4. Đồng sự nhiếp (samānārthatā-saṃgraha), dụng cùng sự nghiệp với mình mà thu phục, còn gọi là Đồng sự nhiếp sự, cùng sự nghiệp ở đây có nghĩa là cùng sự nghiệp là chúng sanh hữu tình, cùng lợi ích như nhau, cùng công việc khổ vui (nghiệp), có nghĩa là hành giả khi gần gũi chúng sanh cùng có cái khổ cái vui như họ, dùng pháp nhãn thấy rõ căn tánh chúng sanh như thế nào, rồi tùy thuộc vào những thân căn y báo chánh báo cùng cái khổ cái vui của họ mà thị hiện (cho các hàng Bồ-tát) thân hình ứng váo những thân căn đó mà hiện thân cứu vớt đưa họ vào chánh đạo, khiến cho họ cũng được những lợi ích như chúng ta hay, hành giả chúng ta đồng sự với chúng sanh hữu tình mà tùy theo đồng sự nghiệp chúng sanh, cùng có lợi, cùng khổ vui họa phước mà giúp đỡ hướng dẫn họ thoát khổ được vui.
Ngoài những hình thức hành lợi để nhiếp phục người vào đạo, quay về với chánh pháp như trên ra, nếu ở đây chúng ta đem hành lợi này phối hợp với Lục Ba-la-mật thì, theo chức năng thuộc tính của pháp hành này, nó sẽ tương ưng với hai độ Ba-la-mật là Thiền định Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā), và Trí tuệ Ba-la-mật (prajñā-pāramitā) trong lục Ba-la-mật, theo hành pháp của Bồ-tát khi thực hành Lục Ba-la-mật. Vì khi Bồ-tát hành Bồ-tát đạo không những chỉ tự lợi cho mình không thôi mà còn lợi tha nữa; trong khi lợi tha mang lợi lạc đến mọi người để hoàn thành sự nghiệp giải thát cho mình thì vấn đề lợi tha cũng quang trọng ngang bằng với tự lợi. Vì lợi tha không những chỉ vì lòng từ thương xót chúng sanh mà đưa họ thoát khỏi khổ đau để đạt an vui Niết-bàn mà còn làm nhân cho việc hoàn thành sứ mệnh giải thoát cho chính họ nữa, nên việc dùng đồng sự nhiếp là việc làm tất yếu không thể thiếu đi được. Trong Tứ nhiếp pháp mỗi pháp chúng có chức năng riêng và chung của chúng, do đó đồng sự nhiếp ngoài cai nghĩa chung chúng còn có nghĩa riêng theo thuộc tính của chính nó nữa đó là: việc hóa độ thu phục những đối tượng chúng sanh cùng chung sự nghiệp, cùng chung lợi ích, cùng chung y báo, cùng chung khổ vui, cùng chung công ăn việc làm, mà hành giả có những cái chung đó và, cũng nhờ những cái chung đó mà hành giả có những thuận duyên may mắn, những tiếp cận gần nhau, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, lối sống mà chúng ta dễ dàng thu phục, hướng dẫn họ trở về với chánh pháp, nếu những ai đi không đúng với con đường giải thoát. Đó là những thuận có được của hành giả trong chức năng thu phục đem người trở về với chánh pháp. Khi mọi người đã được trở về với chánh pháp rồi thì, chính lúc đó hành giả cũng hoàn thành sự nghiệp giải thoát cho chính mình theo định luật Duyên khởi hình thành và hủy diệt của nó. Khi đức Phật còn tại thế, có Bồ-tát Tinh Danh hiện thân cư sĩ, với mục đích là để dễ gần gũi và cảm hóa được mọi người một cách rộng rãi. Ngài đã có gia đình nhưng lại chuyên cần tu tập phạm hạnh. Bên ngoài tuy luôn luôn bận rộn với mọi tiếp xúc, nhưng bên trong thì luôn ở trong thiền định. Ngài giao thiệp rất rộng rãi, hiện thân khắp nơi, từ sòng bac, các quán nhậu nhẹt cho đến dâm phòng tửu điếm đều có sự hiện diện của Ngài với mục đích là để hóa độ, hướng dẫn những kẻ sa đọa, vấp ngã đi về với chánh pháp. Có đôi khi Ngài tham gia chính trị, làm thầy dạy học, dạy đời và, làm đủ thứ chuyện trên đời nếu thấy những đối tượng đó và nơi chốn đó, cần được độ thì Ngài hóa thân vào những nơi đó ngay. Tuy Ngài hóa thân vào những nơi triền phược có thể đem đến cho Ngài mọi rắc rối, nhưng với cuộc sống vô tâm như vậy Ngài luôn luôn làm chủ chính mình nên không bị nhiễm ô, như hoa sen trong bùn, tâm hồn Ngài luôn trụ trong cảnh giới thanh tịnh giải thoát. Sở dĩ Ngài hóa thân mình biến thành những thuộc tính như vậy là với mục đích Đồng sự với mọi người mà hóa độ thu phục họ trở về chánh pháp.
Ở trên là chúng tôi đem lục Ba-la-mật phối hợp với Bố thí nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp. Tiếp theo chúng tôi sẽ phối hợp Thập địa với Bố thí nhiếp pháp như trong Địa trì luận thì: Tứ nhiếp pháp vốn thông khắp trong các vị của Thập địa được phân ra tùy theo thuộc tính cùng ý nghĩa mà luận Địa Trì phân. Theo Bồ-tát Địa Trì kinh 3, hay luận Đại Trang Nghiêm thì Đồng sự là luôn tùy thuộc vào phương tiện theo thuộc tính của đối tượng mà thay đổi tương ứng với chúng, cùng nhau tu tập sự nghiệp chánh, thực hành đạo chánh, khiến cho chúng sanh hữu tình tùy thời mà chuyển hướng về chánh đạo và đạt được đạo an vui giải thoát ngay đời này. Theo luận Địa-trì thì, trong mười địa của Bồ-tát, nếu đem phối hợp với Đồng sự thì địa thứ tư sẽ tương ưng với nó trong việc không bỏ chúng sanh mà tu tâp phẩm đạo, nên Đồng sự càng ngày được tăng trưởng. Vì theo luận Địa Trì thì muốn cho Đồng sự tăng trưởng nhanh thì phải cần có sự phối hợp với địa thứ tư trong lục địa thì kết quả mới mang lại cho chúng ta những người thực hành Tứ Nhiếp mới có sự thành công mau chóng được. Vì thông thường nếu hành giả không theo Bồ-tát hạnh để thực hành thì Tứ Nhiếp chỉ có giới hạn trong giá trong nhân quả mà thôi, không đi sâu và xa được.
Qua Đồng sự nhiếp, chúng ta nhận thấy rằng, cũng như ba pháp trên cũng từ pháp hữu lậu đến pháp vô lậu Đồng sự nhiếp là hệ luận cuối cùng để Bồ-tát thực hiện con đường Bồ-tát hành của mình và, cũng nhờ vào con đường Bồ-tát hành này mà Đồng sự nhiếp mới hiện hữu những giá trị của nó qua sự thực hành lợi tha của hành giả. Do đó Đồng sự nhiếp cũng là một trong những thứ duyên cần thiết để hành giả hoàn thành sở nguyện của mình, đó chỉ là giá trị của nửa mặt trên mặt thực hành, còn nửa mặt khác làm lợi lạc cho mọi người, kéo mọi người trở về với chánh pháp là nguyên nhân đưa thế giới này đến chỗ hòa bình an lạc. Đây chính là những giá trị sống động nhất để trả ơn chư Phật đền ơn Tam Bảo đền ơn chúng sanh trong muôn một của hành giả tu tập Tứ Nhiếp pháp nói chung và Đồng sự nhiếp nói riêng.