ĐĐ Thích Chánh Đức
I.- KHÁI NIỆM : <u1></u1>
Từ xưa đến nay, Nghi lễ Phật giáo đã hội nhập, luôn gắn liền với nền văn hóa dân tộc Việt Nam một cách hài hòa như nước với sữa. Trải dài .... ! xuyên suốt qua các thời kỳ lịch sử thăng trầm thịnh suy của đất nước.
<u1></u1> Hiện nay, đầu thế kỷ 21 đã mở ra một kỷ nguyên mới của thời đại mới nền khoa học hiện đại tiến bộ vượt bậc, bởi thế nên ngày càng đòi hỏi Phật giáo phải phát huy hết vai trò, chức năng, khả năng, hiệu năng, hiệu dụng sẵn có của mình, trên khắp mọi lĩnh vực, trong cuộc sống xây dựng, bảo vệ phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhất là bảo tồn, bảo tàng, bảo trì nâng cao những giá trị ưu việt, những nét đẹp thẩm mỹ “Toàn chơn thiện mỹ” của văn hóa nghệ thuật Phật giáo cả về sắc tướng lẫn tâm linh, để cùng sánh bước song hành với văn hóa nghệ thuật của dân tộc Việt Nam.
<u1></u1> Bởi lẽ Nghi lễ Phật giáo trong giai đoạn lịch sử hiện đại, nó bao giờ cũng đóng vai trò rất quan trọng không thể thiếu được, nhất là con người thực hiện Nghi lễ. Hầu góp phần trong sự cấu thành muôn vàn nét đẹp hài hòa cho Phật giáo Việt Nam ngày càng sáng ngời rực rỡ hơn.
<u1></u1> II.- NGHI LỄ PHẬT GIÁO VIỆT NAM XƯA VÀ NAY :
<u1></u1> Chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Hoa, cùng với văn hóa bản địa, Phật giáo Việt Nam có những bản sắc riêng nhất là về mặt Nghi lễ.
<u1></u1> Gần đây, do sự nhu cầu thích Nghi thời đại, để tiến đến tương lai thống nhất Nghi lễ Phật giáo Việt Nam. Chúng ta cần phải có cái nhìn chung phác họa về lịch sử Phật giáo Việt Nam trước khi đọc lại trang sử Nghi lễ truyền thống “Tổ Tổ tương truyền, Sư Sư tương kế”. Từ đó chúng ta suy ngẫm về Nghi lễ đề nghị cải cách hiện nay.
<u1></u1> III.- BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM :
<u1></u1> Nhìn chung, theo sử liệu Việt Nam đạo Phật truyền vào nước ta khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch và vào hạ bán thế kỷ Việt Nam đã có một trung tâm Phật giáo phồn thịnh gắn liền với tên tuổi MÂU - BÁC và tác phẩm LÝ HOẶC LUẬN. Đầu thế kỷ thứ 3 Thiền học khởi đầu bằng KHƯƠNG TĂNG HỘI được coi là vị Tăng có sớm nhất tại Giao Châu và thế kỷ thứ 5 Tục Cao Tăng truyện có nói đến hai vị Tăng là Thiền sư Đạt Ma Đề Bà và Thiền sư Huệ Thắng ở Giao Châu này. Trong khoảng từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 11 Phật giáo nước ta tiếp nhận ba dòng Thiền khá quan trọng đó là Thiền phái TỲ NI ĐA LƯU CHI (Năm 580) , Thiền phái VÔ NGÔN THÔNG (Năm 820) và Thiền phái THẢO ĐƯỜNG (Năm 1069). Ba dòng này chịu ảnh hưởng MẬT TÔNG và TỊNH ĐỘ truyền thừa được nhiều thế hệ cho đến thế kỷ 13 nhập lại thành Thiền phái YÊN TỬ, sau đó thành Thiền phái TRÚC LÂM đặc biệt Việt Nam với tinh thần nhập thế triệt để. Nhưng Phật giáo Trúc Lâm chỉ hưng thịnh đến cuối thế kỷ 14, từ đó nhường lại cho thời đại độc tôn của Nho học thời Lê Mạc.
<u1></u1> Đến khoảng giữa thế kỷ 17, trong khi nước ta đang lâm vào tình cảnh Nam - Bắc phân tranh, lúc đó một số đông Thiền sư lánh nạn từ Trung Hoa sang Việt Nam hành đạo. Cũng chính từ đây nguyên nhân để phục hưng Phật giáo nước ta với dòng THIỀN LÂM TẾ CHÁNH TÔNG và dòng THIỀN TÀO ĐỘNG mới du nhập vào Việt Nam thời kỳ này ở bên ngoài lẫn bên trong.
<u1></u1> Đến thế kỷ 19 các vua đời nhà Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức có phần để tâm ý đôi chút để phục hưng đạo Phật nhưng vẫn là đạo Phật trong thời Nho học độc tôn.
<u1></u1> Đến năm 1930 Phật giáo Việt Nam trải qua ba lần chấn hưng Phật học :
<u1></u1> - Lần thứ nhất năm 1931 tại Nam kỳ
<u1></u1> - Lần thứ hai năm 1932 tại Trung kỳ
<u1></u1> - Lần thứ ba năm 1935 tại Bắc kỳ.
<u1></u1> Cũng từ đó mãi đến nay, Phật giáo Việt Nam liên tục chuyển mình theo đà tiến hóa để thích nghi với từng thời đại.
<u1></u1> IV. TƯƠNG LAI THỐNG NHẤT NGHI LỄ PHẬT GIÁO VIỆT NAM:
<u1></u1> Với bản sắc văn hóa dân tộc, với khả năng dung nhiếp Nho, Lão học, trong dòng tư tưởng Phật học của mình ngầm chảy nuôi dưỡng đời sống tâm hồn của người dân nước Việt, nổi bậc nhất là vào thời đại Lý Trần, Nghi lễ Phật giáo Việt Nam với truyền thống lâu dài đó, trải qua bao hàng bao thế kỷ, nay đến lúc chúng ta luôn phải đối mặt trước thời đại mới, một thời đại mà thế giới bao la trùng trùng điệp điệp trước kia đang thu nhỏ dần lại, bởi nền văn minh hiện đại thông tin toàn cầu. Nơi đó, không có phép con người dừng lại cục bộ, thích phân biệt.
<u1></u1> Vậy, con đường trước mặt của tương lai Nghi lễ Phật giáo Việt Nam là gì ? Đây là một chọn lựa lịch sử để nghỉ và định hướng về tương lai thống nhất Nghi lễ Phật giáo Việt Nam và quyết định, vấn đề thống nhất Nghi lễ chúng ta bắt đầu từ tám điểm chính thời Thỉ Tổ :
<u1></u1> 1.- THỈ TỔ LÔ SƠN BIỆN HUỆ CHÁNH GIÁC, VIÊN NGỘ PHÁP SƯ HUỆ VIỄN - ĐẠO AN PHÁP SƯ
<u1></u1> 2.- TỔ TRƯỜNG AN QUANG MINH PHÁP SƯ THIỆN ĐẠO (VÂN THỊ DI ĐÀ HÓA THÂN)
<u1></u1> 3.- TỔ NAM NHẠC BAN CHU PHÁP SƯ THỪA VIỄN
<u1></u1> 4.- TỔ TRƯỜNG AN NGŨ HỘI PHÁP SƯ PHÁP CHIẾU (QUANG MINH HẬU THÂN SƯ VIỄN CÔNG)
<u1></u1> 5.- TỔ TÂN ĐỊNH ĐÀI NGHIÊM PHÁP SƯ THIẾU KHƯƠNG (KHANG)
<u1></u1> 6.- TỔ VĨNH MINH TRÍ GIÁC PHÁP SƯ DIÊN THỌ
<u1></u1> 7.- TỔ CHIÊU KHÁNH VIÊN TỊNH PHÁP SƯ TỈNH THƯỜNG
<u1></u1> 8.- TỔ CHƠN CHÂU TRƯỜNG LÔ THIỀN SƯ TÔNG TÍCH
<u1></u1> Từ đó ta làm cơ sở mấu chốt cho việc biên soạn các Nghi thức như là Thiền Môn Yếu Dụng, Thiền Môn Chánh Độ Tăng Viên Tịch, Thiền Môn Chánh Độ Thế Nhơn, trong đó có Nghi cúng tế ma chay. Cao hơn nữa như Trai Đàn Bạt Độ, Dược Sư Thất Châu (KHƯU) , Giải Oan Các Kết, Cầu An Đảo Bệnh, Cầu Siêu Trầm Nịch Thủy Lục v.v...Thực tế chúng ta thấy và nhận định rằng : “Nghi lễ rất bao la”, nó luôn bao gồm nhiều lãnh vực.
<u1></u1> Vâng, khi chúng ta nói đến Nghi lễ nền âm nhạc của Phật giáo Việt Nam ngày xưa đã đạt đến một trình độ thánh thiện, điều đó chúng ta có thể tìm thấy qua những tư liệu của các vị Tổ sư để lại. Thế nhưng Lễ nhạc của Phật giáo Việt Nam ngày nay về hình thức lẫn nội dung quả thật đã thua kém các bậc tiền nhân rất xa thăm thẳm. Nó không còn bộc lộ được nét sống tâm linh siêu việt (Không hồn) như lễ nhạc cổ điển ngày xưa. Hơn thế nữa Hán văn không còn được mấy ai chú trọng. Nên mỗi khi đọc thì lại có đọc mà thông hiểu thì chẳng mấy ai ... ! được bao nhiêu.
<u1></u1> Ôi ... ! Như vậy, thì làm sao có thể thâm nhập rừng Thiền chân lý ngay khi chúng ta xưng dương tán tụng. Chính vì thế mà vai trò của những người làm công tác Nghi lễ ngày nay cần phải chú tâm biết chuyển hóa như thế nào để vừa có thể duy trì truyền thống cao đẹp của các bậc Thầy Tổ ngày xưa, vừa mang tính chất khế lý và khế cơ của quần chúng ngày nay.
<u1></u1> Chúng tôi thiết nghĩ muốn thực hiện được ước vọng hoài bão bấy lâu nay. Tôi cho rằng ngay lúc này hơn hết, thời đến duyên đủ Giáo hội cần phải quan tâm nhiều hơn thế nữa kết tập những người có kiến thức uyên thâm về bộ môn lễ nhạc Nghi lễ Phật giáo ở cả ba miền Nam - Trung - Bắc và luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để sưu tầm, ta luôn khai thác không ngừng và phát huy hiệu quả cho bộ môn nhạc lễ Phật giáo Việt Nam ngày nay trở lại đúng vị trí của nó đã từng có vị trí chủ đạo trong thời quá khứ.
<u1></u1> Nói đến Nghi lễ thì không ai mà không trực nhận được, đó là một hình thái nét văn hóa phi vật thể, luôn bao giờ cũng tạo nên nét đẹp đạo đức cho gia đình và xã hội, chứ không đơn thuần chỉ là những Nghi lễ cúng bái tại các Già Lam Phật Tự. Từ khi Đức Thế Tôn thành đạo dưới cội Bồ Đề, Ngài đã trải qua 49 năm trên khắp vạn nẻo đường hoằng dương tế độ, đức Phật đã từng dùng vô số phương tiện giáo hóa độ sanh. Ngài không bị ràng buộc bởi bất cứ một khuôn khổ hay giáo điều nào. Trái lại, Ngài vận dụng giáo lý “Tùy duyên bất biến”. Thấm nhuần tinh thần ấy mà Chư Tổ cũng đã tùy dòng lưu chuyển “Đạo mạch trường lưu” không ngừng của tín ngưỡng tâm linh của quần chúng nhơn gian mà các Ngài đã ứng dụng tùy duyên giáo hóa.
<u1></u1> Để tiếp nối truyền thống “Tương tục truyền thừa” phương tiện tùy duyên, đòi hỏi người hành giả thực hành Nghi lễ phải quán triệt sâu sắc giáo lý Phật Đà, triệt để không phô trương hình thức bên ngoài không đúng Chánh Pháp, không đúng hình thức bản sắc dân tộc miền, không khéo người đời cho đó là mấy ông sư cải lương. Từ đó làm cho Nghi lễ Phật giáo trở thành mê tín dị đoan, ảnh hưởng đến nét trong sáng của Nghi lễ Phật giáo Việt Nam. Ta cũng nên đấu tranh loại trừ những hành vi tiêu cực lạm dụng lễ nghi hình tướng quá độ. Vậy, ngay lúc này hơn hết chúng ta cần phát triển nội tâm là điều quan trọng tối ưu, hầu để góp phần xây dựng bảo trì và luôn chỉnh trang nền Nghi lễ Phật giáo đậm đà bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc.
<u1></u1> <u1> </u1>