Tôi theo Bồ Tát qua vài đoạn đường quanh, liền thấy một hoa sen màu sắc ảm đạm. Lần bước tới gần, trên đài, lộ hiện ra lầu cao nhà rộng, phòng ốc tráng lệ sang trọng như Hoàng cung, vườn hoa xung quanh mười phần tươi đẹp. Trong nhà, các trân bảo và cổ vật đều có giá trị liên thành, cách bài trí phi thường trang nhã. Trong nhà già trẻ trai gái độ vài mươi vị, y trang đồng với cõi người, rất là sang đẹp. Gia nhân ra vào náo nhiệt, dường như đang sắp bày yến tiệc vui.
Tôi hỏi đức Quán Thế Âm:
- Tại sao ở cõi Cực Lạc lại có hình thức sinh hoạt của gia đình nhân gian ?
Ngài đáp:
- Đương sự đây tuy lúc lâm chung mười phần thanh tịnh, được đới nghiệp vãng sanh, song vọng niệm tích chưa còn nhiều, tâm tham luyến hồng trần chưa dứt. Vài người trong nhà đó đều là cha mẹ, huynh đệ, thê thiếp, dâu con cho đến thân thích. Mỗi ngày khi chúng sanh này về tới lầu các trong hoa sen để yên nghỉ, thường vọng tưởng đến những nhân vật đó, nên huyễn cảnh lại hiện ra.
- Ở Cực Lạc chẳng có sự khổ "cầu không như ý"; nên khi tưởng tới cha mẹ, thê nhi, lầu đài cho đến sơn hào hải vị, thì những ảnh tượng đó liền xuất hiện. Cũng như người ở Ta Bà khi nằm mộng thì buồn vui đủ cả, lúc tỉnh ra mọi việc thảy hoàn không.
- Thật ra người vãng sanh đến chốn này, vọng tưởng còn nhiều hơn nhân gian, bởi nơi đây cách xa Ta Bà, duyên cũ mong gì tái ngộ; nhưng cõi Cực Lạc có sức mầu nhiệm, tưởng gì đều được thỏa nguyện, thọ dụng không cùng. Cõi Tịnh Độ thuộc về Chân không như ý bảo chất, do nguyện lực phước đức của Phật, từ nơi không hiện ra sắc đầy khắp mọi nơi. Cõi Trời thuộc về thần chất, nhưng sức thần còn hữu hạn, kẻ chứng ngũ thông đôi khi sở cầu cũng chẳng toại ý. Cõi người thuộc về vật chất, bị ngăn cách nhiều lớp, sở cầu khó thực hiện.
Tôi lại hỏi:
- Vọng cảnh với thanh tịnh thật cảnh của Phật khác nhau thế nào ?
Bồ Tát khai thị:
- Thật cảnh thuộc về thường trú, hằng lặng lẽ chiếu sáng khắp nơi. Vọng cảnh vô thường, huyễn hóa tùy duyên dữ lành thay đổi.
- Chúng sanh Ta Bà đem hết tinh lực một đời tranh danh đoạt lợi, chỉ nghĩ mình sống, mặc cho người chết, không kể thiện ác. Họ đâu biết khi thọ số mãn, theo nghiệp luân hồi sa đọa, chịu khổ vô hạn, kể nói sao cùng !
- Cho nên muốn được thoát ly, phải sớm giác ngộ.
- Chủ nhân của của cảnh tượng này cũng là người đồng hương của ngươi, ngươi nên vào nơi đó xem thử !
Tôi y lời dạy, bước vào tòa lầu các, liền thấy ngay nhiều bàn đầy những sơn hảo hải vị, độ sáu bảy mươi thực khách đang ngồi dự đại yến, ăn to uống lớn, nói chuyện ồn ào. Chủ nhân là một lão trượng, tuổi ngoài bảy mươi, có khí phách tay đại phú hào. Ông thấy tôi vào, liền bước ra chào hỏi:
- Quý khách từ phương nào đến ?
Tôi dùng tiếng bản xứ đáp:
- Đệ tử người huyện Bồ Điền, tỉnh Phước Kiến đến.
Nghe tôi nói, chủ nhân nhận là người đồng hương, mặt đầy vẻ hoan hỷ, vội gật đầu đưa tay mời:
- Tốt lắm, rất hân hạnh ! Xin mời ngồi dự tiệc !
Tôi hỏi tiếp:
- Ngài có hỷ sự gì, mà bày đại yến hội như thế ?
Ông cười hỏi lại:
- Quý khách có duyên gì, lại đến trùng hợp vào lúc này ?
Tôi chỉ ra ngoài cửa đáp:
- Bồ Tát Quán Thế Âm đưa tôi đến đây để tham quan.
Chủ nhân vừa nghe câu đó, toàn thân liền rung động, mặt lộ vẻ hổ thẹn. Cảnh náo nhiệt trước mắt, như tòa đại hạ cùng thực khách đột nhiên ẩn mất. Lão nhân bỗng biến thành nam hài tử mười ba tuổi, thân thể lưu ly trong suốt, ngồi trên hoa sen, mười phần tươi đẹp. Tình huống này như Đức Quán Âm vừa nói: " Đều do vọng tưởng mà sanh, vọng tưởng diệt cảnh cũng diệt theo".
Sau đó nam hài tử lại nói:
- Kiếp trước ở Ta Bà, tôi là một đại phú thương thuộc hàng vọng tộc, người huyện Bồ Điền, tỉnh Phước Kiến, cư ngụ tại Hàm Giang, Đa Đầu thôn, tên Lâm Nhất Đạo. Khi lâm chung được Thiện trí thức khuyên nhắc, nên tôi nhiếp tâm trong mười niệm mà được vãng sanh.
- Điều đáng thẹn là vọng nghiệp cùng niệm ân ái của tôi còn quá nhiều, nên mới hiện ra huyễn cảnh đó. Quán Thế Âm Bồ Tát từng điểm danh nhắc nhở hai lần, bảo tôi phải sửa đổi, bây giờ bệnh cũ lại tái phát, dứt bỏ chưa xong.
Trò chuyện giây lát rồi từ biệt, tôi tiếp tục theo Bồ Tát thăm quan, tôi hỏi Ngài:
- Tại sao trong ao báu lại có hoa sen khô, tươi, suy, thạnh như thế ?
Bồ Tát đáp:
- Các đóa hoa suy khô là những người ở Ta Bà, ban sơ phát lòng thành tín, siêng năng niệm Phật, gieo nhân sen lành, nên khiến trong Ao Thất Bảo hóa sanh hoa sen lần lần to lớn, tròn tươi sáng đẹp. Nhưng các chúng sanh đó chỉ tinh tấn được một thời gian, rồi công phu lần hồi biếng trễ. Khi lòng tin không còn bền vững, thì chẳng những sự niệm Phật lơ là bỏ phế, mà có khi còn tạo nhiều điều ác nữa; do đó hoa sen dần dần khô héo, cọng sen gãy đổ rồi biến mất.
- Phải biết chí tâm niệm Phật tuy sanh vô lượng phước lành, song chí tâm làm ác cũng sanh vô lượng tội chướng. Niệm Phật rồi tạo tội, đem công trừ tội, tất phước cũng không còn !
- Nếu kẻ niệm Phật lỡ tạo tội nghiệp, biết ăn năn sám hối quay đầu hướng thiện, thề không dám tái phạm, phát lòng tinh tấn niệm Phật như xưa, thì tội chướng dần tiêu, phước huệ dần lớn, trong ao bát công đức, hoa sen lại đâm chồi nở cánh tốt tươi, cuối cùng vẫn được đới nghiệp vãng sanh, tiến lên quả Vô thượng Bồ Đề, không còn thoái chuyển.
- Lại nữa, có kẻ miệng tuy niệm Phật, song trong lòng còn ô nhiễm đắm sắc tham tài, đôi khi nảy sinh tâm ganh tị, giận hờn tranh chấp, thầm lén hại người. Kẻ ấy dù còn chút công đức, song bị các chướng nghiệp đó, không được vãng sanh Tịnh Độ, chỉ gieo nhân sen đắc độ về sau mà thôi !
- Cho nên, tất cả thế gian, bất luận giàu nghèo sang hèn, trí ngu lành dữ, già trẻ gái trai; nếu biến phát lòng tín thành, dứt dữ làm lành, trai giới niệm Phật, trong ngoài như một, giữ công tu bền lâu suốt đời, tất hoa sen nơi cõi tịnh hóa hiện lớn đẹp sáng tươi, khi lâm chung sẽ được tiếp dẫn về Cực Lạc.
- Nếu như chí nguyện không bền, lúc trễ lúc siêng, hoa báu tuy phát sanh, song chẳng thể lớn mạnh tốt đẹp; lại còn làm ác thì hoa sen phải héo tàn, đã không được vãng sanh, mà còn bị đọa luân hồi nữa !