14.- Hạn Tam Tai.- 8 cơn gió dữ.(tam đồ - bát nạn)
Người VN và TQ thường có quan niệm: Trong vòng lặp cuộc đời. Cứ khoảng 12 năm thì sẽ có 3 năm xui rủi gọi là "Tam tai".

Ngày đầu năm thường là các ngày m8 âl, 21 âl người ta cúng Tam tai.
* Theo Phật học Từ Điển Phật Quang.-
Tam Tai:
là ba loại tai ách, gồm tiểu tam tai và đại tam tai, còn gọi là Tam Tai Kiếp (三災刼).
Thế giới nương theo 4 thời kỳ:
1.Thành Kiếp (成刼, thời kỳ thành lập),
2.Trụ Kiếp (住刼, thời kỳ tồn tục),
3.Hoại Kiếp (壞刼, thời kỳ hoại diệt) và
4.Không Kiếp (空刼, thời kỳ trống không) mà tuần hoàn vô cùng tận, không ngừng nghỉ.
Trong đó, chúng hữu tình xuất hiện ở thời kỳ nhất định của Trụ Kiếp; đến thời kỳ cuối cùng của Hoại Kiếp thì thế giới hoàn toàn bị hoại diệt. Trong hai thời kỳ Trụ và Hoại, có 3 loại tai ách xảy ra. - Theo thuyết của Câu Xá Luận (倶舍論) quyển 12 có:
(1) Tiểu Tam Tai (小三災): Trụ Kiếp chia thành 20 thời kỳ, tuổi thọ của loài hữu tình từ 80.000 đến 10 tuổi, tăng giảm lui tới khoảng 20 lần, phát sanh 3 loại tai ách như nạn đao binh chém giết lẫn nhau, tai họa dịch bệnh, nạn đói kém, v.v.
(2) Đại Tam Tai (大三災): Hoại Kiếp chia thành 20 thời kỳ, nơi kiếp cuối cùng thế giới bắt đầu hoại diệt và dẫn đến thiên tai như về lửa (phá hoại Cõi Dục cho đến Cõi Thiền Thứ Nhất), nước (cho đến Cõi Thiền Thứ Hai) và gió (hoại diệt cho đến Cõi Thiền Thứ Ba).
Như vậy 3 tai ách về lửa, nước và gió được gọi là Kiếp Hỏa (刼火), Kiếp Thủy (刼水) và Kiếp Phong (刼風). Sự phát sanh Tam Tai này theo thứ tự nhất định, nghĩa là trước hết tai ách về lửa hoại diệt 10 lần, sau đó đến tai ách về nước hoại diệt 1 lần, cứ tuần hoàn như vậy trải qua 7 lần, rồi lại bị tai ách về lửa hoại diệt 7 lần nữa và cuối cùng là sự hoại diệt của tai ách về gió. Theo Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林) quyển 1 cho biết:
(1) Tiểu Tam Tai có tai ách đói kém (tuổi thọ con người từ 84.000 tuổi, mỗi 100 năm giảm xuống 1 tuổi, cho đến khi còn 30 tuổi thì nảy sinh hạn hán lớn không có mưa, cỏ cây không mọc được, trên đời vô số người chết vì đói khát); tai ách dịch bệnh (tuổi thọ con người giảm xuống còn 20, các bệnh hoạn sinh khởi, trên đời vô số người chết vì dịch bệnh); và tai ách đao binh (khi tuổi thọ con người giảm xuống còn 10, mọi người bắt đầu đấu tranh lẫn nhau, tay cầm cỏ cây cũng thành đao gậy, tàn sát nhau và vô số người chết vì đao binh).
(2) Đại Tam Tai có tai ách về lửa (vào thời Hoại Kiếp, đại địa và núi Tu Di dần dần băng hoại, nước của 4 biển lớn cũng từ từ cạn đi, Cõi Dục và Cõi Thiền Thứ Nhất đều bị cháy rụi, chẳng còn chút nào); tai ách về nước (từ Cõi Thiền Thứ Nhất trở xuống trải qua 7 lần bị hỏa tai, thế giới lại hình thành, đến thời Hoại Kiếp có trận mưa lớn, giọt mưa to như trục xe, nước từ trong lòng đất phun ra ồ ạt, từ Cõi Dục cho đến Cõi Thiền Thứ Hai nước tràn đầy, tất cả đều bị hoại diệt); và tai ách về gió (từ Cõi Thiền Thứ Hai trở xuống trải qua 7 lần bị tai ách về nước, rồi thêm 7 lần bị tai ách về lửa, hoàn toàn tiêu diệt, cho đến khi thế giới được hình thành lại, đến thời Hoại Kiếp, có con gió mạnh dấy lên, và do nghiệp của chúng sanh đã hết, nên nơi nơi đều có gió, từ Cõi Dục cho đến Cõi Thiền Thứ Ba đều bị thổi bay tung, quét sạch không còn gì cả).
( trích Phật Quang Đại từ điển)
* Theo mình quan sát thấy: Con người có 3 tai kiếp:
1. Thủy.- là nước: đây là "Nước ái & Dục.- Nó nhận chìm con người. "Sắc bất ba đào dị nịch nhân"- nghĩa là nhan sắc đàn bà & Đàn Ông dù không thấy sóng nổi vẫn đánh đắm được người.
2. Hỏa.- Là lửa: Đây là lửa Sân hận: Người xưa cảnh giác.- "Đừng để lửa sân đốt hết rừng công đức"
3. Phong.- Là Gió: Đây là gió Nghiệp: Đây là TÁM NGỌN GIÓ ĐỜI.
- Hai ngọn gió thuận nghịch đầu tiên là lợi và suy. 1. Lợi là được lợi, thịnh vượng, phát đạt. 2. Suy là sự nghiệp sa sút, suy hao, làm ăn xuống dốc.
- Hai ngọn gió tiếp theo là hủy và dự. 3. Hủy là hủy nhục, bị làm nhục, bị hạ thấp phẩm giá. 4. Dự là được tôn vinh, danh dự vẻ vang.
- Xưng và cơ cũng vậy. 5. Xưng là xưng tán, khen ngợi, những lời có cánh đưa chúng ta lên mây. 6. Cơ là chê bai, dè bỉu, cơ hiềm, dìm đạp mình xuống bùn nhơ. Khi được khen cũng không quá mừng và khi bị chê cũng không quá buồn. Hãy nhìn thẳng vào chính mình để hiểu rõ mình hơn, rằng tôi là ai, đã làm gì, có xứng đáng để được khen hay có thích đáng để bị chê. Thực ra thì khen chê là những tác động bên ngoài, đôi khi nó không phản ánh đúng thực chất của chính mình nên cần giác tỉnh để tự chủ.
- Hai ngọn gió cuối cùng là 7. khổ và 8. lạc. Nếu đã đứng vững trước lợi-suy, hủy-dự và xưng-cơ thì đối với khổ-lạc cũng nên như vậy, không bị lay động. Khổ hay vui nếu bình tâm nhìn cho thật kỹ thì cũng chỉ là những cảm thọ mà thôi. Tất cả đều mong manh và dễ dàng đảo chiều vì bản chất biến động của đời sống. Nên có lạc, hạnh phúc, an vui cũng không chìm đắm mà giả như có gian khổ, không như ý cũng không sờn lòng, cố gắng vượt lên.
* Người tu theo Phật.- Nếu tích lủy Định và Huệ sẽ an ổn trước 8 cơn gió Nghiệp.- Thoát khỏi Tam Tai- bát nạn. (đây là tiểu Tam Tai)
* Cũng có thuyết nói là:
Bát nạn là 8 điều nạn khổ:
1.Địa ngục (zh. 地獄, sa. naraka)
2.Súc sinh (zh. 畜生, sa. tiryañc)
3.Ngạ quỷ (zh. 餓鬼, sa. preta)
4.Trường thọ thiên (zh. 長壽天, sa. dīrghāyurdeva), là cõi trời thuộc sắc giới với thọ mệnh cao. Thọ mệnh cao cũng là một chướng ngại vì nó làm mê hoặc hành giả, làm hành giả dễ quên những nỗi khổ của sinh lão bệnh tử trong Luân hồi mà không chịu thức ngộ.
5.Biên địa (zh. 邊地, sa. pratyantajanapāda), là những vùng xa xôi nơi trung tâm, không thuận tiện cho việc gặp hoặc tu học chính pháp.
6.Căn khuyết (zh. 根缺, sa. indriyavaikalya), không có đủ giác quan hoặc các giác quan bị tật nguyền như mù, câm, điếc.
7.Tà kiến biện thông (zh. 雅見, sa. mithyādarśana), những kiến giải sai lệch, bất thiện nhưng lại trôi chảy đầy uỷ mị ma lực.
8.Như Lai bất xuất sinh (zh. 如來不出生, sa. tathāgatānām anutpāda), nghĩa là sinh sống trong thời gian không có Phật hoặc giáo pháp của Phật hiển hiện.(đây là Đại Tam Tai) |