TỨ NHIẾP PHÁP

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
TỨ NHIẾP PHÁP
(catvāri saṃgraha-vastūni)
TT. Thích Đức Thắng

Đây là bốn phương pháp thu phục, đưa chúng sanh hữu tình từ vô minh phiền não trở về giác ngộ giải thoát, từ khổ đau trở về an vui, từ sinh tử trở về Niết-bản, từ tà kiến sai lầm trở về chánh pháp chánh kiến mà đức Đạo sư dành dạy cho các hàng đệ tử của Ngài, nhất là đối với các hàng Bồ-tát. Bốn phương pháp này khiến cho các hàng đệ tử Thinh Văn Tiểu thừa và Bồ-tát Đại thừa sinh khởi lên lòng thân ái, để hướng dẫn chúng sanh hữu tình đi vào Đạo một cách dễ dàng và nhẹ nhàng nhất về cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất, đáp ứng và thõa mãn được những nhu cầu tình cảm có được của họ mà diều dắt. Ở đây, cả hai đều có lợi: một bên hoàn thành hanh nguyện Bồ-tát của mình, một bên xa lánh được tà kiến vô minh để trở về với chánh kiến giải thoát. Bốn phương pháp này đều có trong các kinh luận Tiểu thừa và Đại thừa như Trung A-hàm 33 Thiện Sanh kinh, Tạp A-hàm 26, Tăng Nhất A-hàm 22 và Thành thật luận … và kinh luân Đại thừa như Đại Tập kinh 29, Đại phẩm Bá-nhã kinh 24, Phạm Võng kinh, quyển thượng, A-tỳ Đạt-ma Tập dị môn túc luận 9, Đại trí độ luận 66, 88, Đại thừa nghĩa chương v.v… Theo trong các kinh luận này cũng tùy theo căn cơ mà đức Đạo sư chỉ dạy cho các hàng đệ tử của Ngài. Tuy cũng có một vải chi tiết sai khác nhau, nhưng trên đại thể đều đồng nghĩa, trong cách thực hành dù là Tiểu thừa chỉ giới hạn trong giá trị nhân quả phước báo để hoàn thành một kết quả tốt đẹp cho chính mình và người, trong khi các hàng Bồ-tát thì vượt qua khỏi giới hạn của nhơn quả trên mặt thực hành, mà hạnh nguyện của các Ngài qua việc giác tha cần hoàn thành trong vô nhân vô quả của hạnh Ba-la-mật. Bốn phương pháp theo cách dịch thẳng của các nhà dịch thuật Trung hoa thi Catvāri saṃgraha-vastūni là Tứ chủng bả-cá pháp, hay Tứ nhiếp pháp, còn gọi là Tứ nhiếp sự, Tứ sự nhiếp pháp, Tứ tập vật, hay gọi đơn giản là Tứ nhiếp, Tứ sự, Tứ pháp. Bốn pháp đó là:

(1) Bố thí nhiếp (dāna-saṃgraha)
(2) Ái ngữ nhiếp (priya-vādita-saṃgraha)
(3) Lợi hành nhiếp (artha-caryā-saṃgraha)
(4) Đồng sự nhiếp (samānārthatā-saṃgraha)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
1. Bố thí nhiếp (dāna-saṃgraha)

Dùng bố thí để thu phục, còn gọi là Bố thí nhiếp sự, tức là bao gồm cả tùy thuộc vào phương tiện bố thí mà thu phục và tùy theo phương tiện huệ thí mà thu phục, tức là dùng tâm vô sở thí cho và nhận chân lý gọi là pháp thí để thu phục, cùng với tâm vô sở thí cho và nhận của cải tiền bạc gọi là tài thí để thu phục. Nếu có chúng sanh hữu tình nào ưa thích của cải tiền bạc thì dùng tiền bạc của cải vật chất mà ban cho; nếu ai ưa thích pháp thì đem chánh pháp tinh thần mà ban cho họ, khiến cho họ khởi lên tâm thân ái mà nương vào Bồ-tát mà chấp nhận đạo lý giải thoát. Ngoải hai cách bố thí tài thí và pháp thí ra còn có một loại bố thí khá quan trọng đối với tất cả mọi loài chúng sanh hữu tình, đó chính là trao cho họ sự không sợ hãi tức là vô úy thí đối trước cuộc sống; bỡi vì sự hiện hữu của chúng sanh là một kết quả tất yếu của vô minh tà kiến do nghiệp hoặc phiền não do con người tạo ra, nên con người vô minh đối chính mình, vô minh đối với mọi loài, vô minh đối với sự vật. Cũng do từ vô minh này mà chúng sanh hữu tình sợ hãi trước cuộc sống, sợ hãi trước mọi người, sợ hãi trước thiên nhiên; từ sự sợ hãi này mà con người đẻ ra mọi thứ mê tín dị đoan, tin trời, tin thượng đế, tin vào thần linh có quyền ban phước giáng họa và làm chủ vận mệnh cuộc sống của con người và, tự con người đánh mất chính mình vì vô minh sợ hãi vô căn cứ này. Như trong Thanh tịnh đạo luận đức Đạo sư dạy: "Không thể tìm ra một Tạo hóa, một Brahma, hay một vị nào khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời sống. Chỉ có những hiện tượng diễn tiến tùy duyên!" Đó chính là pháp mà Đạo sư đã đem lại lòng tin vô úy nơi chính mình cho các đệ tử của Ngài; nếu ai đã thấu rõ bộ mặt thật của các pháp qua định luật Duyên khởi thì sẽ không còn sợ hãi trong cuộc sống nữa. Đây chính là pháp vô úy thí cần cho các đệ tử của Ngài trong việc thu phục chúng sanh đưa về chánh pháp giải thoát.

Ngoài ba phương pháp bố thí để thu phục người là tài thí, pháp thí và vô úy thí trên ra, còn có Báo ân thí nữa, đây là một cách báo ân người khác đã có công đối với chúng ta về mọi mặc, mà chúng ta đã mang ân nơi họ, chúng ta cần thực hành bố thí mà báo ân cho họ. Chính việc bố thí này cũng giúp cho chúng ta đưa người trở về với chánh pháp. Đây cũng là đạo lý đền ơn đáp nghĩa, ăn trái hớ kẻ trồng cây, ân oán phân minh theo đạo lý nhân quả làm người của chúng ta theo hai chiều thi ân đền báo của ân và oán, do đó cho phép chúng ta dùng bố thí để thu phục người đưa về chánh pháp, nên ngoài ba cách trên chúng cộng thêm với cách này nữa cho chúng ta có bốn cách bố thí để nhiếp phục.

Ở đây chúng ta cũng có thể đem Lục độ Ba-la-mật để phối hợp với bố thí nhiếp của tài thí, vô úy thí và pháp thí để phân bố theo thuộc tính của mỗi độ trong chức năng thực hành Bồ-tát đạo trong đó Tài thí thuộc về Đàn-na Ba-la-mật (dāna-pāramitā) của lục độ, khi hành giả đã thực hành đến chỗ hoàn toàn ba luân không tịch người cho, vật cho, người nhận trong việc bố thí thuộc tài vật; còn Vô úy thí thì thuộc vào Trì giới Ba-la-mật (śīla-pāramitā), cùng Nhẫn nhục Ba-la-mật (ksānti-pāramitā) khi hành giả hoàn thành việc trì giữ luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới đến chỗ thanh tịnh được thân tâm hành giả cùng hoàn thành việc tu tập nhẫn nại oán-hại, an nhẫn chịu khổ, thấy rõ sự thật pháp nhẫn có thể đối trị sân nhuế khiến tâm an tịnh của Lục độ và, pháp thí là thuộc vào Tinh tấn Ba-la-mật (vīrāya-pāramitā), Thiền định Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā), Trí tuệ Ba-la-mật (prajñā-pāramitā) khi hành giả hoàn thành được việc tinh tấn cả hai thân và tâm siêng năng tương tục thân siêng tu thiên pháp, tâm siêng hành thiện đạo, tâm tâm tương tục tinh cần tu nhẫn nhục, thiền định cùng trí tuệ. Nhờ tinh tấn mà hành giả đã đẩy lùi hết tất cả mọi giải đãi biếng nhác sanh trưởng thiện pháp của Lục độ, cùng việc hoàn thành thiền định, hiện pháp lạc trú tịnh lự, hiện tại không còn loạn tâm nữa. giờ đây hành giả hoàn thành trí tuệ, đạt được trí tuệ thế tục cùng duyên vào trí tuệ thắng nghĩa, trí tuệ hữu tình mà trừ đi hết mọi sự ngu si do vô minh di hại, cuối cùng biết rõ được thật tướng của các pháp hoàn thành Lục Ba-la-mật.

Ở trên là chúng tôi đem lục Ba-la-mật phối hợp với Bố thí nhiếp. Tiếp theo chúng tôi sẽ phối hợp Thập địa với Bố thí nhiếp pháp như trong Địa trì luận thì: Tứ nhiếp pháp vốn thông khắp trong các vị của Thập địa được phân ra tùy theo thuộc tính cùng ý nghĩa mà luận Trì địa phân ra là địa thứ nhất của Thập địa, trước hết là hành đàn lợi tha, tức là vì người mà thiết lập đàn bố thí. Bố thí ở đây chỉ chỉ dành cho của cải vật chất thuộc tài thí đem ra giúp đỡ ban cho những ai cần đến của cải vật chất mà khiến cho mọi người được lợi ích, nên làm cho việc Bố thí càng ngày càng tăng lên và, nhờ tu pháp thí đối với mọi người mà làm cho ái ngữ cũng tăng thêm.

Qua Bố thí nhiếp cho chúng ta thấy rằng dức Đạo sư dạy cho mọi người biết được là thế nào để nhiếp thọ thu phục người khác để đưa họ vào đạo qua phương cách Bố thí từ thấp lên cao, từ hữu lậu đến vô lậu, tùy thuộc vào căn cơ căn tánh và những nhu cần cần thiết của mọi người mà theo đó thực hiện Tứ nhiếp pháp dẫn dắt mọi người vào đạo giải thoát cho những người đang cần việc bố thí cho cả tinh thần lẫn vật chất
.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
2. Ái ngữ nhiếp (priya-vādita-saṃgraha), dùng lời nói từ ái để thu phục, còn gọi là Ái ngữ nhiếp sự, là phương tiện có khả năng thu phục. Ái ngữ, ái ngôn là phương tiện để thu phục, có nghĩa là y cứ vào căn tánh căn cơ của chúng sanh bằng vào lời nói từ ái mà an ủi phủ dụ, khiến cho họ khởi lên tâm thân ái mà chấp nhận vào đạo giải thoát hay, khiến cho họ khi nghe những lời nói từ ái tường thuật chánh giáo chánh lý đủ thu phục mà dẫn họ đến chỗ khai ngộ chân lý. Ngoài lời nói từ ái tốt đẹp làm vừa lòng người nghe, để thu phục người đi vào đạo một cách vui vẻ và tự nguyện, mà lời nói ra còn phải tránh xa và xa lìa những lời nói có lỗi thuộc về khẩu nghiệp nữa, tức là không nói lời hư dối, không nói lời thêu dệt, không nói lời nói thô ác, không nói lời nói chia rẽ đâm thọc để gây chia rẽ thù hằn với nhau đưa đến mất lòng tin đối với mọi người đối với chánh pháp. Hai cách nói trên là hai cách nói làm vừa lòng và, thõa mãn tình cảm cá nhân hữu tình, sẽ cảm phục được lòng người để đưa về chánh pháp một cách rất hữu hiệu.

Ngoài hai cách nói trên nhằm thu phục lòng người đưa về với đạo, ở đây chúng tôi sẽ đem Lục độ Ba-la-mật phối hợp với Ái ngữ nhiếp mà liệt kê theo chức năng thuộc tính phù hợp với ý nghĩa của chúng qua tương ưng trong khi hành giả thực hành Bồ-tát hạnh của mình thì Ái ngữ nhiếp thuộc về Trì giới Ba-la-mật (śīla-pāramitā), cùng Nhẫn nhục Ba-la-mật (ksānti-pāramitā), khi hành giả hoàn thành việc trì giữ luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới đến chỗ thanh tịnh được thân tâm hành giả cùng hoàn thành việc tu tập nhẫn nại oán-hại, an nhẫn chịu khổ, thấy rõ sự thật pháp nhẫn có thể đối trị sân nhuế khiến tâm an tịnh như vô úy thí và pháp thí đã nói ở trên thì, ở đây ái ngữ cũng thuộc Trì giới Ba-la-mật và nhẫn nhục Ba-la-mật. Vì Ái ngữ thuộc về khẩu trong việ làm thanh tịnh khẩu nghiệp qua lời nói của miệng ngoài lời nói từ ái như trên trong việc làm lòng người thõa mãn bản ngã thu phục mọi người được thì ở đây vấn đề làm thanh tịnh khẩu nghiệp nhân việc tránh không nói lời ác khẩu, nói lời thêu dệt, nói lời nói đâm thọc gây chia rẽ và nói lời hư dối làm phật lòng người đi ngược lại tình cảm tự ái cá nhân qua những xúc phạm của lời nói sẽ khiến cho lòng người thõa mãn được tình cảm thì cũng đưa mọi người đi đến đạo được.

Ở trên là chúng tôi đem lục Ba-la-mật phối hợp với Bố thí nhiếp. Tiếp theo chúng tôi sẽ phối hợp Thập địa với Bố thí nhiếp pháp như trong Địa trì luận thì: Tứ nhiếp pháp vốn thông khắp trong các vị của Thập địa được phân ra tùy theo thuộc tính cùng ý nghĩa mà luận Địa Trì thì, trong mười địa, địa thứ hai trì giới kiên cố, tức là xa lìa bốn lỗi lầm của miệng thì Ái ngữ sẽ tăng thêm.

Qua Ái ngữ nhiếp chúng cũng quan trong không kém gì Bố thí nhiếp. Ở đây chúng có những giá trị thuộc thuộc tính ý nghĩa của chúng mà qua đó lời nói được coi như là một công cụ có công năng thu nhiếp mọi người quay về chánh đạo, qua phương cách biết sử dụng, dụng ngữ làm sao cho thích hợp với tâm lý mọi người, có nghĩa là lời nói không đi ngược lại tình cảm lợi ích của mọi người thì, lời nói đó có tính cách thiết phục lớn, vì: “Lời nói không mất tiền mua, nên lựa lời nói cho vừa lòng nhau.”
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
3. Lợi hành nhiếp (artha-caryā-saṃgraha), dùng những việc làm lợi ta lợi người mà thu phục, còn gọi là Lợi hành nhiếp sự, hay Lợi ích nhiếp, là tạo phương tiện khiến cho người ta đi vào đạo, tạo phương tiện độ thoát, đem lại lợi ích cho mình cho người, có nghĩa là tạo thiện hạnh thân khẩu ý đem lại lợi ích cho mọi loài chúng sanh, khiến cho họ sinh tâm thân ái mà đi vào đạo. Hay khuyên mọi người tu tập theo chánh hành, hoặc hành thiện tự ba nghiệp của chính mình khởi lên khiến cho mọi người cùng nhau ân triêm lợi ích, tất cả những việc làm trên đều gọi là lợi hành cả. Nhờ đây mà thu phục hướng dẫn được mọi người khiến họ phát tâm vào thực hành đạo giải thoát.

Ngoài những hình thức hành lợi để nhiếp phục người vào đạo, quay về với chánh pháp như trên ra, nếu ở đây chúng ta đem hành lợi này phối hợp với Lục Ba-la-mật thì, theo chức năng thuộc tính của pháp hành này, nó sẽ tương ưng với tinh tấn Ba-la-mật (vīrāya-pāramitā) trong lục Ba-la-mật theo hành pháp của Bồ-tát khi thực hành Lục Ba-la-mật. Vì khi Bồ-tát muốn hóa độ chúng sanh trước hết là phải tự lợi điều này chúng ta khỏi bàn, vì nếu tự bản thân của Bồ-tát không hoàn thành sự nghiệp giải thoát của mình được thì làm sao có thể hướng dẫn hay thu phục được người khác theo về với chính Đạo mà mình đang thực hành và, sau đó Bồ-tát mới thực hành hạnh nguyện độ tha của mình, thu phục chúng sanh qua việc làm lợi người, có như vậy nguyện lực của Bồ-tá mới được thành tựu những sở nguyện được. Khi bồ-tát hành Bồ-tát đạo mà thiếu đi tinh tấn thì dứt khoát sở nguyện của chúng ta không thành tựu. Trong mọi phương pháp tu, nếu muốn đạt được kết quả tốt đẹp mau chóng thì điều kiện tiên quyết của hành giả là thực hành tinh tấn, nếu trong lúc tu hành mà chúng ta thiếu đi sự tinh tấn tinh cần thì cho dù pháp tu đó dễ dàng đến đâu đi nữa, kết quả cuối cùng sẽ không đạt được như những mong muốn của chúng ta.

Ở trên là chúng tôi đem lục Ba-la-mật phối hợp với Bố thí nhiếp. Tiếp theo chúng tôi sẽ phối hợp Thập địa với Bố thí nhiếp pháp như trong Địa trì luận thì: Tứ nhiếp pháp vốn thông khắp trong các vị của Thập địa được phân ra tùy theo thuộc tính cùng ý nghĩa mà luận Địa Trì phân. Theo Bồ-tát Địa Trì kinh 3, hay luận Đại Trang Nghiêm thì lợi hành có nghĩa là khiến cho mọi người đi vào phương tiện, trước tiên trao cho họ chánh pháp, tức là chỉ dạy họ thông hiểu những lời dạy của đức Đao sư, sau đó hướng dẫn họ thực hành đúng chánh pháp và, nhờ họ thực hành đúng chánh pháp mà họ ra khỏi được nơi bất thiện trở về nơi thiện, tức là khiến mọi chúng sanh hữu tình vượt qua khỏi sinh tử hiện chứng Niết-bàn an vui giải thoát. Theo luận Địa-trì thì, trong mười địa của Bồ-tát, nếu đem phối hợp với Lợi hành thì địa thứ ba sẽ tương ưng với nó trong việc chúng sanh tu tập mười loại hạnh cứu độ; vì cứu độ là thuộc tính của hành lợi, nên càng cứu độ nhiều chứng nào thì lợi hành càng tăng trưởng vượt bực chừng ấy. Lợi hành thuộc phạm vi hoạt động lợi tha nên việc cứu độ tha nhân là mục tiêu hành đầu của Bồ-tát trong sự nghiệp hoàn thành Phước Tuệ song tu của mình.

Tuy nhiên khi chúng ta hành lợi cũng luôn tùy thuộc vào đối tượng để làm lợi có thể phân ra làm bốn loại: Một, dùng phương tiện tùy thuộc vào những người thiện không có đức. Hai, Tán dương khen ngợi những người thiện có đức. Ba, Quở trách những người ác dễ điều phục. Bốn, dùng thần lực để hàng phục những người ác khó điều phục, khiến cho họ bỏ ác. Ở đây, hai loại trước gọi là nhiếp thủ để tập hợp thiện, hai loại sau gọi là nhiếp thủ để lìa ác.

Qua Lợi hành nhiếp cho chúng ta thấy, đối với Bồ-tát muốn hoàn thành tuệ giác vô thượng của mình thì việc tự lợi cá nhân trong tu tập giải thoát mới chỉ là một nửa chặn đường đi đến giải thoátt mà thôi. Ở đây Bồ-tát muốn hoàn thành sở nguyện của mình một cách rốt ráo thì việc thực hành lợi tha là điều kiện tiên quyết; nhưng trong hành lợi tha này muốn thành tựu triệt để thì tinh tấn là đầu mối quan trong đưa đến sự thành công hạnh nguyện. Nói chung trong sự nghiệp tu hành của chúng ta điều kiện để thành tựu chính là tinh tấn siêng năng nổ lực trong mọi lúc trong mọi nơi, nó là chìa khóa quan trọng để mở toan màng lưới vô minh cho người tu hành
.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
4. Đồng sự nhiếp (samānārthatā-saṃgraha), dụng cùng sự nghiệp với mình mà thu phục, còn gọi là Đồng sự nhiếp sự, cùng sự nghiệp ở đây có nghĩa là cùng sự nghiệp là chúng sanh hữu tình, cùng lợi ích như nhau, cùng công việc khổ vui (nghiệp), có nghĩa là hành giả khi gần gũi chúng sanh cùng có cái khổ cái vui như họ, dùng pháp nhãn thấy rõ căn tánh chúng sanh như thế nào, rồi tùy thuộc vào những thân căn y báo chánh báo cùng cái khổ cái vui của họ mà thị hiện (cho các hàng Bồ-tát) thân hình ứng váo những thân căn đó mà hiện thân cứu vớt đưa họ vào chánh đạo, khiến cho họ cũng được những lợi ích như chúng ta hay, hành giả chúng ta đồng sự với chúng sanh hữu tình mà tùy theo đồng sự nghiệp chúng sanh, cùng có lợi, cùng khổ vui họa phước mà giúp đỡ hướng dẫn họ thoát khổ được vui.

Ngoài những hình thức hành lợi để nhiếp phục người vào đạo, quay về với chánh pháp như trên ra, nếu ở đây chúng ta đem hành lợi này phối hợp với Lục Ba-la-mật thì, theo chức năng thuộc tính của pháp hành này, nó sẽ tương ưng với hai độ Ba-la-mật là Thiền định Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā), và Trí tuệ Ba-la-mật (prajñā-pāramitā) trong lục Ba-la-mật, theo hành pháp của Bồ-tát khi thực hành Lục Ba-la-mật. Vì khi Bồ-tát hành Bồ-tát đạo không những chỉ tự lợi cho mình không thôi mà còn lợi tha nữa; trong khi lợi tha mang lợi lạc đến mọi người để hoàn thành sự nghiệp giải thát cho mình thì vấn đề lợi tha cũng quang trọng ngang bằng với tự lợi. Vì lợi tha không những chỉ vì lòng từ thương xót chúng sanh mà đưa họ thoát khỏi khổ đau để đạt an vui Niết-bàn mà còn làm nhân cho việc hoàn thành sứ mệnh giải thoát cho chính họ nữa, nên việc dùng đồng sự nhiếp là việc làm tất yếu không thể thiếu đi được. Trong Tứ nhiếp pháp mỗi pháp chúng có chức năng riêng và chung của chúng, do đó đồng sự nhiếp ngoài cai nghĩa chung chúng còn có nghĩa riêng theo thuộc tính của chính nó nữa đó là: việc hóa độ thu phục những đối tượng chúng sanh cùng chung sự nghiệp, cùng chung lợi ích, cùng chung y báo, cùng chung khổ vui, cùng chung công ăn việc làm, mà hành giả có những cái chung đó và, cũng nhờ những cái chung đó mà hành giả có những thuận duyên may mắn, những tiếp cận gần nhau, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, lối sống mà chúng ta dễ dàng thu phục, hướng dẫn họ trở về với chánh pháp, nếu những ai đi không đúng với con đường giải thoát. Đó là những thuận có được của hành giả trong chức năng thu phục đem người trở về với chánh pháp. Khi mọi người đã được trở về với chánh pháp rồi thì, chính lúc đó hành giả cũng hoàn thành sự nghiệp giải thoát cho chính mình theo định luật Duyên khởi hình thành và hủy diệt của nó. Khi đức Phật còn tại thế, có Bồ-tát Tinh Danh hiện thân cư sĩ, với mục đích là để dễ gần gũi và cảm hóa được mọi người một cách rộng rãi. Ngài đã có gia đình nhưng lại chuyên cần tu tập phạm hạnh. Bên ngoài tuy luôn luôn bận rộn với mọi tiếp xúc, nhưng bên trong thì luôn ở trong thiền định. Ngài giao thiệp rất rộng rãi, hiện thân khắp nơi, từ sòng bac, các quán nhậu nhẹt cho đến dâm phòng tửu điếm đều có sự hiện diện của Ngài với mục đích là để hóa độ, hướng dẫn những kẻ sa đọa, vấp ngã đi về với chánh pháp. Có đôi khi Ngài tham gia chính trị, làm thầy dạy học, dạy đời và, làm đủ thứ chuyện trên đời nếu thấy những đối tượng đó và nơi chốn đó, cần được độ thì Ngài hóa thân vào những nơi đó ngay. Tuy Ngài hóa thân vào những nơi triền phược có thể đem đến cho Ngài mọi rắc rối, nhưng với cuộc sống vô tâm như vậy Ngài luôn luôn làm chủ chính mình nên không bị nhiễm ô, như hoa sen trong bùn, tâm hồn Ngài luôn trụ trong cảnh giới thanh tịnh giải thoát. Sở dĩ Ngài hóa thân mình biến thành những thuộc tính như vậy là với mục đích Đồng sự với mọi người mà hóa độ thu phục họ trở về chánh pháp.

Ở trên là chúng tôi đem lục Ba-la-mật phối hợp với Bố thí nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp. Tiếp theo chúng tôi sẽ phối hợp Thập địa với Bố thí nhiếp pháp như trong Địa trì luận thì: Tứ nhiếp pháp vốn thông khắp trong các vị của Thập địa được phân ra tùy theo thuộc tính cùng ý nghĩa mà luận Địa Trì phân. Theo Bồ-tát Địa Trì kinh 3, hay luận Đại Trang Nghiêm thì Đồng sự là luôn tùy thuộc vào phương tiện theo thuộc tính của đối tượng mà thay đổi tương ứng với chúng, cùng nhau tu tập sự nghiệp chánh, thực hành đạo chánh, khiến cho chúng sanh hữu tình tùy thời mà chuyển hướng về chánh đạo và đạt được đạo an vui giải thoát ngay đời này. Theo luận Địa-trì thì, trong mười địa của Bồ-tát, nếu đem phối hợp với Đồng sự thì địa thứ tư sẽ tương ưng với nó trong việc không bỏ chúng sanh mà tu tâp phẩm đạo, nên Đồng sự càng ngày được tăng trưởng. Vì theo luận Địa Trì thì muốn cho Đồng sự tăng trưởng nhanh thì phải cần có sự phối hợp với địa thứ tư trong lục địa thì kết quả mới mang lại cho chúng ta những người thực hành Tứ Nhiếp mới có sự thành công mau chóng được. Vì thông thường nếu hành giả không theo Bồ-tát hạnh để thực hành thì Tứ Nhiếp chỉ có giới hạn trong giá trong nhân quả mà thôi, không đi sâu và xa được.

Qua Đồng sự nhiếp, chúng ta nhận thấy rằng, cũng như ba pháp trên cũng từ pháp hữu lậu đến pháp vô lậu Đồng sự nhiếp là hệ luận cuối cùng để Bồ-tát thực hiện con đường Bồ-tát hành của mình và, cũng nhờ vào con đường Bồ-tát hành này mà Đồng sự nhiếp mới hiện hữu những giá trị của nó qua sự thực hành lợi tha của hành giả. Do đó Đồng sự nhiếp cũng là một trong những thứ duyên cần thiết để hành giả hoàn thành sở nguyện của mình, đó chỉ là giá trị của nửa mặt trên mặt thực hành, còn nửa mặt khác làm lợi lạc cho mọi người, kéo mọi người trở về với chánh pháp là nguyên nhân đưa thế giới này đến chỗ hòa bình an lạc. Đây chính là những giá trị sống động nhất để trả ơn chư Phật đền ơn Tam Bảo đền ơn chúng sanh trong muôn một của hành giả tu tập Tứ Nhiếp pháp nói chung và Đồng sự nhiếp nói riêng.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên