Phật học phổ thông-thiên thừa phật giáo

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
[FONT=Arial,Helvetica]PHẬT HỌC PHỔ THÔNG[/FONT][FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]THIÊN THỪA PHẬT GIÁO
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Bài Thứ 7 [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Thập Thiện Nghiệp
[/SIZE]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
[/SIZE]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. Mở Ðề [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thập Thiện Nghiệp là cội gốc của tất cả pháp lành thế gian và xuấ thế gian [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong hai bài "Nhân quả" và "Luân hồi" mà chúng ta đã học, chúng ta đã thấy một cách tường tận rõ ràng: hễ chúng ta gieo nhân gì thì chúng ta gặt quả ấy hoặc ngay trong đời hiện tại, hoặc trong những đời sau. Nhân nhỏ thì qủa nhỏ, nhân lớn thì quả lớn. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu muốn được quả làm người thì phải gieo nhân làm người. Nhân làm người là sự chuyên giữ năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu). Với nhân nầy, ta được cái quả trong hiện tại là mọi người từ trong gia đình quyến thuộc cho đến ngoài xã hội, đều thương yêu quí trọng. Nhưng nếu chúng ta muốn tiến xa hưon một bực nữa, chúng ta gắng tu Thập Thiện Nghiệp, chúng ta sẽ hưởng được cuộc sống an lạc trong hiện tại và đời sau, chúng ta sẽ sanh lên sáu từng Trời cõi Dục, hưởng cảnh vui thú, an nhàn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta muốn vượt khỏi ba cõi thế gian, để chứng quả tam thăng (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát), ta phải tu nhân Tứ Ðế, Thập Nhị Nhân Duyên và Lục Ðộ. Tuy thế, muốn thực hiện được các môn tu nầy, không thể bỏ qua được môn tu Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp như là nấc thang quan trọng cần phải vượt qua, nếu muốn trèo lên cao nữa. Nó như là cơ sở căn bản, hạ tầng vững chắc nhất, để xây dựng lau đài cao lớn lên trên. Vì lẽ đó, người ta nói Thập Thiện Nghiệp là cội gốc của tất cả các pháp lành thế gian và xuất thế gian. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. Chánh Ðề [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]I. Ðịnh Nghĩa [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Thập Thiện Nghiệp" là 10 nghiệp lành. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Nghiệp" là gì? [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Nghiệp" là tiếng người Trung Hoa dịch từ chữ Phạn Karma mà ra. Nó có nghĩa là tạo ác, hành động. Nghiệp có thể chia ra ba tánh cách: lành, dữ, hoặc không lành không dữ (vô ký). Lành, theo đạo Phật, nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai. Dữ, nghĩa là có hại cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]II. Chỗ Phát Khởi 10 Nghiệp Dữ và 10 Nghiệp Lành [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nghiệp thì nhiều, không thể kẻ xiết được. Nhưng tựu trung, người có thể phân ra mười loại nghiệp lành và mười loại nghiệp dữ. Những loại nghiệp nầy do ba chỗ phát khởi sau đây: Thân (việc làm), Khẩu (lời nói), Ý (ý nghĩ). [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Những nghiệp dữ: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những nghiệp dữ chia ra như sau: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Những nghiệp dữ về Thân có ba là:Sát sanh, trộm cắp, dâm dật. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Những nghiệp dữ về Khẩu có bốn là: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c) Những nghiệp dữ về Ý có ba là: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tham lam, giận hờn, si mê. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cộng tất cả Thân, Khẩu, Ý thì có mười nghiệp dữ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Những nghiệp lành: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu con người làm ngược lại với 10 nghiệp dữ trên đây thì sẽ có được 10 nghiệp lành. Mười nghiệp lành chia ra như sau: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Về Thân có ba: Không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dật. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Về Khẩu có bốn: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c)Về Ý có ba: Không tham lam, không giận hờn, không si mê. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]III.Ý Nghĩa Của 10 Nghiệp Lành [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Không sát sinh [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không có sự vui mừng nào hơn sự vui mừng khỏi bị giết. Cũng chẳng có ân huệ nào hơn ân huệ không hại mạng. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi một con chim sặp bị cắt cổ nhổ lông, một con cá sặp bị chặt kỳ, đánh vẩy, thế mà được thả ra, thì hãy tưởng tượng nỗi vui sướng của chúng, lớn lao là bao nhiêu ! Chim sẽ nhảy nhót, tung bay, kêu hót giữa khoảng trời rộng; cá sẽ vùng vẫy, bơi lội, giữa khoảng nước sâu. Thế mới rõ, thoát nạn giết hại, chúng sanh nào lại không khấp khởi vui mừng? Cho nên, không sát sanh mà lại phóng sanh là nghiệp lành đứng đầu trong Thập Thiện Nghiệp. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không sát sanh cũng như không ăn thịt chúng sanh thì khỏi phạm hai tội lớn sau đây: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Giết hại các bực vị lai Phật. Vì Phật nói: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Tất cả chúng sinh đều là chư Phật vụ lai" [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Giết lộn bà con nhiều đời, ăn lầm bà con nhiều kiếp. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong kinh Bồ Tát giới có nói: "Tất cả lục đạo chúng sinh đều là họ hàng ta, cha mẹ ta đã chết đi rồi sanh lại trong nhiều đời nhiều kiếp". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người hằng ngày không sát sanh thì trong đời sống hiện tại sẽ mở rộng thêm lòng từ bi, là một nhân chánh để tu hành thành Phật, và được mười pháp lành, như kinh Thập Thiện Nghiệp đạo đã nói, dưới đây: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Tất cả chúng sinh đều kính mến [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Lòng từ bi mở rộng đối với tất cả chúng sinh [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c) Trừ sạch thói quen giận hờn [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]d) Thân thể thường được khỏe mạnh [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]đ) Tuổi thọ được lâu dài [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]e) Thường được Thiên thần hộ trợ [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]ê) Ngủ ngon giấc và không chiêm bao giữ [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]g) Trừ hết các mối oán thù [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]h) Khỏi bị đọa vào ba đường ác. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]i) Sau khi chết, được sanh lên cõi Trời. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Không trộm cướp [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không trộm cắp là không lấy những vật gì không thuộc quyền sở hữu của mình, và người ta không cho mình. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Quyền tư hữu là một quyền quan trọng. Ðã đành, mạng sống là quý trọng, nhưng nếu có mạng sống mà không có đủ vật thực, áo quần, nhà cửa, những thứ cần thiết để cung cấp cho thân mạng, thì người không thể sống được. Vì thế, mọi người đều thấy mình cần phải nỗ lực làm viẹc, để có tài sản đủ bảo đảm cho đời sống hiện tại và tương lai của mình và con cháu. Người đời quý trọng tài sản là vì thế. Nếu vì một lý do, bất chính, người ta bị tướt đoạt mất tài sản, thì người ta cũng đau khổ, buồn phiền như chính mình bị mất một phần sanh mạng. Tiền của là huyết mạch, cho nên khi bị trộm cắp hết của cải, nhièu người đã thất vọng, buồn phiền đến sinh đau ốm, có khi đến quyên sinh. Như vậy, ai nỡ lòng nào trộm cắp cho đành ! [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vả lại, theo lẽ công bình, mình không muốn ai lấy của mình, thì mình đừng lấy của ai. Việc gì mình không muốn người làm đau khổ cho mình, thì mình cũng đừng làm đau khổ cho người. Xã hội chỉ tồn tại được, khi mọi người đều tôn trọng lẽ công bằng. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vả lại, của phinghĩa, thường vào cửa trước ra ngõ sau, tiêu hao mau lẹ như nước xoi, cát chảy, rốt cuộc, tay trắng cũng lại hoàn tay trắng, mà còn lại bị người đời khinh khi, phỉ nhổ, xấu hổ cho mình và con cháu về sau. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trái lại, người không trộm cắp, bao giờ lòng dạ cũng được thảnh thơi, không sợ luật pháp truy tầm, chẳng lo ai thù oán. Một xã hội không có trộm cắp, thì nhà nhà khỏi đóng cửa, của đánh rơi không mất, cảnh tượng giành giựt không diễn ra, xã hội được thái bình an lạc: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu không gian tham trộm cắp, mà lại làm hạnh bố thí thì theo kinh Thập Thiện Nghiệp, được những pháp lành như sau: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Tiền của có dư không bị nạn giặc giả cướp mất, chánh quyền tịch thâu, không bị nạn lụt trôi, lửa cháy và con cái phá tán. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Ðược nhiều người tin cậy [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]chúng sanh) Không bị lừa dối, gạt gẫm. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]d) Xa gần đều khen ngợi lòng ngay thẳng của mình [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]đ) Lòng được an ổn, không lo sợ vì sự tổn hại gì cả [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]e) Khi chết rồi được sanh lên cõi Trời [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Không tà dục [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dâm dật là cái nhân sanh tử luân hồi. Nó là ma chướng làm ngăn trở bước đường tu giải thoát. Bởi vậy, người xuất gia muốn chứng quả, thành đạo, phải đoạn trừ dâm dật ở thân cũng như ở tâm. Kinh Lăng Nghiêm nói: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Lòng dâm không trừ, thì không thể ra khỏi trần lao". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Còn người tại gia, Phật chỉ ngăn tà dâm, nghĩa là vợ chồng có cưới hỏi chánh thức mới được ăn ở, nhưng phải có tiết độ, không lang chạ, ngoại tình. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong gia đình, chồng không tà dâm, vợ không lang chạ, thì cuộc sống chung được đầm ấm, an vui. Do đó, gia đình được hạnh phúc, sự làm ăn tấn phát, sự nghiệp vững bền, bà con đôi bên vui vẻ, dòng họ hai phí thơm lây, xóm giềng vừa lòng, làng nước quí chuộng. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Kinh Thập Thiện Nghiệp đạo nói: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không tà dục và giữ được tịnh hạnh sẽ được bốn điều lợi: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn toàn [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Ðoạn trừ hết những sự phiền não, quấy nhiễu. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c)Không ai dám xâm phạm vợ chồng con cái [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]d) Ðược tiếng tốt, người đời khen ngợi [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Không nói dối [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không nói dối là nghĩ thế nào nói thế ấy, trong lòng và lời nói không trái nhau, việc phải thì nói phải, việc quấy thì nói quấy, việc có thì nói có, chuyện không thì nói không. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có người cho rằng nói dối để lừa phỉnh chơi, thì không hại gì. Thật ra, sự nói dối ấy vẫn có hại, vì nó làm cho ta quan với thói xấu ấy, và làm cho người chung quanh không tin ở lời nói của ta nữa, dù đôi khi ta nói thật. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nói dối vì sợ hãi, khiếp nhược, lại càng nên tránh, vì nó làm cho ta quen tánh che giấu tội lỗi, và không chịu sửa chữa. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nói dối để thu lợi hay khoe khoang, lại càng nặng tội. Nhà buôn nói dối rất dễ ế hàng; và nhất là kẻ học Ðạo, nếu nói dối rằng mình đã chứng quả Thánh, hay đắc đạo để cho người kính phục, sùng bái mình, thì sẽ mắc tội đại vọng ngữ, bị đọa vào ba đường ác. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nói dối, chỉ trong trường hợp để cứu khổ độ nguy cho người và vật mới không phạm tội. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói dối mà lại nói lời ngay thật, thì được những điều lợi ích như sau: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Miệng thường thơm sạch [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Thế gian và nhânm, thiên đều kính yêu [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c) Lời nói không lầm lộn và vui vẻ [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]d) Trí tuệ thù thắng, không ai hơn [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]đ) Ðược hưởng lạc thú như ý nghuyện và ba nghiệp đều sạch. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Không nói thuê dệt [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không nói thuê dệt, nghĩa là không trau chuốt lời nói, không thuê hoa, dệt gấm, không ngọt ngào đường mật, để lung lạc lòng dạ của người, để quyến rũ làm những điều sái quấy. Những kẻ nói lời thuê dệt là những kẻ có lòng dạ bất chính, lợi dụng lòng dễ tin của người để trục lợi. Những người nầy thường bị người đời chê cười, khinh rẻ và tránh xa, để khỏi bị tổn hại tài sản, danh giá và tánh mạng nữa. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo kinh Tập Thiện Nghiệp đạo, người không nói lời thuê dệt sẽ được ba điều lợi ích: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Ðược người trí thức yêu mến. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Hay đáp được những câu hỏi khó khăn. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c) Ðược làm người có uy đức, cao quý trong cõi nhân thiên. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]6. Không nói lưỡi hai chiều [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không nói lưỡi hai chiều, hay nói hai lưỡi, nghĩa là không đến bên nầy nói xấu bên kia, không đến bên kia nói xấu bên này; không đem chuyện người nầy ra dèm pha, mà cũng không khuê chuyện người nọ ra nhạo báng; không làm cho đôi bên san hận đấu tranh, cũng không đứng trung gian gây ác cảm cho hai đàng thù oán. Tóm lại, người không nói hai lưỡi là người không có ác tâm, không dùng lời trái ngược để làm cho những kẻ thân thành thù, gần thành xa. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người không nói hai lưỡi, không khi nào có chuyện lôi thôi với bà con, và cũng không có việc phiền muộn với hàng xóm, nên được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần kính mến. Người không nói hai lưỡi mà còn nói những lời êm ái hòa thuận, làm cho bạn bè thêm kính trọng nhau, bà con thêm tin yêu nhau, khiến cho ai ai cũng vui vẻ bằng lòng nhau. Những người ấy đi đến đâu cũng được tiếp đãi tử tế, gặp việc gì khó cũng dàn xếp được dẽ dàng. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói hai lưỡi, sẽ được những điều lợi ích sau đây: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Bà con, dòng họ được luôn luôn sum họp [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Tình bằng hữu của thiện tri thức được vững bền bất hoại [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c) Ðức tin bất hoại [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]d) Pháp hạnh bất hoại [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]7. Không nói lời hung ác [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không nói hung ác là không nói những lời hung dữ ác độc, cộc cằn, thô tục làm cho người nghe khó chịu; không mắng nhiếc làm cho người nghe hổ thẹn, tủi đau v.v... [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người không nói lời hung ác, chẳng hề bươi móc việc không hay của ai, mà trái lại, ưa bày những điều tốt đẹp của kẻ khác. Lời lẽ của họ thốt ra dịu dàng, thanh nhã, hiền hậu, toàn là lời đạo đức, từ bi, lợi lạc cho tất cả chúng sinh, ai nghe cũng hân hoan, kính trọng. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói lời hung ác mà lại nói lời ôn hòa, được những công đức như sau: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Nói lời nào cũng khôn khéo đúng lý và lợi ích [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Nói điều gì, ai cũng nghe theo và tin cậy [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c) Nói ra lời nào cũng không ai chỉ trích mà còn được mến yêu. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]8. Không tham muốn [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đời, có 5 món dục lạc, mà người ta thường tham muốn nhất là: tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Ngũ trần dục lạc ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều. Như tham tiền của phải đày đọa thân sống, đôi khi còn dùng những phương tiện bất chính, để thâu tóm về mình, và khi mất thì lại vô cùng đau khổ. Tham sắc thì tồn tiền nhiều, lại mất sức khỏe và hao tổn tinh thần; nhiều khi lại tìm những mưu chước tồi tệ để thỏa lòng ước muốn; nếu không được, lại đam ra ghen tương, thù hận, giết chóc. Tham danh vọng, quyền tước thì phải vào lòn ra cúi, lao tâm khổ trí, mất ăn bỏ ngủ, đôi khi lại còn làm trò cười cho người chung quanh. Tham ăn uống cao lương mỹ vị, thì bị nhiều bịnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Tham nghủ nghỉ, ngủ sớm dậy trưa, thì trí napõ hóa đần độn, tối tăm. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngũ dục lạc chính là những nguyên nhân chính ràng buộc kiếp người vào vòng sanh tử, Luân hồi, sa đọa. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người không tham muốn những thứ ấy, là người biết tu hành Thiểu Dục và Tri Túc. Thiểu Dục là muốn ít; Tri Túc là biết đủ. Người Thiểu Dục, Tri Túc thì có một đời sống giản dik, thanh cao và an toàn. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Xã hội nếu chỉ gồm những hạng người ấy, thì những thảm trạng: kẻ mạnh hiếp người yếu, kẻ giàu đàn áp người nghèo, người nghèoi oán hận kẻ giàu, không còn tiếp diễn, và cõi đời cũng được sống trong cảnh thanh bình an lạc. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không tham muốn thì được thành tựu những điều tốt đẹp sau đây: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) được tự tại, vì nhân các căn đều đầy đủ [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Của cải không mất mát, hay bị cướp giựt [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c) Phúc đức tự tại [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]d) Những sự tốt đẹp sẽ đến với mình, mặc dù mình không mong ước. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]9. Không giận hờn [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không giận hờn là vẫn giữ sự bình tĩnh, điềm đạm, nhu hòa trước những cảnh trái ý nghịch lòng. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giận hờn là một tánh xấu rất tai hại, nó như một ngọn lửa dữ, đót cháy cả mình lẫn người chung quanh. Kinh Phật có câu: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Một niệm giận hờn nổi lên, thì trăm, nghìn cửa nghiệp chướng đều mở. Lửa tức giận một phen phát ra, liền đốt tất cả rừng công đức". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khổng giáo cũng có nói: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Dằn tâm giận xuống một lúc thì khỏi lo sợ cảm trăm ngày. Nên chi việc đáng nhịn thì nhị, chuyện đáng răn thì răn. Nếu chẳng nhịn chẳng răn, thì việc nhỏ hóa ra to. Baonhiêu điều phiền não, đều do chảng nhìn mà ra". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người nào không giận tức, thì được tám món tâm pháp, vui mừng như sau: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Không tâm khổ não [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Không tâm giận hờn [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c) Không tâm tranh giành [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]d) tâm nhu hòa ngay thẳng [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]đ) tâm từ bi như Phật [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]e) Thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sanh [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]ê) Thân tướng trang nghiêm, chúng sinh đều tôn kính [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]g) Có đức nhẫn nhục, được mau sanh lên cõi Phạm Thiên. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]10. Không si mê. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không si mê là biết phán đoán rành rẽ, nhận định rõ ràng, đúng đắn, không cố chấp theo sự hiểu biết riêng của mình, không tin những thuyết không hợp chơn lý, nhất là không mê tín dị đoan. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người không si mê, tức là người có trí huệ, giản trạch, tin có nhân quả luân hồi, nên không tạo tội mà cứ làm phước, thường tu hạnh Bát nhã, dứ trừ vô minh, để tiến mãi trên con đường giải thoát. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không si mê, thì thành tựu được 10 pháp công đức sau đây: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Ðược ý vui chơn thiện và bạn chơn thiện [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Tin sâu nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c)Chỉ quy y Phật, chứ không quy y thiên thần và ngoại đạo [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]d)Tâm sanh ngay thẳng, chánh kiến [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]đ)Sanh lên cõi trời, khỏi bị đọa vào ba đường ác [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]e) Phúc huệ không lường, thường tăng lên mãi [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]ê) Dứt hẳn đường tà, chăm tu đạo chánh [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]g) Không lòng chấp ngã, bỏ hết ác nghiệp [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]h) Yên ở vào nơi chánh kiến [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]i) Khỏi bị nạn dữ [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. Kết Luận [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mười nghiệp lành, cũng như mười nghiệp dữ, đều do thân, khẩu, ý phát khởi ra. Nghiệp dữ ví như cỏ, nghiệp lành ví như lúa, đều mọc chung trên một đám ruộng. Cỏ thường làm chướng ngại lúa, không cho sanh trưởng tốt tươi. Nếu muốn lúa tốt để mãn mùa thu hoạch được nhiều, thì phải nhổ sạch cỏ. Cũng thế, muốn được nghiệp lành, thì cần phải dứt hẳn mười nghiệp dữ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hàng phục mười nghiệp dữ, mỗi ngày cứ phát triển nghiệp lành mãi, thì sẽ được bốn điều lợi ích sau nầy: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Cải tạo thân tâm [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân tâm con người thường bị nghiệp lực chi phối. Sự thực hành mười nghiệp lành, sẽ hoán cải thân tâm con người trở thành tốt đẹp. Dụ như không sát sanh mà lại phóng sanh, thì lòng hung ác sẽ đổi ra lòng từ bi, sự oán thù sẽ đổi ra thành ân nghĩa. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Cải tạo hoàn cảnh [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hoàn cảnh cũng như tấm gương lớn phản ảnh tất cả những cử chỉ hành động, đời sống của mỗi người.Nếu ta cười thì tấm gương cười lại; nếu ta khóc, tấm gương cũng khóc lại. Cũng thế, nếu ta làm các việc lành, giúp ích đồng loại, cứu vớt chúng sanh, thì hoàn cảnh đối với ta, sẽ trở thành cảnh giới tốt đẹp. Chẳng hạn, hki ta không giận hờn, lại tu hạnh nhẫn nhục, thì hoàn cảnh không có sự đáu tranh giết hại, mà chỉ là sự tương thân tương ái. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Chánh nhân thiên giới [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tu Thập Thiện Nghiệp là gieo nhân tốt để đời sau gặt kết quả đẹp đẽ là sanh lên cõi Trời, hưởng phước lạc đầy đủ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Căn bản Phật quả [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mười phương ba đời, các vị hiền thánh thoát khỏi sanh tử, chứng quả vô thường, đều lấy mười nghiệp thiện làm căn bản; vì mười nghiệp lành nầy, có công năng ngăn ngừa các hành vi độc ác, làm cho ba nghiệp (Thân, Khẩu, Ý) được thanh tịnh, nhờ đó, con người mới thoát ly sanh tử, chứng qủa Niết Bàn. Nếu đem mười nghiệp lành nầy, hồi hướng cho toàn thể chúng sanh, thì sẽ được Phật quả. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, tu Thập Thiện Nghiệp thì trong đời hiện tại, thân tâm ta được cải thiện đẹp đẽ, hoàn cảnh ta sống được sáng sủa tươi vui; và tương lai ta tránh khỏi ọa lạc chốn tam đồ, lại được hưởng phước báo cõi Nhân, Thiên và Niết Bàn [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vậy ước mong tát cả mọi người, nên tu Thập Thiện Nghiệp để tạo hạnh phúc cho mình và cho tất cả chúng sanh. Có như thế mới là bực trí huệ làm theo lẽ phải. Vì một phen được thân người mà không tu để tiến hóa lên, thì khi mất nhân thân rồi, muôn kiếp khó trở lại được.[/FONT]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
[FONT=Arial,Helvetica]Bài Thứ 8 [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Tứ Nhiếp Pháp [/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. Mở Ðề [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tu hạnh lợi tha nhiếp hóa chúng sinh là bổn phận của Bồ Tát [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðức Phật ra đời nhằm mục đích cứu đôĩ chúng sinh ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người Phật tử theo dấu chân Phật tất phải tập làm những gì đức Phật đã làm. Trong khi tu hành, Phật tử không bao giờ nên quá chú trọng đến mình mà quên người, không nên chỉ lo giác ngộ cho mình mà không tìm cách giác ngộ cho người. Trong đạo Phật, mình với người là một khối, mình không khác người, không thể phân chia ra được. Càng lo tự lợi chừng nào lại càng đi ngươch với sự tu hành chừng ấy. Trái lại, càng hy sinh cho người, càng chú trọng đến lợi tha, lịa càng mau chứng ngộ chừng ấy. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật có vô lượng phương pháp cứu độ chúng sanh, chúng ta muốn áp dụng phương pháp nào cũng được. Song muốn có kết quả cụ thể, chúng ta phải tùy theo căn cơ, hoài bão của chúng sanh mà kựa pháp môn tu hạnh lợi tha. Ðối với người đồng loại, chúng tôi tưởng không có phương pháp nào có hiệu quả thiết thực lợi ích cho người và làm cho người cảm hóa sâu xa bằng pháp môn Tứ nhiếp pháp. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. Chánh Ðề [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]I. Ðịnh Nghĩa [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tứ nhiếp pháp là gì? Tức là bốn phương pháp lợi tha để nhiếp phục chúng sanh quay về với Phật pháp. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bốn phương pháp đó là: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bố thí nhiếp [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Aùi ngũ nhiếp [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lợi hành nhiếp [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðồng sự nhiếp [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]II. Hành Tướng Của Tứ Nhiếp Pháp [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Bố thí nhiếp: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một xã hội tốt đẹp hay xấu xa, hòa bình hay hỗn loạn không phải là không nguyên nhân. Nguyên nhân của hỗn loạn xấu xa chính là lòng ích kỷ. Nhân loại đang quằn quại trong khổ đau, những cảnh nồi da xáo thịt, tái diễn hằng ngày là do đâu, nếu không phải chính là lòng tham lam ích kỷ? [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðạo Phật là đạo từ bi, nghĩa là cứu khổ. Mà những nỗi khổ lớn của con người là gì? Ðó là sự thiếu thốn về vật chất sự mê mờ về tinh thần, và lòng lo sợ về đủ mọi thứ, như lo sợ mất tiền của, mất thân mạng, gặp tai biến v.v... [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vậy người có lòng từ bi, muốn cứu khổ thì trước tiên phải xả bỏ tánh ích kỷ, phải cho mọi người những gì mình có, phải cho những gì người khác mong muốn. Nghĩa là phải làm hạnh bố thí. Do sự bố thí ấy mà mình cảm phục được người chung quanh, mà người chung quanh mới gần gũi thân mến mình và mong cầu học đạo giải thoát. Bố thí có 3 lối: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Tài thí: Tài là tiền của. tài thí là đem tiền của mà bố thí, để cứu vớt người đồng loại thoát khỏi đau khổ. Cảnh khổ của chúng sinh về vật chất không thể kể xiết: người thiếu cơm, kẻ thiếu áo, người thiếu thuốc thang, kẻ thiếu nơi nương náu...Ðứng trước bao cảnh khổ ấy, người Phật tử không thể nào an nhiên hưởng sự súng sướng riêng được, mà trái lại thấy mình có bổn phận xuất của, ra công giúp kẻ nghèo khổ, thiếu hụt. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðừng viện cớ, hay tưh an ủi, mình nghèo không có của tiền giúp đỡ người chung quanh. Thật ra miễn là mình có từ tâm hay không, chứ không phải mình hoàn toàn thiếu phương tiện để giúp đỡ người khác. Một chén cơm vẫn có thể chia hai được, một manh chiếu vẫn còn đủ chỗ cho thêm một người nằm được. Người ta thường nói: "chật bụng chớ chật chi nhà", là thế. Người triệu phú đem cho năm, bảy ngàn bạc không làm cho người ta cảm phục, quý mến bằng người nghèo chỉ có hai bộ quần áo, mà đem cho bớt đi một bộ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Pháp thí: Pháp là giáo pháp, là những lời dạy, những giáo lý của đức Phật và các bậc Thánh Hiền Tăng, là tam tạng kinh điển. Pháp thí là đem những giáo pháp quý báu ấy mà bố0thí, giảng dạy cho chúng sinh. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng sinh đang mê mẫn, xoay vần trong sáu cõi, gây nghiệp rồi thọ báo, khác nào tỉnh mộng rồi lại mơ. Trong lúc mộng nào biết có mơ, cứ lăn lộn vào đường ái, như bướm đâm đầu vào đèn. Vì thế, đức Phật mới đem giáo pháp ra giảng dạy khiến cho chúng sinh ra khỏi biển khổ luân hồi. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Pháp của Phật nhiều vô số lượng, cao nhiêu cũng có, thấp bao nhiêu cũng có, đủ cỡ, đủ loại chomọi căn cơ. Dù người nước nào, bực nào, căn cơ cao hay thấp, sáng hay tối, một khi nghe đến pháp của Phật, tùy sức đều được hiểu cả. Nên trong kinh cí câu: "Phật thuyết nhất âm, chúng sinh tùy loại các đắc giải". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đừng viện cớ mình còn kém Phật pháp, không thể làm công việc thí pháp được. Như trên dã nói, Pháp Phật có vô số lượng pháp môn, nếu không biết được pháp môn cao thâm, thì cũng biết được pháp môn thông thường. Mỗi Phật tử ít ra cũng biết tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật, ăn chay. Chúng ta đem những điều ấy chỉ bảo cho người, thế cũng là thí pháp rồi. Nếu làm những điều ấy với tấm lòng chan thật, hoan hỷ, cố mong sao cho người chung quanh đi đến với đạo để được lợi ích, thì sự thí pháp ấy còn đáng quí hơn là giảng những giáo lý cao với một thái độ dửng dưng hay tự cao tự đại. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy thế, đã là Phật tử thì chúng ta có bổn phận phải luôn luôn trao dồi, học hỏi để biết rộng hiểu nhiều, hầu tự giải thoát và để công việc thí pháp của chúng ta được hiệu quả hơn, phổ biến rộng rãi hơn và ứng dụng trong mọi trường hợp. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thí pháp càng lan rộng, thì người xu hướng về với Phật pháp càng nhiều và cõi đời càng bớt đau khổ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c)Vô úy thí: Vô úy là không sợ hãi. Vô úy thí là đem cái không sợ mà thí cho chúng sinh. Sự sợ hãi là một tâm trạng rất thông thường của chúng sinh trong cõi đời giả tạm và đầy đau khổ này. Vậy người có lòng từ bi, phải cố gắng làm sao cho chúng sinh chung quanh có được sự bình tĩnh, yên ổn của tâm hồn, không hoang mang lo lắng, sợ hãi. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô úy thí, không phải chỉ những người có can đảm, có tài năng, có uy quyền mới làm được. Hằng ngày chung quanh ta, biết bao người đang ở trong cảnh sợ hãi; nếu thật chúng ta có lòng từ muốn giúp đỡ cho họ khỏi sợ hãi thì không có lúc nào là không thẻ làm được: một đứa bé đang kinh hãi trước hàm răng của con chó dữ; một bà lão lo sợ bị xe cán không dám băng qua đường nhiều xe cộ; một thiếu nữ đi đêm "sợ ma"; một htí sinh run rẩy trước giờ vấn đáp v.v...đó là bao nhiêu cơ hội mà chúng ta có thể thi hành pháp Vô úy thí. gặp người bị tai nạn, ta đem tài năng hay thế lực ra đùm bọc, che chở, cho họ khỏi sợ hãi; gặp người đau ốm, lo sợ thần chết mang đi, ta lấy luật vô thường giảng giải cho họ và bảo họ niệm đức Quan Thế Âm Bồ Tát hay Phật A Di Ðà v.v...đó là Vô úy thí. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, bố thí là do lòng từ bi vô hạn mà làm. Nó có một phạm vi rộng rãi vô cùng. Khi nào còn có chúng sanh đau khổ thì ta còn bố thí. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hình thức cao nhất của bố thí là bố thí Ba la mật, nghĩa là bố thí rất nhiều mà không thấy mình có bố thí; bố thí mà không phân biệt thân sơ, không chấp ta, người, thù, bạn; bố thí mà không chấp số lượng những vật thí. Như thế là ta đã thành tựu pháp "Tam luân không tịch" về bố thí. Khi ấy, bố thí không còn là một việc làm phúc hay ban ân nữa, mà chính là một việc tự nhiên, không thể bỏ qua được như ăn, như uống, như một bổn phận nhất định hàng ngày. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vậy đã là Phật tử thì không thể nào không thi hành pháp bố thí được. Sự thi hành này tùy phương tiện, tài năng, thẻ lực của mình, và ở trong hoàn cảnh nào cũng làm được, chứ không phải đợi có đủ một số điều kiện nào đó mới làm được. Miễn là ta càng cố gắng giúp ích, cứu khổ cho người được chừng nào thì quí chừng ấy. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2.Ái ngữ nhiếp: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Aùi ngữ nhiếp là tùy theo căn cơ tánh chúng sanh mà khôn khéo nói năng, an ủi, khuyên lơn, nhân thế khiến cho họ sinh lòng thân mến, cảm phục, rồi từ đó họ mới theo ta mà học đạo. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đời phần nhiều người ỷ của, cậy quyền, đối với mọi người dùng lời không tao nhã, nên làm cho người chung quanh chán ghét. Một khi họ không yêu mến, cảm phục, thì tuy trước mặt họ dạ dạ, vâng vâng, mà sau lưng lại không chịu phục tùng, nghe theo. Vì thế, nhiều việc phải bị hư hỏng. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tục ngữ có câu: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Thật thế, lời nói là một của báu mà mọi người đều có cả, không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn. Nhưng cũng lời nói ấy người nầy sử dụng thì nên công việc, còn người kia sử dụng thì lại tán gia bại sản. Sở dĩ như thế là vì một bên biết lựa lời ăn nói dịu dàng, dễ nghe, còn một bên cộc cằn, thô tục. Nhiều người, tự bào chữa, thường bảo: "Tánh tôi ngay thẳng và có hơi nóng, nên hay ăn to nói lớn, chứ thật ra tôi không có ác ý". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không có ác ý, nhưng làm cho người chung quanh phải đau khổ, khó chịu vì lời nói khiếm nhã, thô bạo của mình, thì có khác gì người ác? [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vậy Phật tử chúng ta muốn cảm hóa, dẫn dắt người chung quanh về con đường chánh, trước tiên phải áp dụng cho được phái ái ngữ, nghĩa là luôn luôn và trong mọi trường hợp, phải dùng lời dịu dàng, êm ái, thương yêu trong khi tiếp xúc với mọi người. Nhất là khi người ta đang ở trong cảnh khổ, thì những lời khuyên lơn, vỗ về lại càng vô cùng quí báu, vì có thể thoa dịu được vết thương lòng và làm cho người ta vô cùng cảm kích, khó mà có thể phai mờ được. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Lợi hành nhiếp: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lợi hành nhiếp là làm lợi ích cho người bằng ý nghĩ, lời nói hay hành động, khiến cho người ta sinh lòng thân mến mà theo ta học đạo. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cái gương sáng nhất về phương diện lợi hành làcái gương Ngài Trì Ðịa Bồ Tát. Suốt đời, Ngài thường gánh đất đắp đường, ban cho bằng phẳng, hoặc bắc cầu để cho khách bộ hành đi lại được dễ dàng tiện lợi. Ngài thay người già gánh nặng, đẩy giúp cỗ xe lên dốc cao, chèo giúp cho người lái thuyền ngược nước... [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, bất luận việc lớn nhỏ, miễn giúp ích được cho người là Ngài không bao giờ từ nan. Xem thế, thì không cần phải đợi có dủ phương tiện mới làm lợi ích cho người được. Chỉ với một ít sức khỏe cũng có thể giúp được nhiều việc lợi ích cho người rồi. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có khi chỉ cần một ý nghĩ tốt, một lời giới thiệu hay cũng có thể giúp cho người chung quanh có công ăn việc làm. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðối với người giàu có, nhiều phương tiện thì phạm vi hoạt động cho lời hành lại càng rộng rãi. Họ có thể xuất tiền của ra làm nhà dưỡng lão, nuôi người tuổi già sức yếu, để tuổi già của họ bớt đen tối, nguy nan; hay họ xây viện dục anh, nuôi trẻ mồ côi cha mẹ, cho chúng học hành và có nghề nghiệp, huấn luyện cho chúng thành những công dân hữu dụng. Hay dựng trại tế bần, cấp dưỡng cơm ăn áo mặc cho kẻ đói khó, hay dựng bệnh xá để cứu chữa những kẻ bệnh tật; hay xây trường học giúp con em có nơi học hành. Ðó là bao nhiêu công việc vô cùng lợi ích, vừa cho đời vừa cho đạo. Những công việc lành ấy sẽ cảm hóa lòng người và hướng họ trở về con đường giải thoát là con đường của đạo Phật. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Ðồng sự nhiếp: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðồng sự nhiếp là tùy theo căn cơ, hoài bão, địa vị, nghề nghiệp của người mà lặn lội vào công việc của họ, cộng tác với họ, để một mặt giúp đỡ họ trong nghề nghiệp, một mặt nêu cao gương lành, làm cho họ cảm mến mà theo ta đến gần đạo cả. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chẳng hạn như khi ta cùng làm việc trong một công sở, trong một xí nghiệp, trong thương trường hay trong nông nghiệp, mà từ việc lớn cho đến việc nhỏ, từ ý nghĩ cho đến câu nói, ta luôn luôn nêu gương đạo đức, tận tâm tận lực làm việc, sẵn sàng hy sinh quyền lợi mình, cho bạn đồng nghiệp, dần dần những người cộng sự, sẽ tiêm nhiễm những đức tánh tốt đẹp của ta, sẵn sàng nghe theo, làm theo những điều ta khuyên bảo. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðồng sự nghiệp, là một phương pháp có hiệu quả nhất để nhiếp hóa người chung quanh quay về con đường đạo. Bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp hay lợi hành nhiếp, mặc dù đều cảm hóa được người, nhưng không thường trực và không có ảnh hưởng sâu xa như đòng sự nhiếp. Chẳng hạn như người được ta bố thí, hay lợi hành, thì không phải lúc nào cũng ở bên cạnh ta, mà chỉ thỉnh thoảng mới được ân huệ ấy; còn ái ngữ thì chỉ hạn cuộc trong lời nói; mà lời nói dù có hay ho êm dịu bao nhiêu, cũng không thể biến thành cơm thành áo, thành những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống đau khổ, thiếu thốn của người chung quanh được. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng với đồng sự nhiếp, ta có thể giúp đỡ một cách thiết thực và thường xuyên cho những người cùng sống trong một hoàn cảnh một nghề nghiệp với ta. Ta luôn luôn gần gũi chung đụng với họ, nên ta thấu rõ những hoài bão, tâm trạng, nhu cầu của họ; nhờ thế ta có thể giúp ích cho họ một cách có hiệu quả hơn. Ta trở thành một cột trụ chính cho họ nương tựa; vì thế ta có thể nhiếp hóa họ dễ dàng, sâu xa hơn. Một sự nhận xét thông thường là ở đâu, công sơ hay tư sở, nhà máy hay nông trường, hễ có một Phật tử chân chính, thuần thành, gương mẫu, thò ở đó số người theo Phật càng ngày càng đông, càng mạnh. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]III.Lợi Ích Của Tứ Nhiếp Pháp [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu ta thực hành đúng theo tứ nhiếp Pháp ta sẽ thấy những kết quả đẹp đẽ sau đây: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Về phương diện cá nhân: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ta sẽ là một con người gương mẫu; mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành động của ta đều là một hạt giống thiện gieo vào ruộng phước mà sau nầy ta sẽ gặt được những kết quả quý báu, tốt lành. Những gì của ta nói ra, làm ra đều được thông cảm, tán thành, mến phục. Ta có thể thu hút nhân tâm một cách dễ dàng, rộng rãi, và mỗi khi đi đến đâu, ta đều được tiếp đón một cách chân thành, nồng nhiệt. Do đó, ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Về phương diện gia định: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi người ngoài, xã lạ mà còn mến phuc, thương yêu ta, thì sao cha mẹ, vợ con, anh em là những người thân thuộc lại không quý mến ta được? Do ảnh hưởng tốt đẹp vbà uy tín của ta, mọi người trong gia đình đều trở thành thuần lương, đức độ cả. Và một gia đình gồm những phần tử như thế, thì thể nào cũng được trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm, nghĩa là có hạnh phúc. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Về phương diện xã hội: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một người tu hạnh tứ Nhiếp pháp cũng đã gây được ảnh hưởng tốt lành và hoán cải được một phần nào hoàn cảnh xa hội. Số người tu Tứ Nhiếp Pháp cành nhiều thì xã hội lại càng được cải tiến, và trở thành thuần lương, thiện mỹ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người ta thường trách đạo Phật là tiêu cực yếm thế. Những lời chỉ trích sai lầm ấy, chỉ đem một giáo lý Tứ Nhiếp Pháp nầy ra chứng minh, cũng đủ đánh đổ được ngay. Thật vậy, nếu áp dụng triệt để tứ Nhiếp Pháp vào cuộc đời thực tế, thì xã hội sẽ được cải tiến một cách vô cùng lợi lạc. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C.Kết Luận [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như trên đã nói, Tứ Nhiếp Pháp là một pháp môn để cải tiến xã hội một cách có hiệu quả nhất. Nó lấy lợi sanh làm căn bản, lấy hạnh phúc của chúng sanh làm mục đích. Ðây chúng ta hãy nhớ lại từng điểm một: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1) Hãy đem của cải giúp cho người túng thiếu, tật nguyền, đem Phật pháp giảng nói để chomọi người cải ác tùng thiện, đem dũng lực tinh thần hay vật chất để che chở cho người chung quanh khỏi lo sợ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2) hãy nói lời ôn hòa nhã nhặn, để cảm hóa người ta đi theo con đường lành. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3) Hãy làm lợi ích chomọi người trong mọi trường hợp. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4) hãy hòa mình trong cuộc sống, trong công việc của người chung quanh, để nhận rõ được người nhu cầu thiết tha của họ, hầu giúp đỡ họ một cách có hiệu quả, và đưa dần dần họ về con đường chính. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vậy là Phật tử, chúng ta không thể dửng dưng trước những lời kêu gọi lợi tha ấy được. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta làm ngơ, chúng ta chưa phải là Phật tử chân chính, vì chúng ta đã thiếu hai yếu tố quan trọng nhất để tu hành: đó là lòng từ bi và lợi tha. Thiếu hai điểm ấy không bao giờ chúng ta có thể tiến triển trên đường đạo và thành Phật được.[/FONT]
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
[FONT=Arial,Helvetica]Bài Thứ 10 [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tịnh Ðộ [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. Mở Ðề [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong vũ trụ có vô lượng thế giới [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như đức Phật ngày xưa đã dạy và các nhà khoa học ngày nay đã xác nhận, trong vũ trụ nầy có hằng hà sa số thế giới. Mỗi đem, chúng ta ngước mặt lên dòm trời, bao nhiêu ngôi sao lấp lánh hay lu mờ xa tít, hiện ra trước mắt ta đây là bao nhiêu thế giới. Ngay một dãy ngân hà với những đám trắng lờ mờ như mây bạc đó, cũng đã chứa đựng từng triệu thế giới rồi. Huống cho trong vũ trụ, đâu phải chỉ một dãy ngân hà mà có mấy ngàn dãy như thế. Cái phần chúng ta thấy được mỗi đem, mặc dù không thể đếm hết, chỉ mới là phần trất nhỏ so với vũ trụ mênh mông mà ta không thể thấy được. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong kinh thường dạy: phương Ðông có vô số thế giới như cát sông hằng, mà phương Tây, phương Nam, phương Bắc cũng như thế (kinh Di đà). [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng chỉ có thế giới Cực lạc (Tịnh độ) là vui hơn cả [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong bao nhiêu thế giới ấy, có thế giới ô uế, có thế giới thanh tịnh, có thế giới đau khổ, có thế giới an vui, có thế giới mới thành hình, có thế giới sắp tiêu diệt, có thế giới thiên về vật chất, có thế giới trọng về tinh thần. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo lời đức Phật Thích Ca dạy, thì trong vô lượng thế giới ấy, chỉ có thế giới Cực lạc hay Tịnh độ của đức Phật A Di_Ðà là vui hơn cả. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay chúng tôi xin trình bày về thế giới Cực lạc ấy, theo như lời đức Phật Thích Ca đã dạy. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B.Chánh Ðề [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]I. Danh Hiệu Và Cảnh Trí Cõi Cự Lạc Hay Tịnh Ðộ [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một hôm nhìn thấy Ðức Phật Thích Ca, dung mạo khác lạ, vô cùng hoan hỷ, Ngài A Nan mới hỏi Phật: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay tại sao dung mạo của Phật lại khác hơn ngày thường? [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật dạy rằng: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ta cảm nhớ đức Phật A Di Ðà, muốn nhắc đến nhân địa của Ngài, để chỉ dạy cho chúng sanh pháp môn tu Tịnh độ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày dạy rằng: từ cõi Ta Bà nầy hướng về phía tây, hơn mười muôn ức cõi, có một thế giới gọi là Cực lạc hay Tịnh độ. Ở nước đo có đức Phật, hiệu là A Di Ðà, Ngài thường thuyết pháp. Cảnh giới ở nước thanh tịnh ấy, vô cùng đẹp đẽ, sáng lạng vui tươi, phong cảnh cả toàn xõi như là một vườn hoa vĩ đại với những hàng cây ngay ngắn, những tường hoam những dây leo rũ xuống như màu gấm, như lụa là; có những hồ nước chứa đầy những thứ nước có tám công đức. Ðáy hồ lát bằng cát vàng; trong hồ có những hoa sen lớn bằng bánh xe, đủ màu sắc, hương tỏa thơm ngát, và có hòa quang đẹp đẽ: hễ hoa màu xanh, thì phát ra hòa quang xanh; hoa màu trắng, thì phát ra hòa quang trắng; hoa màu hồng, thì phát ra hòa quang hồng...Ðường sá cầu cống, đèn đài, điện các ở cõi Tịnh độ đều làm bằng ngọc vàng châu báu, vô cùng quý giá. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chim chóc ở đây là những thứ chim báu, như bạch hạc, khổng tước, anh vỏ, xá lợi, ca lăng, tần già v.v...những thứ chim này, ngày đem sáu thời, hót ra những thứ tiếng pháp vi diệu, hòa lẫn trong những điệu nhạc thiêng, làn cho ai nghe đến, cũng phải liền phát tâm hoan hỷ niệm Phật. Các loài chim do đức Phật A Di Ðà biến hóa ra để thuyết [háp cho chúng sinh nghe. Chẳng những chim biết nói pháp, mà cho đến nước chảy, gió thổi cây reo đều là những lời thuyết pháp vi diệu, ai nghe cũng đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Ở đấy, không bao giờ có bóng tối, vì nhờ hào quang của Phật phát ra, sáng chói luôn luôn. Cảnh giới trang nghiêm, huy hoàng, xinh đẹp như thế là do sức đại nguyện của đức Phật A Di Ðà, các bậc Bồ Tát và Thánh chúng, toàn là bậc Thượng thiện gây nên. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong hoàn cảnh thuận tiện, vui tươi như thế nên tất cả mọi người ở đấy, ai cũng tinh tấn tu hành và dễ được thành đạo nghiệp. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]II. Những Ðiều Kiện Ðể Vãng Sanh Về Cõi Tịnh Ðộ [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Muốn được sanh về cõi Tịnh độ, trước tiên cần phải đủ ba điều kiện sau đây: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Ðức tin chắc chắn: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: "Tin là mẹ các công đức. Tin có thể thành tựu quả bồ đề". Lòng tin có ba khía cạnh: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) Tin Phật là đáng sáng suốt từ bi cứu khổ mọi loài. Vì muốn cứu độ chúng sanh mau hết khổ sanh tử, nên Ngài mới chỉ bày cảnh Tịnh độ của Phật A Di Ðà là một cảnh có thật. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Tin giáo pháp của Phật nói ra là đúng đắn chơn thật, dạy chúng ta phải nhất tâm niệm Phật, cầu vãnh sanh về cảnh giới của Phật A Di Ðà. Chúng ta tin chắc theo giáo pháp của Ngài mà tu hành thì sẽ được thành công. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]c) Tin ở nơi sức mạnh của mình. nếu ta thật tâm tin chắc: ta là Phật sẽ thành, nhất tâm trì niệm danh hiệu Phật, quyết chắc sẽ được vãnh sanh cõi Tịnh độ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Lập nguyện vững vàng: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nguyện là ý muốn tốt đẹp. lập nguyện vững vàng nghĩa là thiết tha mong muốn, lập chí nguyện không thối chuyển, quyết sinh về Cực lạc, dù có gặp bao trở ngại gian lao, khổ sở. Phải có tấm lòng thiết tha, không giờ phút nào xao lãng ý muốn được về gần Phật A Di Ðà, như con đi xa thiết tha được về gặp mẹ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong mọi công việc lớn lao, chí nguyện là quan trọng. Không có chí nguyện, thì không có gì thành tựu được cả. một nhà văn đã viết rất đúng: "Ðường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Người có chi nguyện, như thuyền có lái, như ngựa có cương. Từ việc đời cho đến việc đạo, muốn thành công, điều cần yếu là lập chí nguyện cho vững vàng. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Thực hành theo đúng chí nguyện: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðã so chí nguyện rồi, phải thực hành theo đúng chí nguyện. Thực hành ở đây là luôn luôn trì niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, niệm luôn luôn trong khi đi đứng, nằmd ngồi, cho đến "nhất tâm bất loạn". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, điều kiện tiên quyết để vãng sanh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Ðà, không có gì khó khăn, cũng không có gì bó buộc lắm, mà trái lại, bất luận ai, sang hèn, giàu nghèo, trí thức hay thiếu học đều có thể có được. Ðó là: Có đức tin mạnh mẽ, lập nguyện vững vàng, thực hành theo đúng chí nguyện. Có đủ ba yếu tố Tín, hạnh, Nguyện, là có thể oớc lên đường đi đến cõi Cực lạc. Cuộc hành trình ấy có thể chậm có thể mau, có thể khó khăn có thể dễ dàng, nhưng ai đã có đủ ba điều kiện ấy, thì thế nào cũng đến đích, Ðức Phật A Di Ðà lúc nào cũng sẵng sàng chờ đợi để đón tiếp chúng ta, như mẹ chờ con đi xa về. Nhưng nếu mẹ chờ con mà con không nhớ mẹ, không muốn quay về, thì mặc dù có gần nhau đi nữa, cũng chẳng khác gì hai người xây lựng lại với nhau mà đi, một người đi về phương Nam, một người đi về phương Bác, càng đi càng xa, không thể gặp nhau được nữa. Trái lại, nếu con nhơ mẹ, mọt lòng muốn gặp mẹ, trong lúc mẹ cũng đang nhớ và chờ đợi con thì, cũng như hai người hướng về nhau mà đi, mọt người ở phương Tây đi về phương Ðông, một người ở phương Ðông đi về phương Tây, mặc dù có cách xe muôn trùng, thế nào cũng sẽ gặp nhau. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ta tin có Phật A Di Ðà, ta quyết tâm thực hiện chí nguyện ấy, thì mặc dù cõi Cực lạc cách xa mười muôn ức cõi, khi lâm chung, ta cũng sẽ được đức Phật A Di Ðà và Thánh chúng hiện ra để tiếp độ ta về cõi ấy. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]III. Pháp Tu Về Cực Lạc (Tịnh Ðộ) [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phương pháp tu về Cực lạc có nhiều lối, nhưng không ngoài các pháp niệm Phật. Ðây lược kể bốn pháp niệm Phật: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Trì danh niệm Phật: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trì danh niệm Phật tức là giữ một lòng nhớ nghĩ danh hiệu Phật, là niệm "Nam mô A Di Ðà Phật ". Khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống cũng niệm. Niệm từ buổi mai khi mới thưc dậy, cho đến buổi tối, trước khi đi ngủ. Niệm suốt cả ngày không xen hở. Khi gần đi ngủ, ngồi xếp bằng bán già hay kiết già, chắp tay mà nguyện rằng: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Con tin lời của đức Phật A Di Ðà, giữ một lòng niệm danh hiệu Ngài, nguyện đời nầy, bao nhiêu tội chướng thảy đều tiêu sạch, đến khi lâm chung được Phật và các vị Bồ Tát, đến tiếp dẫn chúng con về Cực lạc. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Tham cứu niệm Phật: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Pháp niệm Phật tương tợ pháp trì danh, nhưng mà có khác nghĩa, làm môi miệng không động, niệm không ra tiếng, mà trong tư tưởng có niệm Phật. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi niệm có tiếng thì xét tiếng ấy từ đâu mà sanh ra. Ðến khi hết niệm không nghe nữa, thì xét tiếng ấy coi nó đi vào chỗ nào. Xét cho biết chỗ sinh ra, chỗ trở về là đã được một phần công phu khá cao rồi, cứ giữ như thế mà niệm, đừng cho tán loạn, thì chắc có ngày minh tâm kiến tánh. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Quán tưởng niệm Phật: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Là quán tưởng hình dung đức Phật à ở trước mắt ta, mình cao một trượng sáu thước, đứng trên hoa sen, và quán thân ta cũng ngồi trên hoa sen, chắp tay hầu Phật. Phật thấy ta, ta thấy Phật. Quán như thss lâu ngày, đi, đứng, nằm, ngồi, nhắm mắt, mở mắt đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần thục. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Thật tướng niệm Phật: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thật tướng niệm Phật là niệm Phật hợp với chân tâm. Vì tất cả các pháp đều do tâm biến hiện, bởi tâm biến hiện, nên tướng nó đều là hư vọng (phàm sở tướng, giai thị hư vọng), duy có chân tâm là chân thật, không sinh, không diệt; không chứ, không lai, xưa nay thanh tịnh bình đẳng như như, không hư vọng, không biến diệt, cho nên mới gọi là thật tướng. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ba pháp niệm Phật trước thuộc về Sự, có tánh cách tiệm tu và tiệm quán. Ðến pháp thứ tư nầy, là thuộc về Lý tánh, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến đây, mới hoàn toàn rốt ráo, mới ngộ tánh mình là Phật A Di Ðà, tâm mình là cảnh Tịnh độ. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự mới hiển ra Lý. Trớc hết cũng do Trì danh niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật v.v...nhờ lối dụng công tu ba pháp trước, đến lúc thuần thục không còn thấy có mình là người niệm Phật và Phật là một vị mình niệm, chỉ còn có một chơn tánh vừa yên lặng, vừa chiếu soi không năng, không sở, không bỉ, không thử, không hữu, không vô. Chỗ này chính như trong Kinh tứ Thập Nhị Chương, Phật nói: "Niệm đến chỗ vô niệm"; hay trong kinh A Di Ðà nói: "Ðược nhứt tâm bất loạn". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]IV. Sự Quan Hệ Của Niệm Phật Trong Lúc Lâm Chung [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo quan niệm sai lầm của phần đông, thì khi ông bà cha mẹ chết, con cháu phải khóc cho nhiều mới là có hiếu. Nhiều gia đình lại còn thuê người đến "khóc mướn" để cho "rậm đám". Theo đạo Phật thì trái lại, lúc ông bà cha mẹ chết, mà con cháu khóc lóc nhiều, làm ồn, rối loạn tâm thần người sắp chết là con cháu bất hiếu. Thật thế, phút quan trọng ấy cần để cho người sắp lâm chung được yên tĩnh, đừng làm cho họ động tâm, cảm xúc quá mà khó lìa bỏ cõi đời. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một điều quan trọng nữa là, khi gần lâm chung, biết rằngk thể sống được, các trần duyên nên buông bỏ, đừng mến tiếc của cải, nhà cửa đẹp, con cháu ngoan. Lòng quyến luyến ấy làm cho người sắp từ trần khó vãnh sanh. Trong sách có ví dụng: như con cò bị con ngao kẹp miệng lại, mặc dù có đủ cánh quạt mạnh, mà không thể bay lên được. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nên nhớ rằng trong các nghiệp nhân, cận tử nghiệp (nghiệp trước khi lâm chung) là có một lực rất lớn trong sự đầu thai. Nếu còn tâm niệm tham lam mến tiếc, thì bị luân hồi trở lại, để giữ gìn của cải, và kết duyên làm tình nghĩa ái ân nữa, mãi mãi sanh tử luân hồi không dứt. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vậy trong phút lâm chung, người đương sự cần có tâm hồn thanh thoát, không luyến tiếc đau khổ, mà trái lại, phải thiết tha cầu sinh Tịnh độ. Còn những người thân thuộc thì phải tránh sự khóc lóc, níu kéo người sắp từ trần và phải hộ niệm hết sức thành tâm, để vong linh người lâm chung được nhẹ nhàng siêu thoát. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]V. Pháp Môn Niệm Phật Dễ Tu Và Chắc CHắn Có Kết Quả [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðạo Phật có muôn ngàn pháp môn, tựu trung có pháp môn niệm Phật là dễ tu hơn cả. Các pháp môn khác như con mọt đục ống tre từng mắt mà lên, còn pháp môn niệm Phật như con mọt đục ngay mình tre mà ra. hai phương pháp đều đưa con mọt ra khỏi ống tre cả, nhưng phương pháp sau kết quả mau chóng hơn phương pháp trước. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cổ nhơ dạy: "Người tu Thiền mà không tu Tịnh độ (niệm Phật ) thì mười người lầm hết chín. Người tu Tịnh độ mà không tham Thiền, muôn người tu, muôn người được vãnh sanh (nếu nhất tâm). Niệm Phật có cả tham Thiền, như cọp đã có sức mạnh, lại còn mọc thêm sứng". Nghĩa là lối tu niệm Phật đã chắc chắn rồi, mà còn tham Thiền, lại càng chắc chắn hơn nữa. Còn người không tu Thiền, mà cũng không tư Tịnh độ, thì như nằm gường sắt nóng, và ôm trụ đồng; nghĩa là không tu môn nào, cứ tạo điều ác, thì phải đọa vào địa ngục, chịu hành phạt khổ sở. Một phen để mất thân người rồi, khó mà trở lại người được. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]VI. Dẫn Chứng [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Pháp môn niệm Phật, chắc chắn được kết quả mỹ mãn như ý muốn. Kinh Di Ðà, kinh Thập Lục Quán, kinh Hoa Nghiêm, kinh Phương Ðẳng v.v...đều tán thán pháp môn niệm Phật. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các vị Bồ Tát cũng đều tu pháp môn niệm Phật. Như Ngài Văn Thù Bồ Tát, trong bài kệ phát nguyện, có nói: "Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhứt thế chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Ðà, tức đắc vãnh sanh An lạc quốc". (Nghĩa là: Nguyện khi tôi lâm chung, dứt trừ các điều ngăn ngại, thấy đức A Di Ðà trước mắt, liền được vãnh sanh về cõi An lạc). [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngài Phổ Hiền, Ngài Mã Minh, Ngài Long Thọ, Ngài Vô Trước, Ngài Thiên Thân bên tướng tôn, Ngài trí Giả Ðại sư bên Thiên Thai tôn, Ngài Hiền Thủ bên Hiền thủ tôn, và con nhiều vị Tổ sư khác cũng chuyên niệm Phật cầu vãnh sanh Cực lạc. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Pháp môn niệm Phật có sự linh nghiệm rõ ràng. Như ở Trung Hoa, Ngài Huệ Viễn lập hội Liên Xã, chuyên tu pháp môn niệm Phật, ba lần thấy Phật, khi lâm chung, biết trước ngày giờ vãnh sanh. Tại Việt Nam, Ngài Nhất Ðịnh chùa Từ Hiếu, Ngài tường Vân (ở Huế), Ngài Hòa Thượng Tế Xuyến (ở Hà Nam) đều biết trước ba ngày thị tịch. Chằng những các Ngài xuất gia, mà bên hàng cư sĩ như ông chủ Thời (Gia Ðịnh), ông Phó Kinh ở Nam Ðịnh (Bắc Việt) v.v...cũng biết trước ba ngày sẽ lâm chung. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Pháp niệm Phật còn có nhiều linh nghiệm lạ thường khác nữa, không thể kể xiết được. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]VII. Lợi Ích Của Niệm Phật Trong Ðời Sống Hiện Tiền [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Niệm Phật có nhiều lợi ích, không những đời sau được vãnh sanh cỗi Phật, là lợi ích chính, mà hiện tại cũng có nhiều lợi ích thiết thực. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Niệm chúng sanh tức là nhớ nghĩ đến những điều xấu xa như tham, giạna, kiêu căng...Do những điều nhớ nghĩa ấy mà lời nói hay việc làm đều vương mang tội lỗi. Nếu ta niệm Phật, thì tâm trí không còn nhớ nghĩ đến những điều xấu xa, miệng và thân không tạo ra nghiệp ác nghĩa là ta diệt được niệm chúng sanh. Một giờ niệm Phật, là một giờ bớt niệm chúng sanh; một ngày, một tháng, một năm, một đời chuyên niệm Phật, làm một ngày, một tháng, một năm, một đời tránh được niệm chúng sanh, tránh được điều ác, và làm được việc lành. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Niệm Phật sẽ trừ được tâm buồn phiền: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong những lúc buồn phiền đau khổ, như khi gặp cảnh con cái biẹt ly, vợ chồng xa cách, nhà cửa tiêu tan v.v...nếu ta niệm Phật, thì buồn phiền đau khổ sẽ tiêu tan. Vì sao vậy? Vì một khi ta nhớ nghĩa đến Phật A Di Ðà, đến cảnh giới của Ngài, thì không còn bận tâm nghĩ đến những nỗi niềm riêng của ta nữa. Niệm Phật đổi được niệm phiền não là thế. Nếu niệm Phật tăng thì niệm phiền não phải giảm. Cho nên Cổ đức có nói: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Một câu niệm Phật giải oan khiên". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, sáu chữ Nam mô A Di Ðà Phật, có lợi ích rất nhiều và thiết thực là làm tiêu tan được phiền não nghiệp chướng. Nếu người không tin có nước Cực lạc, có Phật A Di Ðà mà niệm Phật, cũng vẫn có lợi ích nhiều. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]VIII. Quyết Nghi [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Có người hỏi rằng: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật có vô số, vì sao chỉ niệm Phật A Di Ðà? Trả lời: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tất cả chư Phật đều đồng một thể tánh chơn như bình đẳng. Niệm Phật A Di Ðà tức là niệm tất cả chư Phật. Ví như trong một căn phòng rộng, quanh tường có treo trăm cái gương, ta chỉ đứng soi vào một tấm gương, mà cả trăm tấm gương đều phản chiếu hình ảnh ta. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Lại có người hỏi: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật đã có khắp nơi, thì cảnh Phật cũng có khắp nơi. Tại sao không niệm Ðông phương Phật, Nam phương Phật, mà chỉ cầu về tây phương Cực lạc? [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trả lời: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ðúng là cõi Phật ở đâu cũng có, muốn cầu về cõi nào cũng được, nhưng chúng ta chỉ cầu về Tây phương Phật, vì hai lý do: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]a) cảnh Cực lạc Tây phương là cảnh mà nhờ đức Phật Thích Ca giới thiệu, chúng ta biết rõ hơn cả. Ðến một cảnh giới mà ta đã có ý niệm bao giờ cũng hơn là đến một nơi ta còn xa lạ, không rõ biết gì cả. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]b) Ta chuyên tưởng niệm một cảnh giới nhất định, thì tâm sẽ được duy nhất. Nếu hôm nay niệm cảnh giới này, hôm sau niệm cảnh giới khác, thì tâm sẽ tán loạn, ý niệm không được tập trung. Cũng như nhiều ngả thì dễ lạc. Bắn tên phải nhắm vào một đích nhất định, mới hy cọng trúng. Tu pháp môn niệm Phật cốt nhất là được "nhất tâm bất loạn". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. Kết Luận [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Pháp môn niệm Phật là một pháp môn dễ tu hành hơn cả. Niệm Phật không phải hao công, nhọc sức, khó khăn. Người trí thức, kẻ đi buôn, người làm ruộng, kẻ thợ thuyền, bất luận ở đâu và lúc nào, đều có thể niệm được cả. Pháp môn niệm Phật đã dẽ tu mà lại có kết quả chắc thật, viên mãn là vãnh sanh về tây phương Cực lạc. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Song muốn có kết quả, điều kiện tiên quyết là phải có: Tín, Hạnh, Nguyện đầy đủ; phải có sự; lý viên dung, không nên chấp sự bỏ lý, hay chấp lý bỏ sự. Cốt yếu là phải niệm đến nhất tâm bất loạn, cầu sanh về Cực lạc, không còn khổ: sanh, già, bệnh, chết nữa. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đã trót sinh ra ở cõi đời nầy, ai lại không biết có thân là khổ, dù có vui đi nữa, cũng chỉ vui trong chốc lát, mà cái khổ lại đeo đuổi theo luôn, như hai bánh xe lăn theo sau chân con bò. Vậy chúng ta nên chuyên cầu niệm Phật, để sớm được giải thoát. Sách có cấu: [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]"Mạc đãi lão lai phương niệm Phật. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cô phần đa thị thiếu niên nhơn". [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nghĩa là: chớ đợi đến già mới niệm Phật; trong nghĩa địa, thiếu cho mồ của hàng thiếu niên. Vì vậy, trong giờ phút còn mạnh khỏe, chúng ta phải chuyên cần niệm Phật. Biết vô thường còn kiên tâm chờ đợi chúng ta cho đến ngày mai chăng?[/FONT]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên