Thảo luận Kinh Viên Giác

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
4 Tầng HUYỄN MỘNG.

1/. Sanh tử là HUYỄN CẢNH.


Kinh văn: (Bấy giờ Đức Phật nói với Đại Trí Văn Thù Bồ Tát)
Tất cả chúng sanh ở nơi pháp vô sanh vọng thấy có sự sanh diệt, cho nên gọi là sanh tử luân hồi.

Thiện nam tử! Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không, vậy thì thân tâm vốn không, lấy gì để thọ sanh tử luân hồi? Cái KHÔNG này là vì bản tánh vốn không, chẳng phải
do tạo tác thành không. Cái biết đó ví như hư không, kẻ biết như hư không đó tức là tướng hoa đốm cũng chẳng thể nói không có tánh tri giác, CÓ với KHÔNG đều lìa, ấy mới gọi là tùy thuận giác tánh trong sạch.
Tại sao? Vì tánh hư không thường trụ chẳng động. Trong Như Lai Tạng vốn chẳng có sự sanh diệt nên chẳng có sự tri kiến sanh diệt trong đó, cũng như pháp giới tánh, rốt ráo viên mãn đầy khắp mười phương không gian và giờ gian, ấy mới gọi là nhân địa phát tâm theo chánh pháp, tu hành theo chánh hạnh.
Bồ Tát vì thế ở nơi đại thừa phát tâm trong sạch, chúng sanh trong đời mạt pháp theo đó tu hành chẳng đọa tà kiến.

Lúc ấy Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Văn Thù ngươi nên biết,
Tất cả các Như Lai,
Từ nơi bản nhân địa,
Đều nhờ trí huệ giác.
Thông đạt nơi vô minh,
Cũng như hoa đốm kia.
Thì khỏi bị luân hồi.
Cũng như người trong mộng,
Thức tỉnh cảnh mộng mất.
Giác ngộ như hư không,
Bình đẳng chẳng lay động.
Bản giác khắp mười phương,
Liền được thành Phật đạo.
Huyễn chẳng chỗ sanh diệt,
Thành đạo cũng vô đắc,
Vì bản tánh viên mãn.
Bồ Tát ở trong đó,
Khéo phát tâm Bồ Đề.
Chúng sanh đời mạt pháp,
Tu theo lìa tà kiến

*4 Tầng HUYỄN MỘNG.(tt)

2/. Huyễn Tâm.


Kinh văn: Huyễn tâm của chúng sanh, lại y nơi huyễn diệt; các huyễn diệt hết, Giác tâm chẳng động. Y huyễn nói Giác, cũng gọi là Huyễn. Nếu nói CÓ Giác, vẫn chưa rời Huyễn; nói là KHÔNG Giác, lại cũng như vậy. Thế nên huyễn diệt gọi là chẳng động. Này Thiện nam tử ! Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời mạt, phải nên xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hóa hư vọng. Do vì tâm xa lìa giữ gìn vững chắc, cái tâm như huyễn cũng lại xa lìa, xa lìa là huyễn cũng lại xa lìa, lìa xa lìa huyễn cũng lại xa lìa, đến chỗ không còn xa lìa tức trừ các huyễn. Thí như kéo lửa, hai cây nương nhau, lửa phát cây hết, tro bay khói mất, dùng huyễn tu huyễn, lại cũng như vậy. Các huyễn tuy hết, chẳng vào đoạn diệt.

Kính các Bạn:

Trong Tánh Viên Giác. không khởi tất cả Pháp. Nếu có Pháp Duyên Khởi thì đều là HUYỄN.

Thí dụ như:

Kiến, văn, giác, tri đều là HUYỄN. Tức là các sự thấy, nghe, hay, biết của 6 giác quan là HUYỄN.

Tác, nhậm, chỉ, diệt đều là HUYỄN. Tức là khởi tâm tu, mặc kệ, dừng vọng niệm, diệt vô minh là HUYỄN.

Chứng, ngộ, liễu, giác đều là HUYỄN.

v.v...

Phật dạy: Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời mạt, phải nên xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hóa hư vọng.

Muốn trừ Huyễn Cảnh phải dụng Huyễn Tâm. (Tức là Tâm muốn tu hành)

* Thế nào là: Các huyễn tuy hết, chẳng vào đoạn diệt. ?

Nghĩa là Khi LY hết các Huyễn, thì CHÂN NHƯ hiện, Chân Như bất sanh, bất diệt, nên không là Đoạn kiến.(chết là hết).

Phàm phu muốn vào Viên giác Tánh, trước phải dùng HUYỄN TÂM ĐỂ " LY " HUYỄN CẢNH.


4 Tầng HUYỄN MỘNG.

3/. Huyễn Trí.


Đức Phật dạy: Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Nhơn Địa của Như Lai trong khi tu VIÊN GIÁC đại định thường vận dụng trí tuệ để BIẾT và BIẾT vô minh vốn không, không có thật tánh, chúng như hoa đốm có trong hư không. Do vậy, không còn lầm nhận về tướng thân tâm cho nên không thấy có tướng thân tâm thọ nhận sự luân chuyển sanh tử.

+ Thế nào là LẦM NHẬN TƯỚNG THÂN ?

- Đó là chúng sanh "lầm nhận" tướng sanh diệt huyễn hư của Sắc Uẩn, làm tự thân sanh diệt của mình. Nhưng thật ra BẢN THỂ của Sắc Uẩn không có sanh diệt, chỉ là HIỆN TƯỢNG có tùy duyên sanh diệt.

Thí dụ như: Sắc Uẩn gồm 4 yếu tố: Đất, nước, gió, lửa, chúng là biểu hiện của Như Lai Tàng vốn Bản thể không sanh diệt, nhưng chúng ta chỉ thấy hiện tượng "Duyên hợp- duyên tan" mà cho là Sanh diệt.

Đơn cử như LỬA . Lúc nào cũng hiện hữu, nhưng:

- Do duyên mà chúng ta thấy được.- Đó là sự "cháy bùng"

- Do duyên mà chúng ta không thấy được.- Đó là sự "cháy ngầm"

Ở Kinh Thủ lăng nghiêm Phật dạy: "TÁNH SẮC CHÂN KHÔNG, TÁNH KHÔNG CHÂN SẮC, THANH TỊNH BẢN NHIÊN CHÂU BIẾN PHÁP GIỚI, TÙY CHÚNG SANH TÂM, ỨNG SỞ TRI LƯỢNG TUẦN NGHIỆP PHÁP HIỆN" (Sắc là nói chung cho 4 Đại đất, nước, gió, lửa).

Vì chúng sanh lầm nhận tướng thân, nên thấy có Sanh tử. Đó là Vô Minh.

Đến khi nào chúng sanh nhận ra:

Thân ảo hóa với pháp thân cũng vậy
Ảo hóa thân là hiện tượng của Pháp thân
Biển Pháp thân ví: bản thể vô cùng
Thân ảo hóa tựa sóng mòi lao xao trên mặt nước

* Nhận thức rõ hai thân pháp hóa
Chợt tỉnh ra rằng "vạn pháp giai không"
Tánh thiên chân là thật tánh của mình
Mình là Phật vốn là thiên chân Phật


(trích Chứng Đạo Ca - Tổ Huyền Giác)

Do vậy, không còn lầm nhận về tướng thân thì không thấy có tướng thân thọ nhận sự luân chuyển sanh tử.


(còn tiếp)

3/. Huyễn Trí.(tt)

+ Thế nào là LẦM NHẬN TƯỚNG TÂM ?


Tất cả chúng sanh, do vô minh nên không tự biết được Chân Tâm của mình mà chỉ nhận bóng dáng 6 trần (Tức là 6 Thức) làm Tâm.

Bóng dáng 6 trần là:

1+ Con mắt là CĂN, tiếp xúc SẮC TRẦN (các cảnh bên ngoài) liền sanh ra NHÃN THỨC (Nhãn thức là bóng dáng của Sắc Trần).

2+ Lỗ tai là CĂN, tiếp xúc THANH TRẦN (âm thanh bên ngoài) liền sanh ra NHĨ THỨC (Nhĩ thức là bóng dáng của Thanh Trần).

3+ Lỗ mũi là CĂN, tiếp xúc HƯƠNG TRẦN (mùi hương bên ngoài) liền sanh ra TỶ THỨC (Tỷ thức là bóng dáng của hương Trần).

4+ Cái lưỡi là CĂN, tiếp xúc VỊ TRẦN (vị ngọt, đắng bên ngoài) liền sanh ra THIỆT THỨC (Thiệt thức là bóng dáng của Vị Trần).

5+ Xác thân là CĂN, tiếp xúc XÚC TRẦN (ấm, lạnh, trơn, láng v.v.. bên ngoài) liền sanh ra THÂN THỨC (Thân thức là bóng dáng của Xúc Trần).

6+ Bộ não là CĂN, tiếp xúc PHÁP TRẦN (Các kinh nghiệm và hình ảnh bên ngoài còn lưu trử trong não) liền sanh ra Ý THỨC (Ý thức là bóng dáng của Pháp Trần).

Gọi là "Bóng dáng" Vì tự thân nó là tướng duyên hợp. Thí dụ như: Nhãn thức, phải cần chín điều kiện: 1. khoảng Không,2. Ánh sáng, 3. nhãn căn, 4. cảnh, 5. tác ý, 6. phân biệt, 7. nhiễm tịnh, 8 căn bản, 9.chủng tử.

Do vì 6 Thức phải nương gá các điều kiện mới có được, chúng không có tự thân nên bản chất chúng chỉ là bóng dáng 6 của trần cảnh.

Thiền sư Trường Sa có bài kệ rằng :

Sao người học Đạo chẳng biết Chơn ?

Chỉ vì xưa nay nhận Thức-thần.

Nguồn gốc sanh tử từ vô thủy,

Si mê cho là Bổn-lai-nhân.

Như bài kinh Thủ Lăng Nghiêm. Phật dạy:

TLN: Bấy giờ đức Phật khai thị cho đại đức A Nan và đại chúng, muốn cho tâm mọi người được thể nhập vô sinh pháp nhẫn(41), từ nơi tòa sư tử(42), Ngài xoa đầu đại đức A Nan, dạy rằng:

– Như Lai thường nói, các pháp sinh khởi là do tâm biến hiện. Tất cả nhân quả, thế giới, vi trần, đều nhân nơi tâm mà có thể tánh. Này A Nan! Tất cả sự vật hiện có trong các thế giới, dù nhỏ mọn như ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, thắt nút, nếu gạn xét tận nguồn gốc thì đều có thể tánh; dẫu đến như hư không cũng còn có tên cùng tướng mạo, huống chi là cái tâm thanh tịnh, sáng suốt, nhiệm mầu, làm thể tánh cho tất cả sự vật, mà tự mình lại không có thể tánh hay sao? Nhưng, nếu thầy cố chấp hẹp hòi, cho cái tính suy xét phân biệt hiểu biết là tâm, thì cái tâm ấy phải có thể tánh hoàn toàn biệt lập, không dính dáng gì tới thể tánh của sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Còn như hiện giờ đây, thầy đang nghe Như Lai nói pháp, đó là do nơi âm thanh mà có phân biệt; cho dầu diệt hết tất cả thấy nghe hiểu biết đối với năm trần cảnh bên ngoài(43), bên trong chỉ giữ lấy cái cảnh giới tịch tĩnh của ý thức, thì cái cảnh giới tịch tĩnh ấy cũng vẫn là pháp trần(44), tức sự phân biệt bóng dáng của năm trần cảnh. Chẳng phải Như Lai bảo thầy phủ nhận cái tính phân biệt hiểu biết không phải là tâm, nhưng chính nơi cái tâm của thầy, thầy phải suy xét cho chín chắn, nếu rời trần cảnh trước mắt mà vẫn có sự phân biệt hiểu biết, thì đó mới chân thật là cái tâm của thầy! Nếu cái tánh biết, khi rời trần cảnh liền không còn tự thể, thì nó chỉ là sự phân biệt bóng dáng của trần cảnh mà thôi. Trần cảnh không thường còn, khi chúng biến đổi tiêu diệt thì cái tâm phân biệt trần cảnh ấy cũng không còn, đồng như lông rùa sừng thỏ; đến lúc đó thì pháp thân của thầy cũng thành ra đoạn diệt, còn có gì để tu chứng vô sinh pháp nhẫn?

Tức thì đại đức A Nan cùng cả đại chúng đều ngơ ngác, lặng im, không biết phải nói năng gì! Đức Phật bảo đại đức A Nan:

– Tất cả những người tu học trong thế gian, hiện tại tuy đạt được chín bậc định theo thứ lớp(45), nhưng vẫn không diệt sạch tận cùng phiền não, chỉ chứng quả A-la-hán, đều do cố chấp những vọng tưởng sinh tử này, lầm lạc cho đó là chân thật. Và cũng vì thế mà cho đến hôm nay, thầy tuy là người học rộng nghe nhiều, mà vẫn chưa thành tựu quả thánh.

Do vậy, không còn lầm nhận về tướng Tâm thì không thấy có tướng Tâm thọ nhận sự luân chuyển sanh tử.

* Cái TRÍ "Biết được Thân Tâm là HUYỄN. Đó là HUYỄN TRÍ.

Dùng HUYỄN TRÍ ĐỂ "LY" HUYỄN TÂM. MỚI VÀO ĐƯỢC VIÊN GIÁC DIỆU TÂM.




* 4 Tầng HUYỄN MỘNG.

4/. Huyễn Không.


Thế nào là KHÔNG ?

Kinh hoa Nghiêm Phật dạy:

Kinh hoa Nghiêm: Chư Phật tử! Thế nào là đại Bồ Tát như không nhẫn?

Ðại Bồ Tát này rõ tất cả pháp giới như hư không, vì vô tướng. Tất cả thế giới như hư không, vì vô khởi. Tất cả pháp như hư không vì vô nhị. Tất cả chúng sinh hạnh như hư không, vì vô sở hành. Tất cả Phật như hư không, vì vô phân biệt. Tất cả Phật lực như hư không, vì vô sai biệt. Tất cả thiền định như hư không, vì tam thế bình đẳng. Tất cả pháp diễn thuyết như hư không, vì chẳng ngôn thuyết được. Tất cả thân Phật như hư không, vì vô trước vô ngại.

Bồ Tát dùng phương tiện như hư không rõ thấu tất cả pháp đều không chỗ có.
(hết trích)

Kính các Bạn. Trong Chân lý các Pháp Rhật tướng đều là Không tướng, không sanh, không diệt, Nên không có Trí cũng không có đắc cũng .

Do vậy hành giả khi còn thấy mình CÓ HUYỄN TRÍ ĐỂ LY HUYỄN TÂM, THÌ TRÍ ĐÓ CŨNG LÀ HUYỄN. DO VẬY PHẢI DÙNG HUYỄN KHÔNG MÀ LY HUYỄN TRÍ.

Tại sao KHÔNG cũng là Huyễn ?

Vì cái gì còn khái niệm được, còn nương gá được thì là PHÁP CÓ. Nay nếu còn bám víu CÁI KHÔNG, thì cái "KHÔNG" đó lập tức thành Huyễn.

Ở Kinh Thủ Lăng Nhiêm, Phật dạy:

Tự tâm thủ tự tâm

Phi huyễn thành huyễn pháp

Bất thủ vô phi huyễn

Phi huyễn diệt bất sanh

Huyễn pháp vân hà lập

Hữu thị Diệu Liên Hoa

Kim cang vương bảo giác

Như huyễn tam ma đề

Đờn chỉ siêu vô học

Thử A Tì đạt ma

Thập phương bạt già phạm

Nhất lộ Niết Bàn môn


dịch nghĩa:

Tự tâm mình là Phật nhưng còn chấp lấy tìm cầu tâm, cầu Phật ở bên ngoài

Nên các pháp vốn chẳng phải huyễn (Chơn) điều trở nên pháp huyễn (Vọng).

Nếu không chấp trước và tâm thanh tịnh rồi

Chơn còn không có thì làm sao có cái gọi là Vọng?

Quán được như vậy gọi là “Như Huyễn Tam Ma Đề” .

(hết trích)

Do vậy cuối cùng cái HUYỄN KHÔNG cũng phải xả LY

Đó là LY HUYỄN KHÔNG THÌ VÀO ĐƯỢC CHÂN NHƯ- VIÊN GIÁC DIỆU TÂM.

Ở chương một quan trọng ở chữ TRI.

Chương hai nầy, then chốt ở chữ LY.

TRI và LY là phương pháp tu hành thẳng tắt của những bậc lợi căn tối thượng.

 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
CHƯƠNG BA

CHÁNH NIỆM TƯ DUY LÀ
CON ĐƯỜNG TU TẬP TIỆM TIẾN

--- o0o ---


Kinh văn:

Bấy giờ Bồ tát Phổ Nhãn đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:

Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn vì Bồ tát và chúng sanh đời sau dạy cho chúng con về cách tu hành tiệm tiến. Chúng con phải hành phương tiện chi, tư duy thế nào cho đúng để có thể ngộ nhập. Nếu vận dụng phương tiện không đúng, tư duy sai lệch, sau khi nghe tam muội thậm thậm vi diệu như thế, e rằng không bỏ rối rắm mịt mờ, khó mà thể nhập VIÊN GIÁC TÂM thanh tịnh. Cúi mong Như Lai thương xót hàng Bồ tát và chúng sanh đời sau vận dụng phương tiện, dạy cho chúng con cách thức tu hành tiệm tiến.

Phật dạy! Phổ Nhãn ! Thiện ý của ông rất tốt. Ông vì các Bồ tát và chúng sanh đời sau tha thiết hỏi Như Lai về cách tu hành tiệm tiến. Phổ Nhãn! Ông hãy lắng nghe Như Lai sẽ vì ông mà nói:

Phồ Nhãn ! Hàng tân học Bồ tát và chúng sanh đời sau muốn cầu được NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thì cần phải vĩnh ly các huyễn. Trước hết, thực hành pháp CHỈ, ở chỗ yên tĩnh và nghiêm trì giới cấm. Tiếp đến tu QUÁN, vận dụng quán trí, tư duy quán chiếu về thân. Thân ta kết hợp bởi: tóc, lông, răng, móng, ghèn, nước mắt, nước mũi, nước dãi, mồ hôi cáu bợn, da sừng, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ, óc, hoành cách mạc, gan, mật, ruột già, ruột non, bao tử, bàng quang, đàm trắng, đảm đỏ… Truy nguyên, tất cả do đất, nước, gió, lửa… tứ đại nương gá mà thành. Một khi tứ đại tan rã thì còn gì để gọi là thân. Quán chiếu tư duy như vậy, bèn tỏ ngộ rằng thân này không có thực thể, chỉ là cái tướng hòa hợp tạm bợ mong manh, đồng như huyễn hóa. Lại tư duy rằng: Huyễn thân có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ) huyễn cảnh có sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ) tứ đại trong và tứ đại ngoài hòa hợp mà vọng có nhận thức tư duy, bèn gọi cái tác dụng tư duy nhận thức là tâm. Tâm hư vọng đó, nếu không có sáu trần thì tâm đó không còn điều kiện hiện hữu. Sáu trần thì thường ở trong trạng thái phân giải và tan rã liên tục, chẳng có gì đảm bảo sự tồn tại của trần. Tư duy quán chiếu thế rồi, chợt tỏ ngộ rằng: thân tâm, căn trần đều chung quy một con đường hoại diệt, rốt ráo chẳng có gì.

Này, Phổ Nhãn ! Tu quán như thế rồi, nhận thức rằng: Huyễn thân diệt thì huyễn tâm cũng diệt. Huyễn tâm diệt thì huyễn trần cũng diệt, Huyễn trần diệt thì ý niệm diệt huyễn cũng diệt. Cái gì huyễn diệt hết, cái không phải huyễn thì không bị diệt. Ví như lau gương, bụi bậm hết, thể sáng hiện ra. Nên biết: thân tâm đều là huyễn cấu. Diệt hết huyễn cấu thì mười phương thuần một thể thanh tịnh. Ví như Ma ni bảo châu thanh tịnh ánh hiện năm màu, tùy góc đứng của họ mà kẻ ngu si cho rằng Ma ni bảo châu thật có năm màu.

Này, Phổ Nhãn ! Tánh thanh tịnh của Như Lai Viên Giác Diệu Tâm hiện ở thân tâm chúng sanh tùy chủng loại mà tương ứng. Những kẻ ngu si cho rằng: VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thật có cái tướng thân tâm, do vậy mà không thề viễn ly huyễn hóa.Thế cho nên Như Lai nói thân tâm là huyễn cấu. Người ly huyễn cấu Như Lai gọi là Bồ tát. Cấu diệt, ly vong, ý niệm cấu ly vắng lặng, lúc bấy giờ Bồ tát thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MUỘI

* Ở chương 1 và chương 2 Đức Phật dạy Pháp ĐỐN TU - ĐỐN CHỨNG.- Tức là Pháp thẳng tắc lập tức thành Phật (dành cho bậc lợi căn).

* Từ chương 3 này trở đi Đức Phật dạy Pháp TIỆM TU - TIỆM CHỨNG.- Tức là Pháp tu tập từng phần , sự chứng đắc từng tự mà tiến thành Phật (dành cho bậc độn căn).

* Đầu tiên là các Pháp CHỈ - QUÁN- TAM MUỘI , tức là các Pháp Thiền Định.
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* con đường tu tập tiệm tiến chánh niệm tư duy.

trực chỉ:trước hết thực hành xa ma tha, tức là chỉ để loại bỏ tạp tưởng lăng xăng loạn động.

Công dụng của pháp tu chỉ làm cho tâm yên ổn chặn đứng vọng niệm do tiếp xúc quá nhiều ngoại cảnh trong cuộc sống hàng ngày. Tạo được hoàn cảnh tốt, ở một nơi yên tĩnh vắng vẽ, giữ gìn cấm giới đã thọ trì, thúc liễm thân khẩu ý, thì công dụng của chỉ được phát huy hiệu quả cao.

Giai đoạn hai tu quán. Quán là vận dụng quán trí để xem xét đánh giá một sự vật một đối tượng bằng cái thấy biết của trí soi rọi vào trong, không thấy biết bằng mắt quan sát bên ngoài, nói cách khác, quán là cái thấy bằng tư tưởng và biết cũng bằng tư tưởng, cho nên "quán" thường đi đôi với "tưởng" .

Quán tưởng khác hơn tưởng tượng tầm thường. Tưởng tượng tầm thường người ta có thể tưởng tượng những gì vô căn cứ, tưởng tượng viễn vông. Quán tưởng phải y cứ chánh pháp. Quán tưởng có mục tiêu và khi quán tưởng thành tựu là lúc phát hiện chân lý thực tiễn, sự thật cụ thể của hiện tượng vạn pháp trên cõi đời.

Trước hết "quán" về thân. Thân là một tổng thể kết hợp bởi các thứ nhơ nhớp: Tóc, lông, răng, móng… truy nguyên đáo để do địa, thủy, hỏa, phong… duyên khởi mà hình thành. Nó rất tạm bợ mong manh, như huyễn, như hóa…

dù thân có sáu căn, có công năng xúc đối với sáu trần cảnh bên ngoài ở giữa sanh ra sáu thứ nhận thức bèn gọi cái công năng nhận thức đó là " tâm". Tâm đó chỉ là bóng dáng của sáu trần lưu lại…

tư duy quán chiếu như vậy để đi đến nhận thức kết luận rằng: Thân tâm, cảnh giới xét đến cùng tột chỉ là pháp huyễn hư chung quy hoại diệt thực chất chẳng có gì (thân vô ngã).

Thứ đến, quán chiếu và nhận thức rằng: Huyễn thân diệt thì huyễn tâm diệt, huyễn tâm diệt huyễn cảnh cũng diệt… cho đến ý niệm diệt huyễn cũng diệt.

Quán chiếu tư duy như vậy, hành giả tỏ ngộ rằng: Thân tâm cảnh giới tất cả là pháp như huyễn do các duyên nương gá mà tồn tại trong giấc mộng dài, thế sự…
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* NHƯ HUYỄN TAM MUỘI.

Kinh văn:
Này, Phổ Nhãn ! Bồ tát và chúng sanh đời sau chứng nhập Như huyễn tam muội ấy rồi, vĩnh ly ảnh tượng, bấy giờ không gian vô tận thời gian vô cùng chỉ còn thuần một thề VIÊN GIÁC hằng hữu hiển hiện. VÌ VIÊN GIÁC tròn đầy sáng suốt cho nên tâm thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh cho nên tánh thấy thanh tịnh, vì tánh thấy thanh tịnh cho nên nhãn căn thanh tịnh, vì nhãn căn thanh tịnh cho nên nhãn thức thanh tịnh, vì nhãn thức thanh tịnh cho nên tánh nghe thanh tịnh, vì tánh nghe thanh tịnh cho nên nhĩ căn thanh tịnh, vì nhĩ căn thanh tịnh cho nên nhĩ thức thanh tịnh, vì nhĩ thức thanh tịnh cho nên tánh biết thanh tịnh… cho đến tỷ, thiệt, thân, ý cũng đều thanh tịnh như vậy.

Phổ Nhãn nên biết: Vì sáu căn thanh tịnh cho nên sắc trần thanh tịnh, vì sắc trần thanh tịnh, nên thanh trần thanh tịnh, vì thanh trần thanh tịnh nên hương, vị, xúc trần cũng thanh tịnh như vậy. Và khi lục trần thanh tịnh rồi thì địa đại thanh tịnh, vì địa đại thanh tịnh cho nên thủy đại thanh tịnh, vì thủy đại thanh tịnh, hỏa đại, phong đại, không đại,kiến đại và thức đại cũng thanh tịnh. Và vì thất đại thanh tịnh cho nên mười hai xứ, mười tám giới, hai mươi lăm hữu thanh tịnh. Vì xứ, giới, hữu thanh tịnh cho nên thập lục, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cọng pháp, tam thập thất trợ đạo phẩm thanh tịnh… cho đến tám muôn bốn ngàn đà la ni môn tất cả thanh tịnh.

Này, Phổ Nhãn ! Tất cả là thật tướng. Vì tánh của tất cả vốn thanh tịnh cho nên một thân thanh tịnh, vì một thân thanh tịnh cho nên nhiều thân cũng thanh tịnh như vậy… cho đến mười phương chúng sanh đồng chung trong một thể VIÊN GIÁC thanh tịnh.

Này, Phổ Nhãn ! Một thế giới thanh tịnh cho nên nhiều thế giới cũng thanh tịnh như vậy cho đến khắp mười phương, suốt ba đời tất cả bình đẳng thanh tịnh và bất động.

Này, Phổ Nhãn ! Vì hư không bình đẳng bất động mà biết giác tánh bình đẳng bất động. Vì tứ đại bình đẳng bất động mà biết giác tánh bình đẳng bất động. Tám muôn bốn ngàn đà la ni môn bình đẳng bất động cho nên biết giác tánh bỉnh đẳng bất động. Vì giác tánh thanh tịnh bất động biến khắp pháp giới cho nên biết lục căn biến khắp pháp giới, vì lục căn biến khắp pháp giới nên lục trần biến khắp pháp gới, vì lục trần biến khắp pháp giới nên thất đại biến khắp pháp giới cho đến đà la ni môn cũng biến khắp pháp giới.

Phổ Nhãn ! Do vì tánh VIÊN GIÁC nhiệm mầu kia biến khắp pháp giới cho nên tánh của căn của trần không hủy hoại nhau, không lộn lạo nhau. Vì tánh của căn của trần không hủy hoại, không lộn lạo cho nên đà la ni môn không hoại không tạp. Ví như thắp trăm ngàn ngọn đèn trong một ngôi nhà, ánh sáng của từng ngọn đèn viên mãn không hủy hoại nhau và không lộn lạo nhau.

Này, Phổ Nhãn ! Thành tựu VIÊN GIÁC rồi, Bồ tát không dính vướng với trói buộc, không mong cầu cởi mở, không nhàm chán sanh tử, không ham mộ Niết bàn, không kính người trì giới, không hủy mạ người phạm giới, không xem trọng người tu lâu, không khinh bạc người sơ cơ vào đạo. Vì sao ? Vì tất cả là một thể giác. Ví như ánh sáng của mắt nhìn xem tiền cảnh, ánh sáng tròn đầy khắp giáp mà không có ghét thương. Vì sao ? Vì thể sáng của mắt không hai.

Phổ Nhãn ! Bồ tát và chúng sanh ở đời sau tu tập VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thành tựu, mà nên xem như không tu và không thành tựu. Vì sao ? Vì thế VIÊN GIÁC thường khắp chiếu mà thường tịch diệt, không có tướng hai. Ở trong đó trăm ngàn muôn ức a tăng lỳ, bất khả thuyết hằng hà sa số thế giới của chư Phật như hoa đốm trong không, loạn khởi loạn diệt, bất tức, bất ly, không buộc không mở. Lúc bấy giờ, chợt thấy rằng: "Chúng sanh xưa nay là Phật" . Sanh tử, Niết bàn như chuyện mộng đêm qua. Quả sở chứng không được, không mất, không lấy, không bỏ. Người chứng đắc không TÁC, không CHỈ, không NHẬM, không DIỆT. Trong cái gọi là chứng , không năng không sở, hoàn toàn không có cái để chứng, cũng không có người được chứng. Vì sao ? Vì tánh của tất cả pháp bình đẳng thanh tịnh bản nhiên, không hủy hoại nhau.

Này, Phổ Nhãn ! Các hàng Bồ tát nên tu hành như vậy, tiệm tiến là như vậy, tư duy như vậy, trì trụ như vậy và phương tiện là như vậy. Như vậy mà khai ngộ, cầu học pháp như vậy thì sẽ không lầm lạc.

Bấy giờ, đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ :
Phổ Nhãn ông nên biết.

Tất cả các chúng sanh.

Thân tâm đều như huyễn.

Thân thuộc về tứ đại.

Tâm là bóng lục trần.

Tứ đại thể rời rạc.

Người ! Thật chất là ai ?

Tiệm tu, tu như vậy.

Tất cả sẽ thanh tịnh.

Khắp pháp giới bất động.

Không tác, chỉ, nhậm, diệt.

Cũng không người năng chứng.

Tất cả thế giới Phật.

Như hoa đốm trong không.

Ba đời đều bình đẳng.

Rốt ráo chẳng đến đi.

Sơ phát tâm Bồ tát.

Và hậu thế chúng sanh.

Muốn tìm vào Phật đạo.

Nên như thế tu hành.

* NHƯ HUYỄN TAM MUỘI là một loại Chánh Định do tu tập CHỈ và QUÁN theo lời Phật dạy mà hình thành.

+ Phật dạy tu tập CHỈ và QUÁN như thế nào, mà hình thành được NHƯ HUYỄN TAM MUỘI ?

1 - Đó là dùng pháp tư duy quán sát THÂN là Khổ, là Vô Thường, là Vô Ngã, là Bất Tịnh. Để biết rỏ Thân là Huyễn hóa không thật, dẫn đến không trú chấp về Thân.

2- - Đó là dùng pháp tư duy quán sát TÂM là bóng dáng 6 trần. Nên Tâm là Vọng tưởng điên đão. Để biết rỏ Tâm là Huyễn hóa không thật, dẫn đến không trú chấp về Tâm.

3- Sau khi nhận rõ THÂN và TÂM Huyễn rồi, thì xả ly HUYỄN, Hết chạy theo Huyễn thì Chân Như hiện. "Chân Như" là cái Chân Tâm thường trú, cái thể tánh tịnh minh của Viên Giác Diệu Tâm, Viên Giác Diệu Tánh bất sanh bất diệt của chính mình.

Ở trên pháp 1 và pháp 2 để nhận biết các Pháp hiện tượng là HUYỄN. Pháp 3 để nhận biết các Pháp Bản thể là NHƯ. Như vậy là thành tựu Như Huyễn Tam Muội.- Đó là THÀNH TỰU VIÊN GIÁC .

Phật dạy: Này, Phổ Nhãn ! Thành tựu VIÊN GIÁC rồi, Bồ tát không dính vướng với trói buộc, không mong cầu cởi mở, không nhàm chán sanh tử, không ham mộ Niết bàn, không kính người trì giới, không hủy mạ người phạm giới, không xem trọng người tu lâu, không khinh bạc người sơ cơ vào đạo. Vì sao ? Vì tất cả là một thể giác. Ví như ánh sáng của mắt nhìn xem tiền cảnh, ánh sáng tròn đầy khắp giáp mà không có ghét thương. Vì sao ? Vì thể sáng của mắt không hai.

Phổ Nhãn ! Bồ tát và chúng sanh ở đời sau tu tập VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thành tựu, mà nên xem như không tu và không thành tựu. Vì sao ? Vì thế VIÊN GIÁC thường khắp chiếu mà thường tịch diệt, không có tướng hai. Ở trong đó trăm ngàn muôn ức a tăng lỳ, bất khả thuyết hằng hà sa số thế giới của chư Phật như hoa đốm trong không, loạn khởi loạn diệt, bất tức, bất ly, không buộc không mở. Lúc bấy giờ, chợt thấy rằng: "Chúng sanh xưa nay là Phật" . Sanh tử, Niết bàn như chuyện mộng đêm qua. Quả sở chứng không được, không mất, không lấy, không bỏ. Người chứng đắc không TÁC, không CHỈ, không NHẬM, không DIỆT. Trong cái gọi là chứng , không năng không sở, hoàn toàn không có cái để chứng, cũng không có người được chứng. Vì sao ? Vì tánh của tất cả pháp bình đẳng thanh tịnh bản nhiên, không hủy hoại nhau.

Này, Phổ Nhãn ! Các hàng Bồ tát nên tu hành như vậy, tiệm tiến là như vậy, tư duy như vậy, trì trụ như vậy và phương tiện là như vậy. Như vậy mà khai ngộ, cầu học pháp như vậy thì sẽ không lầm lạc.


HT. Thích Từ Thông có lời trực chỉ.

Trực chỉ: Qua tư duy đó, hành giả tỏ ngộ rằng thân tâm là huyễn cấu, người ly huyễn cấu Như Lai gọi đó là Bồ tát.

Tiến thêm một bước: cấu diệt ly vong, ý niệm CẤU, LY vắng lặng đó là lúc thể hiện kết quả Bồ tát đã thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ (xác định rõ tánh chất vạn pháp duyên sanh như huyễn).

Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ bấy giờ hành giả chợt bừng tỉnh thấy rõ : "thân, tâm, căn, trần, thức, giới, đại đều một màu thanh tịnh".

Rồi thấy rõ : ngu uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, nhị thập ngũ hữu thanh tịnh. Rồi thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cọng pháp, tam thập thất trợ đạo phẩm thanh tịnh cho đến tám muôn bốn ngàn pháp tồng trì môn đều thanh tịnh. Và lúc bấy giờ hành giả tỏ ngộ chân lý :

"TẤT CẢ LÀ THẬT TƯỚNG" .

Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ, về đến nhà Viên Giác hành giả biết rõ vì sao căn, trần, thức, đại không hoại diệt nhau.

Thành tựu Tam Ma Đề cũng tức là về đến nhà VIÊN GIÁC, bấy giờ hành giả biết rõ vì sao Bố tát không nhàm chán sanh tử, không mong chứng Niết bàn… không kính người trì giới, không khinh người trái phạm…

Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ, hành giả chợt thấy rằng mình chẳng có tu và cũng chẳng có thành tựu. Vì lẽ trong Viên Giác thanh tịnh không có tướng hai. Bấy giờ thấy rõ trăm ngàn muôn ức a tăng kỳ, bất khả thuyết hằng hà sa thế giới chư Phật trong mười phương như hoa đốm trong hư không loạn khởi loạn diệt, bất tức, bất ly… và chợt thấy rõ rằng :

"CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT".

"SANH TỬ NIẾT BÀN NHƯ GIẤC MỘNG ĐÊM QUA".
 

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên