LỜI NÓI ĐẦU.
Trong bốn bộ kinh chính [1] của Tạng kinh (Suttantapiṭaka), mối quan tâm hàng đầu của Phật giáo là đạt đến Niết bàn nhờ tu tập bát chánh đạo.
Trong các bộ kinh này, Đức Phật giảng thuyết giai đoạn cuối cùng để đi đến giải thoát, đặc tính cấp bách này được hiển lộ đặc biệt so với các đặc tính khác và có lẽ không có đặc tính nào thật nổi bật hơn so với đặc tính “cấp bách” này, Đức Phật mong muốn các đệ tử đạt đến mục tiêu cuối cùng là quả vị Vô sinh bất tử.
Như người phát hiện ra cái khăn quý của mình đang bị lửa đốt cháy, ngay lập tức tìm cách dập tắt ngọn lửa. Cũng vậy, Ngài chỉ dạy đệ tử nổ lực dập tắt những ngọn lửa ái (taṅhā) để đạt đến trạng thái an toàn tuyệt đối, hưởng lạc Niết bàn trọn vẹn.
Những bài kinh cổ sơ có đề cập đến ba hạng người đạt đến trạng thái giải thoát trọn vẹn [2] , đó là:
- Đức Phật Chánh giác (Sammāsambuddha): Vị tự chứng đạt pháp vô sinh bất tử, không thầy chỉ dạy, đồng thời có khả năng dạy người khác chứng đạt quả vị này. Tức là Ngài có lời giáo hóa (sāsanā).
- Đức Phật Bíchchi (Paccekabuddha- Đức Phật Độc Giác): Tuy Ngài tự chứng đạt, không thầy chỉ dạy, nhưng Ngài không có khả năng giáo hóa kẻ khác chứng đạt pháp Bất tử, nên Ngài không có giáo thuyết (sāsanā).
- Đức Alahán (Arahanta). Vị chứng đạt pháp Bất tử nhờ sự chỉ dẫn của Đức Chánh giác và sau đó giảng dạy lại cho người khác tùy theo khuynh hướng và khả năng của mình. Các Ngài là đệ tử của Đức Chánh giác.
Vì thời gian và sự nổ lực tu tập của ba bậc có sai khác nhau, nên phẩm vị có khác nhau là như thế. Và không tìm thấy hạng nào vượt trội hơn ba bậc này, nên ba bậc Thánh nêu trên được xem là mẫu mực lý tưởng, tối thiểu cũng phải đạt đến phẩm vị Alahán.
Tất cả ba bậc Thánh nêu trên đều giống nhau về sự chứng đạt Niết bàn, nhưng mỗi bậc lại khác nhau ở những khía cạnh riêng biệt về trí thông đạt (paṭivedhañāṇa)..., đó là do khuynh hướng và hành trình với phương thức (yāna) [3] khác nhau.
Trường phái Theravāda (Nguyên Thủy), một trong các trường phái cổ xưa nhất so với các trường phái trong Phật giáo.
Theo sự chỉ dạy của Đức Phật lịch sử, lý tưởng của trường phái này là “chứng đạt Alahán”, đó là tầm quan trọng nhất được đặt trên nền tảng yên tịnh, lý tưởng này thường được mô tả trong các bài kinh Pāli.
Những lý tưởng khác như “chứng đạt Độc giác Phật, chứng đạt Chánh giác Phật” vẫn được đề cập đến, nhưng lại là một phạm trù khác, nên không mô tả chi tiết.
Những trường phái khác như Sarvāstivāda (Hữu bộ) và Mahāsaṅghika (Đại chúng bộ), trong khi ủng hộ tính ưu việt của các vị Thánh Alahán và lý tưởng Alahán, nhưng cũng quan tâm đến những lý tưởng khác như “lý tưởng Bíchchi Phật”, “lý tưởng Chánh giác Phật”, những lý tưởng này vẫn có thể đạt được đối với những người có ước vọng mãnh liệt, theo đuổi các mục tiêu đó.
Do vậy, họ cũng thừa nhận 3 phương thức (yāna) hay ba đường lối dẫn đến thông đạt. Tất cả đều có giá trị nhưng mỗi phương thức có khó khăn riêng, thời gian dài ngắn khác nhau, đồng thời có tác dụng hổ tương lẫn nhau.
Trong tất cả các trường phái xưa, các vị Giáo thọ sư tiền bối, các tư tưởng gia, các thi sĩ cùng nỗ lực điền vào lịch sử của ba bậc giác ngộ với các câu chuyện tiền thân, đặc biệt là “tiền thân Đức Phật”.
Vào những thời điểm quá khứ, tiền thân các vị ấy tạo ra nền tảng cho những thành tựu trong tương lai, nỗi bật nhất là vị Bồtát Chánh giác, đó là hình bóng của Đức Phật Chánh giác tương lai, là người tìm ra “con đường dẫn đến thông đạt pháp”.
Đức Chánh giác là người chủ các pháp, là bậc đáng tôn kính và nễ vì hơn tất cả mọi sinh chúng.
Dần dần một tác phẩm được hình thành [4] , bắt đầu miêu tả làm nổi bật lên sự phát triển của Bồtát hạnh hay “Phật Chánh giác tương lai” với con đường tu tập đầy cam go.
Theo cách này, dáng vẻ của vị Bodhisattvā (Bồtát), người khao khát thành Phật Chánh giác trong tương lai nổi bật như vầng thái dương trong đời sống Phật giáo phổ biến.
Cực điểm của sự cách tân này là sự xuất hiện của trường phái Mahāyāna (Đại thừa - còn được hiểu là “Đại phương tiện” hay “cổ xe lớn”) vào khoảng cuối thế kỷ thứ I trước Tây lịch.
Theo Mahāyāna thì: Trong ba phương thức (yāna) giác ngộ, thì phương thức của Bồtát Chánh giác là tối thắng, hai hạng còn lại chỉ là những cách mà Đức Phật nghĩ ra, chỉ cho những đệ tử ít giỏi hơn tu tập, để hoàn thiện đi đến thành Phật Chánh giác trong tương lai, hai phương thức: Độc giác thừa, Thinh văn thừa chỉ có giá trị lý tưởng trong tâm.
Trường phái Theravāda, với khuynh hướng “theo đúng truyền thống” (còn gọi là bảo thủ) và cách ly với “sự cách tấn” của các trường phái khác. Tuy vẫn chấp nhận những thay đổi vốn phải có trong thế giới Phật giáo, nhưng Theravāda vẫn bảo toàn các bài pháp trong kỳ kết tập lần I, không thay đổi khung cơ bản của Pháp.
Tuy nhiên, hình bóng của vị Bồtát đã có trong trường phái Theravāda, thậm chí có trước khi trường phái cách tân Mahāyāna ra đời. Hình bóng vị Bồtát đã bắt đầu xâm nhập vào môi trường tâm linh lẫn văn hóa Phật giáo trong hệ thống giáo thuyết của Theravāda.
Trong bốn bộ kinh chính [1] của Tạng kinh (Suttantapiṭaka), mối quan tâm hàng đầu của Phật giáo là đạt đến Niết bàn nhờ tu tập bát chánh đạo.
Trong các bộ kinh này, Đức Phật giảng thuyết giai đoạn cuối cùng để đi đến giải thoát, đặc tính cấp bách này được hiển lộ đặc biệt so với các đặc tính khác và có lẽ không có đặc tính nào thật nổi bật hơn so với đặc tính “cấp bách” này, Đức Phật mong muốn các đệ tử đạt đến mục tiêu cuối cùng là quả vị Vô sinh bất tử.
Như người phát hiện ra cái khăn quý của mình đang bị lửa đốt cháy, ngay lập tức tìm cách dập tắt ngọn lửa. Cũng vậy, Ngài chỉ dạy đệ tử nổ lực dập tắt những ngọn lửa ái (taṅhā) để đạt đến trạng thái an toàn tuyệt đối, hưởng lạc Niết bàn trọn vẹn.
Những bài kinh cổ sơ có đề cập đến ba hạng người đạt đến trạng thái giải thoát trọn vẹn [2] , đó là:
- Đức Phật Chánh giác (Sammāsambuddha): Vị tự chứng đạt pháp vô sinh bất tử, không thầy chỉ dạy, đồng thời có khả năng dạy người khác chứng đạt quả vị này. Tức là Ngài có lời giáo hóa (sāsanā).
- Đức Phật Bíchchi (Paccekabuddha- Đức Phật Độc Giác): Tuy Ngài tự chứng đạt, không thầy chỉ dạy, nhưng Ngài không có khả năng giáo hóa kẻ khác chứng đạt pháp Bất tử, nên Ngài không có giáo thuyết (sāsanā).
- Đức Alahán (Arahanta). Vị chứng đạt pháp Bất tử nhờ sự chỉ dẫn của Đức Chánh giác và sau đó giảng dạy lại cho người khác tùy theo khuynh hướng và khả năng của mình. Các Ngài là đệ tử của Đức Chánh giác.
Vì thời gian và sự nổ lực tu tập của ba bậc có sai khác nhau, nên phẩm vị có khác nhau là như thế. Và không tìm thấy hạng nào vượt trội hơn ba bậc này, nên ba bậc Thánh nêu trên được xem là mẫu mực lý tưởng, tối thiểu cũng phải đạt đến phẩm vị Alahán.
Tất cả ba bậc Thánh nêu trên đều giống nhau về sự chứng đạt Niết bàn, nhưng mỗi bậc lại khác nhau ở những khía cạnh riêng biệt về trí thông đạt (paṭivedhañāṇa)..., đó là do khuynh hướng và hành trình với phương thức (yāna) [3] khác nhau.
Trường phái Theravāda (Nguyên Thủy), một trong các trường phái cổ xưa nhất so với các trường phái trong Phật giáo.
Theo sự chỉ dạy của Đức Phật lịch sử, lý tưởng của trường phái này là “chứng đạt Alahán”, đó là tầm quan trọng nhất được đặt trên nền tảng yên tịnh, lý tưởng này thường được mô tả trong các bài kinh Pāli.
Những lý tưởng khác như “chứng đạt Độc giác Phật, chứng đạt Chánh giác Phật” vẫn được đề cập đến, nhưng lại là một phạm trù khác, nên không mô tả chi tiết.
Những trường phái khác như Sarvāstivāda (Hữu bộ) và Mahāsaṅghika (Đại chúng bộ), trong khi ủng hộ tính ưu việt của các vị Thánh Alahán và lý tưởng Alahán, nhưng cũng quan tâm đến những lý tưởng khác như “lý tưởng Bíchchi Phật”, “lý tưởng Chánh giác Phật”, những lý tưởng này vẫn có thể đạt được đối với những người có ước vọng mãnh liệt, theo đuổi các mục tiêu đó.
Do vậy, họ cũng thừa nhận 3 phương thức (yāna) hay ba đường lối dẫn đến thông đạt. Tất cả đều có giá trị nhưng mỗi phương thức có khó khăn riêng, thời gian dài ngắn khác nhau, đồng thời có tác dụng hổ tương lẫn nhau.
Trong tất cả các trường phái xưa, các vị Giáo thọ sư tiền bối, các tư tưởng gia, các thi sĩ cùng nỗ lực điền vào lịch sử của ba bậc giác ngộ với các câu chuyện tiền thân, đặc biệt là “tiền thân Đức Phật”.
Vào những thời điểm quá khứ, tiền thân các vị ấy tạo ra nền tảng cho những thành tựu trong tương lai, nỗi bật nhất là vị Bồtát Chánh giác, đó là hình bóng của Đức Phật Chánh giác tương lai, là người tìm ra “con đường dẫn đến thông đạt pháp”.
Đức Chánh giác là người chủ các pháp, là bậc đáng tôn kính và nễ vì hơn tất cả mọi sinh chúng.
Dần dần một tác phẩm được hình thành [4] , bắt đầu miêu tả làm nổi bật lên sự phát triển của Bồtát hạnh hay “Phật Chánh giác tương lai” với con đường tu tập đầy cam go.
Theo cách này, dáng vẻ của vị Bodhisattvā (Bồtát), người khao khát thành Phật Chánh giác trong tương lai nổi bật như vầng thái dương trong đời sống Phật giáo phổ biến.
Cực điểm của sự cách tân này là sự xuất hiện của trường phái Mahāyāna (Đại thừa - còn được hiểu là “Đại phương tiện” hay “cổ xe lớn”) vào khoảng cuối thế kỷ thứ I trước Tây lịch.
Theo Mahāyāna thì: Trong ba phương thức (yāna) giác ngộ, thì phương thức của Bồtát Chánh giác là tối thắng, hai hạng còn lại chỉ là những cách mà Đức Phật nghĩ ra, chỉ cho những đệ tử ít giỏi hơn tu tập, để hoàn thiện đi đến thành Phật Chánh giác trong tương lai, hai phương thức: Độc giác thừa, Thinh văn thừa chỉ có giá trị lý tưởng trong tâm.
Trường phái Theravāda, với khuynh hướng “theo đúng truyền thống” (còn gọi là bảo thủ) và cách ly với “sự cách tấn” của các trường phái khác. Tuy vẫn chấp nhận những thay đổi vốn phải có trong thế giới Phật giáo, nhưng Theravāda vẫn bảo toàn các bài pháp trong kỳ kết tập lần I, không thay đổi khung cơ bản của Pháp.
Tuy nhiên, hình bóng của vị Bồtát đã có trong trường phái Theravāda, thậm chí có trước khi trường phái cách tân Mahāyāna ra đời. Hình bóng vị Bồtát đã bắt đầu xâm nhập vào môi trường tâm linh lẫn văn hóa Phật giáo trong hệ thống giáo thuyết của Theravāda.