu Chấn vốn là người nhân từ liền tức khắc bảo thay đổi món ăn khác và thả con bò ra ngay.

Mấy hôm sau, Tiêu Chấn nằm mơ thấy một vị Thần mặc áo giáp vàng đến nói với ông rằng: “Này cậu bé, con đã làm một việc phúc đức. Do đó, con không bị chết yểu mà tương lai con sẽ làm quan đến Tể Tướng, một chức vụ cao nhất của triều đình Trung Hoa. Bởi vì con có lòng từ bi cứu sống con bò”.

Quả nhiên về sau, Tiêu Chấn lớn lên thi đậu được bổ nhậm làm quan cao cấp trong triều đình và ông sống thọ đến hơn chín mươi tuổi mới qua đời.


Nhờ Cứu Nai Mà Thoát Nạn

Rừng núi thanh u, suối khe róc rách, kỳ hoa dị thảo đẹp đẽ lạ thường, một ngôi nhà điểm xuyết trong khung cảnh ấy giống như gấm dệt thêu hoa.

Một ngày kia, bầu trời quang đãng; bỗng nhiên một con nai từ đâu chạy đến trước sân nhà nơi một em bé đang chơi. Con nai dùng hai chiếc sừng xúc quần áo của đứa bé. Em bé quá sợ hãi kêu khóc ầm lên. Mẹ nó liền vội chạy ra xem thử việc gì xảy ra. Bà đến ngay vào lúc nhìn thấy con nai đang mang đứa nhỏ chạy thẳng vô rừng.

Thấy vậy, mẹ em bé hoảng kinh lập tức liền đuổi rượt theo con nai. Khi chạy được một khoảng không xa, bà thấy đứa trẻ bình yên vô sự đang ngồi trên đám cỏ. Vừa thấy mẹ đi tới, em bé mừng rỡ tươi cười đưa hai tay ra cho bà nắm lấy. Bà ôm đứa nhỏ vào lòng và cảm thấy vô cùng hạnh phúc đến phát khóc.

Bà vội vàng bồng đứa con thân yêu trở về nhà. Khi đến nơi, bà chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng với nhiều xác chết thú vật hiện ra trước mắt. Một cây đại thọ sau nhà đột nhiên ngã xuống trong khi bà chạy đuổi theo con nai và em bé. Toàn ngôi nhà đã sụp đổ dưới sức đè nặng của gốc cây. Những vách tường bị đập nát và mái nhà vỡ tan thành mảnh vụn. Tất cả gà chó trong nhà đều chết hết. Nếu lúc ấy hai mẹ con có mặt ở nhà thì!!!

Bấy giờ bà mới hồi tưởng nhớ lại năm trước, một bữa nọ có một người thợ săn đuổi một con nai khiến nó quá kinh hãi chạy xộc vào trong nhà bà. Vì lòng từ bi xót thương con nai khốn khổ sợ sệt, bà lấy áo trùm che kín nó. Người thợ săn vào nhà lục soát tìm kiếm, nhưng không thấy con nai đâu cả. Ông tưởng rằng con nai đã chạy ra cửa sau. Cho nên ông cố rượt đuổi theo nó; và khi người thợ săn đã chạy đi xa, bà dở tấm áo nơi con nai ra và thả cho nó chạy thoát vào rừng.

Con nai dường như biết rằng bà đã cứu giúp nó thoát chết, vì trước khi chạy đi nó gật đầu bày tỏ lòng tri ân đối với từ tâm của bà đã cứu mạng sống cho nó.

Bà không bao giờ nghĩ rằng con nai có thể tưởng nhớ đến lòng từ bi của bà đã cứu sống nó trước đây. Con nai biết rằng cây đại thọ sắp ngã xuống đè chết mẹ con bà cho nên nó tìm cách báo ơn đến cứu hai người thoát nạn. Bà mẹ đứa bé hồi tưởng nhớ lại sự việc ấy, liền thốt lên: “Cứu mạng sống chúng sinh chẳng khác nào tự cứu mạng của chính mình”.


Sét Ðánh Kẻ Tham Tàn

Trong bộ sách Pháp Uyển Châu Lâm có thuật lại một câu chuyện xưa như sau: Vào đời nhà Ðường ở Trung Quốc tại thành phố Trường Hà có một người đầu bếp rất giỏi tên là Phong Nguyên. Nhân dịp vua nước Vu Ðiền (Khotan), một dân tộc bán khai thuộc miền Tây, qua triều cống triều đình Trung Quốc. Nhà vua chỉ thị cho Phong Nguyên lo việc nấu bếp thiết tiệc đãi khách. Mọi người đều ngồi vào bàn chăm chú ăn, ăn và ăn no nê đến tràn hông. Tất cả ai cũng khen các món ăn đều rất ngon. Sau khi bữa yến tiệc kết thúc, còn dư gần một trăm con dê. Chúng chưa bị giết thịt. Triều đình không biết làm gì với những con dê còn lại này. Vào lúc ấy, vua Vu Ðiền hay tin liền yêu cầu triều đình nên tha đừng sát hại chúng.

Nhà vua nói: “Tôi thành thực ước mong rằng nên mang những con dê này lên các chùa phóng sinh để chúng sống tự do thoải mái giữa cảnh trời đất thiên nhiên”.

Triều đình ra lệnh cho Phong Nguyên đem thả đàn dê, nhưng sau khi vua Vu Ðiền trở về nước ít lâu, Phong Nguyên lại nghĩ rằng chín mươi chín con dê đâu có ít tiền! Do đó ông đã không vâng lệnh của triều đình và đem gần một trăm con dê ấy đến lò mổ bán cho đồ tể giết thịt để nhận một số tiền. Và ông ta thực sự vô cùng sung sướng khi bất ngờ có nhiều tiền đến như vậy.

Sau khi tiêu xài hết món tiền lớn đó, và sự việc này trải qua đã mấy năm, Phong Nguyên đã quên bẵng nó từ lâu. Ông còn là người nấu bếp giỏi, cho nên các đại quan và gia đình quý tộc giàu có ở kinh đô khi cần tổ chức yến tiệc thường hay giao cho Phong Nguyên trông nom công việc đầu bếp. Ông đã tích cực làm việc để kiếm tiền cho nên lợi tức của ông thu vào rất khá.

Vào mùa hạ năm 661 tây lịch, trong lúc Phong Nguyên đang đi dạo ở bên ngoài cổng thành Tuyền Nhân thì trời bỗng nổi lên cơn gió lớn. Trên không mây đen tụ lại, sấm chớp dữ dội, và mưa đổ xuống như cầm chĩnh trút.

Thình lình một tiếng sét nổ chát tai đánh xuống ngay bức tường cổng thành gây kinh hoàng sợ hãi cho mọi dân chúng xung quanh. Vào lúc ấy từ xa người ta trông thấy Phong Nguyên đang quỳ bên đường dưới cơn mưa. Tóc ông rối bù phủ xuống hai tai. Hai tròng mắt lồi ra và đầu ông gục xuống nơi ngực giống như tên tù tử tội đã bị xử trảm, đầu sắp lìa khỏi cổ.

Người ta tiến lại gần xem và nhận thấy rằng cổ của ông ta đã bị cắt gần đứt! Ðầu của ông bị chẻ toát làm đôi và óc não văng ra khỏi sọ. Ông trông giống như tên đao phủ đã tự chặt lấy đầu của mình.

Người quen biết thấy cảnh chết thảm của ông liền hỏi: “Phải chăng đây là Phong Nguyên, tên đầu bếp nổi tiếng gian ác?”

Một vài người lên tiếng trả lời: “Chính là hắn đấy. Ðây là quả báo nhãn tiền do Phong Nguyên đã gây nhân ác giết gần một trăm con dê mà đáng lý ra chúng sẽ được dắt lên chùa để phóng sinh”.

Chúng ta không ai có thể thoát được kết quả khổ đau do hành động bất thiện, xấu ác của chính mình đã gây ra.


Giết Dê Biến Thành Dê

Tiền Mai Khê kể một câu chuyện thật, nhân quả báo ứng về tên đồ tể giết dê là Tiết Khánh Quan như sau:

Khánh Quan mở một cái quán nhỏ bán thịt dê và cháo dê. Nhờ nghệ thuật nấu món cháo dê hương vị đặc biệt thơm ngon của ông nổi tiếng khắp nơi xa gần đều biết; cho nên quán ông lúc nào cũng rất đông khách. Ngay cả những người đi chơi xa vài ngày cũng tranh thủ ghé quán để thưởng thức món cháo dê một lần cho biết. Và sau khi dùng xong trở về nhà, ai nấy đều vui vẻ thỏa mãn.

Công việc làm ăn do may mắn gặp thời như vậy cho nên chỉ trong một thời gian ngắn, ông Tiết trở nên giàu có.

Trong số bạn bè của ông có người là Phật-tử đã khuyên ông hãy bỏ làm nghề giết dê đi. Họ nói: “Anh đã giàu có rồi. Không nên tham lam chi nữa. Như ông biết, chúng ta không phải là những thú dữ ở trong rừng. Sát hại sinh vật là một tội ác khủng khiếp chống lại luật nhân quả của vũ trụ. Thế nào ông cũng bị quả báo. Sớm muộn gì ông sẽ phải gặt lấy những điều khổ đau do các nghiệp ác mà ông đã gây ra. Và dù ông có bao nhiêu tiền đi nữa, tiền bạc sẽ không mang lại điều lành cho ông”.

“Này ông Tiết, tại sao ông không dùng tiền đầu tư đổi sang nghề khác đạo đức hơn? Ông có thể tiếp tục làm giàu một cách lương thiện; cùng lúc ông nên sám hối và cố gắng làm các việc lành để bù lại những tội lỗi đã qua.

Nếu không, ông khó tránh khỏi bị quả báo nhãn tiền mà còn truyền nhiều khổ lụy cho con cháu đời sau.”

Lời ngay thì trái tai. Ông Tiết không muốn nghe, lại còn tỏ ra vênh váo, hỉnh mũi, cười nhạo nói: “Tôi không hề tin thuyết nghiệp báo. Cũng không bao giờ nghĩ những hành động ác đức của mình là chống đối luật nhân quả của vũ trụ. Thực là vô nghĩa đối với tôi!”

Ðến năm Tiết Khánh Quan được bốn mươi tuổi, bỗng nhiên ông mắc một chứng bệnh hết sức kỳ quái. Miệng của y bắt đầu nhô ngẩng lên phía trước và quai hàm lại dài ra. Cặp mắt của ông lừ đừ mất thần sắc. Thân thể ông biến đổi trông giống hình thù một con dê!

Chẳng bao lâu, dân chúng trong vùng hay tin mặt của Tiết Khánh Quan biến thành mặt dê. Bà con thiên hạ rủ nhau đến xem tận mắt cho biết. Mỗi ngày, đông đảo quần chúng kéo đến thương hại nhìn ông Tiết. Rồi họ lắc đầu, xầm xì bàn tán cho là chuyện ly kỳ và đồn đãi loan tin cho bạn bè hay. Cơ thể ông Tiết cảm thấy đau đớn mệt mỏi và nhanh chóng suy yếu. Các thầy thuốc đành bó tay bất lực, không chữa trị được gì cho ông. Nhưng tất cả đều xác nhận chắc chắn rằng thân hình ông Tiết đã biến đổi trông giống như con dê.

Ông Tiết không bao giờ nghĩ rằng ông đã mất hết tâm trí rồi, và cũng không nhận thấy mình làm những việc ác. Ông phản đối việc bà con khuyên ông không nên giết nhiều dê.

Một hôm, nhân có công việc, ông đi đến tỉnh An Huy, vì bất cẩn nên bị rơi xuống nước và chết đuối. Mọi người đi tìm nhưng không thấy xác ông.

Chuyện đáng buồn là ông Tiết sẽ không gặp cảnh khổ chết bất ngờ nếu ông bớt tham tiền và chịu lắng nghe lời khuyên tránh làm việc ác của mọi người thì ông có thể sống cuộc sống hạnh phúc và trường thọ.


Con Rùa Ðến Ðòi Mạng

Ngô Linh là người giàu nhất trong vùng. Gia tài có hàng trăm vạn và ông sống rất xa hoa.

Con của ông cũng ham ăn chơi. Ðúng là cha nào con nấy. Hằng ngày ông thích ăn những món ngon vật lạ. Một hôm nhà họ Ngô chuẩn bị tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn, người đầu bếp ra chợ mua được một con rùa rất lớn. Tên đầu bếp nói: “Loại rùa này khó kiếm nhưng thịt rất thơm ngon!”. Người nấu bếp mài dao bén để sửa soạn làm thịt con rùa. Nhưng khi sắp đem đi giết thì con rùa bỗng nhiên rơi lệ, tỏ ý muốn xin tha mạng.

Người đầu bếp liền hạ con dao xuống và thưa với ông Ngô Linh về con rùa kỳ lạ này: “Tôi không thể giết con rùa được khi nó khóc lóc xin tha mạng sống”.

Ông ta nổi giận mắng nhiếc: “Ðồ ngu! Mày không dám giết nó hả? Mày đưa con dao cho tao. Nếu mày sợ thì để tao làm thịt nó cho”. Ông liền cầm con dao bén xông vào nhà bếp. Khi nhìn thấy con rùa lớn đang nằm rơi lệ, ông không có một chút động lòng thương hại. Tay cầm dao, và nhanh như chớp, ông chặt đầu con rùa lìa khỏi cổ. Vì chặt quá mạnh, cho nên đầu con rùa đã bay lên dính mắc trên đòn dông mái nhà.

Ông nói với người đầu bếp: “Thôi được, không sao. Mày nấu phần còn lại để chiều nay dọn món ăn thịt rùa cho tao thưởng thức”.

Tối hôm đó, cha con ông Ngô Linh thích thú dùng món thịt rùa, nhưng họ chỉ mới ăn được có vài miếng thì người con cảm thấy mặt mày choáng váng. Anh ta nhìn lên và kêu thất thanh. Anh chỉ cái đòn dông và la hét “Trông kìa, có một con rùa bự ở trên đòn dông!”

Ông Ngô Linh nói: “Tao không thấy cái gì hết”.

Người con vẫn kêu la: “Ôi chao! Hãy đi đi! Chúng bây đi chỗ khác. Những con rùa bu lại cắn con. Ba ơi, cứu con với! Chúng xúm lại cắn con!”

Người cha hỏi: “Cái gì cắn mày? Tao chẳng thấy gì ở đây cả!”

Người con đáp: “Những con rùa. Có hàng trăm con đến bu khắp mình và chúng đang cắn con. Hãy giúp con với ba!” Cậu con nhào lộn trên nền nhà, chân vừa đá vừa kêu la thảm thiết, nhưng không một ai thấy chi cả.

Người con vẫn kêu than: “Vô số rùa xúm lại cắn vào chân tôi, đau... Ôi đau quá! Bà con đến cứu tôi với!” Nhưng không ai có thể giúp được gì cho anh ta cả, vì họ không thấy rõ những con rùa đang đến trả thù đòi lấy mạng sống của anh. Ba ngày sau, người con của ông Ngô Linh đã chết một cách đau đớn. Ðó là quả báo gây ra do lòng tham và tâm độc ác thích giết rùa làm thịt ăn của anh ta.

Mọi người nên nhớ rằng chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm việc làm thiện và ác của mình. Nếu các bạn không muốn ai gây đau khổ cho mình thì quý vị cũng đừng bao giờ tạo sự khổ đau cho kẻ khác.



Thay Đổi Vận Mạng Nhờ Lòng Từ Bi

Ðại Thiện là một trong những ngôi chùa lớn nhất tại Cối Kê, bên Trung Quốc. Hằng ngày có rất đông khách thập phương, du khách và người vãng cảnh đến đây lễ bái. Ngày nọ, có hai vị sĩ tử là Ðào Thạch Lương và Trương Chi Ðình tới viếng chùa. Trong chùa Ðại Thiện có một cái Hồ Phóng Sinh lớn. Khi nhìn thấy hàng vạn con cá và lươn đang lội trong hồ nước thì hai người này rất xúc động. Họ phát tâm muốn làm một việc gì phước đức.

Ðào Thạch Lương nói với Trương Chi Ðình: “Tôi muốn mua tất cả số lươn và cá này rồi mang chúng ra con sông lớn phóng sinh hết để chúng có nơi rộng rãi bơi lội thỏa thích. Con sông ấy chảy đổ vào sông Dương Tử lớn rộng bao la mặc sức cho chúng di chuyển qua lại, an nhiên tự tại. Bạn nghĩ như thế nào?”

Trương Chi Ðình đáp: “Tốt quá đi chứ. Ðể tôi giúp bạn một tay.”

Ðào Thạch Lương nói: “Nhưng mà tôi có ít tiền quá. Ðể xem, nếu chúng ta có thể kêu gọi thêm đông người đóng góp tịnh tài thì chúng ta sẽ phóng sinh được nhiều lươn và cá hơn.”

Trương Chi Ðình đáp: “Ý kiến quá hay! Tôi sẽ cố gắng hết sức giúp bạn”. Thế rồi Trương Chi Ðình tự nguyện đóng góp một lượng bạc và ông ta đến gặp các vị có thiện tâm quen biết kêu gọi họ tiếp tay giúp đỡ. Cuối cùng họ quyên góp được tám lượng bạc.

Cả hai sĩ tử Ðào và Trương vô cùng sung sướng. Họ mướn các nhân công đưa lên chùa và gặp nhà sư để sắp xếp công việc phóng sinh. Rồi họ mua hàng vạn con lươn và cá dưới hồ đem chúng ra ngoài sông thả hết. Về sau, hai người cũng quên bẵng sự việc phóng sinh những con lươn và cá đó; nhưng vào một đêm thu, ông Ðào nằm mộng, ông thấy một vị thần đến nói một cách nghiêm chỉnh rằng: “Lâu nay hai sĩ tử đã có công đèn sách, nhưng rất tiếc quý vị thi không đậu. Hôm nay tôi đến báo cho hai ông biết tin vui là nhờ công đức phóng sinh thả hàng vạn con vật trở về cuộc sống thiên nhiên tự do; cho nên hy vọng trong kỳ thi này hai ông sẽ trúng tuyển. Hôm nay tôi đến chúc mừng sự thành công và tương lai giàu sang phú quý của quý vị.”

Khi thức dậy, ông Ðào đến kể cho ông Trương nghe về giấc mơ của mình. Ông Trương nói: “Thực kỳ lạ, tối qua tôi cũng nằm thấy điềm chiêm bao y hệt như vậy!”

Ðúng thế, vào năm đó, cả hai thư sinh ông Ðào Thạch Lương và ông Trương Chi Ðình đều thi đậu. Họ được bổ làm quan cao cấp trong triều đình và hai người biết rằng ngày nay đạt được danh vọng cao sang là do phước đức họ đã có lòng từ bi phóng sinh rất nhiều thú vật vô tội trước đây.


Thi Ðậu Nhờ Phóng Sinh

Trần Tinh Viên ở Fuchow bên Trung Hoa kể cho mọi người nghe về câu chuyện ngày trước của ông như sau:

Một lần nọ, ông cùng ở trong nhóm bạn bè bất hạnh. Vài người may mắn thi đậu trở thành quan chức của triều đình, còn ông và những người khác đã rủi ro bị thi rớt. Ông và nhóm bạn của ông buồn rầu tổ chức một cuộc du ngoạn đến viếng thăm một ngôi chùa danh tiếng để uống rượu giải sầu.

Khi họ tới nơi rồi, ông Trần Tinh Viên thình lình đi bách bộ ra ngoài để hít thở không khí trong lành. Ông bỗng gặp thấy một người nông dân đang đánh đập một con trâu nước. Nhưng dù bị đánh đau đớn cách mấy, nó vẫn đứng lì một chỗ không nhúc nhích. Khi con trâu nhìn thấy ông Tinh Viên, mắt nó đổ lệ dầm dề. Ông Trần Tinh Viên hiểu rằng con trâu kêu khóc thảm thiết vì nó tự biết sắp bị lôi đến lò mổ để giết thịt và hẳn nhiên là không con vật nào muốn chết. Chứng kiến cảnh ngộ đau thương đó, ông Trần Tinh Viên tạm thời quên đi nỗi buồn thi rớt của mình và động lòng trắc ẩn, tưởng nghĩ đến con trâu nước khốn khổ. Ông liền đến hỏi người dắt trâu: “Ông muốn bán con trâu nước này với giá bao nhiêu?”

Người kia đáp: “Mười lăm cây lụa.”

Tức thì, Tinh Viên quay trở vào trong ngôi chùa nói với bạn bè: “Số tiền chúng ta chi ra còn thừa để dành cho cuộc đi chơi kỳ tới, tại sao chúng ta không dùng nó làm một việc phước đức nhỉ?”

“Vậy các bạn nghĩ thế nào?”, Tinh Viên hỏi.

Rồi ông ta góp ý: “Hay là chúng ta xuất tiền ra mua con trâu nước đau khổ phóng sinh để tạo cuộc sống an lạc cho nó.”

Một người bạn học đáp: “Không được đâu, số tiền mà chúng ta góp thu hôm nay là nhằm để dành chi cho cuộc đi chơi ngoài trời vào mùa hoa nở năm tới, các bạn không nhớ sao?”

Tinh Viên lại nói: “Vâng, nhưng mà cuộc vui liên hoan chỉ kéo dài trong vài tiếng đồng hồ rồi kết thúc. Còn chúng ta dùng số tiền này để cứu mạng sống của một con trâu. Các bạn nên suy nghĩ kỹ đi. Dùng tiền làm việc phước đức có phải là hữu ích hơn không các bạn?”

Các bạn của Tinh Viên đang suy nghĩ thì ông ta lại nói tiếp: “Ðừng lo. Nếu các bạn bây giờ đồng ý xuất tiền để cứu mạng sống của con trâu nước này thì đến mùa thi cử hoa nở sang năm, các khoản chi phí thưởng hoa đãi rượu, để một mình tôi chi trả cho.”

Các bạn hỏi: “Có chắc không?”

Tinh Viên cương quyết đáp: “Tôi đã hứa là không bao giờ làm sai đâu.”

Mọi người thấy tâm ý của anh đã nhất quyết, bất đắc dĩ phải móc tiền ra đưa cho người nông dân để mua con trâu nước. Sau đó, họ dắt trâu tới ngôi chùa phóng sinh để nó sống tự do thoải mái giữa cảnh thiên nhiên tại đây.

Khi hoa bắt đầu nở báo hiệu mùa thi cử trở về, Trần Tinh Viên vẫn còn là một thư sinh nghèo, nhưng để giữ chữ tín với các bạn học, anh ta đem cầm một ít áo quần tốt nhất của mình, lấy tiền tổ chức tiệc rượu khoản đãi bạn bè như lời anh đã hứa.

Nhưng rồi kiếp sống thư sinh nghèo của Tinh Viên đã chấm dứt. Qua năm sau, ông đậu cao trong kỳ thi của triều đình, và được bổ nhiệm làm quan.

Về sau Trần Tinh Viên được thăng lên đến chức vị rất cao của triều đình với nhiều danh dự uy quyền, phú quý và giàu sang. Tinh Viên tin rằng ông đã gặp may mắn thi đậu là do ông đã làm phước cứu sống con trâu nước khốn khổ.



Bà Lão Khổng Thoát Nạn Nhờ Phóng Sinh

Sự việc này xảy ra vào cuối năm vua Càn Long bên Trung Hoa khoảng vào cuối thế kỷ thứ mười tám.

Dân chúng tại vùng Nhuận Châu rất hiếu sát. Họ vui thích trong việc giết chóc. Không riêng những đứa trẻ và người lớn có tâm độc ác, mà những người già, phụ nữ và ngay cả những bé gái tánh tình cũng rất hung dữ. Trong vùng các em gái nhỏ không có nhiều, vì dân chúng ở đây thích con trai hơn. Khi sinh con mà là bé gái thì họ đem đi dìm nước cho chết không một chút tiếc thương. Họ không mấy quan tâm đến hành động tàn ác vì đã sát hại ngay những đứa bé mà chính là con đẻ của họ. Như vậy quý vị thấy rằng họ xem mạng sống con người chẳng hơn gì một con vật!

Người lớn dạy các em bé mỗi ngày đi bắt nhiều ốc đem bán hoặc để ăn. Những trẻ nít thường đi mò ốc, bắt con sò hay ếch nhái; và ngay cả những đứa bé nhỏ nhất cũng biết cầm dao sát hại các sinh vật. Khi cha mẹ gặp thấy con cái mình giết chóc thú vật, họ cười hãnh diện và nói: “Xem kìa, thằng con tôi có bản lĩnh ghê chưa!”

Khi còn nhỏ các em được nuôi dưỡng trong môi trường hiếu sát như vậy; chúng được mọi người cổ võ xem việc giết chóc những sinh vật như là một hành động tốt. Bởi vậy khi trưởng thành, chúng đã có ác tâm sát hại các loài vật không gớm tay.

Nhưng không phải tất cả mọi người ở Nhuận Châu ai cũng đều thích sát sanh hại vật như vậy.

Trong số đó có một bà lão già tên Khổng rất nhân đức. Bà là người duy nhất không bao giờ biết sát sinh. Bà thường hay cứu thoát những con ốc bò đi xa bờ nước. Bà cũng không dám giết hại những con kiến nhỏ dưới chân. Các người hàng xóm trong vùng thấy bà làm như vậy đều cười chế nhạo và bảo rằng bà là con người kỳ cục không giống ai.

Thế rồi, một đêm nọ, một ngư dân trong bọn họ nằm chiêm bao thấy hai vị quan viên mặc đồng phục màu đen lượm một cuốn sách ở cạnh bờ sông.

Ông ta hỏi: “Ðó là quyển sách gì vậy?”

Vị quan đáp: “Cuốn sách ghi chép sự báo ứng nhân quả về những hành động thiện và ác của con người. Tất cả dân chúng ở đây mắc nhiều món nợ vì đã sát hại vô số chúng sanh. Vậy để tránh tai họa ông nên thận trọng cân nhắc trong mọi việc làm của ông!”

Ông dân chài không mấy quan tâm nghĩ đến giấc mộng, vì ông vẫn thường hay sát sanh hại vật; nhưng năm ngày sau đó, toàn thành Nhuận Châu bị nước cuốn trôi đi hết trong một trận lụt lớn. Mọi dân chúng ở đây không ai kịp kêu cứu trước khi tất cả bị nhận chìm chết đuối cuốn theo dòng nước.

Lạ thay, duy nhất chỉ có một mình bà lão Khổng may mắn thoát nạn. Vì một ngày trước khi trận lụt xảy ra, đứa cháu nhỏ nhất của bà bị cảm sốt. Bà đã bồng nó lên một ngôi đền trên núi để thắp hương cầu nguyện các thần linh chữa trị cho nó. Vài ngày sau, em bé hết bịnh, bà rời ngôi đền. Khi trở về đến nhà, bà thấy mọi nhà cửa trong thành bị nước cuốn trôi đi sạch, không còn gì cả. Chỉ có mình bà và đứa cháu nhỏ của bà may mắn được thoát nạn. Tất cả những người khác đều chết hết.


Ông Vương Cắn Lưỡi Chết Vì Sát Hại Chim Sẻ

Ngày xưa có một người họ Vương sống tại đất Hoành Lâm, ở Trung Hoa. Gần Hoành Lâm có một vài đám ruộng lau, chim sẻ thường đến đậu ở đây. Vương nuôi một chú chim ưng hung dữ và huấn luyện nó kỹ lưỡng. Mỗi khi ông muốn bắt chim, ông làm một cái lưới rất lớn. Ông Vương mang lưới đến giăng ở đám đất lau sậy. Rồi ông thả chim ưng bay vào rừng lau. Khi thấy chim ưng đuổi bắt, chim sẻ hoảng sợ bay tứ tung và nhiều con bị sa vào lưới của Vương. Tuy nhiên người ta không thể sập bẫy giữ chim sẻ ở lâu trong lưới. Chúng thà cắn lưỡi cho chết còn hơn bị giam nhốt trong lưới. Nhưng ông Vương không muốn giữ chim trong lưới. Cho nên ông đã lấy một hòn đá lớn đè lên đầu của bầy chim sẻ. Rồi ông nhặt những con chết mang ra chợ bán dùng như thịt ăn. Ðó là nghề sinh sống của ông Vương, và ông ta cũng rất hãnh diện về cái nghề vô cùng tổn phước này.

Ông Vương là người hung dữ và tàn ác. Ông luôn luôn hành động theo ý thích của riêng mình. Ông không bao giờ muốn nghe lẽ phải. Nếu có ai sơ ý động chạm đến việc bủa lưới bắt chim sẻ của y thì nhất định y phẫn nộ thốt ra những lời nguyền rủa độc địa, hạ cấp rất chối tai. Ông Vương sẽ lầm bầm suốt cả ngày như vậy. Do đó mà người trong làng, ngoài làng đều biết tiếng ông và không ai là không ngán ông ta.

Về sau, ông Vương mắc một chứng bệnh kỳ quái mà các thầy thuốc chưa từng gặp. Ông cảm thấy đau đớn khắp cả thân thể không chịu nổi. Ông nằm trăn trở trên giường kêu rên thảm thiết. Ông năn nỉ van xin các thầy thuốc đến cứu giúp ông, nhưng tất cả đều bó tay không ai có thể chữa trị được. Cái tên Vương hung bạo tàn ác đã không còn kiêu căng hống hách nữa. Khuôn mặt của ông bị hành hạ giày vò vì đau đớn. Hễ gặp ai thì y cũng khóc lóc rên rỉ và năn nỉ: “Xin thương xót tôi, cứu giúp giùm tôi!” Nhưng mọi người đều chịu thua không biết phải làm sao. Người thân cận bảo tiếng nói của ông phát ra y hệt như tiếng kêu đau thương của con chim sẻ đang ở trong lưới van xin ông tha mạng sống, đừng giết nó tội nghiệp.

Sau mấy ngày mắc chứng bệnh nan y kỳ quái, và trong sự quằn quại đau đớn cùng
 

daodietkho

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 10 2006
Bài viết
196
Điểm tương tác
2
Điểm
18
Địa chỉ
??n ?? r?i ra ?i
LÒNG THƯƠNG YÊU SỰ SỐNG (THE LOVE of LIFE)

Tác giả: G.B. Talovick - Người dịch: HT. Thích Trí Chơn
Nhà Xuất Bản TP.HCM, Năm 2003 - 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1

Tập 3

MỤC LỤC
1. Công Đức Ăn Chay
2. Thoát Chết Nhờ Phóng Sinh
3. Giết Kiến Bị Quả Báo
4. Nai Mẹ Thương Con Nứt Ruột
5. Giết Heo Bị Quả Báo Khốc Liệt
6. Con Hải Cẩu Trả Thù
7. Cứu Rùa Ðược Phong Thần
8. Giết Lươn Bị Quả Báo
9. Nguyên Nhân Của Sự Chết Chóc
10. Chim Sẻ Trả Thù
11. Vượn Sầu Rơi Lệ
12. Giết Chồn Bị Quả Báo Hỏa Hoạn
13. Ðào Ao Phóng Sinh
14. Tham Thực Cực Thân
15. Tử Sản Nuôi Cá
16. Sát Sinh Bị Quả Báo Nhãn Tiền
17. Làm Ðiều Nhân Con Vinh Hiển
18. Bắn Chim Bị Quả Báo
19. Phóng Sinh Tăng Tuổi Thọ
20. Ăn Chay Ðược Thác Sinh Lên Cõi Trời
21. Bầy Lươn Xin Cứu Mạng
22. Con Ba Ba Chữa Lành Bệnh Hiểm
23. Sát Hại Bò Bị Sét Ðánh
24. Nhờ Lòng Nhân Mà Ðậu Trạng Nguyên
25. Cứu Chim Sẻ Ðược Vòng Ngọc
26. Phóng Sinh Chuộc Tội
27. Phật Pháp Nhiệm Mầu
28. Làm Lành Chuyển Họa Thành Phúc
29. Giết Trâu Bị Quả Báo
30. Nhờ Ðổi Nghề Mà Lành Bệnh


CÔNG ĐỨC ĂN CHAY

Cố Thuận Chi là một cư sĩ ăn chay sống ở Chiangsu bên Trung Quốc. Ông không bao giờ ăn thịt thú vật và các món cấm kỵ (tỏi, hành và hẹ v.. v..). Một tối, ông đi ngủ và ngủ một giấc dài đến hôm sau không thấy thức dậy. Những người trong nhà lo lắng tưởng ông đả qua đời! Nhưng nghe ông vẫn còn thở và ngáy, cho nên họ biết rằng ông chưa chết, chỉ có điều là ông ngủ quá nhiều, ngủ say sưa và mê man. Ông ngủ một giấc dài, suốt bảy ngày đêm liền!

Sau khi thức dậy, mọi người hỏi ông: “Thế nào, có việc gì xảy ra không?”

Ông thuật lại cho mọi người trong nhà biết: “Quả thực là một cuộc hành trình vô cùng ý nghĩa! Ðêm ấy tôi đang nằm ngủ thì mơ màng thấy có người đến gọi. Tôi hỏi: “Có phải nhân viên thu thuế không?”

“Nhưng không phải, mà là pháp sư Ðạo Quang, vị đại sư tôi hằng kính mến. Ngài nói: Này cư sĩ, chúng ta hảy đi nghe Kinh nhé. Tự nhiên tôi cảm thấy vô cùng thích thú, liền đáp: Ði thì đi.

“Thế là chúng tôi cùng đi đến một ngôi chùa quy mô rộng rãi Ðạo tràng này rất đẹp. Tôi nghĩ các đạo hữu chưa từng thấy ngôi chùa nào to lớn như thế. Tôi không thể dùng lời để diễn tả hết vẻ đẹp của nó. Khi chúng tôi đến đả thấy khá đông Phật tử đang ngồi nghe kinh. Pháp đường phía trước giảng kinh Kim Cang còn pháp đường phía sau thì giảng Kinh Báo Ân.

“Chúng tôi vào ngồi nghe giảng kinh Báo Ân. Ðến phần kết thúc, vị Tăng nhắc nhở dạy rằng: Các cư sĩ tại gia không nên sát hại bất cứ sinh vật nào để làm thịt ăn. Một là để tạo phước đức hồi hướng cho cha mẹ. Hai là để tiêu trừ ác nghiệp của chính mình.

“Ngài cũng bảo rằng những người ăn chay có thể chú tâm đến đời sống đạo đức và thực hành tu tập dễ dàng thuận lợi hơn hạng người dùng thịt cá.

“Kế tiếp, pháp sư Ðạo Quang dẫn tôi đi đến nơi quá khủng khiếp này! Ðiều kinh hồn tôi thấy trước tiên là một cái hồ máu!

“Trong hồ máu có người đàn bà đang khóc la thảm thiết. Trên thân bà thì có vô số những con ốc, con giun bám vào và tôi nghĩ chúng đang cắn xé ăn thịt bà.

“Tôi hỏi: Nơi đây là ở đâu vậy?

“Pháp sư Ðạo Quang giảng giải một cách rõ ràng: Nhờ công đức ăn chay và làm phước của cư sĩ cho nên thân mẫu hiện tại của ngươi được cứu độ. Còn người trong hồ ấy chính là mẹ ngươi trong đời quá khứ, vì bà ta thích ăn thịt và nên ngày nay mới bị quả báo đau thương như vậy. Nếu cư sĩ muốn cứu thoát cho bà khỏi cảnh khổ này thì nên cố gắng tụng Ðại Bi và trì chú Vãng Sanh.

“Và sau đó, pháp sư Ðạo Quang đưa tôi trở về. Tôi không rõ là tôi đã du hành đi xa đến nơi nào!”

Từ đó, Cố Thuận Chi ngày đêm chuyên trì tụng chú Ðại Bi của đức Quan Thế Âm Bồ Tát và chú Vãng Sanh của đức Phật A Di Ðà.

Nếu các đạo hữu muốn hiểu rõ ý nghĩa của hai bài chú này quý và có thể nhờ chư Tăng Ni chỉ dẫn cho. Chú Ðại Bi hơi dài, còn chú Vãng Sanh thì ngắn hơn.

Nếu nghĩ rằng cả hai bài chú đều quá dài, và không thể nhờ ai giảng giải được, thì các đạo hữu chỉ cần niệm hồng danh đức Phật A Di Ðà hay đức Quán Thế Âm Bồ Tát, như vậy cũng tốt rồi.

Và nếu quý và ăn chay trường được như cư sĩ Cố Thuận Chi thì lại càng phước đức hơn.



THOÁT CHẾT NHỜ PHÓNG SINH

Tên thực của đại sư Vĩnh Minh là Diên Thọ, và sau khi ngài viên tịch, mọi người đều gọi ngài là Thiền Sư Vĩnh Minh, vì ngài trụ trì chùa Vĩnh Minh tại Hàng Châu (Trung Quốc).

Trước khi rời cuộc sống thế tục và trở thành một nhà sư, vào lúc hai mươi tuổi, ngài là một viên quan giữ kho tại huyện Diên Khánh gần Hàng Châu. Hằng ngày, thấy cá, tôm bị người ta bắt giết hại để nấu ăn, ngài xót thương nên đã dùng tiền trong ngân khố mua, rồi mang chúng ra thả phóng sinh ở bờ sông.

Rất tiếc, vì tiền đó không phải của ngài, cho nên cuối cùng ngài bị quan phủ bắt giam vào ngục.

Viên quan chấp pháp không tin rằng ngài đã dùng số tiền nói trên để mua loài vật phóng sinh. Ông kết tội ngài đã xâm phạm tiền công quỹ. Ðây là một tội rất nặng. Vào thời đó, sự trừng phạt là chặt đầu - tội nhân được mang ra trước công chúng để mọi người có thể những thấy đầu của y bị chém đứt với thanh gươm lớn. Những ai chứng kiến cảnh xử trảm rùng rợn này đều vô cùng khiếp đảm!

Khi ấy, nhà vua biết ngài lâu nay vốn có lòng từ bi từng phóng sinh rất nhiều thú vật. Có thể ngài đã lấy tiền công quỹ để mua các sinh vật đó. Nhà vua truyền lệnh cho viên quan chấp pháp để ý xem lúc đem ra hành quyết ngài có lời nói và hành động cử chỉ như thế nào. Thế rồi, lúc bị lôi ra để thọ án tử hình, thần sắc của ngài vẫn thản nhiên, Ngài không có một chút gì sợ hãi cái chết. Thực vậy, ngài tỏ vẻ rất ung dung tự tại và an lạc. Viên quan chấp pháp chưa từng thấy một sự việc nào kỳ lạ như vậy! Ông hết sức kính trọng và hỏi: “Những tội nhân khác lúc sắp chết đều run sợ và kêu khóc. Từ trước nay, tôi chưa bao giờ thấy ai bình tĩnh như ông. Tại sao ông có thể thản nhiên như thế? Ông có biết ông sắp bị hành quyết vì tội xâm phạm tiền công quỹ không?”

Ðại sư đáp: “Vâng, tôi đã lấy tiền trong kho, nhưng không phải dùng tiêu pha việc riêng cho tôi, mà là để mua thú vật phóng sinh. Thế thì co việc gì tôi phải sợ hãi? Ngay khi tôi vừa bị ông xử trảm lấy đầu, tôi có thể được sinh về thế giới Tịnh Ðộ của đức Phật A Di Ðà. Thử hỏi còn gì giải thoát cho bằng? Tôi ước nguyện được như vậy!”

Các viên quan thực thi cuộc hành quyết khi nghe đại sư nói vậy, họ biết rằng ngài vô tội. Họ khâm phục đức tánh ngay thẳng và hạnh nhẫn nhục vô úy của ngài. Cuối cùng họ ra lệnh cho tên đao phủ tha tội chết và phóng thích cho đại sư.

Vài năm sau, lúc ba mươi tuổi, ngài xuất gia đi tu, và trở thành một và Tăng rất đạo hạnh! Ngài cởi bỏ tất cả mọi phiền não thế gian. Cuối cùng, ngài đắc thánh quả và đã viết một số kinh sách Phật Giáo quan trọng. Khi ngài viên tịch vào năm 975 tây lịch lúc 72 tuổi, đức Phật A Di Ðà đã phóng quang tiếp dẫn ngài về thế giới Tây Phương Cực Lạc.



GIẾT KIẾN BỊ QUẢ BÁO

Chúng ta thấy một vài người Trung Hoa dùng chữ số để đặt tên cho con mình. Các tên đó là biệt danh, và cũng có thể là tên thực.

Sau đây chúng tôi xin kể cho quý và nghe câu chuyện của một anh sống nghề làm vườn tên là Tứ Lục (46). Tứ Lục nghĩa là gi? Có thể là người con thứ bốn mươi sáu. Hoặc ông già của anh ta thích con số này.

Dù thế nào, Tứ Lục là một nhân công làm vườn kỹ; lưỡng và khéo tay. Anh ta chữ nghĩa thì ít nhưng có nhiều kinh nghiệm làm vườn. Mọi người đều khen tay nghề của anh, nhưng tánh tình của Tứ Lục có phần nào tàn nhẫn. Ðương nhiên làm vườn thỉnh thoảng phải giết sâu bọ nhưng nhiều khi y muốn diệt cả Những côn trùng vô hại mới là điều đáng nói.

Một hôm, y trồng hoa, trông thấy một tổ kiến nằm sâu dưới đất. Kiến nhiều vô số kể lúc nhúc bò khắp nơi.

Tứ Lục nói: “Thực là đúng lúc!” Y đang nấu một nồi nước sôi trong bếp. Y định dùng để pha trà, nhưng anh ta nghĩ làm việc này hay hơn. Rồi y vội vàng xông vào nhà bếp lấy nước sôi sùng sục, đem ra rót ngay xuống tổ kiến. Hàng nghìn con kiến bị phỏng và chết hết. Tứ Lục thấy vậy tỏ vẻ vô cùng thích thú!

Hôm nay trời đẹp làm sao! Thời tiết rất tốt, và y mới hoàn tất xong một việc quá ác là tiêu diệt toàn bộ tổ kiến. Sau đó, ông đã trồng trọt và chăm sóc kỹ; lưỡng khu vườn, nhờ vậy mà y đã thu hoạch được nhiều hoa và rau cải đem ra chợ bán. Tứ Lục đã dành dụm được một số tiền, và cũng nghĩ tới việc lập gia đình. Giờ đây y đã hơn ba mươi tuổi rồi và phần lớn bạn bè của anh đã có con đàn cháu lũ.

Anh đang để ý đến cô Trường. Mặt mày cô ấy cũng dễ coi nhất là hai bàn tay mềm mại diu dàng của cô trông rất khả ái. Nếu lấy được cô ấy về làm vợ rồi sinh nhiều con cái thì thực là diễm phúc không gì bằng!

Anh nghĩ: “Ba cô là bạn rất thân với ông già của ta. Ta đã có đủ tiền để cung cấp lo cho gia đình, ta sẽ thỉnh cầu ba của ta nhờ người làm mai mối để sắp đặt việc cưới hỏi”

Tứ Lục suy nghĩ đến việc này, lòng anh cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Mọi việc diễn tiến rất tốt đẹp – nhưng duy nhất có điều không may là vào thời gian này bỗng nhiên trên vai anh ta nổi lên rất nhiều chấm đỏ ngứa ngáy khó chịu. Y càng gãi lại càng ngứa thêm.

Tứ Lục tiếp tục làm việc nhưng vẫn thấy còn ngứa, và chỗ ngứa càng lan rộng. Thế rồi không bao lâu, Những chấm đỏ ấy hiện ra trên khắp thân thể của y và chúng gây ra sự ngứa ngáy khủng khiếp, đến nổi anh ta phải bỏ cuốc xuống để tập trung vào việc gãi cho đã ngứa mà thôi.

Gãi cào chừng nào, càng ngứa thêm và các chấm đỏ lại càng nổi lên nhiều hơn. Tứ Lục chà lưng vào thân cây cùng lúc anh lấy tay cào gãi nơi ngực, cánh tay và dùng bàn chân gãi ở hai chân.

Chúng ngứa quá sức đến nổi anh cào gãi rách cả da và từ nơi mỗi chấm đỏ thấy có một con kiến bò chui ra!

Kể từ khi lâm bệnh Tứ Lục ngứa gãi liên tục đến nổi phát điên cuồng, và sau vài ngày anh đã nhắm mắt lìa đời một cách đau đớn.



NAI MẸ THƯƠNG CON ĐỨT RUỘT

Rừng hoang vắng vẻ vào một buổi sớm mai. Ánh nắng mặt trời chiếu khắp mặt đất, rừng rậm và cánh đồng. Núi đồi rực rỡ với ánh sáng đẹp đẽ và khe nước lấp lánh sóng gợn lăn tăn. Cảnh sắc thực yên tỉnh.

Bỗng nhiên một bóng người xuất hiện. Anh ta lướt qua bên dòng suối nhỏ và tiến đến một đồng cỏ. Anh đứng những khắp bốn phía dường như đang theo dõi một đối tượng nào đó. Trang thanh niên ấy có mặt vuông, tai rộng, lông mày như lưỡi kiếm và mắt tựa hổ lang. Trên đầu anh đội khăn vuông, tay trái xách cung, và hông phải mang tên. Anh trông mạnh khỏe cứng cỏi và nhanh nhẹn. Ðó là Hứa Chân Quân. Ông ưa thích cảnh trí rừng núi thiên nhiên và đặc biệt say mê thú săn bắn.

Thình lình ông thấy một chú nai con từ trong rừng vọt ra. Hứa Chân Quân mừng rỡ, giương cung, lắp tên và bắn một phát. Vừa nghe tiếng dây cung vang lên, tức khắc chú nai con ngã lăn xuống đất. Tráng sĩ hành diện vì mũi tên đã bắt trúng đích. Ông toan chạy vội tới để nhặt nai con, bỗng thấy nai mẹ từ đâu phóng ra.

Ðến nơi, nai mẹ thấy nai con đang bị thương nằm quằn quại; nó đau đớn khóc than và lấy lưỡi liếm vết thương cho con.

Ông Hứa không nghĩ rằng cảnh tượng này lại có thể xảy ra. Ông những nai mẹ đang chăm sóc cho nai con. Nhưng vì mũi tên của Hứa bắn rất chính xác, vết thương quá sâu cho nên giây lát sau nai con liền tắt thở.

Khi những thấy nai con nhắm mắt, nai mẹ vô cùng đau đớn xót thương, liền ngã lăn ra bất động. Hứa Chân Quân hết sức kinh ngạc. Ông không hiểu tại sao nai mẹ cũng nhắm mắt lìa đời. Ông bèn rút ra một con dao lớn mổ xác nai mẹ để xem nội tạng bị thương tích thế nào.

Ông thấy ruột của nó đứt ra từng khúc! Nai mẹ thấy con chết, vì quá đau thương buồn khổ đến nổi gan mật đều bể nát.

Hứa Chân Quân hết sức xúc động, ân hận về tội lỗi của mình đã gây ra. Lập tức ông bẻ gãy cây cung, vứt ống tên xuống suối. Rồi ông bỏ nhà vào núi tìm thầy học đạo. Trải qua nhiều năm tinh tấn tu hành và cuối cùng ông trở thành một Phật tử giác ngộ.



GIẾT HEO BỊ QUẢ BÁO KHỐC LIỆT

Thủ đô tỉnh An Huy bên Trung Quốc có cái tên ngộ nghĩnh là Hợp Phì. Gần đó tại làng Bà Dầu có một người tên là Tuyên Tứ. Anh ta làm nghề mổ lợn đã hơn hai mươi năm kinh nghiệm. Ông kiếm được khá nhiều tiền nhờ cái nghề này. Và ông cũng khéo dành dụm mua được ba căn nhà. Một cái ông để ở còn hai căn cho người ta mướn. Ngoài ra, ông cũng có khoảng trăm mẩu ruộng.

Theo lẽ, gia cảnh tiền bạc khá như vậy, thì ông ta có thể nghỉ ngơi được rồi. Nhưng vì lòng tham con người không bao giờ biết đủ. Hơn nữa tính hiếu sát của ông Tuyên cũng thành thói quen cho nên ngày nào không giết heo thì ông cảm thấy trong người như khó chịu. Do vậy mà vào các ngày lễ, ông thường rất bận rộn với công việc mài dao soèn soẹt cho bén.

Một ngày kia, ông thức dậy sớm để làm việc như thường lệ. Lúc ấy bà vợ ông đi xuống nhà dưới mà theo lối các nhà cổ thì nằm sát cạnh chuồng heo. Bỗng dưng bà những vào bên trong và hoảng hốt la hét lên khiến ông chồng chạy lại hỏi lớn:

“Cái gì vậy? Bà có sao không?”

Bà vợ đáp: “Tôi những vào trong chuồng và thấy có hai người đàn bà đang nằm chứ không phải heo! Tôi nghĩ là chuyện tưởng tượng cho nên tôi đã đến tận nơi những kỹ; lại thì quả đúng mình chẳng thấy lầm chút nào mà chắc chắn là hai người đàn bà thực!”

Người vợ nói: “Mình ơi, tôi nghĩ đó là điềm xấu. Tôi xin ông đừng giết heo nữa nhé!”

Tuyên Tứ cười lớn nói: “Ha ha ha! Bà có ý tưởng hết sức kỳ cục quái gỡ Như vậy nhất định là bà bị hoa mắt rồi!”

Bà Tuyên nhận thấy ông chồng chẳng nghe lời khuyên của mình, bèn giật lấy con dao giết heo ném thẳng vào trong cầu tiêu. Bởi vậy, ngày hôm ấy Tuyên Tứ không thể giết heo, nhưng ông đã đi ra tiệm để mua một con dao mới khác.

Hôm sau, bà mời ba má của bà đến nói với người rễ như sau: “Hiện nay ông đã có khá nhiều tiền để tiêu xài trong cuộc sống vào cuối đời của mình. Tại sao ông không chịu lắng nghe lời khuyên của vợ, có gì khó khăn lắm đâu?”

Ông ta đáp: “Nhưng giết heo là nghề của tôi mà”.

Bà nói: “Nếu anh cương quyết duy trì cái nghề ác đức này, thì nhất định vợ anh phải chia tay bỏ anh vậy.”

Tuyên Tứ nghĩ tưởng đến Những năm qua vợ chồng chung sống với nhau và số tiền ông kiếm được nhờ hành nghề giết heo.

Ông thầm bảo: “Thế nào rồi vợ ta cũng sẽ bỏ đi.”

Rồi Tuyên Tứ đem chia một nửa tài sản ruộng đất của mình cho vợ và đồng ý để vợ bắt giữ nuôi đứa con. Sau khi mọi việc đã giải quyết xong, ông trở lại làm nghề mổ heo như trước và lần lượt đem giết thịt hết Những con heo còn nuôi trong chuồng mà vợ ông tin rằng đó là Những người đàn bà.

Ông cũng làm thịt cả Những heo con, và sau khi giết chúng, thình lình ông hay tin đứa con thân yêu của ông bị bạo bệnh mà chết.

Bấy giờ trong lòng Tuyên Tứ mới hơi hối hận một chút, nhưng ông vẫn ngoan cố tự nghĩ rằng mình không có làm việc gì sai quấy. Từ đó, để tiêu sầu giải muộn, ông đâm ra cờ bạc. Trong thời gian ngắn, mọi tay chơi cờ bạc trong vùng đều biết, mỗi khi Tuyên Tứ đến sòng bài đều bị cháy túi, vì lần nào đánh ông cũng bị thua đậm.

Chung cục, ông đem bán hết phần ruộng đất còn lại của mình để chạy theo canh bạc đỏ đen, hầu mong gỡ gạt ít nhiều; nhưng tất cả đều tan theo mây khói. Thế rồi ông quyết định xây dựng lại sự nghiệp bằng cách gom góp tiền bạc mua vài con heo nuôi giết thịt để gầy vốn. Nhưng chưa đầy một tháng, ông ngã bệnh nằm liệt trên giường.

Ông mắc một chứng bệnh kỳ quái, miệng mũi lúc nào cũng tuôn ra máu mũ đau đớn tột cùng. Người ta nghe ông ngày đêm kêu la thảm thiết giống như tiếng heo bị thọc huyết!



CON HẢI CẨU TRẢ THÙ

Quan vận lương Lý Xuân Ðàm chở lương thực đến một khúc sông thuộc huyện Hoài Ninh tỉnh An Huy. Thuộc cấp của ông là Cung Khải đến thưa với ông rằng: “Thưa ngài, tối qua, tôi nằm thấy một giấc mộng kỳ lạ!”

Quan Lý hỏi: “Giấc mơ thế nào?”

Ông đáp: “Tôi thấy một ông cụ già râu tóc bạc phơ đến khóc lóc năn nỉ: Tôi đang gặp hoạn nạn, xin ông tận tình cứu giúp! Sau này nhất định tôi sẽ báo đáp ơn ông!”

Cung Khải lầm bầm tự nói một mình: “Ðây quả thực là một giấc mộng kỳ quái.”

Cuộc nói chuyện của họ bỗng nhiên gián đoạn bởi tiếng ồn ào lao nhao. Những người lính trong chiếc thuyền hộ tống vui mừng la hét vừa đưa tay chỉ một vật gì ở dưới nước. Cung Khải nói lớn: “Quý vị hãy trông kìa. Con hải cẩu! Chắc hẳn các bạn chưa bao giờ gặp thấy con hải cẩu bơi lạc vào trong dòng sông?”

Mấy người lính liền lấy lưới bủa xuống bắt và kéo nó lên thuyền. Sau đó, quan Lý Xuân Ðàm và Cung Khải cùng đến xem nó. Khi con hải cẩu thấy ông Cung nó những ông rất lâu khiến lòng ông cảm động và nhớ lại giấc mộng đêm qua.

Ông Cung nói: “Thưa quan Lý, tôi muốn mua con hải cẩu để phóng sinh. Tôi nghĩ nó có liên quan đến giấc mộng mà tôi đã báo cho ngài biết vừa rồi.”

Quan Lý đáp: “Ðược tốt lắm, nếu ông muốn làm phước, vì là tiền của ông.” Ông Cung liền rút tiền nơi ví mang đến ban thưởng cho Những người lính đã bắt được con hải cẩu lên thuyền.

Mọi người đều vui vẻ đồng ý. Duy nhất chỉ có tên lính tàn ác Trần Tứ phản đối vì y muốn nấu thịt con hải cẩu để đánh chén vào buổi cơm tối. Hắn ta từ chối không nhận tiền của ông Cung. Và tức thì, y cầm cây giáo đến con hải cẩu đập vào đầu nó một cái chí mạng khiến máu vọt ra chảy lan đỏ cả mặt nước.

Trần Tứ hỏi mấy anh lính: “Các bạn có biết là thịt hải cẩu ăn ngon hết xẩy? Quý và muốn làm gì với con vật đó? Tối nay chúng ta nấu thịt hải cẩu đánh chén nhé!” Phần đông các anh lính đều thương hại con hải cẩu khốn khổ, nhưng một vài người tàn nhẫn lại không có chút gì động tâm. Họ giúp Trần Tứ nấu thịt con hải cẩu rồi cùng chia nhau ăn trên thuyền.

Thực là điều rủi ro khi bọn họ ác đức giết hại ăn thịt con hải cẩu, vì sau đó, tất cả đều bị trúng độc. Riêng Trần Tứ là trầm trọng nhất. Hắn ta đau đớn cùng cực. Một vài người bạn hết lòng chăm sóc cho y mãi đến khi bỗng nhiên ông thốt ra tiếng nói kỳ lạ như sau: “Ta tu hành đã nhiều năm. Mọi việc đều diễn tiến tốt đẹp. Nhưng không may rủi ro ta gặp tai nạn ở con sông này. Ta đã cầu cứu ông Cung Khải giúp đỡ. Mọi người đều đồng ý bán ta cho ông Cung phóng sinh.

Duy nhất chỉ có một mình ngươi là phản đối không chịu. Này Trần Tứ, chính ngươi đã cướp lấy mạng sống của ta; ngươi cầm cây giáo đập vào đầu và đã sát hại ta! Ngươi đã giết ta, và nay đến lúc ta bắt ngươi phải đền mạng cho ta!”

Các thủy thủ kinh hãi khủng khiếp khi những thấy Trần Tứ quay đầu nhìn lui rồi nhắm mắt lìa đời!



CỨU RÙA ĐƯỢC PHONG THẦN

Thời đại nhà Tấn vào thế kỷ thứ tư tây lịch bên Trung Hoa, có một chàng thanh niên, ở đất Sơn Âm tên Khổng Du. Ông là một quan chức của triều đình nhưng ông chỉ là một viên quan cấp nhỏ, trong suốt cả triều đại vua này. Vì chức và ông thấp nên lương bỗng rất ít. Và cuộc sống của ông lúc bấy giờ cũng chật vật khó khăn.

Một hôm, ông gặp một con rùa có người bắt để giết thịt nấu ăn. Ông thương hại nên đã mua đem ra sông thả cho nó bơi đi.

Con rùa hình như hiểu rằng ông Khổng Du đã cứu thoát nó khỏi bị nấu trong nồi nuớc xúp. Cho nên khi lội xuống nước nó vẫn ngoái đầu những lui ông ta. Khổng Du những con rùa cho đến khi nó biến dạng không còn thấy gì nữa.

Về sau, Du đánh thắng giặc nổi loạn nên được thăng chức. Nhờ có công lớn, ông được nhà vua phong Hầu, một địa vị rất cao và có quyền thế.

Dấu hiệu chính thức của chức Hầu là cái ấn bằng kim loại. Khi Khổng Du được thăng chức, các thợ trong hoàng gia đúc cho ông một cái ấn; Nhưng không hiểu tại sao trên chiếc ấn xuất hiện hình con rùa ngoái đầu những lại. Mọi người đều cho là chuyện kỳ lạ, bèn phá hủy chiếc ấn ấy, rồi đúc lại cái khác. Ðúc đi đúc lại như thế nhiều lần mà lần nào cũng có hình rùa hiện lên trên ấn!

Thợ đúc cố gắng lần này và lần khác. Mỗi lần họ đều cẩn thận làm khuôn đúc, và các thợ kiểm tra nó kỹ; lưỡng. Lần nào khuôn làm cũng chẳng thấy có dấu vết gì, nhưng khi đúc vẫn thấy hình rùa hiện ra trên cái ấn, và nó luôn luôn quay đầu những lại!

Các thợ đúc hết sức băn khoăn. Họ liền đến trình lên Khổng Du sự việc này để ông nghĩ thế nào. Họ quỳ xuống truớc mặt ông và thưa: “Bẩm đại quan, do chỉ thị của đức vua, chúng tôi đã làm một chiếc ấn để tượng trưng cho chức và mới của ngài, nhưng lần nào làm khuôn, khi đúc chúng tôi vẫn thấy hình rùa hiện ra trên chiếc ấn và luôn luôn ngoảnh đầu những lại.

Khổng Du bèn ra lệnh: “Hãy tiếp tục làm một lần nữa”. Các thợ vâng lời đúc lại nhưng vẫn như các lần trước, hình rùa thấy hiện ra trên cái ấn và nó quay đầu những lại. Ông cũng lấy làm quái lạ. Chuyện ấy dần dần lan truyền đến tai vua trong triều đình.

Nhà vua bèn mời Khổng Du vào triều để hỏi tại sao hình rùa luôn luôn hiện ra trên chiếc ấn, nhưng ông không cách nào giải thích được.

Thế rồi, một hôm trên đường từ triều đình trở về nhà, Khổng Du đột nhiên nhớ lại một sự kiện đã xảy ra ngày trước. Do đó hôm sau, ông vào triều tâu với nhà vua: “Tâu đại vương, thần đã tìm ra nguyên nhân tại sao hình rùa hiện ra trên chiếc ấn rồi.

“Nhiều năm trước đây, nhân gặp ngư phủ thả lưới bắt một con rùa, anh ta sửa soạn làm thịt nấu ăn.

Thần thấy tội nghiệp không nở để nó chết nên đã mua đem thả nó xuống sông. Con rùa hình như hiểu biết nên khi lội trên mặt nước, nó ngoảnh đầu lại những hạ thần như để tỏ lòng biết ơn.

“Ngày nay, thần được bệ hạ đoái thương, phong Hầu cho thần; trên chiếc ấn chính thức có hình rùa hiện ra; điều ấy có nghĩa rằng sở dĩ thần đã chinh phục được sự chiếu cố quan tâm mến yêu của đại vương là do lòng biết ơn muốn đền trả của con rùa đó.”

Nhà vua liền bảo với quần thần: “Những ai làm điều thiện sẽ gặt hái được quả lành. Trường hợp của Khổng Du là tấm gương sáng cho mọi người chúng ta.”



GIẾT LƯƠN BỊ QUẢ BÁO

Lão Từ, khi tuổi xấp xỉ khoảng năm mươi, đã đến giúp việc cho gia đình họ Cao. Ông siêng năng làm việc và luôn luôn nhanh chóng hoàn tất trách nhiệm của mình mà không một chút than phiền hay chống đối. Ông được ông chủ họ Cao rất tín nhiệm.

Một hôm, ông ngủ cho đến măt trời lên khá cao mà vẫn chưa rời giường để đi làm việc. Thường khi ông hay thức dậy từ tờ mờ sáng, hôm nay ngủ trễ như vậy là điều hơi lạ. Một nhân công khác đến phòng ông để xem thử có việc gì xảy ra. Trước tiên ông gõ rồi sau đập mạnh vào cửa. Cuối cùng Lão Từ bước ra vừa đi cà nhắc. Ông tỏ vẻ đau đớn.

Một người bạn hỏi: “Cặp giò ông có việc gì thế?”

Lão Từ đáp: “Hãy những đây, đầu gối tôi bị sưng và mọc mụn nhọt đỏ.”

Rồi ông tiếp: “Tối hôm qua tôi nằm thấy một giấc mộng kỳ lạ, với hàng chục nghìn con lươn. Trong số đó, có hai con lươn thực bự xông vào tấn công và cắn hai đầu gối của tôi, khi tôi tĩnh lại thì vẫn còn đau đớn không thể cử động được. Vì vậy mà tôi mở cửa chậm trễ.”

Họ Cao nói: “Ðó quả thực là một giấc mộng kỳ quái. Nhưng ông có biết vì đâu mà có giấc mộng như thế?”

Lão Từ nhớ lại chuyện xưa rồi ngậm ngùi kể như sau: “Năm hai mươi tuổi, tôi có mở một cái quán bán phở tại chợ Ðông Quan.

Món phở thịt lươn của tôi rất nổi tiếng. Mỗi ngày tôi giết hàng trăm con lươn để nấu phở.

“Trải qua ba mươi năm như vậy, tôi dành dụm được một ít tiền; nhưng về sau tôi cảm thấy mệt mỏi ốm bịnh vì công việc bận rộn suốt ngày đêm nấu phở; cho nên tôi đã bỏ vốn ra làm ăn. Tôi mua dầu để đầu cơ tích trữ và chờ khi giá dầu ở thị trường lên cao, tôi mang ra bán. Không ngờ hỏa hoạn xảy ra thiêu sạch hết số dầu ở nhà kho. Công lao ba mươi năm làm việc cực nhọc, đốt cháy chỉ trong một đêm! Tôi trở thành con người tay trắng. Do vậy mà tôi đến đây xin làm công cho ông.”

Lão Từ hỏi: “Thưa ông, nằm thấy giấc mộng như thế, chẳng rõ bệnh tình cái đầu gối của tôi có sao không?

“Ðã là giấc mộng thì khỏi phải sợ. Ðừng lo, tôi có thứ thuốc này cho ông. Vừa nói, họ Cao lấy hộp thuốc đặc biệt do gia đình bào chế, xoa vào các mụt nhọt nơi đầu gối của Lão Từ. Quả nhiên thuốc có công hiệu rất nhanh chóng, và ông có thể cất bước đi được. Nhưng vài hôm sau, các mụt nhọt lại phát sinh nơi hai đầu gối ông.

Lần này nằm ngủ, người ta gọi cách mấy cũng không thấy Lão Từ ra mở cửa. Họ phải đến của sổ để những vào. Ông đưa đầu gối cho mọi người xem. Bà con thấy phần lớn thịt đã hư thối ăn đến tận xương.

Lão Từ khóc nức nở và nói: “Tối hôm qua, tôi nằm mơ thấy Những con lươn trở lại. Chúng cắn tôi đau thấu tim gan. Chắc tôi không thể nào sống được.”

Trong vài ngày sau, các mụt nhọt hành hạ Lão Từ đau đớn kịch liệt rồi ông qua đời.



NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ CHẾT CHÓC

Bọn thổ phỉ lại hoành hành ở Phủ Dương bên Trung Quốc. Lần này có mười hai người bị cướp. Chúng lại chặt đầu và cắt tay các nạn nhân. Những thấy cảnh dã man đó, mọi người ai cũng sợ hãi.

Ngoài ra, tại miền Tương Dương lại xảy ra lụt lội. Chỉ một đêm mà hàng trăm ngôi nhà bị nước thủy triều cuốn đi khiến dân cư mất hết nhà cửa không nơi nương tựa. Nhưng may mắn là họ không bị nhận chìm chết đuối cuốn theo dòng nước lũ.

Lý Bồi Ðức, một viên quan chức địa phương, nghĩ rằng cần phải làm một điều gì để chia xẻ nỗi khổ đau của dân chúng, dưới quyền cai quản của ông, trước thảm họa thiên tai này. Là người có từ tâm, ông rất đau buồn cho các nạn nhân bất hạnh đó. Ông cũng là một tín đồ của đạo Lão cho nên tin rằng đằng sau các thiên tai nói trên chắc hẳn có nguyên nhân.

Thế rồi Lý Bồi Ðức thầm nghĩ: “Thầy của ta, đạo trưởng Lâm, là người có đạo hạnh cao thâm, hy vọng ngài hiểu rõ mọi lý do.” Rồi một hôm gặp dịp, ông đi thẳng đến chùa Nhị Tiên để tham vấn đạo trưởng. Ông tới vào lúc đạo trưởng Lâm đang tọa thiền để luyện khí công.

Ðến nơi, ông Lý được đạo trưởng niềm nở tiếp đón. Rồi ông nói: “Xin hỏi đạo trưởng nguyên nhân do đâu mà gần đây các thiên tai đã xảy ra trong vùng dân chúng bất hạnh của chúng tôi, nhất là bọn thổ phỉ nổi lên nhiều như ong.

Chúng giết người và đốt nhà. Ngoài ra, thóc lúa của nông dân làm lụng cực nhọc nhiều năm tích trữ đã bị nước lụt hũy diệt tàn phá. Kính mong Ðạo Trưởng hoan hỷ cho chúng tôi biết nguyên cớ tại sao?”

Ðạo Trưởng Lâm nói: “Bần đạo ít khi ra khỏi chùa nên chẳng hiểu ất giáp gì cả về các biến cố tai họa xảy ra gần đây.”

Ông Lý hỏi: “Vì sao mà dân chúng gặp cảnh điêu linh khốn khổ như thế này?”

Lâm đạo trưởng cất tiếng than thở rồi đáp: “Ông gieo nhân gì thì gặt quả nấy. Người đời nay quá ích kỷ và tàn ác. Họ chỉ biết nghĩ đến cái bao tử cho nên họ đã giết thú vật để ăn thịt.

“Các sinh vật bị giết tức giận. Khi lòng giận hờn oán thù tích lũy quá nhiều, sự điều hòa của thiên nhiên vũ; trụ sẽ bị xáo trộn, khiến nạn đao binh, thiên tai lũ lụt xảy ra. Hơn nữa, các thú vật bị giết chết - tái sinh làm người trở lại để trộm cướp giết chóc trả thù con người đã từng sát hại, gây khổ đau cho chúng.

“Chúng ta không thể thoát khỏi sự trừng phạt của thiên nhiên. Người nào gây nhân ác sẽ chuốc lấy khổ đau cho bản thân và gia đình mình. Những kẻ chống đối thiên nhiên chắc chắn sẽ gặp thảm họa.”

Mặc dầu câu chuyện này đã xảy ra hàng trăm năm trước ở Trung Hoa nhưng là một bài học rất ý nghĩa đối với chúng ta vào cuối thế kỷ hai mươi ngày nay. Tiểu bang Florida bị tàn phá bởi các trận bão tố và cuồng phong. Nhà cửa ở California bị sập đổ vì động đất; nông trường đồng ruộng bị khô cạn do hạn hán và ngập nước vì bão lụt. Những trận bão gió và bão tuyết đã hũy diệt tài sản và gây nên cảnh không nhà cho hàng nghìn gia đình trên khắp đất nước Hoa Kỳ.

Chúng ta cần lắng nghe lời khuyên dạy đầy trí tuệ của chư cổ đức tiền nhân để làm sao biết sống hòa hợp với thiên nhiên. Những hành động giết chóc, bạo động, dùng xì ke ma túy, đồng tình luyến ái, nghe nhạc kích động ồn ào, uống rượu say sưa, đọc sách báo khiêu dâm, và trai gái sống chung lang chạ đã trở thành các thú vui cuồng nhiệt của con người ngày nay. Phải chăng đã đến lúc thiên nhiên không còn có thể tha thứ khoan dung đối với chúng ta được nữa?



CHIM SẺ TRẢ THÙ

Vợ của Tạ Mổ hỏi: “Thưa bác sĩ, bệnh tình nhà tôi liệu có khá hơn chút nào không?”

Bác sĩ lắc đầu không nói gì hết.

Nguyên vì trên lưng Tạ Mổ bỗng nhiên mọc một cái mụt nhọt bự, và xung quanh có vô số mụt nhọt nhỏ. Họ cố gắng dùng đủ loại thuốc để chữa trị, nhưng vẫn không có hiệu quả.

Bác sĩ nói: “Căn bịnh này không thể chữa với loại thuốc bình thường được. Tình trạng này, thì không thuốc nào mà tiền có thể mua để chữa lành nỗi.”

Một và danh y khác bảo: “Ðây là một thứ bệnh hết sức hiểm nghèo. Một loại bệnh hiếm thấy mà quý và chưa từng biết đến. Ðó là chứng bệnh Nhiều Con Chim Chầu Một Vì Vua.” Khi bà Tạ Mỗ nghe các bác sĩ nói vậy thì bà thét lên và ngã xuống bất tỉnh.

Tạ Mỗ là người rất giàu. Thuở nhỏ, ông vốn là một em bé nghèo, nhưng sau trở nên phú quý nhờ làm nghề thợ mộc cần mẫn và tánh tình lương thiện. Ông thực ra không có thói quen xấu nào, nhưng có một yếu điểm đặc biệt chung như nhiều người Trung Hoa khác là thích ăn nhậu. Do đó khi tổ chức cuộc hội họp hay tiệc tùng ông đã chi phí rất nhiều tiền để sắm sửa các món ăn vô cùng tốn kém.

Anh ta khoái nhất là dùng cái thực đơn hết sức đặc biệt và cầu kỳ sau đây. Món ăn này là sau khi nấu thịt một con vàt lớn mập, người ta nhồi vào bụng con vàt nhiều chim sẻ.

Người dự tiệc khi ăn dùng đũa tách bụng con vật ra sẽ thấy la liệt Những chim sẻ đã nấu hầm nhét trong đó. Món ăn được gọi là Bách Ðiểu Triều Vương (Trăm con chim chầu một vì vua)!

Hẳn nhiên bà Tạ Mỗ hoảng kinh, rất sợ hãi khi nghe và thầy thuốc bảo rằng chồng bà mắc chứng bệnh giống y như món ăn khoái khẩu mà ông thích nhất. Nhiều năm qua đãi tiệc, Tạ Mỗ đã giết hại vô số chim sẻ để ngày nay ông bị quả báo gặp phải căn bệnh quái ác như vậy.

Bất cứ ai có mụt nhọt đều biết rõ bị nó hành hạ, nhức nhối ra sao. Không Những chúng gây đau đớn, mà còn xông mùi hôi thối. Trải qua nhiều tháng, Tạ Mỗ khổ sở vì căn bệnh và cuối cùng ông nhắm mắt lìa đời. Những người bạn giàu có cũng không thể làm đuợc gì để cứu giúp ông, vì ông bị quả báo đã giết nhiều chim sẻ.



VƯỢN SẦU RƠI LỆ

Ngày xưa, ở Trung Hoa, vào một buổi chiều xuân, một đội kỵ binh ào ạt chạy nhanh vượt qua khu rừng hoang. Các chiến sĩ đều mặc áo giáp. Cờ phướn tung bay trong gió.

Ở phía sau đoàn kỵ binh có mấy và tướng mang gươm giáo. Ðàng sau các đại tướng lại có một chiếc xe song mã lộng lẫy. Người ngồi trong xe ấy là bậc quân vương nước Sở của Trung Hoa.

Cứ mỗi năm một lần nhà vua đi ra ngoài để tham quan đất nước dân tình, săn bắn, huấn luyện cho quân lính và cũng mong ra khỏi cung điện cũ kỹ; ngột ngạt thiếu không khí.

Vua Sở có một viên đại tướng là Dưỡng Do Cơ rất điêu luyện về thuật bắn cung. Ngày nay, dù hơn hai nghìn năm qua, dân chúng vẫn còn nhớ biết đến tài bắn cung của ông. Ông bắn không bao giờ trật phát nào. Nhà vua rất tin tưởng nơi ông. Khi đoàn săn bắn vào rừng thì Những thỏ, nai và các thú vật khác thường sợ hãi chạy tứ tán, nhưng không một nơi nào chúng có thể an toàn thoát khỏi Những mũi tên của đại tướng Dưỡng Do Cơ. Ông bắn một trăm phát đều trúng đích cả trăm.

Tại giữa rừng sâu có một cây cổ thụ cao vút tận trời xanh. Khi đi ngang qua, quân lính nghe tiếng ồn ào. Những lên trên đầu họ thấy giữa các cành cây có một con vượn già. Nó đang vui đùa chuyền từ cành này qua cành khác và nhạo báng Những tên lính thợ săn. Nó ném trái phỉ (hồ đào) vào họ.

Một người lính dương cung nhắm vào con vượn già và nói:

“Ðược rồi, tao sẽ cho mày một bài học. “Nhưng tên lính vừa bắn một phát, vượn né tránh và mũi tên bay trật xuyên qua các cành cây. Ðoàn thợ săn đều la hét cười ồ.

Anh ta bắn mũi tên khác; lần này vượn không tránh nhưng chụp lẹ và bẻ mũi tên gãy làm hai.

Bây giờ, mấy tên lính săn tức giận nỗi điên. Họ bắn nhiều phát vào con vượn, nhưng nó rất khôn ngoan, lanh lẹ nắm bắt hết các mũi tên cười chế nhạo nhóm lính nhiều hơn.

Khi đức vua thấy con vượn quá tinh ranh, quỷ quyệt như vậy, ngài lập tức ra lệnh cho Dưỡng Do Cơ bắn hạ nó ngay.

Con vượn hình như hiểu tiếng người, trông thấy Dưỡng Do Cơ đột nhiên phi ngựa đến gần cái cây, nó liền khóc. Nước mắt chảy ròng ròng xuống má và nó kêu la rất thảm thiết.

Vua Sở hỏi: “Vì sao mà vượn già lại khóc?”

Dưỡng Do Cơ tâu với nhà vua: “Tâu đại vương, con vượn biết thần có tài thiện xạ, dù khôn lanh cách mấy, hễ mũi tên buông ra là trúng ngay mục tiêu, chắc chắn phải chết cho nên nó mới khóc.”

Vua Sở trầm ngâm suy nghĩ. Con vượn già quá sức buồn rầu làm sao! Tất cả Những con vật khác cũng đều khổ đau như vậy. Tâm đức vua bỗng dưng phát khởi lòng từ bi. Ngài lập tức ra lệnh cho đại tướng Dưỡng Do Cơ bảo quân lính cất hết vũ khí, đình chỉ cuộc săn bắn hầu tránh gây sự tổn hại cho các thú vật vô tội.

Khi vua Sở trở về hoàng cung, dân chúng hay tin nhà vua đã xúc động vì nước mắt của con vượn già. Mọi người dân trong nước Sở đều vui mừng sung sướng có một ông vua đầy lòng nhân từ như vậy, cho nên họ đã nỗ lực làm việc để phục vụ quốc gia, và từ đó, nước Sở trở nên hùng mạnh, giàu có kéo dài đến hàng trăm năm.



GIẾT CHỒN BỊ QUẢ BÁO HỎA HOẠN

Vương Hà Nam ở đất Hoài Nam bên Trung Quốc là một nhà giàu có. Gia đình ông tạo dựng sự nghiệp bằng cách mở một tiệm cầm đồ. Việc làm ăn rất phát đạt. Vì cần thêm chỗ nên ông đã mua mấy nhà trống xung quanh để dùng làm kho chứa hàng.

Tại một căn nhà bỏ trống, các gia nhân phát hiện thấy có ba con chồn nho nhỏ. Thế là họ cùng nhau đuổi bắt chúng; nhưng Vương Hà Nam rất ghét loài chồn.

Cho nên ông liền ra lệnh cho các nhân công giúp việc: “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc! Hãy giết sạch chúng, nhất quyết không để một mống nào chạy thoát.” Thế nhưng cuối cùng họ chỉ bắt giết được hai, còn một con trốn thoát.

Từ hôm đó trở đi, nhà kho của ông Vương không một ngày nào được yên ổn. Nhiều đồ vật tự nhiên biến mất, các vật dụng cất trong đó thường bị phá hoại một cách bí mật, mà không ai rõ nguyên nhân tại sao. Mọi người đều bảo rằng do con chồn thứ ba chạy thoát đã gây ra.

Vào một ngày mùa Ðông năm 1815, các nhà kho của ông Vương vô cớ bị bốc cháy. Rất may mà phát hiện sớm nên chưa đến nỗi bị thiêu rụi. Do đó, ông mời một và thầy pháp đến nhà làm phép để bảo vệ tài sản, nhưng chỉ vài tháng sau thì hỏa hoạn lại xảy ra nữa. Mọi người đều biết loài chồn tinh tác yêu tác quái, và nếu kẻ nào có tâm ác muốn hại chúng thì không bao giờ chúng để cho yên.

Vì thế, sau Những năm không ngừng bị loài chồn quấy phá, ông Vương Hà Nam liền đem bán hết các nhà kho cho gia đình họ Trần giàu sang mà họ cũng đang cần có chỗ làm nơi cất giữ tài sản. Ông Vương đồng ý bán với giá bốn mươi ngàn đồng tiền vàng và dự tính ngày làm khế ước.

Một ngày trước thời hạn hai bên mua bán ký giao kèo, người nhà họ Trần nghe văng vẳng trên không có tiếng nói rằng: “Tôi có mối thù với nhà họ Vương. Nhưng không có oan trái gì với quý và, vậy xin quý và không nên mua tài sản của gia đình họ Vương.” Không ai biết rõ giọng nói phát xuất từ đâu, nhưng ông Trần nghĩ tưởng rằng có thể tại một nơi nào đó ở căn nhà kho.

Vào một đêm khoảng tháng ba năm 1841, mọi người trong gia đình họ Vương thình lình bị đánh thức dậy khi nghe ông Vương Hà Nam thét la hoảng lên: “Cháy! Cháy! Lửa cháy thiêu rụi hết tài sản sự nghiệp của tôi rồi bà con ơi!” Rồi từ trong phòng ngủ ông hấp tấp chạy vọt ra ngoài, thậm chí chân không kịp mang giày dép và trên thân cũng không có một chiếc quần lót.

Hình như lửa bắt đầu cháy ở nhà bếp rồi sau lan qua Những phòng kế cận. Khi mọi người trong gia đình thức dậy thì thấy các nhà kho đang ngập chìm trong biển lửa, và sáng hôm sau thì tất cả đều bị cháy thiêu rụi. Như vậy cuối cùng con chồn thứ ba đã trả xong mối thù của nó.

Loài vật có thể không thông minh bằng con người nhưng chúng nhớ rõ ai có lòng mến thương và kẻ nào sát hại chúng. Những con vật khôn ngoan như loài chồn vẫn biết lập mưu để quyết tâm trả thù. Chúng không thể hành động theo lý trí và ngay cả và thầy pháp xảo quyệt cũng không thể trấn áp tiêu diệt được chúng.

Con đường duy nhất để Những con vật bị giết không oán thù là người sát hại phải biết ăn năn sửa đổi và có lòng thương yêu chúng. Ông Vương nên sám hối về hành động đã giết Những con chồn vô tội và bày tỏ lòng thành của mình muốn làm các việc lành và không bao giờ sát sanh. Rồi nếu có thể ông giảng giải Phật Pháp cho Những con chồn thấu hiểu về luật nhân quả của vũ trụ nhằm hóa giải mối bất hòa và trở thành bạn của chúng để chấm dứt mối thù tai họa này.

Bởi lẽ, sự oán hận chẳng mang lại điều gì an lành cho bất cứ ai.



ĐÀO AO PHÓNG SANH

Ðỉnh núi Thiên Thai với muôn ngọn trùng điệp xanh đen một màu, phong cảnh thực đẹp. Du khách từ phương xa thường đến đây ngoạn cảnh.

Hàng nghìn năm qua, có nhiều ngôi chùa được xây dựng tại vùng núi rừng đẹp đẽ này. Tại đây có một ngôi chùa lớn, và trụ trì tên là đại sư Trí Khải. Ngài sống vào khoảng thời gian năm 539 đến 597 tây lịch. Vì ngài vốn là và cao tăng có nhiều trí tuệ nên vua Dung Ðế nhà Tùy ở Trung Hoa rất ngưỡng mộ ban cho hiệu là Trí Giả, mà đến nay vẫn còn nhiều người biết.

Vào thời ấy, ngài cảm thương cho lòng người quá đổi tàn ác, đặc biệt họ thích sát hại loài vật để ăn. Họ giết hầu hết các sinh vật để dùng làm món nhậu.

Ðại sư quyết định nên có hành động để cứu thoát chúng sinh. Nhưng biết làm sao? Nhà sư không có tiền. Trải qua nhiều năm ngài Trí Giả đã làm và du tăng khất sĩ đi xin khắp mọi nhà. Cuối cùng ngài có tạm đủ một số tiền mua đất và mướn nhân công đào một cái ao.

Nhiều người thấy vậy đều cười chế nhạo bảo ngài là một lão hòa thượng ngu si!

Bởi vì là người có trí tuệ cho nên Trí Giả đại sư chẳng thèm quan tâm đến sự nhạo báng của thiên hạ. Ngài vẫn tiếp tục công việc đào ao của mình.

Trong lúc công nhân nghĩ giải lao, ngày lấy kinh Phật ra giảng giải cho họ nghe. Ngài nói đức Phật dạy rằng: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Cho nên, một con cá, một con cua, chúng đều có thể tu hành thành Phật.

“Các loài dã thú cũng có Phật tánh như chúng ta. Nếu loài dã thú giết hại một người nào thì ai thấy cảnh ngộ bi thảm ấy cũng đều xót xa thương cảm. Thế thì khi chúng ta giết một con cá, l ẽ nào mà đồng loại của nó lại không cảm thấy đau thương?”

Ðại sư Trí Giả giải thích rằng ngài đào cái ao là để nếu ai có con cá hay con cua thì đem phóng sinh thả vào đó hầu giúp nó được sống tự do, an lạc. Ngài đặt tên là Cái Ao Sống Giải Thoát.

Các công nhân nghe ngài giảng như thế đều xúc động, và Những người trước đây cuời chế nhạo ngài thì bây giờ họ cảm thấy hối hận cho hành động không tốt đó. Mọi người đều phát tâm theo Phật, và chấm dứt việc giết hại thú vật để ăn.

Các chùa khác cũng làm theo ý kiến của ngài Trí Giả. Nếu có dịp đến viếng thăm một ngôi chùa Trung Hoa, quý và có thể những thấy cái Ao Sống Giải Thoát, trong đó chứa đầy Những cá, cua và rùa đang hạnh phúc hơi lội mà chúng cảm thấy an toàn không còn lo sợ bị người ta giết hại để nấu ăn.




THAM THỰC CỰC THÂN

Tánh rộng rãi của quan thái thú Trần ở Trung Quốc mọi người ai ai cũng biết. Ông nghĩ thà chết còn sướng hơn là sống mà không biết tiêu xài. Vấn đề tiền bạc thì ông không cần để ý, và đem sử dụng có đúng chỗ hay không ông cũng chẳng quan tâm.

Và giống nhiều người Trung Hoa khác, thú vui của ông là thích ăn uống và tiệc tùng. Như người xưa đã nói ông có thể giết ăn “bất cứ thịt con vật nào hai chân trừ cha mẹ của ông, cũng như các thú vật bốn chân trừ ghế và giường.”

Còn về giường ngủ thì khỏi nói! Bạn có bao giờ thấy chiếc giường ngủ đặc biệt của người Trung Hoa chưa? Bên trên nó được chạm trổ hình cái long đình rất đẹp. Giường của ông thái thú Trần chẳng khác long sàng của và hoàng đế. Ông thường mặc thứ y phục sang trọng và đắc tiền nhất. Ðồ dùng trong nhà ông đặt mua đều là các loại thượng hạng.

Nhưng sở thích chính của ông là ăn nhậu. Mỗi ngày ba bữa ông dùng điểm tâm, ăn trưa và buổi tối gồm có các thứ óc vàt, chân gấu, vi cá, bướu lạc đà, môi khỉ, gà, ếch, hươu, và Những thức ăn cầu kỳ, tốn kém khác. Nhiều năm qua, ông Trần đã sát hại hàng nghìn sinh vật vô tội để làm thịt nấu ăn.

Sau khi về hưu, ông mua một biệt thự sang trọng. Trong vườn có ao, suối nước chảy róc rách bên cạnh là Những túp lều để ngồi chơi. Ai đi vào đó cũng tưởng như mình lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh! Hơn nữa về phương diện ẩm thực thì ông chuyên mướn Những người đầu bếp giỏi để sữa soạn các món ăn tuyệt hảo.

Ông Trần thường nói với các bạn bè: “Ðời con người ta chắc chi sống được lâu dài? Hiện tại sống quý và không biết hưởng thụ thì sẽ chờ đến khi nào? Con người sống mà chưa bao giờ được tận hưởng các thức ăn cao lương mỹ vị thì cuộc đời như thế kể như vô nghĩa!”

Nghe vậy, có người nói: “Ðể rồi xem, chung cục một ngày nào đó chắc chắn ông ta sẽ chuốc lấy quả báo.” Nhưng ông Trần không cần đếm xỉa tới lời bàn tán của thiên hạ.

Quả nhiên về sau do cuộc sống xài tiền bạc quá hoang phí đã khiến cho gia cảnh của ông Trần ngày càng suy sụp còn ông thì mắc phải chứng bệnh điên. Khi lên cơn, hễ thấy bất cứ vật gì ông cũng cầm lấy cho vào miệng. Không Những chỉ chén dĩa người đầu bếp của ông dọn ra mà ngay cả lá, nhánh cây, sỏi đá, giày cũ, rác rến và tách uống trà ông cũng lấy bỏ vào miệng. Rồi ông nhai ngấu nghiến và nuốt chúng. Một thời gian sau, ông đã tự sát do lòng ham muốn giết hại các sinh vật để làm món ăn.

Phải chăng đó là một cái chết thực quá đau thương?


TỬ SẢN NUÔI CÁ

Ðời Xuân Thu nước Trịnh, khoảng 2.500 năm trước bên Trung Hoa, có môt và đại phu tên là Tử Sản. Ðức Khổng Tử đã từng ca tụng về trí tuệ sáng suốt của ông. Tử Sản là người hoạt bát và nhân từ mà dân tộc Trung Hoa ngày ngày nay vẫn còn ngưỡng mộ ông. Tiên Sinh thường giúp người nghèo khổ, cứu kẻ khốn cùng. Ông thích làm các việc lành, và đặc biệt không bao giờ sát sanh hại vật.

Một ngày kia, có người bạn thân, gửi biếu ông một ít cá sống. Thứ cá này thịt vừa béo vừa ngon. Chúng có thể dùng để nấu một bữa ăn thịnh soạn! Sau khi nhận quà, Tử Sản bày tỏ lòng biết ơn người bạn quá tốt. Ông sung sướng có món quà như vậy, và gọi người tỳ nữ bảo: “Ngươi đem số cá này đổ xuống ao sau nhà để nuôi chúng”.

Người tỳ nữ nói: “Thưa đại nhân, đây là một loại cá quý giá. Nếu đem bỏ chúng vào trong ao, nước không được sạch trong như nước ở suối khe trên núi; do vậy thịt của chúng sẽ không được mềm và ăn không mấy gì ngon. Ðại nhân nên nấu kho chúng để thưởng thức ngay hôm nay.”

Ðại phu Tử Sản cười nói: “Ta là chủ nhân, ngươi đừng cãi, Hãy làm theo lời ta bảo. Ta không thể vì một miếng ăn ngon mà đem giết Những con cá sống khốn khổ vô tội này. Làm việc ấy quả thực ta không nỡ

Người tỳ nữ vâng lời. Cô đem số cá ấy đổ xuống hồ và nói với chúng rằng: “Các ngươi là Những con cá may mắn! Ngoại trừ ông chủ ta ra, nếu các ngươi được biếu cho bất cứ ai khác, thì giờ đây quý và đã bị giết bỏ vào nồi nấu kho rồi!”




SÁT SINH BỊ QUẢ BÁO NHÃN TIỀN

Trầm Văn Bảo là một nhân sĩ nhà sống gần hồ nước lớn Thái Hồ bên Trung Quốc. Ông rất đạo hạnh. Cả nhà chuyên làm việc phước đức, thường hay phóng sanh.

Một hôm, ông Trầm hỏi vợ: “Bà đã phóng thả hết Những con chim tôi mua của người thợ săn vào trưa nay chưa?”

Người vợ đáp: “Vâng, tôi đã phóng sanh chúng hết cả rồi.”

Ông chồng nói: “Thật là tuyệt diệu, giờ đây bọn chúng mới được tự do bay đến bất cứ nơi nào chúng muốn. Chúng có thể bay bỗng lên bầu trời bao la hoặc đậu nghĩ ngơi trên Những cành cây trong rừng.” Suy nghĩ như vậy, Trầm Văn Bảo lòng cảm thấy vô cùng vui sướng và hạnh phúc.

Phần đông dân chúng trong vùng sống bằng nghề bẫy thú và câu cá. Chỉ duy nhất nhà họ Trầm là không làm. Khi biết người hàng xóm bắt được Những con vật nào thì gia đình ông Trầm đến mua để thả chúng ra. Nhiều người nói bà con ông Trầm làm phước như vậy là khùng điên: “Tại sao lại dùng phí tiền vào việc mua chim để phóng sinh? Ðiều đó có gì là tốt nào?” Có người cười nhạo báng như thế.

Thế rồi vào một đêm tối nọ, mọi dân chúng trong làng đều đi ngủ chỉ một mình ông già Lý Mân là còn thức. Và ông nghe có tiếng nói ngoài đường. Khi những ra, ông hoảng sợ và ngã xuống đất.

Ông trông thấy hai con quỷ đang mang bệnh dịch vào thành phố. Chúng gieo rắc loại vi trùng truyền nhiễm. Mỗi con quỷ một loại vi trùng. Nghĩ tới điều đó ai cũng lo sợ. Và ông già Lý Mân bảo trông hình dáng hai con quỷ này thực khủng khiếp lắm. Chúng cầm trên tay nhiều lá cờ nhỏ.

Một con quỷ nói: “Mỗi nhà cắm một lá cờ phải không?”

Con quỷ kia đáp: “Ðúng vậy, nhưng chừa nhà kia ra. Ðó là nhà họ Trầm. Vì gia đình ông ta thường hay phóng sinh rất nhiều thú vật, cho nên bọn mình không thể gieo tai họa gì cho gia đình ông được.”

Vài ngày sau, một bệnh dịch truyền nhiễm khủng khiếp xảy ra ở quận Thái Hồ. Chưa đầy một tuần lễ, hơn phân nữa dân số đều chết hết.

Ðiều kỳ lạ, không ai trong gia đình ông Trầm Văn Bảo mắc bệnh, tất cả đều khỏe mạnh, bình an vô sự. Bây giờ mấy người bạn hàng xóm mới hiểu rằng ai ăn hiền ở lành thì luôn gặp điều may mắn phúc đức. Về sau, ông Trầm Văn Bảo đã sống rất thọ và qua đời một cách an lạc không có chút gì đau đớn.




LÀM ĐIỀU NHÂN CON VINH HIỂN

Vào dịp tiết Lập Xuân, Uông Lương Bân gọi ông lão bộc đến hỏi:

“Ông mua ốc đồng được mấy pao vậy?”

- Thưa ông chủ, dạ mua được hai trăm pao.

“Thế có mua được chim không?”

- Thưa ông, dạ mua được hơn sáu mươi con.

“Có đủ tiền không?”

- Dạ đủ, thưa ông.

Uông Lương Bân, xưa nay chưa bao giờ phung phí một đồng nào. Ông sống đạm bạc và giản dị. Có thể nói tiền bạc của ông hầu hết đều mua động vật để phóng sinh.

Một hôm, đến ngày lễ mừng sinh nhật, các học trò của ông chuẩn bị tổ chức một bừa tiệc chúc thọ ông. Khi hay tin ấy, ông liền gọi họ đến nghiêm nét mặt nói: “Nếu các người có lòng kính mến ta thì dùng tiền chi phí cho việc sát sinh đãi tiệc sao bằng lấy tiền ấy mua thú vật để phóng sinh. Và đó là món quà sinh nhật ý nghĩa nhất mà các người có thể biếu tặng cho ta.”

Nghe nói vậy, các môn sinh của ông ai nấy đều rất cảm động và họ đã y theo đó mà thực hiện. Vì thế trong năm này, số động vật mà ông phóng sinh so với năm trước tăng nhiều hơn gấp bội.

Vài năm sau, một người hàng xóm có một con trâu quá già không còn làm việc được nữa. Ông định đem bán nó cho lò thịt. Con trâu biết nó sẽ bị giết cho nên đã tìm cách thoát ly khỏi chủ của nó và chạy thẳng đến nhà Uông Lương Bân. Nó quỳ mọp xuống đất trước mặt, và cầu xin ông cứu giúp mạng sống cho nó.

Thấy cảnh tượng đáng thương ấy, ông Uông đã xuất ra một số tiền mua con trâu đem về nuôi và chăm sóc nó cho đến suốt đời.

Mặc dù không khuyên bảo, con cái thường hay nhanh chóng bắt chước việc làm của cha mẹ. Ông Uông có lòng tốt giúp đỡ mọi người, mấy đứa con cũng noi gương làm theo ông. Ông luôn luôn tích cực làm việc, các con ông cũng chăm chỉ học hành. Chúng vâng lời cha mẹ và một cậu con trai ông đã nổ lực đèn sách thi đậu làm quan to trong triều đình, mang lại vinh hiển cho toàn cả họ tộc.

Uông Lương Bân đã sống trường thọ, an lành, và hạnh phúc. Khi chết, ông không hề đau đớn một tí nào mà nhẹ nhàng thanh thản giống như một và lão Tăng nhập định.




BẮN CHIM BỊ QUẢ BÁO

Trán rộng, trên đầu chỉ lưa thưa vài sợi tóc với cặp mắt ưa những ngang liếc dọc, không dám những thẳng. Còn cái mũi của y thì quặp vào như mỏ chim ưng. Hai môi xệ xuống, răng thì lễnh khểnh không đều. Dáng người tuy nhỏ thó, nhưng rất dâm đảng. Ðó là Lý Phúc Tài ở Bảo Sơn bên Trung Hoa, mà mọi người đều biết.

Lý Phúc Tài là con người độc ác và thích nhục dục. Ông cũng là nhân vật tàn bạo nhất. Gia đình y giàu có và nhà sống gần một con sông. Ðể ngăn ngừa khỏi bị lụt lội và ẩm thấp ông đã trồng xung quanh nhà nhiều bụi tre. Do vậy chim chóc thường đến lót ổ trên lùm tre để cư trú.

Súng được du nhập đến Trung Hoa từ các nước Tây Phương vào thời đại của Lý Phúc Tài. Ngay lúc còn bé, ông đã săn bắn rất giỏi. Ông yêu thích các khóm tre quanh nhà vì chúng cung cấp cho Phúc Tài nhiều tấm bia để nhắm bắn.

“Tôi bắn trúng rồi!”, anh ta vỗ tay vui mừng hoan hô khi những thấy con chim từ trên tổ rơi xuống đất.

Ðến lúc trưởng thành, anh ta lấy việc săn bắn làm thú tiêu khiển hằng ngày. Vào tuổi năm mươi, Phúc Tài vẫn còn ham thích bắn chim. Không thể đếm biết được có bao nhiều con chim vô tội đã bị sát hại trước họng súng của y.

Nhưng rồi vào một buổi sáng nọ, người nhà những thấy Phúc Tài nhảy xung quanh trước cửa sổ. Hình như ông ta đang vũ múa. Với hai tay đưa lên đầu đập vào không khí kêu rên: “Ðừng mổ cắn tôi!”

Rồi anh lấy tay che ở cổ trên vai, nơi cánh tay, phía sau lưng, hai bắp vế, và cuối cùng xuống dưới hai mắt cá ở chân. Nói chung là tay chân cử động lia lịa nhảy nhót giống như con kiến bò quanh chảo nóng, và miệng ông vẫn tiếp tục kêu la: “Ôi chao, ôi chao! Chim, chim, đừng mổ cắn tôi!”

Nhưng không ai thấy con chim nào cắn mổ ông ta cả. Rồi y lại bắt đầu la ơi ới: “Chim! Chim! Chim!” Thần sắc anh ta kinh hoàng, khiến người trong nhà nghĩ tưởng ông chẳng khác gì chuột nhắt vừa bắt gặp mèo già. Thế nhưng mọi người không ai thấy bóng dáng một con chim nào cả.

Phúc Tài lại kêu thét lên: “Tôi sắp chết rồi!” Tay và chân của y co rút lại. Mặc dù mấy cậu con trai đã cố gắng, vẫn không cách nào kéo tay chân của ông duỗi thẳng ra được. Rồi đầu cổ y hướng lên phía trước, thân mình hơi cong xuống giống như hình dạng một con chim lớn đang bay trên hư không.

Thân nhân trong gia đình chỉ còn biết than khóc khi chứng kiến cảnh thân thể của Lý Phúc Tài, con người tài giỏi bắn chim, đang vặn vẹo uốn mình và chết trong tình trạng co quắp vô cùng khốn khổ.



PHÓNG SINH TĂNG TUỔI THỌ

Vào đời Tiền Ðường, ông thái thú Ðồ ở tỉnh Tích Giang bên Trung Quốc một hôm bỗng nhiên mắc bịnh nguy kịch. Thầy thuốc lại bốc nhầm thuốc nên tính mệnh của ông gần như sắp kết thúc.

Thái thú Ðồ nhận thức rằng cuộc sống là quý báu nhưng ảo mộng vô thường. Ông bèn tự phát nguyện: “Tôi nguyện dùng hết cuộc đời của tôi để giúp đỡ mọi người. Việc tu tập quan trọng nhất của tôi hiện nay là tụng kinh sám hối và cứu độ tất cả chúng sanh trên thế giới. Ngoài ra các việc khác tôi không thiết tha gì nữa.”

Thế rồi, một hôm ông nằm mộ
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên