Sự và Lý Tịnh Độ

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thông Báo: Tạm Đình Chỉ mod Quản lý chuyên mục.

Vậy có cần Chấp chặt Thường kiến Không ? Thưa ngài.

Ở đây VQ mới nói bài học lớp 1. Bạn đem bài học lớp 10 để cải.- Đó mới là Phá Pháp. (ít ra phải hết Thường kiến, mới nên học cái khác Bạn ạ !)

*Thưa Thầy là cần chấp thường, càng tinh tấn càng tốt. Tại vì dưới địa vị Sơ Địa Bồ Tát trở lên, dù muốn hoàn thành 32 tướng hảo- 80 vẻ đẹp họ luôn mong muốn thành tựu Bố Thí Ba La Mật Đa đầu để thành tựu viên mãn công đức sắc thân Phật và phước báu. Còn con với bạn VNBN đây đều công nhận mình là phàm phu, nên nhất quyết phải chấp Tây Phương Cực Lạc quốc, chấp là gì? chấp giữ; chỉ cần chấp giữ này là thành tựu rồi!

Ngay cả thánh Vô Trước Bồ Tát, cũng ngồi 12 năm sau khi đã hoa rơi vào mạn đà la của ngài Di Lặc, và trong 12 năm này đến hết 3 lần thối chuyển xuống núi. Nhưng sau đó, vượt qua chướng ngại bản thân 12 năm chỉ chuyên tu định quán tưởng đức Di Lặc và được Ngài dạy pháp. Do đó nên chấp thưa Thầy. Chừng nào hiện chứng tánh không rồi, thì lúc đó nói không chấp cũng được. Chỉ sợ phàm phu không chấp chánh nhân, mà chấp tà nhân, chấp ngoại cảnh thì kẹt lắm ạ!
Kính Đại chúng trên diễn đàn Phật Pháp.

Chấp thường kiến, tức chấp có cái linh hồn thường tại.- Là đi sai Giáo lý Đạo Phật.

Thành Viên Kim Cang Thoi Luan cổ súy cho Thường kiến ngoại Đạo. cũng tức là đi lệch lời Phật dạy. Tu theo Ngoại Đạo.

Xét thấy đây là Vi phạm nội quy của diễn đàn này CHỈ TU HỌC PHẬT PHÁP.

Nay VQ xin với Đại Chúng tạm đình chỉ công việc quản lý diễn đàn của thành viên này, để tránh lôi kéo sai lệch Tôn Chỉ mục Đích diễn đàn Phật Pháp.

Kính Đại chúng liễu tri.

VQ6
 
Last edited:

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,658
Điểm tương tác
715
Điểm
113
Dù tụng cả ngàn kệ
Chẳng hiểu có ích gì?
Đâu bằng hiểu một câu
Nghe rồi ý tịch nhiên

Dù tụng cả ngàn kệ
Chẳng hiểu có ích gì?
Đâu bằng chỉ một câu
Nghe rồi liễu thoát khổ

Dù tụng nhiều Kinh điển
Chẳng hiểu có ích gì?
Thông suốt chỉ một câu
Tu hành sẽ đắc Đạo


(K Pháp cú)

Bạn VNBN tuy dẫn nhiều kinh sách Tịnh Độ. Nhưng tiếc là Bạn chưa hiểu được chữ nào cả. Dẫn đến bạn diễn đạt lung tung không làm sáng tỏ nghĩa lý. lệch lạc Phật Đạo.

Bạn phải có căn bản của Phật Đạo như vầy:

1/. Giáo lý Đạo Phật lấy VÔ NGÃ làm căn bản. Vô Ngã là không chấp Thường kiến. Nghĩa là không chấp ta có "cái Hồn" để Phật rước "hồn" về Tây Phương ! Đây là "Tà kiến"

Tà kiến là:

TU HÀNH ?

Hành pháp bây giờ...thật lắm mê .
miệng thì nịnh phật ...thảm ê chề .
Lạy xưng ngũ bách... "sư thầy" chế .
Mong phật xót thương ...Cực lạc về ?

(???)

2/. Giáo lý Đạo Phật tuy lấy CHƠN NGÃ làm Đại Thừa. Nhưng Chơn ngã là Tự Tánh Di Đà - Duy Tâm Tịnh Độ. Chứ không phải là một đấng siêu nhân, siêu nhiên kiểu như Chúa Trời, lập ra Phật Quốc để làm vua một cõi. (trong khi vẫn mang 4 tướng Ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả).

Kỳ sau nói thêm về Vãng Sanh.
Kính Thầy, như VNBN đã nói: tái sanh, vãng sanh đều là pháp nhân duyên. Còn vấn đề có ngã hay không là do tự quy kết. Còn tiếp dẫn là do nguyện lực xưa kia mà thị hiện. Thầy dựa vào đó lại quy kết rằng VNBN cho Đức Phật A Di Đà là chúa trời, thật không xác đáng. Rồi Thầy lại đem Phật Pháp đại cương ra đây nói, những điều đó VNBN đã hiểu rõ tuy chưa chứng được. Nếu Thầy chưa chứng được thì Thầy cũng chỉ là người hiểu biết. Thôi bỏ vấn đề đó sang một bên, nhờ Thầy phân tích 9 phẩm vãng sanh.

Nếu Thầy cho rằng con hiểu sai về 9 phẩm vãng sanh thì bây giờ con nhờ Thầy hãy giải thích một trường hợp cụ thể nhất là hạ phẩm hạ sanh trong đoạn kinh dưới đây như thế nào? Tiêu chuẩn vãng sanh của Thầy là thế nào? Hạ phẩm hạ sanh đã đạt chưa sao mà vẫn vãng sanh?

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.

Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,706
Điểm tương tác
772
Điểm
113
Thưa đạo hữu, nguyện cũng như bộ luật, nói sao hiểu vậy. Còn hiểu theo nghĩa suy diễn thì thành ra mỗi người hiểu một kiểu.
Cả 3 nguyện đều có yêu cầu việc tu hành cụ thể chứ không có nguyện nào là nguyện suông cả.
Nguyện 19, 20 là tu hành các hạnh khác rồi hồi hướng công đức. Không tu hành thì lấy ra ra công đức mà hồi hướng.
Còn nguyện thứ 18 thì ngay nơi niệm Phật đã có công đức rồi, là tu hành rồi đó. Bởi vậy trong 9 phẩm vãng sanh có hạ phẩm hạ sanh chỉ ăn năn sám hối các tội lỗi và trì 10 niệm lúc cận tử nghiệp mà được vãng sanh. Mỗi câu niệm Phật lúc đó diệt 80 ức kiếp tội sanh tử.


Tóm lại, cả 3 nguyện trên đều có Tín+Nguyện+Hạnh đầy đủ trong đó cả.

Phát tâm Bồ Đề là phát tâm tu học rốt ráo và độ hết thảy chúng sanh chẳng có nhàm mỏi.

Quên nữa, nguyện thứ 20, không nhất thiết phát tâm Bồ Đề.


VNBN xin nói thêm, về 9 phẩm vãng sanh: tất cả họ đều có lòng tin nơi Cực Lạc, không có ai bán tín bán nghi. Người còn nghi mà do khổ bức bách quá nên cũng ráng trì 10 niệm lúc lâm chung thì chỉ có thể sanh vào vùng biên địa. Sau đây là 9 bậc được đến thẳng hoa sen trong thế giới Cực Lạc:


+ Người phát tâm Bồ Đề, giữ giới, không làm các việc ác, sẽ sanh vào bậc thượng; trong đó, tùy theo việc thọ trì giới hạnh thanh tịnh và thọ trì kinh điển đại thừa mà chia thêm ba bậc nhỏ.

+ Người thọ trì giới hạnh thanh tịnh, sẽ sanh bậc trung, tùy theo mức độ thọ trì lại chia thêm 3 bậc nhỏ. Là các hạng theo hạnh của nhị thừa (sợ cái khổ của ta bà muốn lìa bỏ thân ngũ uẩn) nhưng cũng có niềm tin vào Bồ Tát Đạo.


+ Người không giữ giới mà làm các ác, không cải sửa lỗi lầm, mãi đến cuối đời mới biết ăn năn sám hối, nghe lời của thiện tri thức mà chí tâm xưng tán danh hiệu Phật thì sanh vào bậc hạ. Tùy theo mức độ tạo tội, lại chia thêm ba bậc nhỏ. Ba hạng này, sau khi vãng sanh đều phải phát tâm Bồ Đề để tu tập chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn tại Cực Lạc rồi trở lại cứu giúp chúng sanh.

Đạo hữu,

Trong 03 nguyện 18,19, 20 duy chỉ có nguyện 19 "phát tâm Bồ Đề" thì Phật và Thánh chúng hiện thân lúc lâm chung tiếp dẫn, còn lại thì không; đủ thấy việc này chẳng dễ được.

Lại nguyện 20, nói nghe danh hiệu Phật nhớ nghĩ nước Phật rồi tu trồng công đức, nghĩa là phát Tâm hướng cõi Phật rồi khởi hạnh. Chứ chẳng phải khởi hạnh rồi phát tâm. Cho nên, Ba Tuần nói cũng chẳng dễ.

Duy chỉ có niệm Phật, là bản nguyện của đức từ Phụ. Danh hiệu Phật là tổng trì muôn hạnh, nhờ danh mà nhớ Phật, nhớ Phật mà trì danh. Nên hễ chúng sanh niệm Phật, Phật liền biết. Siêng niệm tất đắc độ.

Lại nữa, "Phật là bổn lai diện mục", niệm danh tới chỗ lìa năng niệm sở niệm thì nhập không tánh, ở nơi không mà chẳng kẹt tướng không thì phát minh trí tuệ. Cho nên Kinh nói: thuần tưởng sinh Thiên, bên trong có huệ tự thấy tịnh độ 10 phương.

Niệm danh Phật cầu vãng sanh, do tha thiết sanh mà thành lìa sanh diệt. Ngộ lý, thành sự, trong ngoài đồng tịnh hiện tướng cảnh Cực Lạc.

Một tha lực, một tự lực đồng thể tánh nên nhiếp thọ dễ dàng. Đồng bi nguyện nên vãng sanh rất chóng.

Tiếc cho ngày nay, cầu vãng sinh mà chẳng chí thành, thế nên niệm chẳng chuyên, hạnh thành tạp nhạp. Ỷ vào đa hạnh, mà muốn Phật tiếp dẫn. Trong trăm ngàn người, e rằng chỉ có một hai người vãng sanh được thôi.

TỔ THIỆN ĐẠO:
Cực Lạc vô vi cõi Niết Bàn
Tùy duyên, tạp thiện khó vãng sanh
Nên Đức Như Lai lựa pháp yếu
Khuyên niệm Di Đà, chuyên thật chuyên
Bảy ngày bảy đêm không gián đoạn
Khởi hạnh lâu dài lại gắng thêm
Lâm chung, Thánh chúng cầm hoa đến
Thân tâm phấn khởi, sinh sen vàng
Ngồi vào chứng đắc vô sinh nhẫn
Liền được rước đến trước Pháp Vương
Bồ tát tranh nhau đắp y pháp

Chứng ngôi bất thoái, nhập Tam Hiền.

TỔ PHÁP NHIÊN:
“Không thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được vãng sinh Cực Lạc”, nghĩa là các hành giả tu hạnh tạp thiện, khó được vãng sinh, cho nên mới nói “tùy duyên, tạp thiện khó vãng sinh”. Ít thiện căn, nghĩa là đối với “nhiều thiện căn” mà nói. Như vậy, các tạp thiện là ít thiện căn, còn Niệm Phật là nhiều thiện căn, cho nên Long Thư Tịnh Độ Văn có nói: “Bản đá khắc kinh A Di Đà ở Tương Dương, do ông Dương Nhân Lăng ở đời Tùy viết, nét chữ thanh thoát, uyển chuyển, được nhiều người hâm mộ, phía dưới câu “một lòng không loạn” có câu “Chuyên trì danh hiệu, do xưng danh hiệu, tội chướng tiêu diệt, tức là nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên.”
Hiện nay các bản kinh được lưu hành thiếu mất hai mươi mốt chữ này.

 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Vãng Sanh theo cái thấy của VQ:


Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.

1/. Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử.

2/. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở.

3/. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.

* Tam Giới : Dục, Sắc và Vô Sắc. Tổ Đạt Ma dạy: Tam giới là Tham- Sân- Si. Đối với Tham- Sân- Si. là Giới- Định- Huệ (hết trích)

Từ đó ta nghiệm ra rằng:

a). Người say đắm lòng THAM là rơi vào Dục Giới. Tham Tận cùng, chính là Địa ngục.
b). Người say đắm lòng SÂN là rơi vào Sắc Giới. Sân Tận cùng, chính là Ngạ Quỷ.
c). Người say đắm lòng SI là rơi vào Vô Sắc Giới. Si Tận cùng, chính là Súc sanh.

Diễn tả 3 cảnh giới này. kinh nói: " Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện (tức là tham, sân, si).

Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. "
(tức là đọa Tam Giới khổ).

Chữ "Nhiều kiếp" ý là nói do khởi niệm chấp niệm trùng trùng trong tâm tưởng khó thoát được.
Kinh rằng: Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử.

Nghĩa là: Người trong Tam giới ấy lúc "Lâm chung" . tức là lúc đau khổ cùng cực trong quả Khổ của T-S-S, (Mà biết chuyển Niệm, tức là lúc kết thúc quá trình sinh diệt vọng tưởng). chợt nhớ lời Kinh dạy Niệm Phật, Niệm Pháp, niệm Tăng. tức là Chánh niệm Tỉnh Giác. cố gắng giữ niệm tỉnh giác này, trong 10 ý nghĩ, hoặc 1 ngày cho đến 7 ngày, không để ý niệm TSS khởi lên nữa. Do sức Chánh niệm nên làm muội lượt và triệt tiêu Vọng niệm TSS.- Đó là VÃNG.- Nghĩa là qua khỏi TSS. Và SANH nghĩa là qua khỏi TSS và Sanh được Thiện Niệm "Giới- Định- Huệ" .

Khi trong Tâm không có TSS, tức thời không còn phiền não.

Khi trong Tâm có GĐH, tức thời không còn ưu tư vì đã được GDH hộ trì

"Vô não vô ưu Chơn cực Lạc" .

Như vậy là đã được VÃNG SANH VỀ CỰC LẠC rồi đó.

Tóm lại:

Tâm không còn Tham, sân, si là VÃNG.
Trí huệ phát do Giới, Định, Huệ là SANH.
Do không có Tham san si nên thấy vô não vô ưu.- Đó là CỰC LẠC

Do được giới định huệ hộ trì nên "thấy kim liên hoa" Nghĩa là thấy "Tâm hoa Bát Nhã" khai phát.- Đó là TỊNH ĐỘ.

Đó là hành tướng Sanh vào Tịnh Độ Hạ Phẩm.
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
6,411
Điểm tương tác
1,113
Điểm
113
Kính Mọi Người 1 ly trà [smile]

Wow ... trong đây làm gì mà sôi nổi quá [smile] ... nhưng trước tiên vấn câu nói đó --> ĐỪNG NGHI LỜI HÒA THƯỢNG TRONG THIÊN HẠ [smile] ... và vẫn câu nói đó với thày VQ [smile]



i. Sự và Lý Tịnh Độ [smile]

KLL thấy thầy mượn phẩm Hóa Thành Dụ đem ra công thức Tịnh Độ theo trình tự Sự và Lý rất hay [smile]



Bối cảnh của Kinh Pháp Hóa ... là bối cảnh Đức Phật thấy đệ tử của mình có nhiều người không đủ TRÍ TUỆ học hỏi phật pháp 1 lần là xong... nên ngài khéo léo phương tiện đặt ra những nơi gọi là "HÓA THÀNH" để họ tới đó .. nghỉ ngơi .. rùi từ đó ... được 1 bước rùi .. bước thêm bước thứ hai

Bởi vì đức Phật ý thức được rằng, đối với 1 người tu hành con đường tu thành Chánh Đẳng Chánh Giác rất là dài, rất là khổ cực ... nên ngài lập ra những chặng nghỉ ngơi gọi là Hóa Thành (trang 364-365):

- 1 phật thừa .. thì hóa ba thừa ... bi giờ còn có luôn ngũ thừa phật [smile)

- 1 Niết Bàn thì nói hai (2 món Niết Bàn .. trang 366) và khi tới chỗ do SỨC PHƯƠNG TIỆN mà đức Phật hóa ra để nghỉ ngơi rùi .. thì đi tiếp [smile]

Ta cũng lại như vậy Đạo-Sư của tất cả Thấy những người cầu đạo --> Giữa đường mà lười bỏ --> Không thể vượt đường dữ -->Sanh tử đầy phiền não Nên dùng sức phương tiện --> Vì nghỉ nói Niết-bàn. --> Rằng các ngươi khổ diệt --> Chỗ làm đều đã xong --> Đã biết đến Niết-bàn --> Đều chứng A-la-hán

Giờ mới nhóm đại chúng Vì nói pháp chân thật Sức phương tiện các Phật Phân biệt nói ba thừa Chỉ có một Phật thừa Vì nghỉ nên nói hai ( 15) Vì các ngươi nói thật Các ngươi chưa phải diệt, Vì nhứt-thiết-trí Phật Nên phát tinh tấn mạnh (trang 375-376) Ngươi chứng nhứt-thiết-trí --> Mười lực các Phật Pháp. Đủ băm hai tướng tốt Mới là chân thật diệt, Các Phật là Đạo-Sư Vì nghỉ nói Niết-bàn Đã biết ngơi nghỉ rồi Dẫn vào nơi huệ Phật

*** và đức Phật nói có 1 nguyên nhân lớn .. ngài làm ra những NƠI HÓA THÀNH NỮA --> vì các ĐỆ TỬ --> LƯỜI BIẾNG và HAY NẢN LÒNG [smile]



ii. Kinh Tạp A Hàm - Kinh 684 - Thập Lực

Kinh này chỉ rõ sự khác biệt giữa HÓA THÀNH và BẢO SỞ ... cũng là sự khác biệt giữa A LA HÁN và CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC Phật bảo các Tỳ-kheo: “Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì các ông mà nói.

Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đối với pháp trước kia chưa nghe, thì có thể tự giác tri, ngay trong đời hiện tại tự thân chứng ngộ, thành Chánh giác[/B]; đối với đời vị lai có thể giảng nói Chánh pháp, giác ngộ các Thanh văn; tức là, bốn Niệm xứ, bốn Chánh đoạn, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần, tám Thánh đạo phần. Đó gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đối với pháp chưa chứng đắc thì có thể sẽ chứng đắc; phạm hạnh chưa chế có thể chế; có thể khéo biết đạo, khéo nói đạo, vì chúng sanh mà dẫn đường.

Sau đó, Thanh văn thành tựu tùy thuận pháp, tùy thuận đạo, --> vui thích vâng lời giáo giới, giáo thọ của Đại Sư, nên khéo thâm nhập Chánh pháp.

Đó là những sự sai khác giữa Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác và A-la-hán tuệ giải thoát.



Thập Lực Như Lai:


Như Lai biết như thật về xứ, phi xứ, đó gọi là lực thứ nhất của Như Lai. --> có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng, rống lên tiếng rống sư tử.

Như Lai biết như thật về việc thọ quả tạo nhân báo của nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại; đó gọi là lực thứ hai của Như Lai. --> có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác biết như thật về nhiễm ác, thanh tịnh, xứ tịnh, của các thiền, giải thoát, tam-muội, chánh thọ, đó gọi là lực thứ ba của Như Lai --> có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

Như Lai biết như thật những sai biệt căn tánh khác nhau của tất cả các loài chúng sanh; đó gọi là lực thứ tư của Như Lai --> có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

Như Lai biết như thật về tất cả mọi ý giải của chúng sanh; đó gọi là lực thứ năm của Như Lai -->> có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

Như Lai biết như thật về tất cả các giới loại khác nhau của thế gian chúng sanh; đó gọi là lực thứ sáu của Như Lai --> có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

Như Lai biết như thật về tất cả chí xứ đạo, đó gọi là lực thứ bảy của Như Lai --> có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử. Như Lai biết như thật về túc mạng, nhớ những sự khác nhau trong đời sống, từ một đời cho đến trăm, ngàn đời, từ một kiếp cho đến trăm, ngàn kiếp; --> có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử. “

Lại nữa, Như Lai bằng thiên nhãn hơn mắt người thường, thấy chúng sanh lúc sanh lúc chết, đẹp, xấu, thua, hơn, hướng về đường ác, hướng về đường thiện, theo nghiệp mà thọ báo, tất cả biết như thật; chúng sanh này do nghiệp ác của thân thành tựu, do nghiệp ác của miệng, ý thành tựu, hủy báng Hiền thánh, sẽ mắc nghiệp tà kiến, vì nhân duyên này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ đọa vào đường ác, sanh vào trong địa ngục; chúng sanh này, thân làm việc thiện, miệng, ý làm việc thiện, không hủy báng Hiền thánh, sẽ lãnh nghiệp chánh kiến, vì nhân duyên này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh về đường thiện cõi trời; tất cả biết như thật; đó gọi là lực thứ chín của Như Lai. Nếu thành tựu được lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử. “

Lại nữa, Như Lai đã dứt sạch các lậu, tâm giải thoát vô lậu, tuệ giải thoát, hiện tại tự chứng tri, thân tác chứng: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh kiếp sau nữa.’ Đó gọi là lực thứ mười của Như Lai. Nếu thành tựu được lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Mười lực này chỉ có Như Lai mới thành tựu. Đó chính là những sự khác biệt giữa Như Lai và Thanh văn.”

Cho nên .... vấn đề thày VQ nói rằng .. A LA HÁN dừng nơi hóa thành ... sự khác biệt giữa hóa thành và bảo sở .. là chỗ ĐÓ [smile]


iii. Công Thức Tịnh Độ và Công Thức Giải Thoát của Kinh Nguyên Thủy


Cái đoạn kinh Pháp Cú Thày nói về 1 Câu mà hiểu thật ra cũng rất hay [smile]

Bối cảnh câu kinh này là ngày xưa có 1 người có khả năng trí nhớ và học hỏi rất dở tên là Tiểu Lộ, dù có lòng cầu phật mà học hoài chẳng được gì . rút cuộc đức Phật tặng ông 1 câu: về giữ gìn THẬP NGHIỆP THÂN KHẨU Ý [smile] --> và nói rằng .. chỉ hiểu được bằng ấy .. cũng có ngày giác ngộ

đó là vì Chúng Ta đều nhìn thấy mô hình của "TÂM NGŨ UẨN" ... bao hàm sự khơi dậy của Hành Uẩn - Tâm Sở Tác Ý --> tác động lên các loại hành động của Ý, Thân và Khẩu

cho nên việc nhìn quán sát rõ ràng thập nghiệp cũng là con đường dẫn đến sự nhàm chán các tác nhân sinh ra Thức --> Thức Sinh Danh Sắc

Trong Kinh Trường Bộ, ngày xưa Bồ Tát Vipassi nhờ quán sát hiện tượng này mà ... khám phá ra toàn bộ khổ uẩn .. đắc Pháp Nhãn, Thiên Nhã ....

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây:

“Do danh sắc có mặt, thức mới có mặt.

Do duyên danh sắc, thức mới phát sanh”.

19. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ như sau:

“Thức này xoay trở lui lại, từ nơi danh sắc, không vượt khỏi danh sắc. Chỉ như thế này, con người được sanh ra hay trở thành già, hay bị chết, hay từ biệt cõi này, hay sanh lại ở cõi khác, nghĩa là do duyên danh sắc, thức sanh; do duyên thức, danh sắc sanh; do duyên danh sắc, lục nhập sanh; do duyên lục nhập, xúc sanh; do duyên xúc, thọ sanh; do duyên thọ, ái sanh; do duyên ái, thủ sanh; do duyên thủ, hữu sanh; do duyên hữu, sanh sanh; do duyên sanh, lão, tử, sầu bi, khổ ưu não sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này”.


*** Hay Kinh Trung Bộ .. Tiểu Kinh Giáo Giới La Hầu La, đức Phật dạy con .. cũng là dạy quán sát lòng lưu chuyển hành uẩn ấy [smile]


Nhìn vào Sự và Lý của Tịnh Độ .. thì chúng ta cũng nhìn thấy Công Thức Tịnh Độ cũng bắt đầu từ việc nhàm chán cái thân uế trước, nhiệp thân khẩu ý không khác gì các Kinh Nguyên Nguyên .. chỉ khác 1 tí xíu là các hành giả tịnh độ họ sử dụng "PHƯƠNG TIỆN TỊNH ĐỘ" ... hay nói đúng hơn là được "các Tịnh Độ Sứ Giả" đến tiếp dẫn bằng cách trao cho họ những phương tiện tịnh độ, tạo dựng ra không gian để đáng được sự tin tưởng và để cho họ có thể an tâm trì hành các phương tiện tịnh độ ... mà được vãnh sanh vào 1 nơi hóa thành [smile] --> ở đó cho KHỎE ... --> rùi lại ĐI TIẾP [smile]


Nhưng phần lớn những người chúng ta không nhìn SANH TỬ ... là SANH TỬ --> đến từ "những SANH MẠNG" do VÔ MINH, HÀNH, THỨC sinh ra ..

cho nên .. Ý THỨC về SANH TỬ cũng thường bị giới hạn ...

Ý + Trần --> Pháp [smile] cho nên .. hiện tượng Vạn Pháp cũng là từ Ý tiếp xúc với những những hình ảnh, tư tưởng, cảnh trần mà có ... mà cũng ở đó có luôn những sinh mạng ... được sinh ra .. nhưng hiện tượng này xảy ra liên tục, rất nhiều và rất lẹ .. đâu có phải chỉ là 1 đời người chỉ có 1 lần [smile]

Cho nên ... KLL nghĩ rằng .. muốn hiểu sâu hơn về TỊNH ĐỘ thì cũng là hiểu sâu hơn .... "ĐÃ BAO NHIÊU LẦN" ... tụng trì tịnh độ có thể "ĐỘ ĐƯỢC MÌNH"

- tại sao mà CẦN ĐƯỢC TỊNH ĐỘ ?

- và TỊNH ĐỘ là áp dụng ở những khoảng khắc nào ... lúc nào .. khi nào và nhiều bao nhiêu ? [smile]

và cũng vì "Ý THỨC" không nhận biết ra được "những lần sinh tử" ... những lần các pháp sinh diệt đó .. cho nên .. cũng không nhận ra ... --> "CƯ TƯỞNG LÀ XƯA NAY VẪN CHỈ CÓ --> MỖI 1 NGƯỜI Ở ĐÓ THẤY HOÀI HOÀI"--> như vậy lại là THƯỜNG KIẾN [smile]


Đại Trí Độ có viết:

phật pháp như biển cả .. có thể nương vào bằng tín

có thể vượt qua bằng trí


Cho nên .. nếu không CÓ TRÍ QUÁN như ngài TỲ BÀ THY thì cũng được, không có trí quán sâu thì cũng không sao ...

nhưng không như là Thanh văn thành tựu tùy thuận pháp, tùy thuận đạo, --> hỏng vui thích vâng lời giáo giới, giáo thọ của Đại Sư, nên khéo thâm nhập Chánh pháp --> thì cũng chẳng được TIẾP DẪN [smile]

--> thì cũng chắc chắn là hỏng xong [smile]



mạc đạo Tây Phương cận

tây phương vạn thập trình

Di Đà thùy tiếp dấn

vô tử diệc vô sanh

KLL
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
Tôi sẽ vì người hữu duyên ai đọc qua bình luận, với thiện căn sâu dầy, mà giúp họ lìa khổ được vui, tiêu trừ chướng ngại, khế hợp căn cơ thời nay, không phải nói theo ý cá nhân.

Trước tiên câu nói được truyền từ chùa Na Lan Đà xuống.
Ngài Vô Trước nói như sau về niệm:
“Niệm là gì? Đó là một pháp có nhiệm vụ làm cho tâm không quên một vật mà nó đã quen thuộc.”

Có người cho rằng: Người niệm Phật thì chẳng bị ma dựa. Tuy nhiên, thật tế như nào? Các chư tổ của dòng phái Na Lan Đà của ngài Long Thọ đều đem lý chư Phật ra phủ quyết, nghị luận coi nó hợp lý với chân lý cuối cùng hay chăng? Các Ngài không như chúng ta, đơn giản là nói đâu nghe gật đầu đó.

Nguyên văn ở bình luận phía trên: Cho người niệm Phật tiêu trừ chướng ngại, được 25 vị Bồ Tát gia trì; câu nói trên dựa trên kinh Thập Vãng Sinh thuộc Vạn Tự Tục Tạng Kinh; kinh này không được liệt kê trong Đại Tạng Kinh gốc.

Người niệm Phật ở đây? Không đơn giản nói niệm xuông, mà ít nhất họ phải đắc công phu thành phiến, thành phiến hay thành khối lúc đó trong tâm của họ là niệm niệm không quên A Mi Đà Phật, lúc này Phật quang chiếu thể của họ, họ mới không bị ma dựa. Công phu thật sự là mỗi niệm không quên như câu nói của thánh Vô Trước Bồ Tát.

I/1, Nếu bạn thật sự chỉ công phu trên chánh điện vài giờ, ra ngoài thì công phu tu tập bị bể, thì không thể không nói không bị ma dựa. Tức là trong 24h trong một ngày chỉ nhớ nghĩ đức Phật vài giờ, còn đa phần sống với phiền não nghiệp chướng thì bạn bị ma dựa là có khả năng.

I/2, Người ngạo mạn luôn tự đại, được ít cho là đủ, cũng dễ bị ma dựa.

I/3, Người nghiệp chướng từ vô thủy quá nặng, trong đạo Phật có thuyết luân hồi, và một số tôn giáo nhỏ cũng đồng tình có luân hồi, nên việc tạo nghiệp không thể tránh, một đời có thể tránh, hai đời nhưng ai chắc trăm đời ngàn kiếp chẳng tạo lỗi. Chúng ta từ lịch sử Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng có lúc bị che phủ bởi nghiệp chướng mà Ngài tạo nghiệp, như đệ tử Mục Kiên Liên đạp lên đầu mẹ quá khứ, ngài Châu Lợi Bàn Đà Già che giấu kinh điển, thuyết pháp để lại, có một ngài Kiều Phạm Ba Đề trong Thập Đại đệ tử của đức Thích Ca miệng nhai như bò là quả báo kiếp trước chưởi mắng thánh A La Hán. Từ đó cho thấy tập khí vô thủy vô minh kể cả đạo quả Thanh Văn vẫn chưa tịnh hóa được hết.

CHỨNG MINH:

II/1,Thời cận đại có lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam ông là chuyên tu tịnh độ tại Liên Xã Đài Trung, mỗi lần ông tổ chức chuyên tu Phật thất 24/24 thì đều có 1-2 người bị ma dựa; thời gian chữa trị chí ít cũng phải mất sáu tháng liên tục (theo lời kể của ps Tịnh Không, và một số người khác....). Từ đó ông không dám tổ chức tinh tấn Phật thất.

II/2, Đâu xa chi nhánh của mình, có người tu theo Học Viện Tịnh Tông Mỹ Quốc ở Việt Nam, anh ta là trưởng đạo tràng, đi kinh hành rất giỏi một ngày tu mười mấy tiếng đồng hồ, suốt gần chục năm như một ngày, thế nhưng có lúc bị ma nhập (tôi xin sám hối với trưởng huynh vì đã đem anh ra minh chứng).

II/3, Ngày xưa tôi từng đi hộ niệm vãng sinh, một ngôi chùa chuyên niệm A Mi Đà Phật, có trợ niệm. Tôi đã từng kiến chị kia tu hành rất giỏi rất khá, niệm Phật cũng khá tinh tấn; nhưng tình chấp chị ta không buông xuống được. Chết trợ niệm 24h đồng hồ mà vẫn cứng như cục đá, chị ta khoảng độ 30---> lên thôi.
Một người bạn già của tôi cụ khoảng trên 70---> Nói chung làm công quả rất tốt, từ lúc vô chùa chưa từng một lòng phiền đến một ai, một ngày công phu cũng trên mười mấy giờ đồng hồ, một hôm cụ đột nhiên bịnh chết, liền trợ niệm nhưng trong lòng cụ chưa buông xả được tình chấp, 24h trợ niệm vẫn cứng đơ.

Mỗi lần cụ gặp tôi, liền ôm tôi và khóc; nói thương tôi rất nhiều, coi tôi như cháu của cụ, mỗi khi tôi tạm biệt cụ, cụ đưa cho tôi ít tiền dành dụm rồi chào tôi.

*Từ rất nhiều chuyện cứ ập tới tôi, và tôi và mẹ tôi niệm Phật cũng thường xuyên bị chướng ngại. khiến tôi đọc nhiều hơn nữa, và từ đó viên dung tất cả đạo lộ chư Phật.

-Do đó, tôi muốn nói với quý vị rằng: Quý vị rằng, quý vị chưa đắc công phu thành khối của niệm Phật; thì vẫn bị ma nhập là chuyện thường từ ba hạng rất dễ bị dựa là: 1,2,3.

-Chứ trong kinh không nói niệm Phật là không bị ma nhập, là hạng người chỉ là công phu vài giờ, hết công phu thì tạp loạn quá nhiều, chuyện thế gian ảnh hưởng tâm thức.

-Còn trì Đà La Ni là khác, là bổn nguyện chỉ bạn hứa nguyện mỗi ngày trì khoảng thời gian bao, đủ túc số tuy phiền não từ vô thủy không thể hàng phục, nhưng do bổn nguyện đà la ni nên 24h các Ngài bảo hộ.


*Ai cũng có điểm hay cá nhân, nhưng chúng ta phải đem những lời nói này suy luận, khảo sát như Ngài Trần Na, Pháp Xứng có hợp lý hay không nha.
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
Chào các bạn nếu thầy ViênQuang vì cái tôi của thầy quá lớn, bất chất mọi lời ý kiến của mọi người đóng góp, sân giận đồng tu; do chưa đắc được đạo chủng trí của Bồ Tát, nhất thiết trí của chư Phật mà làm như vậy là chuyện thường tình.

Chắc duyên tới diễn đàn này cũng đã viên mãn. Phật Bồ Tát yêu cầu trách nhiệm khác rồi. Hy vọng đồng tu có theo dõi bài viết của tôi tiếp tục học quyển Giải Thoát Trong Lòng Bàn Tay của đức pháp chủ Gelugpa. Và kiên trì với kinh Vô Lượng Thọ mà y theo tu học, hiển mật viên dung, tánh tướng chẳng ngăn ngại, đường về cõi tịnh chắc chắn không xa. Xin cảm ơn mọi người tại diễn đàn đã góp ý cá nhân tôi.

Nguyện đồng niệm Phật nhân cảm ứng tùy thời hiện, lâm chung Tây Phương cảnh phân minh tại mục tiền.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,706
Điểm tương tác
772
Điểm
113
Tôi sẽ vì người hữu duyên ai đọc qua bình luận, với thiện căn sâu dầy, mà giúp họ lìa khổ được vui, tiêu trừ chướng ngại, khế hợp căn cơ thời nay, không phải nói theo ý cá nhân.

Trước tiên câu nói được truyền từ chùa Na Lan Đà xuống.
Ngài Vô Trước nói như sau về niệm:
“Niệm là gì? Đó là một pháp có nhiệm vụ làm cho tâm không quên một vật mà nó đã quen thuộc.”

Có người cho rằng: Người niệm Phật thì chẳng bị ma dựa. Tuy nhiên, thật tế như nào? Các chư tổ của dòng phái Na Lan Đà của ngài Long Thọ đều đem lý chư Phật ra phủ quyết, nghị luận coi nó hợp lý với chân lý cuối cùng hay chăng? Các Ngài không như chúng ta, đơn giản là nói đâu nghe gật đầu đó.

Nguyên văn ở bình luận phía trên: Cho người niệm Phật tiêu trừ chướng ngại, được 25 vị Bồ Tát gia trì; câu nói trên dựa trên kinh Thập Vãng Sinh thuộc Vạn Tự Tục Tạng Kinh; kinh này không được liệt kê trong Đại Tạng Kinh gốc.

Người niệm Phật ở đây? Không đơn giản nói niệm xuông, mà ít nhất họ phải đắc công phu thành phiến, thành phiến hay thành khối lúc đó trong tâm của họ là niệm niệm không quên A Mi Đà Phật, lúc này Phật quang chiếu thể của họ, họ mới không bị ma dựa. Công phu thật sự là mỗi niệm không quên như câu nói của thánh Vô Trước Bồ Tát.

I/1, Nếu bạn thật sự chỉ công phu trên chánh điện vài giờ, ra ngoài thì công phu tu tập bị bể, thì không thể không nói không bị ma dựa. Tức là trong 24h trong một ngày chỉ nhớ nghĩ đức Phật vài giờ, còn đa phần sống với phiền não nghiệp chướng thì bạn bị ma dựa là có khả năng.

I/2, Người ngạo mạn luôn tự đại, được ít cho là đủ, cũng dễ bị ma dựa.

I/3, Người nghiệp chướng từ vô thủy quá nặng, trong đạo Phật có thuyết luân hồi, và một số tôn giáo nhỏ cũng đồng tình có luân hồi, nên việc tạo nghiệp không thể tránh, một đời có thể tránh, hai đời nhưng ai chắc trăm đời ngàn kiếp chẳng tạo lỗi. Chúng ta từ lịch sử Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng có lúc bị che phủ bởi nghiệp chướng mà Ngài tạo nghiệp, như đệ tử Mục Kiên Liên đạp lên đầu mẹ quá khứ, ngài Châu Lợi Bàn Đà Già che giấu kinh điển, thuyết pháp để lại, có một ngài Kiều Phạm Ba Đề trong Thập Đại đệ tử của đức Thích Ca miệng nhai như bò là quả báo kiếp trước chưởi mắng thánh A La Hán. Từ đó cho thấy tập khí vô thủy vô minh kể cả đạo quả Thanh Văn vẫn chưa tịnh hóa được hết.

CHỨNG MINH:

II/1,Thời cận đại có lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam ông là chuyên tu tịnh độ tại Liên Xã Đài Trung, mỗi lần ông tổ chức chuyên tu Phật thất 24/24 thì đều có 1-2 người bị ma dựa; thời gian chữa trị chí ít cũng phải mất sáu tháng liên tục (theo lời kể của ps Tịnh Không, và một số người khác....). Từ đó ông không dám tổ chức tinh tấn Phật thất.

II/2, Đâu xa chi nhánh của mình, có người tu theo Học Viện Tịnh Tông Mỹ Quốc ở Việt Nam, anh ta là trưởng đạo tràng, đi kinh hành rất giỏi một ngày tu mười mấy tiếng đồng hồ, suốt gần chục năm như một ngày, thế nhưng có lúc bị ma nhập (tôi xin sám hối với trưởng huynh vì đã đem anh ra minh chứng).

II/3, Ngày xưa tôi từng đi hộ niệm vãng sinh, một ngôi chùa chuyên niệm A Mi Đà Phật, có trợ niệm. Tôi đã từng kiến chị kia tu hành rất giỏi rất khá, niệm Phật cũng khá tinh tấn; nhưng tình chấp chị ta không buông xuống được. Chết trợ niệm 24h đồng hồ mà vẫn cứng như cục đá, chị ta khoảng độ 30---> lên thôi.
Một người bạn già của tôi cụ khoảng trên 70---> Nói chung làm công quả rất tốt, từ lúc vô chùa chưa từng một lòng phiền đến một ai, một ngày công phu cũng trên mười mấy giờ đồng hồ, một hôm cụ đột nhiên bịnh chết, liền trợ niệm nhưng trong lòng cụ chưa buông xả được tình chấp, 24h trợ niệm vẫn cứng đơ.

Mỗi lần cụ gặp tôi, liền ôm tôi và khóc; nói thương tôi rất nhiều, coi tôi như cháu của cụ, mỗi khi tôi tạm biệt cụ, cụ đưa cho tôi ít tiền dành dụm rồi chào tôi.

*Từ rất nhiều chuyện cứ ập tới tôi, và tôi và mẹ tôi niệm Phật cũng thường xuyên bị chướng ngại. khiến tôi đọc nhiều hơn nữa, và từ đó viên dung tất cả đạo lộ chư Phật.

-Do đó, tôi muốn nói với quý vị rằng: Quý vị rằng, quý vị chưa đắc công phu thành khối của niệm Phật; thì vẫn bị ma nhập là chuyện thường từ ba hạng rất dễ bị dựa là: 1,2,3.

-Chứ trong kinh không nói niệm Phật là không bị ma nhập, là hạng người chỉ là công phu vài giờ, hết công phu thì tạp loạn quá nhiều, chuyện thế gian ảnh hưởng tâm thức.

-Còn trì Đà La Ni là khác, là bổn nguyện chỉ bạn hứa nguyện mỗi ngày trì khoảng thời gian bao, đủ túc số tuy phiền não từ vô thủy không thể hàng phục, nhưng do bổn nguyện đà la ni nên 24h các Ngài bảo hộ.


*Ai cũng có điểm hay cá nhân, nhưng chúng ta phải đem những lời nói này suy luận, khảo sát như Ngài Trần Na, Pháp Xứng có hợp lý hay không nha.
Đạo hữu,

"Niệm Phật mà vẫn bị ma dựa", còn trì chú thì được "bảo hộ 24h", đạo hữu kinh nghiệm Phật pháp như thế mà gieo duyên với chúng sanh thì tính Thầy và trò cùng đi xuống dưới hay sao ?

Còn nói về Tịnh độ tông, hết thảy chư vị phản bác đường lối Tịnh tông trên đây đều "y Kinh giải nghĩa" chưa từng đứng chân trong pháp môn, lại chẳng y cứ chư Tổ chứng đắc "Niệm Phật Tam Muội". Thì dù đem hết Kinh giáo một đời của đức Thích Ca ra nói rằng Tịnh độ Cực Lạc Thế Giới là cảnh tướng huyễn mộng, cũng chẳng làm động được một mảy may tín tâm của Ba Tuần đối với Thế giới và Giáo nghĩa Tịnh độ đâu. Tại sao ? Vì đó là đường lối tối thắng hằng thỏa đại nguyện: "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" của ba đời tất cả chư Phật vậy.

Tướng cảnh và tánh cảnh
Hữu vi cùng vô vi
Chúng sanh khổ phiền não
Siêng niệm A Di Đà.
 
Last edited:

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,658
Điểm tương tác
715
Điểm
113
Đạo hữu,

Trong 03 nguyện 18,19, 20 duy chỉ có nguyện 19 "phát tâm Bồ Đề" thì Phật và Thánh chúng hiện thân lúc lâm chung tiếp dẫn, còn lại thì không; đủ thấy việc này chẳng dễ được.

Lại nguyện 20, nói nghe danh hiệu Phật nhớ nghĩ nước Phật rồi tu trồng công đức, nghĩa là phát Tâm hướng cõi Phật rồi khởi hạnh. Chứ chẳng phải khởi hạnh rồi phát tâm. Cho nên, Ba Tuần nói cũng chẳng dễ.

Duy chỉ có niệm Phật, là bản nguyện của đức từ Phụ. Danh hiệu Phật là tổng trì muôn hạnh, nhờ danh mà nhớ Phật, nhớ Phật mà trì danh. Nên hễ chúng sanh niệm Phật, Phật liền biết. Siêng niệm tất đắc độ.

Lại nữa, "Phật là bổn lai diện mục", niệm danh tới chỗ lìa năng niệm sở niệm thì nhập không tánh, ở nơi không mà chẳng kẹt tướng không thì phát minh trí tuệ. Cho nên Kinh nói: thuần tưởng sinh Thiên, bên trong có huệ tự thấy tịnh độ 10 phương.

Niệm danh Phật cầu vãng sanh, do tha thiết sanh mà thành lìa sanh diệt. Ngộ lý, thành sự, trong ngoài đồng tịnh hiện tướng cảnh Cực Lạc.

Một tha lực, một tự lực đồng thể tánh nên nhiếp thọ dễ dàng. Đồng bi nguyện nên vãng sanh rất chóng.

Tiếc cho ngày nay, cầu vãng sinh mà chẳng chí thành, thế nên niệm chẳng chuyên, hạnh thành tạp nhạp. Ỷ vào đa hạnh, mà muốn Phật tiếp dẫn. Trong trăm ngàn người, e rằng chỉ có một hai người vãng sanh được thôi.

TỔ THIỆN ĐẠO:
Cực Lạc vô vi cõi Niết Bàn
Tùy duyên, tạp thiện khó vãng sanh
Nên Đức Như Lai lựa pháp yếu
Khuyên niệm Di Đà, chuyên thật chuyên
Bảy ngày bảy đêm không gián đoạn
Khởi hạnh lâu dài lại gắng thêm
Lâm chung, Thánh chúng cầm hoa đến
Thân tâm phấn khởi, sinh sen vàng
Ngồi vào chứng đắc vô sinh nhẫn
Liền được rước đến trước Pháp Vương
Bồ tát tranh nhau đắp y pháp

Chứng ngôi bất thoái, nhập Tam Hiền.

TỔ PHÁP NHIÊN:
“Không thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được vãng sinh Cực Lạc”, nghĩa là các hành giả tu hạnh tạp thiện, khó được vãng sinh, cho nên mới nói “tùy duyên, tạp thiện khó vãng sinh”. Ít thiện căn, nghĩa là đối với “nhiều thiện căn” mà nói. Như vậy, các tạp thiện là ít thiện căn, còn Niệm Phật là nhiều thiện căn, cho nên Long Thư Tịnh Độ Văn có nói: “Bản đá khắc kinh A Di Đà ở Tương Dương, do ông Dương Nhân Lăng ở đời Tùy viết, nét chữ thanh thoát, uyển chuyển, được nhiều người hâm mộ, phía dưới câu “một lòng không loạn” có câu “Chuyên trì danh hiệu, do xưng danh hiệu, tội chướng tiêu diệt, tức là nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên.”
Hiện nay các bản kinh được lưu hành thiếu mất hai mươi mốt chữ này.

Đúng như đạo hữu nói nhưng khi nói các nguyện thì chúng ta cứ như các nguyện mà nói. Rồi sau đó, phân tích cái nào dễ làm, cái nào khó làm. Như bậc thượng trí, kiêm nhiều hạnh cũng dễ dàng.
Còn như sức mình tự độ chưa xong thì nên chuyên trì danh niệm Phật là dễ nhất. Học cho nhiều vào thì cũng chỉ để sao cho một tâm chuyên nhất mà thôi, cho nên nhiều khi người trình học thấp mà nhờ lòng tin chí thánh rồi chí tâm xưng niệm thì dễ thành công hơn!
Pháp trì danh hiệu Phật, không luận là kẻ ngu hay người trí, hễ Tín-Nguyện kiên cố, trì danh chuyên nhất thế là vãng sanh, tâm đã đặt ở Cực Lạc, hạnh lại chỉ duyên với Cực Lạc thì đi đâu được nữa chứ! Hiểu hay chẳng hiểu hai chữ vãng sanh thì chẳng sao cả!
 

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,658
Điểm tương tác
715
Điểm
113
Chào các bạn nếu thầy ViênQuang vì cái tôi của thầy quá lớn, bất chất mọi lời ý kiến của mọi người đóng góp, sân giận đồng tu; do chưa đắc được đạo chủng trí của Bồ Tát, nhất thiết trí của chư Phật mà làm như vậy là chuyện thường tình.

Chắc duyên tới diễn đàn này cũng đã viên mãn. Phật Bồ Tát yêu cầu trách nhiệm khác rồi. Hy vọng đồng tu có theo dõi bài viết của tôi tiếp tục học quyển Giải Thoát Trong Lòng Bàn Tay của đức pháp chủ Gelugpa. Và kiên trì với kinh Vô Lượng Thọ mà y theo tu học, hiển mật viên dung, tánh tướng chẳng ngăn ngại, đường về cõi tịnh chắc chắn không xa. Xin cảm ơn mọi người tại diễn đàn đã góp ý cá nhân tôi.

Nguyện đồng niệm Phật nhân cảm ứng tùy thời hiện, lâm chung Tây Phương cảnh phân minh tại mục tiền.
Thật ra đạo hữu muốn học bao nhiêu cũng được. Nhưng cốt yếu của Tịnh Độ Tông này là chí tâm xưng tán danh hiệu Phật đừng để tâm tới việc khác. Được vậy thì là chân tu đó.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,706
Điểm tương tác
772
Điểm
113
* Vãng Sanh theo cái thấy của VQ:


Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.

1/. Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử.

2/. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở.

3/. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.

* Tam Giới : Dục, Sắc và Vô Sắc. Tổ Đạt Ma dạy: Tam giới là Tham- Sân- Si. Đối với Tham- Sân- Si. là Giới- Định- Huệ (hết trích)

Từ đó ta nghiệm ra rằng:

a). Người say đắm lòng THAM là rơi vào Dục Giới. Tham Tận cùng, chính là Địa ngục.
b). Người say đắm lòng SÂN là rơi vào Sắc Giới. Sân Tận cùng, chính là Ngạ Quỷ.
c). Người say đắm lòng SI là rơi vào Vô Sắc Giới. Si Tận cùng, chính là Súc sanh.

Diễn tả 3 cảnh giới này. kinh nói: " Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện (tức là tham, sân, si).

Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. "
(tức là đọa Tam Giới khổ).

Chữ "Nhiều kiếp" ý là nói do khởi niệm chấp niệm trùng trùng trong tâm tưởng khó thoát được.
Kinh rằng: Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử.

Nghĩa là: Người trong Tam giới ấy lúc "Lâm chung" . tức là lúc đau khổ cùng cực trong quả Khổ của T-S-S, (Mà biết chuyển Niệm, tức là lúc kết thúc quá trình sinh diệt vọng tưởng). chợt nhớ lời Kinh dạy Niệm Phật, Niệm Pháp, niệm Tăng. tức là Chánh niệm Tỉnh Giác. cố gắng giữ niệm tỉnh giác này, trong 10 ý nghĩ, hoặc 1 ngày cho đến 7 ngày, không để ý niệm TSS khởi lên nữa. Do sức Chánh niệm nên làm muội lượt và triệt tiêu Vọng niệm TSS.- Đó là VÃNG.- Nghĩa là qua khỏi TSS. Và SANH nghĩa là qua khỏi TSS và Sanh được Thiện Niệm "Giới- Định- Huệ" .

Khi trong Tâm không có TSS, tức thời không còn phiền não.

Khi trong Tâm có GĐH, tức thời không còn ưu tư vì đã được GDH hộ trì

"Vô não vô ưu Chơn cực Lạc" .

Như vậy là đã được VÃNG SANH VỀ CỰC LẠC rồi đó.

Tóm lại:

Tâm không còn Tham, sân, si là VÃNG.
Trí huệ phát do Giới, Định, Huệ là SANH.
Do không có Tham san si nên thấy vô não vô ưu.- Đó là CỰC LẠC

Do được giới định huệ hộ trì nên "thấy kim liên hoa" Nghĩa là thấy "Tâm hoa Bát Nhã" khai phát.- Đó là TỊNH ĐỘ.

Đó là hành tướng Sanh vào Tịnh Độ Hạ Phẩm.
Kính Thầy Vienquang6,

Nếu nói rằng "lìa Tham Sân Si" gọi là "vãng"; khởi "giới định tuệ" gọi là "sanh". Vậy dù Phật tiếp dẫn hay không cũng chẳng can dự tới, đâu thành sự "vãng sanh" của Tông Tịnh Độ; luân hồi tất có phần của vị ấy. Hạ phẩm hạ sanh cũng chẳng thể hiện ra.

Điều này liên quan tới cả sự hiện tồn của Hoa Tạng Thế Giới. Mong thầy xét kỹ.
 

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,658
Điểm tương tác
715
Điểm
113
* Vãng Sanh theo cái thấy của VQ:


Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.

1/. Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử.

2/. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở.

3/. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.

* Tam Giới : Dục, Sắc và Vô Sắc. Tổ Đạt Ma dạy: Tam giới là Tham- Sân- Si. Đối với Tham- Sân- Si. là Giới- Định- Huệ (hết trích)

Từ đó ta nghiệm ra rằng:

a). Người say đắm lòng THAM là rơi vào Dục Giới. Tham Tận cùng, chính là Địa ngục.
b). Người say đắm lòng SÂN là rơi vào Sắc Giới. Sân Tận cùng, chính là Ngạ Quỷ.
c). Người say đắm lòng SI là rơi vào Vô Sắc Giới. Si Tận cùng, chính là Súc sanh.

Diễn tả 3 cảnh giới này. kinh nói: " Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện (tức là tham, sân, si).

Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. "
(tức là đọa Tam Giới khổ).

Chữ "Nhiều kiếp" ý là nói do khởi niệm chấp niệm trùng trùng trong tâm tưởng khó thoát được.
Kinh rằng: Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử.

Nghĩa là: Người trong Tam giới ấy lúc "Lâm chung" . tức là lúc đau khổ cùng cực trong quả Khổ của T-S-S, (Mà biết chuyển Niệm, tức là lúc kết thúc quá trình sinh diệt vọng tưởng). chợt nhớ lời Kinh dạy Niệm Phật, Niệm Pháp, niệm Tăng. tức là Chánh niệm Tỉnh Giác. cố gắng giữ niệm tỉnh giác này, trong 10 ý nghĩ, hoặc 1 ngày cho đến 7 ngày, không để ý niệm TSS khởi lên nữa. Do sức Chánh niệm nên làm muội lượt và triệt tiêu Vọng niệm TSS.- Đó là VÃNG.- Nghĩa là qua khỏi TSS. Và SANH nghĩa là qua khỏi TSS và Sanh được Thiện Niệm "Giới- Định- Huệ" .

Khi trong Tâm không có TSS, tức thời không còn phiền não.

Khi trong Tâm có GĐH, tức thời không còn ưu tư vì đã được GDH hộ trì

"Vô não vô ưu Chơn cực Lạc" .

Như vậy là đã được VÃNG SANH VỀ CỰC LẠC rồi đó.

Tóm lại:

Tâm không còn Tham, sân, si là VÃNG.
Trí huệ phát do Giới, Định, Huệ là SANH.
Do không có Tham san si nên thấy vô não vô ưu.- Đó là CỰC LẠC

Do được giới định huệ hộ trì nên "thấy kim liên hoa" Nghĩa là thấy "Tâm hoa Bát Nhã" khai phát.- Đó là TỊNH ĐỘ.

Đó là hành tướng Sanh vào Tịnh Độ Hạ Phẩm.
Xin phép trao đổi với Thầy:
+ Thứ nhất, người lâm chung này tự mình vốn không giữ được chánh niệm. Bằng chứng là thiện tri thức bảo "niệm Phật ấy" là nhớ nghĩ tới Phật A Di Đà thanh tịnh bất động nhưng người lâm chung đó không làm được. thế nên thiện tri thức mới chuyển qua hình thái dễ hơn là "xưng tán danh hiệu Phật", do đủ 10 câu Phật hiệu mà được vãng sanh. Phải khẳng định là nếu không có việc xưng tán danh hiệu Phật A Di Đà thì người này không được vãng sanh. Mà phải nhất thiết là danh hiệu Phật A Di Đà mới được, còn Phật khác thì không, vì Phật A Di Đà có bổn nguyện tiếp dẫn qua xưng tán danh hiệu!

Do điểm thứ nhất này khẳng định sự kết hợp giữ "tự lực" và "tha lực". Không có tha lực trong trường hợp này là rớt hẳn!

+ Thứ hai, người hạ phẩm này vẫn còn tham sân si chứ chưa dứt hẳn. Vì sao? Vì nếu dứt hẳn thì phải là A LA HÁN hoặc chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, như vậy nếu đã dứt hẳn tham sân si phiền não các loại thì tự tại rồi chứ đâu có chuyên lo sợ nghiệp quả mà nương nhờ Phật hiệu.

Điểm thứ hai này khẳng định: hạ phẩm hạ sanh do biết rõ việc làm sai trái từ tham sân si và vả lại sắp mạng chung nên nhất thời chẳng dám khởi tâm tham sân si, tập khí chưa hề đoạn trừ, không đạt tiêu chuẩn Vãng của Thầy rồi.

Vả lại người này phải ở nơi hoa sen 12 đại kiếp thì hoa sen mới nở. Rồi sau đó Phát tâm Bồ Đề chứ chưa chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, tu tập tại Cực một khoảng thời gian thì mới chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Như vậy, thầy dùng ba chữ tham sân si mà không nói rõ nghĩa thì người ta sẽ hiểu: không tham sân si là một người chứng Thánh rồi. Trong khi người hạ phẩm hạ sanh chưa chứng A LA HÁN hay vô sanh Pháp Nhẫn.

Có hai câu hỏi, con xin phép hỏi Thầy:
+ Theo khái niệm vãng sanh của Thầy thì Thầy đã được vãng sanh sang Tây Phương Cực Lạc Thế Giới gặp Phật A Di Đà chưa?

+ Thầy có phát nguyện sanh sang thế giới Tây Phương Cực Lạc hay không?

Còn với VNBN thấy rõ ràng rằng:
VÃNG SANH là cách thức để hành giả sanh sang Cực Lạc thế giới cầu Đạo ở Đức Phật A Di Đà, chứ không phải là Chứng Đạo! Phật Pháp thậm thâm chớ tưởng đã đủ hết rồi mà sanh tâm không cần học ở Đức Phật nữa!
 
Last edited:

Hoa Vô Tướng

Well-Known Member
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
9 Thg 4 2018
Bài viết
731
Điểm tương tác
262
Điểm
63
Kính Thầy Vienquang6,

Nếu nói rằng "lìa Tham Sân Si" gọi là "vãng"; khởi "giới định tuệ" gọi là "sanh". Vậy dù Phật tiếp dẫn hay không cũng chẳng can dự tới, đâu thành sự "vãng sanh" của Tông Tịnh Độ; luân hồi tất có phần của vị ấy. Hạ phẩm hạ sanh cũng chẳng thể hiện ra.

Điều này liên quan tới cả sự hiện tồn của Hoa Tạng Thế Giới. Mong thầy xét kỹ.

ha ha....

Có lúc nào VÔ LƯỢNG QUANG ngừng phóng chiếu trên đảnh đại ca chưa mà nói linh tinh vậy?

Phật hiện ra thì mời Phật về chỗ, suốt ngày sanh mà chẳng sanh, suốt ngày diệt mà chẵng diệt còn muốn cầu sanh vào chổ nào nữa?

Vớ va vớ vẫn :D
 

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,658
Điểm tương tác
715
Điểm
113
Kính Thầy Vienquang6,

Nếu nói rằng "lìa Tham Sân Si" gọi là "vãng"; khởi "giới định tuệ" gọi là "sanh". Vậy dù Phật tiếp dẫn hay không cũng chẳng can dự tới, đâu thành sự "vãng sanh" của Tông Tịnh Độ; luân hồi tất có phần của vị ấy. Hạ phẩm hạ sanh cũng chẳng thể hiện ra.

Điều này liên quan tới cả sự hiện tồn của Hoa Tạng Thế Giới. Mong thầy xét kỹ.
Đúng vậy, xưa nay VNBN luôn ý kiến cố tình đưa ra các phẩm vãng sanh để các vị muón luận vãng sanh trong Tịnh Độ nghiên cứu, vì đa số họ điều đặt điều kiện ở trên cao không, suy ra toàn là Thánh mới vãng sanh! Rồi phủ nhận năng lực tiếp dẫn của 48 đại nguyện.

Trong 10 phương chư Phật, hằng hà sa số Tịnh Độ, nào là Cực Lạc này, Tịnh Lưu Ly này, Diệu Hỷ này,..v. v....Không phải Tịnh Độ nào cũng tiếp dẫn hạng hạ phẩm đâu, có khi cả A LA HÁN còn chưa được sanh, hay cả Bồ tát sơ địa đến Địa thứ 7 còn chưa được sanh. Cho nên họ cứ tưởng có một Tịnh Độ duy nhất, rồi đặt ra tiêu chuẩn duy nhất.

Ôi, việc thiết lập tiêu chuẩn sanh sang một thế giới Tịnh Độ nào đó là do ở nơi bổn nguyện của vị Phật đó, cứ đâu phải tùy ý riêng của mình mà luận.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,706
Điểm tương tác
772
Điểm
113
ha ha....

Có lúc nào VÔ LƯỢNG QUANG ngừng phóng chiếu trên đảnh đại ca chưa mà nói linh tinh vậy?

Phật hiện ra thì mời Phật về chỗ, suốt ngày sanh mà chẳng sanh, suốt ngày diệt mà chẵng diệt còn muốn cầu sanh vào chổ nào nữa?

Vớ va vớ vẫn :D
Hề hề,

Ta nói là tội rút lưỡi chưa tha ai đâu nhé !

Nếu nói Vô Lượng Quang chưa từng phóng chiếu chẳng khác nào nói tánh thấy nghe chưa từng ngăn ngại. Nay ngươi ngồi đây có chạm nhật nguyệt, đàm đạo với Thích Ca, Văn Thù được chăng ?

Ta chẳng những cần cầu sanh mà e rằng vị lai Phật đức Di Lặc cũng cần phải hiện sanh vậy.
 

Hoa Vô Tướng

Well-Known Member
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
9 Thg 4 2018
Bài viết
731
Điểm tương tác
262
Điểm
63
Hề hề,

Ta nói là tội rút lưỡi chưa tha ai đâu nhé !

Nếu nói Vô Lượng Quang chưa từng phóng chiếu chẳng khác nào nói tánh thấy nghe chưa từng ngăn ngại.

Nay ngươi ngồi đây có chạm nhật nguyệt, đàm đạo với Thích Ca, Văn Thù được chăng ?

Ta chẳng những cần cầu sanh mà e rằng vị lai Phật đức Di Lặc cũng cần phải hiện sanh vậy.

Ha ha...

Tiểu đệ không bao giờ dung túng cho cái kiểu tùy thuận người mê rồi chỉ họ nhập Ma luôn đâu nhé!

Văn Thù, Thích Ca bây giờ ở đâu? biết không mà nói nhảm?

Duyên sanh mà sanh tham, sân, si là bệnh, duyên sanh mà khởi giới định huệ là thuốc ai thuyết trái lời ấy tiểu đệ sẻ táng không tiếc tay đâu!

Nếu chân chính hành Niệm Phật, niệm sanh thể viên thì đã thấu hết nghĩa các kinh rồi chứ không còn đi tuyên truyền nhảm nhí kiểu như vậy đâu!
 

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,658
Điểm tương tác
715
Điểm
113
Ha ha...

Tiểu đệ không bao giờ dung túng cho cái kiểu tùy thuận người mê rồi chỉ họ nhập Ma luôn đâu nhé!

Văn Thù, Thích Ca bây giờ ở đâu? biết không mà nói nhảm?

Duyên sanh mà sanh tham, sân, si là bệnh, duyên sanh mà khởi giới định huệ là thuốc ai thuyết trái lời ấy tiểu đệ sẻ táng không tiếc tay đâu!

Nếu chân chính hành Niệm Phật, niệm sanh thể viên thì đã thấu hết nghĩa các kinh rồi chứ không còn đi tuyên truyền nhảm nhí kiểu như vậy đâu!
Lúc Ngài Huệ Khả mong muốn tìm Đạt Ma Tổ Sư để học đạo là tham hay không tham?
Nếu không có mong muốn đó thì kết quả ra sao ?
 

Hoa Vô Tướng

Well-Known Member
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
9 Thg 4 2018
Bài viết
731
Điểm tương tác
262
Điểm
63
Lúc Ngài Huệ Khả mong muốn tìm Đạt Ma Tổ Sư để học đạo là tham hay không tham?
Nếu không có mong muốn đó thì kết quả ra sao ?

Chuyện ai cũng biết rồi còn hỏi làm gì?

Không cầu không gặp được thì một kiếp trôi qua trong si mê và điên đảo chứ lại làm sao?
 

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,658
Điểm tương tác
715
Điểm
113
Chuyện ai cũng biết rồi còn hỏi làm gì?

Không cầu không gặp được thì một kiếp trôi qua trong si mê và điên đảo chứ lại làm sao?
Hãy trả lời cho câu hỏi đi đạo hữu, là tham hay không tham trong phát ngôn duyên sanh trước đó?
 

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,658
Điểm tương tác
715
Điểm
113
Chuyện ai cũng biết rồi còn hỏi làm gì?

Không cầu không gặp được thì một kiếp trôi qua trong si mê và điên đảo chứ lại làm sao?
Thôi, để VNBN nói luôn ý mà VNBN muốn nói tới:
+ Tất cả những người vãng sanh đều mong muốn gặp Đức Phật A Di Đà và Thánh Chúng.
+ Muốn đến Cực Lạc thế giới tu tập dưới sự khảo sát của Đức Phật A Di Đà thì phát lòng thành sanh đến Cực Lạc thế giới khi mãn duyên ta bà. Đó là nguyện cầu vãng sanh.
+ Phát tâm nguyện xong thì phải xem cách thức tu tập thế nào mới được sanh sang thế giới ấy.
VÃNG SANH là cách thức để sanh sang Cực Lạc thế giới cầu Đạo ở Đức Phật A Di Đà, chứ không phải là Chứng Đạo!

Thí dụ khác: một người muốn đến Cung Trời Đâu Suất để gặp Bồ Tát D Lặc để thân cận Ngài ấy thì phải phát tâm sau khi mạng chung về cung trời Đâu Suất. Phát tâm xong thì phải xem cách thức tu tập thế nào mới được sanh lên cung trời Đâu Suất, chứ đâu phải khơi khơi muốn đến là đến được.

Một thí dụ khác: một người muốn đến Mỹ thì trước hết người đó phát tâm nguyện đến nước Mỹ. Có mong muốn đó rồi thì phải xem cần làm những việc gì mới được đi từ VN sang Mỹ! Làm đúng thì được cấp phép cho đi.
 
Last edited:
Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên