Yeshe Lama (Keith Dowman)

Yeshe Lama (Keith Dowman)

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
LỜI MỞ ĐẦU

Gửi miềm tôn kính tới ánh sáng bất biến, vị thầy, chúa tể được tán dương.

Bản chất của mọi kinh nghiệm giống như vòm trời, luân hồi và niết bàn tràn ngập một thực tại không thể tưởng tượng nổi, do vậy mọi phương diện giác quan đều là bản tính tối thượng của nó và bất cứ điều gì hiển hiện đều là biểu tượng vinh quang của tính giác bất nhị quảng đại:

Cầu mong Chúa tể của Hiện tại được ôm ấp bởi vị phối ngẫu 1

Chủ trì hồ sen trong tâm trí chúng ta.



Bản tính bất biến của chúng ta với những vết nhơ bất chợt

Sẽ được thanh lọc vĩnh viễn bởi vị thầy ba thân 2

Với cơn bão thanh tẩy toàn triệt của cơn mưa hiện thực,

Giải thoát cả hai phương thức dần dần và tức thời,

Tùy theo tố chất, căn cơ và mục tiêu,

Trên cỗ xe này của Đại Toàn Thiện

Với những phương pháp giải thoát kỳ diệu của nó.

Ở đây, trong vô số thiên niên kỷ, công đức đã được tích lũy

Như một trụ cột và nguồn gốc của sự dâng hiến trọn vẹn,

Và từ nguồn tài nguyên dồi dào đó, theo lịch sử,

Các học giả và dịch giả, các hóa thân Phật,

Đã xuất hiện ở vùng đất tuyết này,

Mang theo ngọn cờ chiến thắng vĩnh cửu của sự khám phá thực tại.

Hỡi chuấ tể của ngôn từ, Longchenpa toàn tri,

Nguồn gốc và trụ cột của giáo lý,

Con khiêm nhường phủ phục dưới chân ngài,

Toàn thể đại dương ý nghĩa mật tông,

Sâu sắc và vô cùng rộng lớn,

Không thể hiểu được đối với tri thức giả tạo,

Chỉ được nhận ra bởi sự toàn giác tiềm ẩn,

Được làm sáng tỏ bới Ánh Sáng Vô Nhiễm 3

Được cô đọng lại ở đây để làm sáng tỏ tinh yếu của tâm

Cho những người khao khát may mắn đã yêu cầu nó.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Đức Phật Phổ Hiền hoàn hảo không tì vết, vẫn bất động trong linh kiến bao la của ngài, truyền đạt nó không sai sót và không tì vết tới năm vị Phật thành tựu, những vị không khác biệt với chính ngài. Giáo lý sâu xa và rộng lớn trong linh kiến của ngài được khám phá trong truyền thống Ngôn Từ Thiêng Liêng của Kim Cương Thừa. Thông qua ba phương tiện truyền đạt: mật điển, truyền khẩu và hướng dẫn cốt lõi, tâm trí của những chúng sinh dễ tiếp thu được giải thoát một cách vô tình.4 Chưa cần dùng đến các giai đoạn phát sinh và thành tựu, trong Đột Phá, bản tính của tâm được tiết lộ là vị Phật trong hiện tại, bản chất tinh khiết của tồn tại, sau đó trong Vượt Qua, bản thể của tính giác tự nhận thức về hiện tại được thị hiện như là Phật tính. Bỏ qua lời hùng biện về thành tựu rốt ráo 5 , và phân tích học thuật, ở đây là giới thiệu 6 kinh nghiệm trực tiếp về Đột Phá và Vượt Qua.

Thành tựu tinh thần của tám lối tiếp cận 7 thấp hơn không thể chạm tới con đường tinh khiết này mà chư Phật trong quá khứ đã đi, chư Phật tương lai sẽ đi, và các vị Phật khao khát đang đi, và do vậy, nó được gọi là con đường đỉnh cao.

Tôi cầu nguyện các vị dakini bảo hộ cho phép tôi được tiết lộ bản chất của ma trận quảng đại chính là linh kiến tối thượng trực tiếp của Phổ Hiền, như thể nó đang ở trong lòng bàn tay.

Ở đây bạn sẽ tìm thấy ba phương thức hướng dẫn: hướng dẫn cá nhân thực tế, hướng dẫn chỉ thẳng, và sự khích lệ toàn diện cùng lời khuyên sâu sắc cho những người đang đi trên con đường thành Phật, những nhà du hành tâm thức 8 can đảm. Văn bản này được biên soạn theo cung cách của chỉ dẫn cốt lõi 9 , chủ yếu dạy thông qua hướng dẫn cá nhân thực tế, bao gồm hai điều khác.

Lời chỉ dẫn được đưa ra trong ba phần: thứ nhất dành cho người có độ nhạy bén sắc sảo, những người có thể lạc vào vùng đất bao la của hiện tại và ở đây ngay trong kiếp này; thứ hai là dành cho những người có độ nhạy bén trung bình, sẽ tìm thấy đức Phật trong cõi trung ấm bardo, và thứ ba là dành cho những người còn lại, sẽ được đưa vào cõi Phật hóa thân tự nhiên.





CHÚ THÍCH CHO LỜI MỞ ĐẦU


1. KuntuzangpoKuntuzangmo trong tư thế hợp nhất

2. Tiếng Phạn trikaya này được giữ nguyên không dịch trong toàn bộ văn bản này để nhấn mạnh bản chất toàn diện, thống nhất của ba thân Phật hay ba chiều kích của tồn tại.

3. Drimmey Wozer, tên riêng của Longchenpa

4. Những dòng mở đầu thiết lập năm sự hoàn hảo: vị thầy, giáo lý, nơi chốn, thời gian và đoàn tùy tùng. Ba phương tiện là : tantra (rgyud), agama (lung) and upadesha (man ngag).

5. Thành tựu rốt ráo (grub mtha’) theo kinh nghiệm được diễn đạt bằng lời như một quan điểm, có thể được hệ thống hóa về mặt học thuật như một “triết lý” hoặc “hệ thống giáo lý”.

6. Ngo sprod pa được dịch ra theo cách thông thường là “chỉ ra”

7. Những thừa thấp hơn: shravaka, pratyekbuddha, bodhisattva, kriyatantra, upatantra, yogatantra, mahayoga và anuyoga là tám cách tiếp cận (theg pa brgyad).

8. 8Gdams ngag ‘khrid kyi lugs, ngo sprod kyi lugs, mgron po la brgal ba la tshang sprugs.

9. Man ngag sde
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
PHẦN MỘT



DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI SẮC BÉN






CÓ HAI MỤC CỦA PHẦN ĐẦU NÀY:

RÈN LUYỆN CĂN BẢN VÀ KẾT QUẢ​


CHƯƠNG MỘT

RÈN LUYỆN CĂN BẢN



Có ba phần để rèn luyện: phần thứ nhất bao gồm yoga của bốn yếu tố, trong đó ba thân là nguyên tắc chỉ đạo. Phần hai bao gồm sự phân biệt và định nghĩa luân hồi và niết bàn trong thân, lời và tâm trí, trong đó sự hiện diện thanh tịnh là nguyên tắc hướng dẫn. Ba là rèn luyện thân, khẩu, ý, trong đó tâm trí là nguyên tác chỉ đạo.

YOGA CỦA BỐN YẾU TỐ

Trong số sáu mươi tư trăm ngàn câu thơ làm sáng tỏ Đại Toàn Thiện tự nhiên, những câu Vượt ngoài Âm Thanh,10 mật điển gốc, là rất đặc biệt. Về yoga của bốn yếu tố, nó cho biết:

Ở mức độ hiểu biết ba thân,

Những phẩm chất của bốn yếu tố căn bản được nhấn mạnh;

Ba thần chắc chắn đã được hoàn thành

Thông qua sự chú ý đến âm thanh của đất, nước, lửa, và gió.

Ngày nay việc thực hành này hiếm khi được thực hiện và nó có thể bị bỏ qua.

PHÂN BIỆT GIỮA LUÂN HỒI VÀ NIẾT BÀN:

Rushen bên ngoài và bên trong


Đầu tiên: Rushen bên ngoài

Mật điển Con Trai duy nhất của vị Thầy khuyên:

Lúc khởi đầu, để giảm bớt sự chấp thủ

Của thân thể, lời nói và tâm trí,

Hãy bắt đầu với hành vi.



Rushen của Thân Thể

Cách thực hiện Rushen của thân thể được mô tả trong mật điển gốc:

Với cơ thể, chuyển động hoặc ngả lưng

Hoặc vặn và xoay, thực hiện các tư thế yoga,

Duỗi và uốn cong các chi

Và đưa cơ thể qua các bước đi của nó

Ngay khi bạn hình dung nó, thực hiện nó trên thể chất

Hành vi của sáu loài chúng sinh thần thoại.

Theo đó, để quay trở lại với hoạt động thân, khẩu, ý do nghiệp và khuynh hướng tự nhiên dẫn dắt, và trong tương lai, để ngăn chặn nó hoàn toàn, hãy đi đến một nơi chắc chắn không có ai xâm phạm, nơi bạn không thể bị nhìn thấy hoặc nghe thấy, để không bị vi phạm vào thệ nguyện thứ bảy về việc giữ kín hành vi bí mật.

Ở nơi đó hãy cúng dường torma cho các vị thần địa phương, cầu xin sự khoan dung của họ đối với hành vi bất thường của bạn, yêu cầu họ kiềm chế sự nghi ngờ ghen tị. Sau đó hãy tự nhủ: “Tôi ở đây vì lợi ích của tất cả chúng sinh để chia tách, phân biệt và định nghĩa luân hồi và niết bàn về mặt thể chất, năng lượng và tinh thần, để trong tương lai tôi không phải quay lại luân hồi”.

Sau khi phát khởi bồ đề tâm theo cách đó, hãy cởi trần, tưởng tượng và cảm thấy cái nóng và lạnh cùng cực của chúng sinh địa ngục, cái đói khát của ngạ quỷ, cảnh nô lệ của súc sinh, sinh, lão, bệnh, tử của con người, chiến tranh và xung đột của ma quỷ, và sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chư thiên.11

Sau đó, chạy và nhảy, vặn và xoay, duỗi và uốn cong, tóm lại di chuyển cơ thể của bạn theo bất cứ cách nào bạn nghĩ ra, nhưng không có mục đích hoặc kế hoạch.

Rushen của lời nói

Sau đó, tương tự, để tách rời và định nghĩa luân hồi và niết bàn trong lời nói, Vượt ngoài Âm Thanh chỉ dẫn:

Để bạn không cần chế nhạo bất kể điều gì bạn nghe,

Nói, bừa bãi, các ngôn ngữ

Của các vị thần, rắn, tinh linh tự nhiên,

Những ngươi ăn hoa sen, những ca sĩ người cá trẻ, chúa tể trái đất.12

Tóm lại, hãy nói ngôn ngữ của sáu chúng sinh thần thoại

Tuy nhiên họ đến với tâm trí.

Nói một cách vô nghĩa với chính mình, nói nhiều ngôn ngữ ngẫu nhiên.

Rushen của tâm trí

Sau đó, một lần nữa, để tách rời luân hồi và niết bàn trong hoạt động tinh thần, Người thừa kế của đức Phật chỉ dạy:

Nghĩ về niềm vui và nuỗi buồn, khoái lạc và đau khổ

Thường hằng và vô thường chẳng hạn;

Nghĩ về cái thấy, thiền định và hành động

Và pháp là gì, không phải là gì, vân vân

Nghĩ về tham, sân, si

Và thiện hạnh, ác hạnh, và tất cả các chủ đề.

Kích thích có ý thức và mạnh mẽ những suy nghĩ tích cực, tiêu cực từ quá khứ, hiện tại và tương lai, để chúng thăng trầm. Cuối cùng, bạn sẽ cạn kiệt về thể chất, năng lượng và tinh thần, và nhìn vào chỗ mà tính ngạo mạn tri thức của bạn bị chọc thủng, bạn sẽ hoàn toàn thư giãn. Lại nữa, như được nói trong Di chúc cuối: “Cũng diễn chi tiết với thực hành Phật giáo”. Thực hiện thế ngồi thiền với hai chân bắt chéo và thủ ấn xúc địa, phóng chiếu và hấp thụ những tia sáng từ cái bình;13 tưởng tượng mặc áo choàng lama; hạ mắt xuống, hướng chúng về phía trước một sải tay: mọi hành vi kỷ luật an bình. Hoạt động Phật ngữ là trì tụng các kinh như Tâm Kinh, và lặp lại các công thức phân tích và bác bỏ trong Trung Đạo (Kết quả).14

Sau đó hãy sử dụng các tư thế phẫn nộ và chín biểu lộ kịch tính 15 và nói rõ các hệ quả bằng lời của chúng, phát âm:

RULU RULU HUNG HUNG PHAT PHAT chẳng hạn

Từ đó phát triển khả năng diễn đạt thành thạo nhiều tâm trạng khác nhau. Như Di chúc cuối đã hướng dẫn:

Phát âm đa dạng các âm thanh của Pháp

Thần chú và trì tụng hàng ngày,

Sự hùng biện của tranh luận và thảo luận.

Về sự tồn tại, không tồn tại và tính sáng.

Trong hướng dẫn trên, sự phân chia và định nghĩa hiện sinh về luân hồi và niết bàn được thực hành thông qua hoạt động riêng biệt của thân, khẩu, ý, đó là cách thông thường trong rèn luyện căn bản. Nhưng khi sự tách biệt và định nghĩa giữa luân hồi và niết bàn được thực hiện bằng thân, khẩu, ý cùng một lúc, trong mọi hình dạng của luân hồi và niết bàn thống nhất, thân khẩu ý sẽ sinh khởi một cách tự nhiên như trò chơi của thân khẩu ý Phật.16
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Hãy siêng năng gắn liền với thực hành gấp rút này trong hai tuần, mười một ngày hoặc thậm chí một tuần,17 sự bám chấp vào thân thể, năng lượng, tình thần trong thời điểm hiện tại sẽ tự giảm bớt và mối liên hệ với luân hồi sẽ bị gián đoạn vĩnh viễn. Cuối cùng sẽ có lợi ích vô số được tích lũy: thân thể sẽ chín muồi như tịnh quang, lời nói sẽ trong sáng như vòng mật chú,18 và tâm trí sẽ được giải thoát như sự hiện diện thanh tịnh. Tóm lại, như đã nói trong Quán Đỉnh Hiểu Biết:

Ai thực hành Rushen

Không trở lại tam giới.19

Thứ hai: Rushen bên trong

Đây là linh kiến của mật điển Ma trận của sự trong suốt:

Nằm trên đỉnh đầu, cổ họng, tim

Rốn, sinh dục và lòng bàn chân

Là các âm tiết A SUN RI TRI PRE và DU

Thân thể của các khuynh hướng nghiệp một khi đã được hình thành sẽ bộc lộ những hạt giống đã được gieo vào trong quá khứ bởi những ấn tượng nghiệp và cung cấp những điều kiện cho sự củng cố và tồn tại lâu dài của chúng sau này và tạo ra sáu cõi. Vào lúc chết, năng lượng tinh thần tập hợp trong trường âm tiết nào sẽ quyết định nơi tái sinh thích hợp.

Kỷ luật vượt trội được mô tả ở đây và được thực hành trên con đường của hiện tại là một đặc điểm rất đặc biệt của cách tiếp cận đơn giản, vô song và đa dạng. Việc rèn luyện được mô tả trong Di chúc cuối:

Trong chừng mực thân này biểu lộ trong vô minh,

Sáu cõi tồn tại dưới dạng hạt giống;

Trong chừng mực sự hiện diện thanh tịnh thực sự là ba thần,

Ba thân xuất hiện như ba hình tượng thiêng liêng.

Thứ cần được tịnh hóa là hình tượng màu trắng chữ A 20 trên đỉnh đầu, hạt giống của chư thiên, biểu tượng SU màu vàng xanh của tu la ở cổ họng; biểu tượng NRI xanh trời nhạt của con người ở tim; hình tượng TRI màu đỏ sậm của loài thú ở rốn; biểu tượng PRE màu trắng tro của ngạ quỷ ở bộ phận sinh dục; hình tượng DU màu khói của dân chúng địa ngục ở lòng bàn chân. Tỉnh giác về hiện tại là công cụ thanh lọc, nó gắn liền với chư Phật. Nó có bản chất của ba kim cương xuất hiện dưới dạng ba hình tượng: hình tượng OM màu trắng trên đỉnh đầu, AH màu đỏ ở cổ họng, và HUNG màu xanh lam ở tim. Quán tưởng ba ký tự đó cháy sáng rực rỡ trong vinh quang và huy hoàng; thông qua sự trì tụng chúng, ánh sáng tỏa chiếu từ chúng làm tan biến những hạt giống của sáu cõi và mọi tiềm năng của chúng. Hãy nghĩ rằng sự thanh lọc có hiệu quả và không còn lại gì nữa.

Hãy trì tụng 100 000 OM AH HUNG cho mỗi một của sáu biểu tượng để tịnh hóa, cộng thêm 100 000 để bù đắp những thiếu sót, tổng cộng là 700 000. Việc trì tụng như vậy sẽ tạo ra những dấu hiệu xá tội cho mọi hành động tiêu cực trong khi giải phóng tự nhiên những bám chấp thông thường của tâm thức. Như Ma trận của Tính trong suốt hứa hẹn:

Ai thực hiện phân chia và định nghĩa của rushen bên trong

Phá hủy khả năng tạo ra luân hồi và ảo tưởng.

Làm rõ thân khẩu ý

Rèn luyện ba cửa, với tâm trí làm chủ đạo có ba phần: thể chất, năng lượng và tinh thần.21

Làm Sáng Tỏ Thân Thể

Vượt ngoài Âm Thanh
hứa hẹn:

Bởi điều kiện tiên quyết về thể chất này,

Nguyên nhân của sự cá biệt hóa bị chặn lại;

Với tư thế kim cương

Thân thể được kiểm soát và tâm trí được hưởng lợi.

Tư thế đứng là tư thế đầu tiên trong hai tư thế kim cương. Đứng kiễng chân và chạm gót chân; mở rộng đầu gối của bạn ra ngoài; duỗi thẳng lưng; mở rộng khủy tay của bạn ra ngoài; chắp hai tay lên trên đầu mà không chạm vào; hếch cằm để tiếp xúc với thanh quản. Hãy quán tưởng thân bạn như một chày kim cương màu xanh trời có ba chấu với hào quang của lửa.

Nếu thấy mệt mỏi hãy áp dụng tư thế kim cương bất biến thay thế. Giữ thân bạn thẳng như một chày kim cương để năng lượng tạo ra chuyển động được tĩnh lặng. Hợp nhất bàn chân để những năng lượng nam nữ và trung tính được điều phục và bạn tự nhiên an trú trong tỉnh giác tịnh quang của hiện tại. Đẩy gót chân của bạn vào bộ phận sinh dục để giảm bớt ham muốn tình dục. Nối lòng bàn tay của bạn phía trên đầu. Nhờ vậy, việc làm sáng tỏ phần cốt yếu của thân được hoàn thành theo chỉ dẫn của Longchenpa.

Sau đó hãy suy nghĩ sáng suốt: hãy nghĩ rằng ba nhánh trên (cánh tay và đầu) của chày kim cương tượng trưng cho bản thể, bản tính và sự biểu hiện, ba nhánh dưới (chân và cơ quan sinh dục) tượng trưng cho ba chiều kim cương (ba thân), vùng thắt lưng nối chúng tượng trưng cho sự thống nhất giữa tính thanh tịnh và tự phát, đó là con đường.22

Có ba mục cho hoạt động này. Đầu tiên, sự cạn kiệt về thể chất sẽ loại bỏ những chướng ngại về thể chất. Đặc biệt việc quán tưởng thân thể như một chày kim cang rực rỡ sẽ xua đuổi các tinh linh gây bệnh tật và thôi miên các linh hồn gây cản trở.23 Cuối cùng, sự dính mắc vào cơ thể được gỡ bỏ và đạt được thân kim cương siêu phàm. Vào lúc đó, thông qua sự khởi sinh của tính đồng bộ thể chất,24 sự chứng ngộ xuất hiện trong tâm trí, và với những điều kiện như cạn kiệt và thư giãn hoàn toàn, việc buông bỏ ranh giới của suy nghĩ và cảm giác sẽ khiến cho sự hiện diện thanh tịnh không bị ràng buộc, từ đó mở ra con đường đưa đến sự lĩnh hội không thể đảo ngược để giới thiệu vào bản tính của tâm trí.

Làm Sáng Tỏ Lời Nói (năng lượng)

Vượt ngoài Âm Thanh
khuyên:

Đối với lời nói có chữ HUNG:

Niêm phong, tăng cường.

Tìm được sự linh hoạt

Và lên đường

Làm rõ lời nói và lợi ích tâm trí.

Niêm Phong

Chủ đề đầu tiên trong bốn chủ đề này là “niêm phong bằng tỉnh giác”, có hai khía cạnh: niêm phong bên ngoài - niêm phong hình tướng, và niêm phong bên trong - niêm phong cơ thể.

Niêm phong hình tướng

Nơi cô tịch, trong tư thế hoa sen, hãy tụng âm HUNG liên tục trong một bài tụng du dương kéo dài và tưởng tượng rằng mỗi thực thể bên ngoài, tĩnh lặng hay chuyển động, hữu tình hay vô tình, đã bị hình tượng HUNG chiếm hữu. Giữ răng và môi cách xa nhau một chút; hòa trộn sự quán tưởng, hơi thở và nhận thức làm một, và đừng lạc khỏi nó. Nếu các hình tướng trở nên rõ ràng như hình tượng HUNG, mờ ảo và không rõ ràng, đó là thước đo thành công của niêm phong. Do đó, những hình tướng khách quan nhất thiết phải được giải phóng vào bản tính không có chất thể của chúng.

Niêm phong thân thể

Để thực hiện niêm phong bên trong, phong ấn của thân – tâm, một lần nữa phát ra âm tiết HUNG, các biểu tượng HUNG lần lượt phóng chiếu vào các hình tướng bên ngoài và được rút lại vào thân thể qua da và xuất hiện bên trong, tất cả nội tạng, máu thịt đều được phi vật chất hóa. Hãy quán tưởng thân thể chứa đầy chữ HUNG, điều quan trọng là hãy hạn chế hơi thở. Nhờ đó các yếu tố vật lý được thanh lọc và giải phóng vật chất hữu hình và không còn dư lượng sót lại thì hoàn thành.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Tiềm năng: tiềm năng của hình tướng và thân thể

Tăng cường các hình tướng

Hung hãn và phẫn nộ phát ra âm HUNG, chữ HUNG lam đen, giống như những tia sét trên bầu trời, sắc bén và nhanh chóng, đủ kích cỡ khác nhau, phù hợp, trong tưởng tượng như thiên thạch rơi xuống, xuyên qua và xé nát núi non cùng nhà cửa, ví dụ vậy, do đó các hình tướng được cho là không có thực chất và không thật.

Tăng cường thân thể

Trong khi phát âm mạnh mẽ chữ HUNG, hãy quán tưởng một chữ HUNG xanh đen dài bằng ngón tay liên tục đam vào thân thể cho đến khi thân thể nhỏ lại thành các hạt. Dấu hiệu thành công là nổi da gà khắp nơi và cảm giác hoàn toàn vô hình giống như hình ảnh trong gương. Bằng cách đó các hồn ma gây bệnh tật được loại trừ và cơ thể, từ bên trong, được giải phóng mà không chảy vào tịnh quang.

Linh Hoạt

Để tinh thần minh mẫn, quán tưởng một cây gậy trước mặt bạn, tụng niệm chữ HUNG và tưởng tượng một chuỗi chữ HUNG đi ra khỏi luân xa tim, tiến tới gốc cây gậy, sau đó xoắn ốc lên cây gậy. Ở phía trên đỉnh của HUNG đầu tiên, đứng thẳng, hấp thụ các chữ HUNG theo sau nó. Tập trung vào nó và tụng niệm HUNG. Khi bạn mệt mỏi, hãy tập trung giải phóng các ký tự HUNG, sau đó chúng sẽ xoắn ốc xuống cây gậy và quạy trở lại tim, nơi chúng lại được hấp thụ bởi chữ đầu tiên đến. Sau đó thư giãn. Lặp lại bài tập này, tích hợp quá trình chuyển động từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong, qua lại, những phẩm chất của một tâm trí rất nhạy cảm nhưng vô cùng mềm dẻo sẽ đạt được cùng với trí tưởng tượng nhạy bén và linh hoạt.

Đưa lên đường

Hãy quán tưởng bạn là chữ HUNG màu xanh cao khoảng18 inches (50cm) di chuyển đây đó khắp mọi nơi, giống như một con côn trùng, đến mọi nơi. Hãy tưởng tượng bạn đang du lịch đến những nơi, những ngọn núi và thung lũng mà bạn biết và những nơi bạn chưa từng thấy, tất cả trong khi phát âm rõ ràng tiếng HUNG một cách dễ dàng. Qua đó, xu hướng cụ thể hóa các đối tượng giảm đi và thể chất cũng như dòng năng lượng của bạn sẽ thích ứng với từng hoàn cảnh.

Ngoài ra, hãy niệm âm HUNG HUNG, hãy tưởng tượng rằng giống như một mũi tên bắn đi một khoảng cách rất xa, bạn được đưa đến cõi Phật Biểu Lộ Hoan Hỷ, Abhirati, ở phía đông, hay bất cứ cõi Tịnh độ nào mà bạn ưa thích.26 Qua đó, một mối liên kết với với cõi tịnh độ đó được tạo ra để tận hưởng trong tương lai.

Tập trung vào đích đến mà bạn đã chọn, hợp nhất hơi thở, HUNG và tâm trí, là phương pháp tốt nhất để chấm dứt những tư tưởng lan man. Bằng cách đó, bức màn của lời nói được vén lên và bạn được giải thoát trong báo thân.

Làm Sáng Tỏ Tâm trí

Vượt ngoài Âm Thanh
hướng dẫn:

Hãy tìm hiểu nơi khởi nguồn của tâm trí,

Nơi nó cư trú

Và nơi giải thể của nó

Khi bạn khám phá được ba nơi này

Bạn sẽ biết bản chất của tâm trí.

Có hai phần để làm sáng tỏ tâm trí: thực hành thực tế và thư giãn hoàn toàn sau đó.

Thực hành thực tế: Khảo sát Tâm trí 27

Có ba phần trong thực hành này, thứ nhất là tìm hiểu nguồn gốc của tâm trí và người tìm kiếm nó; thứ hai là khảo sát nơi trú ngụ và tâm trí trú ngụ ở đó, và thứ ba, điều tra điểm đến và du khách tới đó.

Khởi nguồn của tâm trí và “người biết”

Bởi vì tâm trí tồn tại nên nó có trạng thái bản thể tích cực như một vũ trụ hữu tình và vô tri thống nhất, hay trạng thái tiêu cực như tính trống rỗng? Niềm tin vào một sự tồn tại tích cực, thực sự cho thấy khuynh hướng nghiêng về quan điểm của các Thanh Văn. Sau đó, bạn cũng phải hiểu rằng niềm tin vào tính khách quan là có thật và đúng đắn chỉ có giá trị nếu bạn đã khám phá ra một hạt nhân không thể chia nhỏ ra thành các đơn vị nhỏ hơn.

Theo đó, quan sát, tìm kiếm một hạt rời rạc bên trong, khi bạn không tìm ra nơi khởi đầu của tâm trí, bạn biết chắc chắn rằng, giống như một giấc mơ, tâm trí không có bản chất cố hữu. Nếu nền tảng của “người biết”, ý thức nắm bắt, không được hiểu là trống rỗng khi bắt đầu một sự kiện tinh thần bất kể hình thức của nó, thì bạn chỉ đặt niềm hy vọng mãnh liệt vào phương thức khẳng định hoặc không khẳng định phủ định, như các học giả Duy Thức và Trung Đạo.28

Do đó, ở đây bạn nên nhìn vào tâm trí tìm kiếm. Nhìn vào đó, nếu cuối cùng bạn kết luận rằng tâm trí tồn tại như một tia sáng nhất thời của tính trong trẻo, hay nói cách khác, nó phát sinh như những chuyển động khác nhau của tư tưởng, thì nhận thức của bạn hàm ý sự khẳng định về một điều vô căn cứ, toàn khắp, ma trận tâm trí. Nhưng bạn vẫn chưa thực sự nhìn thấy sự hiện diện thanh tịnh.

Nếu bạn kết luận tâm trí khởi lên từ tính không, thì bởi vì người tìm kiếm chắc chắn nhìn thấy những thuộc tính như hình dạng, màu sắc, đặc điểm, kích thước và không gian, một lần nữa, bản chất của người tìm kiến cần phải được nghiên cứu. Nhìn sâu vào nhận thức, người ta phát hiện ra tính nhị nguyên của những gì được tìm kiếm, và người tìm kiếm thì thiếu bất cứ đối tượng nào có thể khách quan hóa được và chẳng có bất kỳ cấu trúc chủ thể - đối tượng nào. Vì vậy, nó không thể được mô tả hay diễn đạt dưới bất cứ cách nào, hình dạng và hình thức nào, rồi cuối cùng không thể đưa ra một khẳng định nào về nó. Nếu sau đó bạn trở nên lạc lối trong không gian không – tâm trí đó,29 bạn đồng dạng với thực tại của pháp thân không sinh, không nền tảng và không gốc rễ. Như Trung Đạo (kết quả) mọi người nói:

Bởi vì tôi không khẳng định gì cả,

Nên tôi chẳng là gì khác ngoài sự thanh khiết.30

Bằng cách đó, không đưa ra bất cứ khẳng định nào, bạn đến trực tiếp, bạn thực sự thấy, thực tại tối hậu của Đại Toàn Thiện tự nhiên. Những triết gia đương thời ngạo mạn tuyên bố đạt được thông qua phân tích trí thức và lý trí lại không nhìn thấy điều đó. Longchenpa đã nói thế.

Chỗ ngồi của Tâm trí và chỗ Trú ngụ của nó

Khi trong khoảnh khắc hiện tại tâm trí xuất hiện ở bên ngoài, nó là một đối tượng bên ngoài; khi nó xuất hiện ở bên trong thì đó là thân – tâm. Hỏi tâm trí ở đâu, bên trong hay bên ngoài, trên hay dưới, đầu hay đuổi, hay bất cứ nơi nào khác. Nếu bạn thực sự tìm được một nơi mà tâm trí đang an trú, hãy xác định nó và tập trung vào các thuộc tính được cho là của nó, chẳng hạn như hình dạng, màu sắc và chức năng. Khi không có gì được phát hiện ở đó, ảo tưởng về sự tồn tại thực chất của tâm trí cuối cùng cũng bị phá bỏ. Khi bạn không tìm được chỗ ngồi của tâm trí ở bên trong hay bên ngoài, hãy tiến hành khám phá trực tiếp xem cái gì dường như đang cư trú ở đó.

Những người mà sự trong sáng tự nhiên của tàng thức dường như là một cái gì đó thực sự tồn tại thì gần với quan điểm của những người Duy Thức Chân Ảnh.31 Tuy nhiên, trong kinh nghiệm Đại Toàn Thiện tự nhiên, không có bằng chứng nào về sự tồn tại của tâm trí xuất hiện, giống như hình dạng của một lá thư được viết ở trong nước, hình dánh của nó biến mất như vốn có, biến mất không dấu vết trong một khoảnh khắc vô tận.

Tương tự, giống như một chiếc thuyền chìm bị biển nuốt chửng, người tìm kiếm vị trí của tâm trí tan biến vào thời điểm đó, khiến anh ta bị tước bỏ mọi danh tính. Bằng cách đó, bạn có thể hiểu được thực tại của báo thân không cấu trúc hóa.

Theo đó, những hoàn cảnh xung quanh nguyên nhân chính của một sự kiện thể chất, cảm xúc, tinh thần, chẳng hạn như một cái gai đâm, cái gì và ở đâu, thời gian và địa điểm, theo bề ngoài, dường như có sự tồn tại nào đó: ý chí nghiệp báo cung cấp nguyên nhân, và suy nghĩ phản ứng theo bản năng cung cấp các điều kiện, và bởi vì có giả định rằng tâm trí bám vào tiêu điểm khách quan nên kết quả là một cảm giác về cái “tôi” nảy sinh. Ngược lại, khi lĩnh vực nhận thức nhị nguyên không còn nữa, được giải quyết trong thực tại hoàn hảo, bạn có thể đánh giá cao 33 ý kiến: “Ngay cả khi bị bao vây và tấn công bởi hàng trăm kẻ báo thù từ hố địa ngục, bạn cũng chẳng hề lo lắng hay sợ hãi”.

Điểm đến và Du khách

Tìm kiếm đích đến, nơi giải thể của một sự kiện, để khám phá xem nó ở môi trường bên ngoài hay đâu đó bên trong, nơi đó là một hình tướng hay sự trống không của nó, không tìm thấy bất cứ bằng chứng nào về nó ở bất cứ nơi đâu, xen kẽ mong đợi và sợ hãi, tâm trí sẽ thoái lui khỏi ý niệm về một cái đích đến. Sau khi phản ứng đó nảy sinh, hãy tìm kiếm những đặc điểm của người du hành và khi bạn đã khám phá ra anh ta và không tìm thấy gì đáng kể tồn tại, hãy yên tâm rằng Phật quả không phải điều có thể đạt được bằng cách làm bất cứ điều gì.

Vì không có đích đến, bạn sẽ kết luận rằng những hình tướng khách quan là sự sáng tạo của tâm trí, và vì không có người du hành nên bạn có thể tin tưởng vào sự chắc chắn rằng “người biết” không có bất cứ bản chất nội tại nào. Vào lúc đó, sự hiện diện trống rỗng bất động được nhận biết là hóa thân.

Những hướng dẫn cốt lõi không phổ biến này về ba nguồn gốc, nơi cư trú và nơi đến, ảnh hưởng đến sự sụp đổ của cấu trúc tâm trí suy luận, cung cấp một con đường cực kỳ tao nhãn, nhanh chóng.

Nhờ thực hành bài luyện tinh thần này, ở mức độ thông thường, những bức màn che chướng của tâm trí được vén lên, những chướng ngại được chiếu sáng và biến mất, sự bám chấp được nới lỏng. Điều hiếm thấy là để phân biệt luân hồi và niết bàn, các thuộc tính của tâm trí được giải phóng vào vào sự tỉnh giác về hiện tại như sự hiện diện trống rỗng. Cuối cùng, tâm kim cương, bất khả phân với toàn thể chư Phật, tan biến vào nền tảng của cái ở đây và bây giờ.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Thư giãn và Thay mới hoàn toàn

Vượt ngoài Âm Thanh hướng dẫn:

Sau đó, sử dụng các chìa khóa về thể chất, năng lượng và tinh thần

Thiền giả sẽ rơi vào trạng thái thư giãn hoàn toàn.34

Trong quá trình tu tập căn bản, thể chất và các yếu tố có thể bị xáo trộn, và để thiết lập lại trạng thái cân bằng trong cơ chế tồn tại tự nhiên,35 cần phải tuân thủ những điểm chính sau đây. Chỉ thị quan trọng về mặt thể chất là thực hiện tư thế của một xác chết trong một nghĩa địa trên bầu trời, trong đó không có sự đánh giá đạo đức và mọi hoạt động. Hướng dẫn quan trọng liên quan đến lời nói là duy trì sự im lặng tự nhiên, trong khi hơi thở phải được giữ nhẹ nhàng và chậm rãi. Lời chỉ dẫn quan trọng là phải thoát khỏi nhưng suy nghĩ xao lãng, nơi tâm trí trống rỗng như bầu trời trong đó mọi đám mây đã tan biến. Thoát khỏi hành động cố ý hay vô ý, bạn nên nghỉ ngơi hoàn toàn thư giãn trong ba, bảy, hoặc hai mươi mốt ngày. Sự cần thiết được giải thích trong Ma trận của sự sáng tỏ:

Bất cứ ai thực hiện yoga nghỉ ngơi tự nhiên này

Loại bỏ sự khó chịu của các nguyên tố và điều kiện bệnh tật

Và sự bám chấp của anh ta sẽ tự giải phóng.

Đổi mới: Di chúc cuối giải thích:

Thanh Văn, Bồ Tất và Heruka

Nhìn chăm chú kích thích đổi mới;

Thân, khẩu, ý được hồi sinh

Và khả năng tiếp thu kinh nghiệm được đánh thức lại.

Đầu tiên, ngồi trong tư thế Vairochana bảy điểm, với cái nhìn chăm chú của Thanh Văn, không phản ứng với các khái niệm cảm xúc. Thứ hai, cái nhìn của Bồ Tát không được tập trung quá sáu feet (2m) về phía trước. Thứ ba, với cái nhìn Heruka, hãy đặt chân vào tư thế hung nộ, với đôi mắt mở to nhìn vào không gian, phát ra tiếng cười HA HA dữ dội của Heruka và tiếng cười xa HI HI của các nữ Heruka, và từ đó không gian tu tập phá hủy ngôi nhà giả ảo của các hình tướng. Mục đích của những cái nhìn chăm chú này được giải thích trong Ma trận rõ ràng:

Cái nhìn an bình của Thanh Văn

Cho phép thân khẩu ý được nghỉ ngơi;

Cái nhìn của Bồ tát

Tạo ra hỷ lạc khi được nghỉ ngơi hoàn hảo;

Cái nhìn của heruka

Thành tựu ba phẩm tính Phật này của sự an nghỉ.

Một số văn bản cổ hơn khuyên rằng trong tư thế Vairochana, chẳng hạn, chúng ta nên tập trung vào chóp mũi, và nói rằng cái nhìn của Bồ tát không phải lúc nào cũng bình yên, vân vân.

Những khuyến cáo này là vô nghĩa.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
CHÚ THÍCH CỦA RÈN LUYỆN CĂN BẢN

10. Vượt ngoài âm thanh: là bản có thẩm quyền nhất, gốc rễ, trong loạt hướng dẫn cốt lõi mật điển liên hoàn.

11. Lớp ngoài đặc biệt phù hợp với “người siêng năng can đảm”. Người hướng ngoại dễ dàng giải quyết rushen bên ngoài, đối với người hướng nội thì điều đó là bắt buộc.

12. Chư thiên, rồng, dạ xoa, càn thát bà, ngạ quỷ và địa ngục.

13. Urna: điểm giữa hai lông mày của Phật được đánh dấu bằng một sơi tóc cuộn.

14. Prasangika

15. Chín trạng thái khiên vũ bắt nguồn từ truyền thống Bhataratanatyam của Ấn Độ: khiêu gợi, anh hùng, ghê tởm, giận duẽ, hài hước, đáng sợ, từ bi, tuyệt vời, yên tĩnh.

16. Khorde Rushen được đánh giá rất cao. Sự tách biệt cho phép luân hồi và niết bàn quay trở lại thành một khuôn thống nhất tự nhiên.

17. Ba tháng trở lên là chuyện bình thường ở Tây Tạng.

18. Sinh khởi tự nhiên không do dự theo cách các âm tiết của một vòng mật chú xuất hiện vô tình trong tâm nhãn.

19. Ba cõi: dục, sắc, vô sắc.

20. A sửa thành AH.

21. Chuỗi bài tập này được một số dòng truyền thừa đưa vào danh mục Rushen bên trong.

22. Con đường (hay khoảng khắc phi thời gian) là một sự thống nhất bất khả phân giữa tính thanh tịnh bản nguyên của Đột Phá (kadag) và hiện diện tự phát của Vượt Qua.

23. Gek: những linh hồn xấu xa và oán hận lẻn vào với những thứ khó tiêu trong những lúc thiếu chú ý.

24. “Sự đồng bộ về thể chất” được thiết lập khi tất cả các bộ phận của thân khẩu ý bên trong và bên ngoài tham gia cùng nhau trong sự phục thuộc lẫn nhau được thống nhất.

25. Ở đây “khả năng” hay “luyện tập nhận thức về bản chất nội tại của cái nhìn” hàm ý sự gia tăng cảm giáo ảo tưởng thông qua sự chú ý đến bất cứ điều gì tạo nên kinh nghiệm trong khoảnh khắc. Tính sáng tạo có khả năng phi bản thể hóa chính nó, chức năng được chỉ ra ở đây, và do đó “tăng cường” nó. Xem thêm các số 47, 48, 49 để biết chức năng quan trọng này.

26. Xem 106.

27. Tâm trí (và tư tưởng) ở đây được hiểu là hiện tượng. Xin lưu ý rằng bài tập này mặc dù có thể khởi đầu mang tính trí thức nhưng nó sẽ sớm trở thành bài tập kinh nghiệm.

28. “Khẳng định phủ định”: hàm ý rằng phủ định được khẳng định như một tồn tại phủ định, trong khi “phủ định không khẳng định” hàm ý rằng phủ định bị phủ nhận bất cứ trạng thái bản thể nào; cả hai chỉ đơn thuần là những mệnh đề trí thức trong học thuật của Duy Thức và Trung quán.

29. Lý trí được dừng lại trong một khoảnh khắc được soi sáng.

30. Đước gán cho Long Thọ bởi Trung Quán Cụ Duyên.

31. Chittamatra Anakaravada: coi khía cạnh khách quan của nhận thức là ảo tưởng, nhưng ánh sáng của chính tàng thức, trong đó nó phát sinh, đồng nhất với nhận thức nội tại, được coi là thực sự tồn tại.

32. deltarba được ưa chuộng hơn da itar ba

33. Lhongs pa được thích hơn slangs pa

34. Thực hành này phát âm là neduwa hay newapa, được thực hiện ở một số dòng truyền vào cuối mỗi buổi tập bên ngoài, không phải như một số bài tập riêng biệt mà là một sự tiếp nối, thư giãn để trở nên bình tĩnh tự nhiên khi kiệt sức.

35. Đôi khi sự “phân phát hiện tại tự nhiên” hàm ý về một “trạng thái bám chấp”, một trạng thái cần đạt được và bảo vệ. Chắc chắn các vị tinh thông Dzogchen đều phi trạng thái. Xem bản thuật ngư “tính xác thực hiện tại”.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
CHƯƠNG HAI

KẾT QUẢ TRONG ĐỘT PHÁ



Có hai phương pháp giới thiệu vào các yoga nền tảng thực sự của Dzogchen. Thứ nhất là thông qua quán đỉnh và thứ hai là giới thiệu trực tiếp.

Trước hết, nói chung, để gieo trồng hạt giống của bốn thân Phật, chuẩn bị cho cái bình thiền định trên con đường nhanh chóng đến Phật quả, chúng ta bước vào mandala tối thượng của quán đỉnh. Nhờ vậy các chức năng của sự chín muồi sẽ đạt được. Tiếp nhận toàn bộ hướng dẫn mà không hấp thụ thẩm quyền, mục đích và ý nghĩa mà quán đỉnh ban tặng sẽ dẫn đến cái nhìn có thành kiến sâu sắc về mật tông.

Thứ hai, cụ thể, bằng định nghĩa, cách tiếp cận tâm - kim cương vô song được trình bày là lấy kết quả (rigpa) làm con đường và tại sao, do đó, nó được coi là nền tảng thực sự của mọi con đường dẫn đến Phật. Sau đó, giới thiệu trực tiếp về sự hiện diện thanh tịnh như bản chất của kết quả được trình bày.



ĐỊNH NGHĨA VỀ KẾT QUẢ

Kết quả không thể được coi đơn giản là nền tảng không có nội dung nhưng không thấy được nội dung biểu tượng ba phần của nó.36 Hơn nữa, chỉ đơn thuần bằng cách đặt các cặp từ như “sáng chói” và “sâu xa”, “hình dạng” và “tính không” lại với nhau, sẽ không mang lại kinh nghiệm đích thực về cái thấy và thiền định.

Kết quả cũng chẳng thể được coi là nội dung không có nền tảng, vì điều đó giống như nhìn vào nội dung ba phần mà không ghi nhận được ý nghĩa căn bản của nó. Mặc dù bạn có thể hiểu được về mặt tri thức khái niệm về tính đơn giản được đưa ra bởi bốn bổ đề và giải quyết tám cực đoan,37 sự hiểu biết đó chỉ là suy luận mang tính khái niệm, không phải là kinh nghiệm đích thực.

Kết quả chẳng thể được coi là cả nền tảng lẫn nội dung, vì điều đó tương tự như không thấy cả ngôi chùa lẫn đại diện tượng Phật bên trong. Nếu bạn chỉ tin rằng “Mọi kinh nghiệm là huyễn ảo” và coi câu ngạn ngữ đó là con đường, trừ khi trước khi chết bạn có được trực giác trải nghiệm trực tiếp về bản tính không chắc thực, thì thành tựu tối hậu của bạn sẽ là một thân xác bình thường.

Trong cái thấy tâm yếu của Đại Toàn Thiện , nền tảng và nội dung bao gồm kết quả. Khi bản tính của việc hỗ trợ và được hỗ trợ, chứa đựng và được chứa đựng, được kinh nghiệm giống như chúng vẫn là, bất chấp những ý nghĩ như “Đây là cái thấy!” hay “Đây là không thiền định”, sự tự giải thoát vẫn được hiển lộ rõ ràng.

Giới thiệu trực tiếp vào Hiện Diện Thanh Tịnh: Phương pháp Đột Phá Không Thiền Định

Tùy thuộc vào mức nhạy bén của học viên, có hai cách chỉ ra bản tính của tâm trí. Phương pháp đầu tiên dành cho người có độ nhạy bén sắc xảo, những người có thể đạt giải thoát nhờ quyết tâm trong việc không thiền định dựa trên hướng dẫn Đột Phá. Phương pháp thứ hai dành cho những người siêng năng thực hành có thể thiền định về Vượt Qua; ba thân xuất hiện như những hình tướng trong thời điểm chúng được giải phóng, và niết bàn được đạt tới mà không có bất cứ dư lượng vật chất nào.

Dựa trên sự nhạy bén của người tìm đạo, có hai cách chỉ ra bản tính của tâm trí trong Đột Phá, sử dụng hình thức thông thường hoặc cao cấp.

Hình Thức Thông Thường

Đối với những môn đệ trung thành của Nyingthik mà ánh sáng của tâm trí vẫn còn ẩn giấu, sự chỉ thẳng được đưa ra như trong mật điển Hướng Dẫn Chỉ Thẳng:

EMAHO! Thông qua việc chỉ ra các hình tướng là tâm trí, tâm trí đạt được việc làm chủ các hình tướng; thông qua việc chỉ ra bản tính của tâm trí là tính không, tính không được niêm phong là hỷ lạc; thông qua việc chỉ ra tính không là sự hiện diện thanh tịnh, sự mở rộng bất nhị xuất hiện, và đó chắc chắn là pháp thân.

Việc chỉ ra các hình tướng là sự tạo dựng của tâm trí sẽ đảo ngược xu hướng cho rằng nội dung của dòng tâm thức là có thật và đúng sự thật; theo cách tương tự, bằng cách chỉ ra sự tạo tác tinh thần là tính không, xu hướng bám dính vào các đối tượng bên ngoài là có thật và đúng đắn bị loại trừ; ví dụ, việc chỉ ra tính không như sự hiện diện thanh tịnh, ngăn chặn hiệu quả bất cứ một sự chệch hướng nào vào chủ nghĩa hư vô, và đó là chỉ dẫn rất có ích.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Tuy nhiên, điều này thậm chí còn không gần với cái thấy của Nyingthik. Như Sinh Khởi Tự Nhiên nhấn mạnh:

Về mối ràng buộc giữa tâm trí và hình tướng

Chắc chắn suy nghĩ lúc đó sẽ tạo nên mọi thứ

Còn nếu tôi nghĩ về bản tính tâm trí của mình thì sao?

Có phải chỉ là suy nghĩ tư tưởng tạo ra nó như vậy?

Đó không phải là ý tưởng giải thoát của tôi!



Trong một số tài liệu,38 ngược lại, người ta cho rằng tâm trí chỉ có sự tồn tại tương đối và không có sự tồn tại tuyệt đối nào cả, sau khi đã quyết định rằng cái tương đối là có tồn tại, những đề cập đến cái thấy và thiền định được coi là một con đường khái niệm.

Thuật ngữ “hai trong một” đi kèm với cái thấy như vậy mô tả hai khía cạnh bổ sung cho nhau kết hợp để tạo thành một cặp thống nhất. Ở đây trong Đại Toàn Thiện, trong hiện tại, hiện diện thanh tịnh và tính không luôn giống nhau; bất cứ sự khác biệt nào giữa hai thứ này đều đã được giải quyết trong thực tại phi thời gian. Vì lý do này, không có gì để thống nhất trong Đại Toàn Thiện.

Vì những lý do đó, Longchenpa nói:

Hãy biết rằng việc chỉ ra những hình tướng là tâm trí và bản tính của tâm trí là tính không (do đó làm cho tính nhị nguyên của hình tướng và tính không thành một thể thống nhất) không phải là phương pháp chỉ dẫn cốt lõi của Nyingthik. Hướng dẫn như vậy đôi khi có thể được đưa ra, nhưng chỉ như một phương tiện tạm thời để nâng cao tâm trí của một cá nhân nhận điểm đạo, chắc chắn không phải là một chân lý tối hậu.39

Liên quan đến sai lầm về việc đồng nhất giữa các hình tướng và tâm trí, một bằng chứng hợp lý dựa trên kinh nghiệm trực tiếp rằng các hình tướng không phải là tâm trí có thể được tìm thấy trong Phân Biệt Trung Đạo và các Cực Đoan. Trong đó, năm trạng thái vô thức: ngủ sâu, ngất xỉu, hai trạng thái bình lặng (chết và tiểu khoái lạc) và định vô tưởng được đưa ra như những ví dụ về tình huống trong đó tâm trí vắng mặt nhưng các hình tướng vẫn không thay đổi.

Hơn nữa, trong giấc mơ đêm qua, chúng ta tin rằng viên ngọc mà chúng ta tìm thấy hoặc lạc thú mà chúng ta cảm nhận là có thật, nhưng khi tỉnh dậy chúng ta hiểu rằng chúng chẳng là gì ngoài thứ hão huyền. Vì lý do đó, chúng ta có niềm tin rằng suy nghĩ và cả các hình tướng bên ngoài lẫn bên trong 11 đều phát sinh từ hoàn cảnh ngẫu nhiên.

Ngày nay, trong thời kỳ suy vi của Đại Toàn Thiện,42 nhiều người chỉ đặt niềm tin vào việc chỉ ra sự giới thiệu các hình tướng là tâm trí. Vì lý do đó, tôi đang đưa ra ở đây lời giới thiệu Nyingthik thuần túy cuối cùng chỉ ra sự giới thiệu trực tiếp. Như Sinh Khởi Tự Nhiên nhấn mạnh:

Khi sư tử gầm lên, các loại động vật khác trong rừng rúng động vì sợ hãi và ngất đi; khi Đại Toàn Thiện nói ngôn ngữ của chính nó mà không chút cung kính, những người ở các thừa thấp hơn sẽ run rẩy và ngất đi.

Những người thiếu may mắn coi suy nghĩ logic là chân lý tối hậu và hy vọng tìm thấy Đại Toàn Thiện qua phân tích tinh thần có thể lăng mạ chúng ta bằng lời, nhưng như Longchenpa đã nói: “Điều bắt buộc cần phải hiểu rằng việc coi những hình tướng như tâm trí là một quan điểm không sáng suốt”.43

Ghi nhớ lời khuyên đó, tôi sẽ đưa ra lời giải thích tỉ mỉ, làm sáng tỏ con đường.

Hình thức Cao Cấp không phổ biến

Đưa ra lời giới thiệu chỉ thẳng theo kinh nghiệm và trực tiếp không phổ biến này cũng giống như phục hồi thị lực cho người mù. Hướng dẫn những người tìm đạo đảm nhận tư thế kim cương và sau đó cùng với trống và chuông trì tụng du dương Lời cầu nguyện chuyển hóa của dòng truyền sau đó nói:

Kye! Trong sự hiện diện thanh tịnh, ở đây và bây giờ, đừng cố gắng thay đổi bất cứ điều gì, hay thêm bớt bất cứ điều gì; nhưng không cần trau chuốt hay tập trung, cứ để nó như vậy. Không có sự tồn tại hay không tồn tại cũng như không – thời gian đều không được tìm thấy ở đây. Các hình tướng và tính không chẳng thể phân biệt được, nên cả vĩnh hằng lẫn hư không đều không thể nhận thức được ở bất cứ nơi đâu. Trong không gian không thể xác định này, không có cái thấy khái niệm hay thiền định định hướng nào có thể được áp dụng.

Sự giải phóng tuyệt vời này ở đây và bây giờ không giống như việc giành được tự do khỏi chuỗi vật chất. Đúng hơn, sự trong sáng tự nhiên, vốn không phải là sản phẩm của lý trí, được nhận biết đúng như nó vốn có; tỉnh biết về cái hiện tại, cái không thể được tạo ra bởi các khái niệm, sẽ theo kịp bạn; bạn bây giờ đã biết thực tại không thể bị phá hỏng bởi quan điểm khái niệm hay thiền định có mục đích; và bạn an trú trong sự bình thản không thể lay chuyển. Sự giải phóng tuyệt vời này là hậu thiền định mà không có bất cứ giai đoạn tiền thiền định nào; nó là tính trong sáng không có bất kỳ bản tính chắc thật nào, và nó là cái bao la không bị mất đi tính đồng nhất.

Bạn không bao giờ có thể trải qua khoảnh khắc tách rời khỏi tầm nhìn nội tại, tự nhiên này trong hiện tại, nhưng do không nhận ra được nó đã trở nên cụ thể hóa, giống như một dòng nước tự nhiên đông cứng như băng. Với tâm trí bám chấp bên trong làm nguyên nhân và đối tượng cố định bên ngoài làm điều kiện, bạn liên tục lang thang trong luân hồi.

Ở đây và bây giờ, nhờ chỉ dẫn cốt lõi sâu sắc nhất của vị thầy này, bạn nghỉ ngơi mà không làm thay đổi sự hiện diện thuần khiết nội tại trong khoảnh khắc, không có bất cứ sự xao lãng nào khỏi nó và không có bất kỳ thiền định nào được áp dụng. Qua đó, khuôn mặt thật của vị Phật hiện tại, Kuntuzangpo, được hiển lộ sống động.

Ma trận sáu phần trình bày thị kiến này:

Trong bản tính của tâm trí, không thường hằng cũng chẳng trống rỗng.

Các hình tướng không tốt cũng chẳng xấu:

Tôi, Kuntuzangpo, tiết lộ nhãn quan không phân biệt này.

Trong bản tính của tâm trí không chấp nhận cũng không bác bỏ

Các hình tướng là sự xuất hiện và phi không gian:

Tôi, Kuntuzangpo, phô bày tầm nhìn toàn khắp này.

Trong bản tính của tâm trí không trầm cũng chẳng thăng

Thị kiến thuộc về sự bình thản hoàn toàn:

Tôi, Kuntuzangpo, hiển bày một thị kiến về nhận thức giác quan sang trọng.

Trong bản tính của tâm trí, vốn là không sợ hãi,

Nhận thức không có mong đợi và thất vọng:

Tôi, Kuntuzangpo, thể hiện thị kiến về sự tự tin và thoải mái trong hiện tại.

Khối Ngọc tuyên bố:

Thực tại không nền tảng, không căn cứ này

Chỉ bỏ lại một mình, là hoàn toàn tuyệt vời.

Hiện diện thanh tịnh bất động này,

Không có đích đến, hoàn toàn đáng kinh ngạc;

Tỉnh giác sẵn có tức thời này về hiện tại,

Không thể kìm nén, hoàn toàn tuyệt vời.

Nguồn tối thượng viết:

Chư Phật trong quá khứ không khám phá được gì ngoài tâm của chính các ngài,

Và các ngài không thay đổi những gì các ngài vốn có.

Họ không thực hành định khái niệm,

Chứng ngộ tâm trí của chính họ bằng các phương tiện vô niệm.

Chư Phật hiện tại và tương lai cũng vậy,

Sẽ chỉ đạt đến sự giống nhau vô niệm.

Trong cách diễn đạt thông thường của cách tiếp cận này, bản tính thiết yếu của tâm trí được biết đến như là “sự giải thoát tự nhiên tráng lệ ngay từ đầu”; xác định và nhận biết bản tính của tâm trí vốn tự giải thoát được gọi là “sự hiện diện thanh tịnh”; và duy trì sự nhận biết đó gọi là “tức khắc thành Phật”. Con đường này được cho là nhanh nhất trong tất cả các con đường.

Nguồn cảm hứng được mang lại nhờ những trích dẫn có ý nghĩa như vậy.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Những bổ sung quan trọng giúp giải quyết nghi ngờ và loại bỏ những trở ngại

Trong khi bảo vệ tính liện tục của trạng thái hoàn hảo nội tại tuyệt vời của sự hiện diện 44 hiện sinh của chúng ta, nếu ý nghĩ “bản chất của sự hiện diện thanh tịnh là trống rỗng” nảy sinh trong tâm trí logic, bằng cách gán tiêu điểm khách quan của tính không vào sự hiện diện thanh tịnh, Phật quả bị phá tan. Sử Tử Cuồng Bạo nói:

Thực tại không thể được nhìn thấy qua thiền định tạo tác thông thường.

Nhưng trong việc chiêm nghiệm tự nhận thức về việc thoát khỏi mọi trạng thái tinh thần,

Nơi thực tại không tạo tác cùng tồn tại với bầu trời

Và lĩnh vực tham chiếu không bao giờ bị tư duy cố định,

Thoát khỏi bốn thái cực,45 Phật là sự hiện diện nội tại của chúng ta,

Và vượt ngoài thuyết nhị nguyên tồn tại hay không tồn tại. Pháp thân nằm ở đó.

Vì lý do đó, chúng ta buông bỏ xu hướng che đậy để bám chấp và khái niệm hóa tính không và thư giãn trong một trạng thái giải thoát tuyệt vời, trọn vẹn khỏi các cực đoan. Tuy nhiên, nếu bạn nghĩ một cách tự tin. “đây thực sự là cách nó vượt khỏi hiện hữu và không hiện hữu!” sự ràng buộc đó chắc chắn đã che khuất bộ mặt nguyên thủy của bạn. Đại Kim Xí Điểu cảnh báo:

Bất cứ ai cố gắn tìm kiếm cái vô biên

Giống như con chim mù cố gắng tìm kiếm chỗ kết thúc của bầu trời

Những gì không thể tìm thấy thì không thể tạo dựng ra

Và nhận thức đơn giản thì không có các tham số.

Cũng vậy, sau khi bất cứ đối tượng nào khởi lên trong bất cứ trường giác quan nào của chúng ta đã được khái niệm hóa, bất kể nó trông tốt hay xấu, việc bám chặt vào nó không những không cần thiết mà còn vô ích. Trong những cách tiếp cận trí thức, người ta tin rằng việc đập tan một đối tượng giác quan bằng cách áp dụng sự khẳng định hoặc không khẳng định của phép phủ định tính không, ví dụ vậy, sẽ giúp đạt đến Phật quả. Điều này không đúng. Nguồn tối thượng khẳng định:

Vô minh về nguồn tối thượng,

Một đối tượng giác quan trong mỗi sáu giác quan,

Bị coi là xâm phạm, bị đàn áp;

Không biết nguồn tối thượng,

Quả vị liễu thoát sinh tử vẫn ngoài tầm với.

Đồng thời sinh khởi và giải thoát

Phân tích trước đây ngụ ý rằng quan điểm Nyingthik gần với quan điểm sai lầm của những tín đồ Chân Ảnh Duy Thức,46 những người không phân biệt giữa hình tướng và nhận thức. Để làm rõ quan điểm Nyingthik, lấy nhận thức về một ngọn núi làm ví dụ, ngay giây phút đầu tiên nhìn thấy ngọn núi, điều không thể tránh khỏi là một người bình thường sẽ nghĩ, “ngọn núi”. Trong khoảnh khắc thứ hai, tuy nhiên, khi bản chất nội tại của ngọn núi được bộc lộ đầy đủ bởi tiềm năng sáng tạo hoàn chỉnh 47 của sự kiện tinh thần đó, mọi ý nghĩ về ngọn núi, hay bất cứ khái niệm nào về nó, đều biến mất không dấu vết. Trong khoảnh khắc đó, nhờ sự quen thuộc ngày càng tăng với thực tại thường trực của ngọn núi, khía cạnh hữu hình của nó không được cấu trúc hóa, sự bám chấp vào nó bị loại trừ. Sự khởi đầu và giải thoát nguyên sơ xuất hiện đồng thời, tâm trí trộn lẫn với các hình tướng. Đó là cách nhận thức không thể sai lầm, không ngừng dứt trong Đại Toàn Thiện tự nhiên.48

Như Rigzin Garab Dorje đã nói về tính thanh tịnh nguyên sơ của sinh khởi và giải thoát đồng thời:

Siêu việt mọi phân biệt trong sự phát sinh của nó.

Siêu việt mọi phân biệt trong sự giải thoát của nó.

Do đó, chúng ta không cần quan tâm đến việc xóa bỏ những vết nhơ đạo đức và những vấn đề về sự phân biệt giữa cái tốt cần trau dồi và cái xấu cần từ bỏ. Vượt trội hơn nhiều so với kỷ luật đạo đức mà những mối quan tâm như vậy đòi hỏi, với những xiềng xích hư hỏng của các khuôn mẫu hành động được hình thành trước kèm theo những lời thề và quy tắc cứng nhắc, là thị kiến tối thượng về cách tiệp cận tự nhiên của chúng ta. Ở đây, trong điểm ảnh 49 bao trùm duy nhất, mọi thiện hạnh được sử dụng như phương tiện thiện xảo, tất cả sự suy ngẫm ngụ ý tuệ quán sâu xa trên con đường trí tuệ ba la mật 50 được hoàn thành như thực tại tối hậu của việc tĩnh tâm quán chiếu về hiện diện thanh tịnh.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Kinh Yêu Cầu Đặc Biệt có thể đưa ra những tương tự sau:

Không bám chấp là bố thí;

Vô gia cư là trì giới;

Không phòng ngự là nhẫn nhục;

Không nỗ lực là tinh tấn;

Vô niệm là thiền định;

Không tham chiếu là trí tuệ hoàn hảo.

Nguồn cảm hứng từ những câu kinh văn như vậy là niềm vui thuần khiết của các học giả và sự mở mang tầm mắt cho những người ít học.

Nghỉ Ngơi Tự Do

Sau đó, việc chấp nhận vào thực tại của sự nghỉ ngơi 51 tự do bốn phần. Trong Ngọn đèn soi sáng bốn phương thức nghỉ ngơi tự do được diễn đạt theo cách sau:

Được tự do nghỉ ngơi như một ngọn núi là thước đo của cái thấy;

Được tự do nghỉ ngơi như đại dương là thước đo của thiền định;

Được tự do nghỉ ngơi trong vẻ bề ngoài là thước đo của hành vi;

Được tự do nghỉ ngơi trong sự hiện diện thanh tịnh là thước đo của kết quả.

Bậc biết đủ mọi chiều kích của bốn cách này

Biết ý nghĩa tối hậu của Đại Toàn Thiện.

Tự do nghỉ ngơi trong khung cảnh giống như một ngọn núi, và nhờ đó được đưa vào trải nghiệm tạm thời mà không bị can thiệp về mặt tinh thần, chúng ta biết tịnh quang rực rỡ tự nhiên của sự hiện diện thanh tịnh. Thoát khỏi pháp thiền đối trị có chủ ý của một tâm trí logic có định hướng mục tiêu, trong sự mở rộng hoàn toàn không bị ngăn ngại, không có việc chuyển hóa hay thăng hoa.

Tự do nghỉ ngơi trong thiền định như đại dương, với thân trong tư thế hoa sen và mắt nhìn thẳng về phía trước,52 không tạo ra một tầm nhìn giả tạo rộng lớn mà cố định vào những hình tướng giác quan trong sáu trường giác quan, trong một không gian giống như đại dương không bị sóng quấy nhiễu, chúng ta an trú trong tính thanh tịnh cô đọng của nhận thức.

Chỉ dẫn cốt lõi sâu sắc về việc tự do an trú trong các hình tướng là thư giãn tự nhiên và trọn vẹn trong hoạt động thể chất, năng lượng và tinh thần, sao cho khi thoát khỏi vỏ bọc của cái thấy và thiền định, thực tại, của trạng thái tỉnh giác về cái bây giờ, được đối diện trực tiếp trong sự trần trụi và trong sáng tự nhiên của nó.

Trong kết quả nghỉ ngơi tự do không gượng ép, được buông cho sắp đặt tự nhiên, năm giác quan khởi lên một cách sống động như ánh sáng chói lóa tự nhiên trần trụi bên trong chúng. Khi sự mở trống đồng hóa ngũ khí,53 khói, ảo ảnh, ánh sáng cầu vồng và các hiện tượng hiển nhiên bên ngoài khác xuất hiện như sự hình dung về tịnh quan thuần khiết phù hợp với các tantra thấp hơn.

Đột Phá dành cho các Năng Lực khác nhau

Tóm lại, không hoạt động là thiên mệnh tự nhiên của tâm trí, ba cửa (thân, khẩu, ý), trong thiên mệnh tự nhiên của chúng, bị ràng buộc không thể tránh khỏi trong ma trận của tính tự phát, một sự mở trống bao la của tính bình đẳng. Đó là mấu chốt 54 sống còn của Đại Toàn Thiện 55 tự nhiên và bằng sự hiểu biết trực tiếp về ý nghĩa được thiết lập bởi mười hai nụ cười kim cương 56 và tám điểm chính xác định rõ ràng tám lĩnh vực của ý thức,57 một ý nghĩa vượt qua nhân quả và phán xét đạo đức, quá khứ hiện tại và tương lai được tích hợp trong từng khoảnh khắc mà không hề thăng hoa hay biến đổi.

Một cách thích hợp, như Padmasambhava, Vimalamitra và Tilopa, Longchenpa Toàn Tri, chủ nhân của gia đình chúng ta và Chúa tể Ngôn ngữ, đã dạy các yogi lão luyện có kinh nghiệm, những người biết về hệ thống hiện tại đích thực, một cách trực tiếp, không e dè và không liên quan đến nhân quả đạo đức. Đối với những người như chúng ta, có sự hiểu biết về mặt tri thức nhưng chưa đạt được tính chắc chắn về mặt kinh nghiệm nhờ thói quen, mặc dù chúng ta thực hành rất nhiều, ông đã dạy rằng mặc dù không sợ hãi về mặt tồn tại, chúng ta nên chú ý cẩn trọng đến sự kết nối và mối quan hệ nghiệp báo vi tế.58

Hãy ghi nhớ điều đó, việc trình bày cho những người kém nhạy bén hơn, những người chưa nhận ra sự xuất hiện ngẫu nhiên của cái bây giờ, nên phân biệt giữa chân lý tuyệt đối và tương đối.59 Đối với những người đần độn, việc nhận ra cái bây giờ có thể xảy ra bằng cách đơn giản là nhận biết rõ ràng bất cứ cảm xúc phiền não nào nảy sinh. Bằng cách để cho cảm xúc dâng trào như nó vốn là (khía cạnh tương đối), nó thăng hoa thành một thứ vô căn cứ, không khách quan (khía cạnh tuyệt đối). Bằng cách duy trì nhãn quan đồng thời về cả tĩnh tại và chuyển động, khả năng sáng tạo của hiện diện thuần tịnh được tối ưu hóa.60

Đối với những người có độ nhạy bén cao hơn, những người nhận thức được chức năng quan trọng của trạng thái giải thoát tự động trong thực tại đúng như nó là, biết rằng bất cứ cảm xúc phiền não hay tư tưởng lan man nào khởi lên đều là phù du và không ổn định, giống như một nút thắt ở đuôi ngựa ngay lập tức tự gỡ rối, và biết rằng sự sinh khởi và giải thoát là đồng thời nên không cần phải áp dụng bất cứ biện pháp đối trị nào. Do đó, không cần phải áp dụng bất cứ niêm phong nào như trong chuỗi tâm trí, hoặc tập trung vào tính tự phát vượt trên mọi tham chiếu, như trong chuỗi ma trận, vì như trong loạt chỉ dẫn cốt lõi, sự quả quyết trùng khớp với chính kinh nghiệm.

Khi sự giải thoát tự nhiên đã trở nên quen thuộc, như Nguồn tối thượng hứa hẹn, “Không cần chuyển hóa hay thanh lọc, sự hiện diện thanh tịnh sẽ tự nhiên, hoàn hảo và hoàn toàn trọn vẹn”.

Trên con đường không lối của sự hiện diện thanh tịnh vô điều kiện, bởi vì mọi thứ đều được chứa đựng trong bản tính nhất đơn nhất của hiện tại, nên việc thực hành con đường tuần tự, leo lên thang bậc mười địa của Bồ Tát, tinh tấn nỗ lực trên các giai đoạn phát sinh và thành tựu của Kim cương thừa nội và ngoại là điều thừa thãi.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Chú thích cho Đột Phá

36. Biểu tượng của Phật: thân (hình ảnh), ngữ (kinh điển), tâm (bảo tháp)

37. Bốn mệnh đề bản thể học, bốn bổ đề: tồn tại, không tồn tại, cả hai, không cả hai; và tám cực đoan: sinh, diệt, thường hằng, hư vô, đến, đi, thống nhất, tách biệt

38. “Trong một số văn bản” đề cập đến những tài liệu theo chủ nghĩa tiệm tiến đề xuất một con đường khái niệm

39. “Hợp nhất cặp đôi” thuộc về Anu Yoga và Đại Ấn nhiều hơn

40. Một danh sách khác bao gồm các trạng thái say xỉn và trống rỗng. Xem Chương 1 của Thuốc chữa bách bệnh duy nhất của Thinley Norbu

41. “Hình tướng đỏ và trắng” hạt tinh chất đỏ và trắng (giọt bồ đề tâm) đại diện và nguyên nhân cho các hình tướng chủ quan và khách quan tương ứng

42. Xem trg 103, 150

43. Để làm sáng tỏ vấn đề này: quan điểm “tất cả là tâm trí – tâm trí trống không” là một quan điểm tạm thời hữu ích (nó là quan điểm của bộ ati yoga tâm trí, semde) nhưng niềm tin vào nó khiến nó trở nên dư thừa. Cái thấy rốt ráo của Đột Phá không hề đưa ra luận điểm hay mệnh đề nào về bản tính của tâm trí hay thực tại. Ngoài ra, tuyên bố này của Longchenpa có thể chứng tỏ là một liều thuốc giải độc hữu ích cho cách giải thích theo nghĩa đen ngây thơ về linh kiến của Vượt Qua.

44. Gnas lugs rang gnas chen po

45. Xem số 37

46. Duy Thức Chân Thực (Chittamatra Sakaravada), để đơn giản hóa, không có gì ở bất cứ đâu là thực chất, vì lý do đó, chúng ta sẽ gọi tất cả kinh nghiệm là “tinh thần”; trong phạm vi bất cứ điều gì nảy sinh trong kinh nghiệm mà là tiềm năng của sự hiện diện thanh tịnh, nó là “có thật”

47. Vốn có trong tính sáng tạo của hiện diện thanh tịnh, mà trong trường hợp này được chứng minh là hoạt động tinh thần, nằm ở việc chứng ngộ tính giác bất nhị, và sự chứng ngộ đó xoay quanh “tiềm năng”.

48. Yogacara Sakaravada gần với Nyingthik nhưng không giống nhau. Xem thêm Đột Phá từ Cẩm nang hướng dẫn.

49. Thig ley nyag cig

50. Trong sáu ba la mật, bố thí, trì giới, nhẫn nhục và tinh tấn bao gồm các phương tiện thiện xảo, còn thiền định, trí tuệ bao gồm trí tuệ.

51. Bốn phần nghỉ ngơi tự do là hướng dẫn quan trọng trong trekcho

52. Nhìn chăm chú

53. Năm loại năng lượng: duy trì sự sống, đi lên, tràn ngập, nhiệt, và đi xuống

54. Mấu chốt, hoặc bắt chéo, tượng trưng cho giải pháp về nhị nguyên. Những mấu chốt hay những điểm cốt yếu khác nhau được đề cập trong văn bản ám chỉ sự giải quyết theo kinh nghiệm, chỉ ra những cánh cửa thực sự đi vào hiện diện thanh tịnh.

55. Lưu ý rằng thay vì một giáo lý của niềm tin, đây là một điều kiện hiện sinh liên tục, một sư thực hiện liên tục nguyên tắc đầu tiên của Garab Dorke (xem số 204)

56. Mười hai tiếng cười kim cương: xem phụ lục 3 và Hoàn thiện tự nhiên trang 86-87

57. Tshig chen po brgyad

58. Ý kiến phổ biến có lẽ cần thiết này đôi khi ban đầu được cho là của Padmasanbhava trong Padma bka thang. Có lẽ đó là lời dạy tạm thời cho những khoảnh khắc tuyệt vọng tri thức.

59.“Tuyệt đối” là bất nhị, vô điều kiện và cuối cùng, và “tương đối” là nhị nguyên, nhân quả và tạm thời. “Tối thượng” là sự kết hợp của cả hai.

60. “Bình tĩnh, vận động, hiện diện thanh tịnh” là giáo huấn được dạy ở đây.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
CHƯƠNG BA

KẾT QUẢ CỦA THIỀN VƯỢT QUA



Phương pháp thứ hai để giới thiệu vào yoga kết quả là dành cho người siêng năng thực hành, có thể thiền định trong Vượt qua. Ở đây, với ba thân sáng tỏ xuất hiện trong khoảnh khắc, bậc lão thông được giải thoát trong khoảnh khắc và đạt đến niết bàn mà không còn chút dư lượng vật chất nào. Đây là giải thích về phương thức của tịnh quang tráng lệ trong Vượt qua. Có hai phần: tính ưu việt của Vượt qua so với Đột Phá, và các phương thức đặc biệt của thực hành nền tảng.

VƯỢT TRỘI SO VỚI ĐỘT PHÁ



Longchenpa đã kết hợp bảy điểm vượt trội 61 và tóm tắt như sau:

Trong Đột Phá, chúng ta không thể siêu việt trạng thái của những hình tướng huyễn ảo, chẳng hạn như núi, đá và đất; trong Vượt qua, chúng ta nhận thức các hình tướng như ánh sáng cầu vồng năm màu.

Điều được dạy là “hiện diện thanh tịnh là tịnh quang của hiện tại”, trong Đột Phá chỉ đơn giản là tính trong sáng trống rỗng, được định nghĩa là cái gì đó không thể được khách thể hóa hoặc quan sát được; bằng cách áp dụng những điểm thiết yếu của Vượt qua,62 tầm nhìn tỉnh giác về hiện tại được mở ra và chúng ta thấy thực tại là sự tỏa sáng của chính nó.

Trong Đột Phá, chúng ta tìm kiếm tinh hoa cô đọng bằng cách từ bỏ sự bám víu vào những hình tướng ảo tưởng khởi lên trong chức năng của sáu giác quan nhiễm ô. Trong Vượt qua, nhờ năng lượng tự có của tỉnh giác về hiện tại, cánh cửa của tịnh quang tinh khiết được mở ra, nhờ đó thông qua khả năng không bị ngăn ngại cả bên trong lẫn bên ngoài, những linh ảnh của bốn ngọn đèn trong sự hợp nhất sắc – không được tận hưởng.

Trong Đột Phá, vì chúng ta dựa vào những kinh mạch và năng lượng thô của thân tâm, chúng ta có thể gặp nhiều trở ngại và các khuynh hướng lệch lạc; sức mạnh cơ bản phát sinh từ sự phụ thuộc đó được quyết định đơn giản bởi trạng thái thể chất của sinh mạng. Trong Vượt qua, các kinh mạch và năng lượng thô phải bị từ bỏ và thông qua sự ràng buộc không thể tránh khỏi với ba trạng thái chính yếu của sự tĩnh lặng 63 một mình, các kinh mạch và năng lượng của tỉnh giác tối thượng về hiện tại được tích hợp một cách dễ dàng vào, và như, con đường, mọi thô trọc giờ đều được thăng hoa, thân thể được giải phóng vào trong tịnh quang.

Trong Đột Phá, mặc dù kinh nghiệm linh kiến có thể không chứa đựng tiềm năng tối ưu, nhưng cơ thể vẫn có khả năng được giải phóng. Tuy nhiên, nó chỉ có thể hòa tan thành các hạt chứ không hòa tan vào tịnh quang. Nó không thể tan vào tịnh quang là vì một thân huyễn gián đoạn và toàn thể các trường giác quan,64 chẳng hạn, là không đủ để tạo ra kết quả tối thượng. Không đạt được sự thăng hoa cuối cùng và thân kim cương cùng với con mắt trí tuệ, không có các khả năng tâm linh và những quyền năng phi thường cho chính mình thì không thể có sóng lớn gia trì lực rộng khắp cho người khác được.65 Hãy xem xét sự khác nhau giữa ngài Liên Hoa Sinh và các đại thành tựu giả Ấn Độ và Tây Tạng.

Tóm lại, nhìn vào Đột Phá trong ba bộ ati yoga: tâm trí, ma trận và hướng dẫn cốt lõi, bộ tâm trí nhấn mạnh vào tính trong sáng tự nhiên tràn ngập, bộ ma trận nhấn mạnh tự tin vào nền tảng trống rỗng, nhưng chúng ta thực sự không nhìn thấy sự hiện diện thanh tịnh trong đó. Hơn nữa trong ba chu kỳ 66 của hướng dẫn cốt lõi, chẳng có gì được mong đợi hơn ngoài sự giải thoát trong trung ấm. Tuy nhiên, ở đây, trong Vượt qua, vì mấu chốt của sự giải thoát nằm trong thân ánh sáng, những người tìm kiếm kết quả không ảo tưởng thông qua sự đồng hóa với những hình tướng ảo tưởng, sẽ thấy tính siêu việt của nó bằng con mắt trí tuệ.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐẶC BIỆT

TRONG NỀN TẢNG THỰC HÀNH CỦA VƯỢT QUA


Có bốn chủ đề dưới tiêu đề này: Tổng quan về Vượt qua, hoặc những điểm chính yếu của Vượt qua, áp dụng thực tế của những điểm chính yếu, những dấu hiệu thành tựu – bốn linh ảnh như một bản thiết kế; và hướng dẫn kết thúc.



Những điểm chính yếu trong Vượt qua

Điểm chính yếu đầu tiên, hay điểm cốt yếu của cách tiếp cận tối cao này là sự phân biệt giữa tâm trí và tâm tỉnh giác về hiện tại. Bản tính của tâm trí là sự tỏa sáng của mọi trải nghiệm trong chính nó, nhưng khi trộn lẫn với năng lượng nghiệp, giống như một người què trên con ngựa mù, nó trở thành tư tưởng mâu thuẫn.

Diễn đạt cách khác, trong khoang phổi có một ống dẫn có kích thước bên trong bằng rơm lúa mì,67 nơi chứa đầy không khí, mọi hoạt động hô hấp (và biểu hiện năng lượng) đều phụ thuộc vào đó. Kênh đó sinh sôi nảy nở thành nhiều mạng lưới riêng biệt, qua sức mạnh sáng tạo của chúng biểu hiện các lĩnh vực khách quan của năm giác quan, trong đó nghiệp và cảm xúc phiền não được biểu hiện. Nghĩa địa trên trời của Hoạt tử thi khẳng định:

Bản tính của tâm trí là tỉnh giác về hiện tại,

Thứ biểu hiện như tính nhị nguyên giữa chủ thể - đối tượng

Với hơi thở như ngựa, tai nạn xảy ra.

Đối với tỉnh giác về hiện tại, nó được tìm thấy trong ngọn đèn của tâm – thịt,68 được xác định bởi bản chất, bản tính và bi tâm của nó, và nó được gọi là “ngọn đèn nền tảng của hiện hữu hoàn hảo”.69

Vượt ngoài Âm Thanh mô tả nó rất hay:

Trong tâm ngọc quý vô lượng

Như bản chất thuần khiết

Đó là tính không và tính sáng hiện thân

Như sự sáng chói của đấng siêu phàm;70

Mọi phần phụ, mặt và tay hợp nhất;71

Đây là tính tự phát trong vòng tròn ánh sáng

Bi tâm chiếu sáng trong nhiều màu sắc khác nhau.

Do đó, tỉnh giác về hiện tại, thiếu bất cứ chất liệu bền vững nào, có thể nói là tồn tại chỉ như nền tảng của sự khởi đầu của tịnh quang.

Vì lý do đó, Đi vào Trung Đạo nói: “Trí thức tan biến, đáng siêu phàm tỏa sáng”. Trong những cách tiếp cận đến bộ chỉ dẫn cốt lõi, những người tích cực trên con đường yoga sáng tạo và thành tựu, áp dụng các kỹ thuật thanh lọc năng lượng tinh thần, chỉ đơn thuần là kìm nén diễn ngôn tư tưởng và các giả định mang tính khái niệm thúc đẩy suy nghĩ. Họ được thúc đẩy để kìm nén suy nghĩ do không nhận ra được điểm cốt yếu hay mấu chốt là khi suy nghĩ xuất hiện từ không gian không hành động, nó hoàn toàn thanh tịnh trong bản chất của chính nó. Họ cũng nhầm lẫn về điểm cốt yếu của phương pháp, hay ngưỡng cửa, trong đó các hình tướng xuất hiện như là kết quả.

Vì cả hai lý do này, điểm mấu chốt có tầm quan trọng sống còn là mọi hành động, tích cực và tiêu cực, mọi hoạt động thể chất, năng lượng và tinh thần, bao gồm tất cả chín khía cạnh của nó, phải được loại bỏ và kỹ thuật thở chậm, tinh tế và nhẹ nhàng nên được tu luyện trong sự hiện diện thanh tịnh.72

Ma trận của tính sáng tỏ khẳng định:

Hãy từ bỏ hoạt động của thân, khẩu, ý

Chín hoạt động bên ngoài, bên trong và bí mật.

Từ bỏ các hoạt động thể chất, năng lượng, tinh thần, chúng ta rơi vào trạng thái bất động của một xác chết trong một nghĩa địa trên bầu trời và do vậy, chúng ta có thể nhận ra sự tỉnh giác phát sinh như thế nào trong hiện tại, như được mô tả dưới đây:

Có một kinh mạch nối từ tim đến mắt được gọi là “Kinh mạch kati pha lê rỗng”.73 Nó được mô tả trong Tràng Hạt Vàng:

Kinh mạch nối với đại dương trang sức,

Trắng, mịn, rỗng

Mang theo các điểm sáng không bị ô nhiễm bởi máu,74

Tỉnh giác bất nhị về hiện tại.

Vào thời điểm ban đầu của sự thụ thai thể chất, hoạt động của chất lỏng tạo ra một kinh mạch khép kín với một con mắt nguyên tố ở một đầu và một con mắt giống như ngọn đèn ở đầu kia. Con mắt nguyên tố là phần của cơ thể vật chất, trong khi bên trong con mắt giống như ngọn đèn chiếu ra các dạng ánh sáng của tâm tỉnh giác về hiện tại là các kinh mạch giống như sừng huơu bò, mỏng ở gốc và rộng ở trên đầu. Vì ánh sáng phát sinh trong bản tính thiết yếu của nhãn cầu nhầy nhụa vật lý “nửa trắng nửa tối” nên nó được gọi là “ngọn đèn nước của sợi dây thòng lọng”.75

Longchenpa toàn tri cung cấp chi tiết rõ ràng:

Kinh mạch nguyên sơ của ánh sáng mang theo tầm nhìn tỉnh giác về hiện tại. Nhìn thấy cách mà linh ảnh về các hình tướng huyễn ảo phụ thuộc vào nó, bất cứ ai có trí tuệ sẽ nhận ra cách mà tính nhị nguyên rõ ràng của chủ thể và khách thể xuất hiện như thế nào.

Thị kiến này, rất giống, được tìm thấy trong terma Mật điển Nyingthik hậy kỳ:76

Kinh mạch tự phát của bí ẩn tối thượng

Kết nối tim với mắt,

Cụ thể là kinh kati pha lê rỗng.

Thuật ngữ “tự phát” chỉ ra rằng kinh mạch kati không phải là sản phẩm của nguyên nhân và điều kiện. Nó sinh khởi đồng thời, giống như bốn ngọn đèn (ngọn đèn của điểm sáng trống rỗng có màu giống như chiếc quạt đuôi công và những chiếc khác).
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Bốn Ngọn Đèn: được liệt kê trong Phát Sinh Tự Nhiên:

Bốn ngọn đèn là đây:

Đèn của điểm sáng trống rỗng;

Đèn của hiện diện thanh tịnh rộng mở;

Đèn của trí tuệ tự hiện;

Đèn nước của dây thòng lọng vươn xa

Chúng hiện diện trong mọi chúng sinh.77

Cơ sở của ngọn đèn nước thòng lọng vươn xa, nhãn cầu tương đối nhỏ, nhưng những vật thể rất lớn, chẳng hạn như núi và nhà, vẫn xuất hiện trong đó. Đó là do một chức năng rất tinh tế của năng lượng. Về năng lượng đó, sau khi bốn nguyên tố căn bản cùng với năng lượng nghiệp của chúng đã được hiểu là thanh tịnh tối thượng, năng lượng rất vi tế đó, năng lượng của tính giác thuần tịnh, biểu hiện ra thành bốn ngọn đèn. Khía cạnh khách quan của nó phát huy tác dụng như bốn loại kinh nghiệm thị kiến, kinh nghiệm thị kiến đó, gia tăng cho đến khi cạn kiệt, được đưa đến cấp độ linh ảnh về sự cạn kiệt.

Cách thức ràng buộc tự nhiên không tránh khỏi này được mô tả trong Kho tàng của các Định nghĩa Quý giá 78 của Longchenpa như sau:

Kinh nghiệm linh ảnh ban đầu trong Vượt qua nhất thiết phải xuất hiện. Thiền định nhất thiết phải thoát khỏi mọi sự bám nắm. Sự cạn kiệt của các linh ảnh là không thể tránh khỏi bởi vì sự hiện diện thanh tịnh đã trở nên lẫn lộn với năng lượng có chủ ý phải tìm được vị trí riêng của nó, khía cạnh năng lượng nhất thiết phải bị loại bỏ. Với sự gia tăng khía cạnh sáng chói của hiện diện thanh tịnh, nó nhất thiết phải được thiêu hủy trong sự mở rộng nội tại. Linh ảnh tối thượng này khó nhận ra. Và chỉ sau một thời gian dài, nhờ lòng tốt của đạo sư, lama, tôi mới có thể hiểu được nó.

Những biểu hiển phi thường của tịnh quang trong Đại Toàn Thiện tự nhiên được tiết lộ trong một số tantra quan trọng nhất, chẳng hạn Lưới Ảo Ảnh của Văn Thù và những tantra khác, nhưng theo một cách ẩn giấu, để những người bị mù quáng bởi bởi tính kiêu ngạo, những người chưa đặt nền tảng trên sự hiện diện thanh tịnh hiện sinh, có thể khẳng định với sự quy chụp hợp lý rằng giáo lý đó chỉ là một lời xoa dịu ảo tưởng cho nỗi khổ của con người. Thật đáng tiếc! Giống như khuynh hướng tự nhiên của mặt trăng là tròn và khuyết, vốn là quy luật nội tại của nó ngay từ đầu, ba thân cũng là tính nội tại trong bản chất của hiện diện thanh tịnh. Với hiểu biết đó, giai đoạn từ quá trình tiềm tàng ban đầu và đồng hóa cùng lúc các phẩm tính của báo thân vào bất cứ thứ gì khởi lên như những hình tướng xuất hiện trong khoảnh khắc trên con đường, đó là giai đoạn giữa nhận thức trực tiếp ban đầu và đạt đến phạm vị đầy đủ của hiện diện thanh tịnh, tương tự như thời kỳ 79 trăng tròn.Giai đoạn không trăng sau khi mặt trăng biến mất vào không gian trống rỗng tương tự với mức viên mãn cuối cùng của thực tại khi pháp thân an nghỉ một mình.

Áp dụng các điểm quan trọng

Có bốn chủ đề dưới tiêu đề này: Ba mệnh lệnh, thể hiện các mệnh lệnh về thể chất, năng lượng và tinh thần. Ba điểm cốt yếu cho phép quan sát tịnh quang, là mấu chốt của cửa ngõ (phương pháp), trường (đối tượng), hởi thở (năng lượng) và hiện diện thanh tịnh. Quán đỉnh của hiện diện thanh tịnh sáng tạo, đó là việc gặp gỡ trực tiếp hiện diện thanh tịnh. Một phụ lục dạy hai hình thức thực hành hẹp.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Ba mệnh lệnh: Tiết lộ các mệnh lệnh về thể chất, năng lượng và tinh thần

Một: Mệnh lệnh thể chất

Nếu thân thể quan trọng thiết yếu không tuân thủ, các kinh mạch sẽ không được chấp nhận; nếu các kinh mạch quan trọng thiết yếu không tuân thủ, thì năng lượng quan trọng thiết yếu và sự hiện diện thanh tịnh sẽ không được chấp nhận. Nếu không có năng lượng và hiện diện thanh tịnh được tuân thủ, tịnh quang sẽ không thể được tối ưu hóa. Cho nên hãy đưa thực hành thể chất này vào trong tâm. Như được nói trong Tràng hoa Ngọc trai:

Mệnh lệnh thể chất gồm ba tư thế:

Các tư thế của: sử tử, voi và hiền nhân.

Đầu tiên là pháp thân, tư thế sư tử. Ngồi dậy trang nghiêm và kiêu hãnh, lòng bàn chân chụm lại phía trước, động năng, năng lượng gây ra chuyển động, đều bị triệt tiêu. Giữ thân thẳng, cho phép năng lượng chảy tự do. Kéo đầu vào cổ là một kỹ thuật mạnh mẽ để kiềm chế suy nghĩ lan man. Siết chặt nắm tay vào trong rồi đặt chúng sau gót chân để cân bằng các nguyên tố.

Longchenpa toàn tri khuyên không nên thực hiện các tư thế khác:

Một số người cho rằng một tư thế hay là ngồi xổm với lòng bàn chân đặt trên mặt đất với lòng bàn tay đặt trên mặt đất ở bên phải và bên trái cơ thể. Đó không phải là những gì được dự định ở đây.

Tư thế báo thân giống như một con voi nằm. Bằng cách khép đầu gối vào ngực, lạc nhiệt phát triển và hạt tinh chất được tăng cường. Chống khủy tay xuống đất sẽ trung hòa năng lượng nam và nữ. Dùng lòng bàn tay đỡ cằm sẽ ức chế dòng năng lượng thô. Hướng lòng bàn chân về phía sau với lòng bàn chân hướng lên trên sẽ mang lại sự cân bằng giữa chán nản và hưng phấn.

Tư thế hóa thân là tư thế của hiền nhân (hoặc rishi). Ngồi thẳng lưng, các kinh mạch tương đương với năng lượng chảy bên trong chúng. Đặt lòng bàn chân xuống đất kìm chế kinh mạch nước.80 Giữ cột sống thẳng sẽ đưa năng lượng tinh thần vào trong không gian bao la của thực tại. Kéo đầu gối lên ngang ngực cho phép năng lượng lửa bùng cháy trong nhận thức về hiện tại. Hơi hóp bụng về phía cột sống sẽ ức chế tư duy lan man. Dùng cánh tay quấn đầu gối thì cơn sốt sẽ tiêu tan, và nếu cánh tay chạm tới nách thì bệnh tật do cảm lạnh sẽ tiêu tan. Khủy tay đặt lên đầu gối, hai tay nắm chặt đỡ cổ họng , nóng lạnh đều được cân bằng.

Những tư thế này không nên được giữ chặt đến mức gây co thắt các kinh mạch; tất cả các tư thế phải hoàn toàn thư giãn. Điều quan trọng là nó ngắn chặn các chướng ngại phát sinh.

Có nhiều tư thế khác, như tư thế “tâm trí thanh tịnh hiển lộ”, và tư thế “kim cương bất biến”, nhưng đa số người được truyền thừa mật tông đều thích tính đơn giản, ba từ thế trên là đủ.

Đối với những phẩm tính đặc biệt gắn liền với ba tư thế này, Vượt ngoài Âm Thanh khẳng định:

Qua tư thế sư tử pháp thân

Thoát khỏi mọi sợ hãi mê lầm

Bạn sẽ thấy bằng con mắt kim cương.

Qua tư thế báo thân

Của con voi nằm nghiêng

Trong khía cạnh thú vị của thực tế

Bạn sẽ thấy bằng mắt hoa sen.

Qua tư thế hiền nhân ngồi xổm

Thực tại phát xạ linh ảnh

Bạn sẽ thấy bằng pháp nhãn.

Hai: Mệnh lệnh năng lượng

Mật điển gốc giải thích: “Lời nói, năng lượng, mệnh lệnh bao gồm học hành, duy trì và giải quyết sự im lặng”.

Nếu sự im lặng không được duy trì, tư tưởng lan man sẽ bùng nổ, việc tranh luận sẽ phát triển, nói chuyện phiến sẽ diễn ra, vân vân, bốn bức màn che phủ chúng ta. Vì vậy, hãy học cách giữ im lặng.

Những người thích nghe giọng nói của mình nên đến một nơi trống trải và nói to nỗi ám ảnh của mình. Nói bằng nhiều cách khác nhau về hàng trăm hàng nghìn, vô số chủ đề. Cuối cùng, động lực để nói sẽ giảm đi và lời nói sẽ bốc hơi, cho đến khi, cuối cùng, ngay cả sự thôi thúc đọc các nghi thức sùng đạo và cầu nguyện cũng sẽ biến mất. Sau khi từ bỏ mọi lời nói, bạn sẽ có vẻ như một tên ngốc, nhưng kết quả là năng lượng nghiệp giảm xuống. Ma trận của tính sáng tỏ tuyên bố:

Bất cứ ai tuân thủ điểm quan trọng của lời nói.

Tận diệt nguyên nhân của lời nói và đạt được niết bàn.

Ba: Mệnh lệnh tinh thần

Ma trận của tính sáng tỏ
dạy:

Tâm hướng về bầu trời bên ngoài,

Ngọn đèn bên trong tỏa sáng rực rỡ.

Tâm trí tràn đầy năng lượng nhưng vẫn có cốt lõi của sự hiện diện thanh tịnh được hướng như một ngọn giáo vào bầu trời bên ngoài, và động năng hoàn toàn lắng xuống, ánh sáng rạng rỡ trống rỗng của ngọn đèn bên trong, sự trong sáng trống trải không phức hợp, tỏa chiếu khiến cho ánh sáng và bản tính khác biệt lại trở thành cặp thống nhất là sự hiện diện mở rộng.

Ma trận sáng tỏ tiếp tục:

Thông qua tập trung áp dụng mệnh lệnh tinh thần,

Ba thân phát sinh như sự hiện diện trống rỗng.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Ba điểm mấu chốt hoặc điểm quan trọng

Ba điểm mấu chốt 83 tiết lộ tịnh quang. Vượt ngoài Âm thanh liệt kê chúng:

Ô cửa và cánh đồng,

Hơi thở và sự hiện diện thanh tịnh

Là những điểm quan trọng để nhấn mạnh.

Điểm mấu chốt đầu tiên: Cửa ngõ hoặc phương pháp

Mật điển gốc nói: “Phương pháp quan trọng là áp dụng cái nhìn quay ngược, hạ thấp và gián tiếp”.84

Con mắt của thực tại cư ngụ trong pháp thân, do đó kiểu nhìn hướng lên trên và quay lại 85 về phía ushnisha,86 là điều cốt yếu để xua tan các thói quen tinh thần. Con mắt tỉnh biết về hiện tại cư trú trong báo thân và cách nhìn chăm chú là vào các góc,87 là điều cốt yếu để hòa trộn luân hồi và niết bàn vào trong cùng nhất vị. Con mắt của tuệ quán xuyên thấu nằm trong hóa thân, nên phương thức nhìn hướng xuống, rất quan trọng đối với khả năng nhìn thực tế, biểu hiện sự tỉnh giác về hiện tại.

Có nhiều điều để nói về điểm mấu chốt của phương pháp hoặc cánh cửa. Ý nghĩa quan trọng của nó được đưa ra trong Vòng ngọc trai:

Hiện diện thanh tịnh, dây xích kim cương của vô niệm,88

Tỏa sáng từ cánh cửa hỷ lạc của thanh tịnh,89

Trong câu thơ, “cánh cửa” được chỉ ra là của tỉnh giác – thăng hoa, nhưng bởi vì các công thức “sự tỏa sáng của bản thể trống rỗng xuất hiện trung mạch của ánh sáng” và “hiện diện thanh tịnh rực rỡ của bi tâm phát sinh từ các khoang phổi” cũng được sử dụng, Mặt Trời, Mặt Trăng, các hành tinh và các vì sao được nhắc nhở để cảnh báo:

Bám vào hai kinh mạch ánh sáng thông thường làm con đường

Biểu thị tâm trí hẹp hòi hạn chế.

Tuy nhiên, trong thực hành hiện nay, chúng ta sử dụng hai cửa đó:

Chakshu nheo mắt nhìn chăm chú Surya;90

Trong trẻo như cửa sổ hướng đông.

Hướng dẫn thiết yếu ở đây là hãy nheo mắt nhìn vào một điểm cách mặt trời một cánh tay.91

Bằng chứng về sự thành công của phương pháp quan sát quan trọng này là bạn có thể nhìn chằm chằm vô thời hạn vào trường thị giác.

Điểm mấu chốt thứ hai: Trường hay Đối tượng, Nền tảng của sự khởi đầu

Ở một nơi không có điều kiện bất lợi, cao, cao, trong xanh và thoáng đãng, vào cuối mùa hè hoặc mùa thu, trước khi mùa đông đến, hoặc ngay cả vào mùa xuânm khi bầu trời hoàn toàn không có sương mù và mây mù, trong trẻo sáng sủa, người mới bắt đầu nên “kết nối” với hai “ngọn đèn”. Những người mà hiện diện mở rộng được “tự do ở khoảng trống giữa hai lông mày”,93 dù quay về hướng tây của Thầy Nước Varunapati lúc sáng sớm hay hướng đông của Vajraka lúc buổi chiều, nhìn về phía trước lên bầu trời trong sáng,94 với các khả năng không có bất cứ điều kiện bất lợi nào, soạn ngọn đèn nước của dây vươn xa.

Ma trận sáng tỏ nói: “Không có ba điều kiện bất lợi: mây, sương mù và hơi nước, sự trong sáng sẽ xuất hiện. Toát Yếu thì ngắn gọn: “Vấn đề ở đây là xem xét bầu trời quang đãng”.

Điểm mấu chốt thứ ba: Hơi thở và Hiện diện Thanh tịnh

Hơi thở và năng lượng vi tế


Hơi thở và năng lượng vi tế của chúng ta luôn chuyển động, dao động và luân phiên. Khi suy nghĩ lan man gắn kết với năng lượng vi tế, mặc dù chúng ta sở hữu Như Lai Tạng Phật tính, nhưng chúng ta không thể không bị mê lầm. Cách để ngăn chặn điều đó là bằng phương pháp thở Nyingthik đặc biệt: thở bằng miệng thay vì mũi và hít vào thở ra rất nhẹ nhàng với môi và răng hầu như không cách nhau. Cơ sở của việc này là hướng dẫn cốt lõi cảnh báo chúng ta rằng nếu chúng ta thởi bằng mũi thì năng lượng được thăng hoa trong bốn luân xa có thể mạnh lên và trở nên tắc nghẽn: bằng cách thở theo lối Nyingthik qua miệng, hơi thở lưu thông qua phổi trở nên thanh tịnh tự nhiên, đúng như nó vốn có, ánh sáng của nó tan biến vào tim; năng lượng tinh thần cần được thanh lọc không bao giờ được bỏ mặc, tương tự như sự tinh khiết tự thân của nó, và tiềm năng của các luân xa riêng lẻ, không cần phải tìm kiếm, nó biểu hiện tự nhiên. Như vậy, điều quan trọng là năng lượng tỉnh giác trong hiện tại được giải phóng trong tịnh quang.

Hơn nữa, trong lúc yếu mệt, nghĩ thầm tăng cường thở ra. Ma trận sáng tỏ khuyên:

Nhẹ nhàng và cân bằng hơi thở vào và hơi thở ra

Chỉ cần tưởng tượng hơi thở ra

Sự tuần hoàn của hơi thở sẽ được cải thiện.

Đó là điểm quan trọng sống còn trong việc duy trì hiện diện bao la bất động.

Hiện diện thanh tịnh, Rigpa

Tu tập trong tư thế và cái nhìn chăm chú, phù hợp với ba điểm cốt yếu là cửa ngõ, trường nhìn, hơi thở và năng lượng vi tế, chúng ta nên từ bỏ mọi hoạt động và không mang bất cứ gánh nặng trách nhiệm nào, cuộc đời chúng ta sẽ hoàn toàn được giải thoát.

Như một dấu hiệu của sự giải thoát đó, khi chúng ta nhìn vào bầu trời trong trẻo, tức là sử mở rộng bên ngoài, như thể chúng ta đang hòa tan sự hiện diện thanh tịnh vào trung tâm của không gian đa dạng, một ánh sáng xanh trời tinh khiết đặc biệt sẽ xuất hiện. Sau đó, vì linh kiến mở rộng, ánh sáng năm màu tỏa rạng sống động như tia chớp đa sắc, cầu vồng, gấm được bung ra, và đó gọi là “sự mở rộng bên trong chiếu sáng rõ ràng ra bên ngoài”. Mật điển gốc mô tả nó theo cách này:

Sự mở trống bên ngoài và bên trong

Bên ngoài như bầu trời không mây

Bên trong như ngọn đèn sáng.

Từ câu thơ trên, tôi có thể thấy các nhà bình luận trước đây dễ dàng hiểu lầm sự khác nhau giữ mở rộng bên ngoài và bên trong. Trích dẫn này từ Adiguru-buddha 95 sẽ làm rõ điều đó:

Một số người giải thích “bầu trời bên ngoài” hay “sư mở rộng bên ngoài” đơn giản là không gian không mây, nhưng điều đó vô nghĩa. Sau khi mối liên hệ giữa cá nhân và bầu trời được thiết lập bởi ngọn đèn bên trong của cá nhân, cái được gọi là “sự mở rộng bên ngoài” phát sinh từ bầu trời bên trong thiên thanh sáng ngời. “Không gian không mây” hay “bầu trời không mây” do đó là môi trường mà sự mở rộng bên ngoài phát sinh, bản thân nó không phải là sự mở rộng. Sự mở rộng thực sự có màu xanh trời, và mở rộng thực sự ở bên trong.

Mặc dù sự mở rộng căn bản và linh ảnh phát sinh từ trạng thái mở trống đó được gọi riêng biệt lần lượt là “mở rộng bên trong” và “ mở rộng bên ngoài”, thực tế nên được hiểu như một mái vòm ánh sáng cầu vồng 96 dần dần hiện lên trong linh kiến rõ ràng. Đó chẳng phải là chuyện thâm nhập vào bên trong hay phóng chiếu ra bên ngoài; nó phải được hiểu là cái bên ngoài phát sinh từ cái bên trong.97

Áp dụng hiểu biết đó, từ năng lượng nghiệp thanh tịnh vốn có trong ngọn đèn của sự mở rộng thanh tịnh, ngọn đèn của điểm sáng trống rỗng xuất hiện, và điểm ảnh đó là hình cầu được viền bởi các vòng tròn đồng tâm của năm màu cơ bản. Điều này được ẩn dụ bởi những gợn sóng đồng tâm được tạo ra bởi một hòn đá rơi xuống ao.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Bằng cách nhìn chăm chú cố định của các viễn kiến nhân, chúng ta có thể kinh nghiệm sự hiện diện thuần tịnh cực kỳ rạng rỡ, không khách quan, hiện diện thanh tịnh bên trong, và đó là bản chất của ngọn đèn trí tuệ tự bùng lên.98 Từ hiện diện thanh tịnh đó, do tính sáng tạo của nó, tuệ giác xuyên suốt nhanh nhạy và sắc bén sẽ sinh khởi trong các trường giác quan 99 cùng với năng lực diễn đạt thành lời truyền cảm, ứng đối.

Và hơn nữa, nhận thức cao độ về sự hiện diện thanh tịnh xuất hiện như chuỗi kim cương, giống như chuỗi ngọc trai thanh nhã hay như sợi chỉ vàng kim bồng bềnh,100 và nó được gọi là “sự sáng chói của trí tuệ”.

Điều thiết yếy phải hiểu rằng ba biểu hiện khác biệt ám chỉ ba khía cạnh của cùng một bản thể duy nhất. Nếu bản chất nhất thể của nó không được thừa nhận, như đấng Toàn Tri Longchenpa đã nói,101 sự nhầm lẫn sẽ nảy sinh:

“Một số người biết đến nó và gọi nó là “ngọn đèn trí tuệ tự bùng lên”, một số gọi nó là “sự tỏa sáng bên trong”, và một số gọi nó là “chuỗi kim cương”. Nhưng thuật ngữ riêng biệt này có thể dẫn đến sự hiểu lầm”.

Khi hiểu được điều đó, chuỗi kim cương của sự hiện diện thanh tịnh rạng ngời, được giữ trong vỏ bọc của điểm ảnh mở rộng, là thiền định:102 đó là mấu chốt của hiện diện thanh tịnh. Ma trận sáng tỏ khẳng định:

Điểm then chốt của sự hiện diện thanh tịnh là bám chặt vào chuỗi kim cương đó;

Và linh ảnh thực sự phụ thuộc vào sự thư giãn hoàn toàn.

Trong quá trình không thiền định này, những người thích mổ xẻ thực tại của các linh ảnh ánh sáng có thể bị lạc lối tinh thần khi vật chất hóa chuỗi kim cương, bị mắc kẹt bởi các xu hướng khách quan hóa, cụ thể hóa. Những linh ảnh của các ngọn đèn là thực tại tự chiếu sáng của chính chúng ta, và sự tu tập trong cuộc sống hiện thực bao gồm việc trau dồi tính không bám chấp.

Cho đến khi chúng ta quen thuộc với thực tại của chính mình, những hình ảnh trong trường linh ảnh sẽ lung linh và rung rinh như ảo ảnh. Một cái nhìn chăm chú bất động sẽ có thể điều chỉnh dần dần xu hướng đó, và thông qua sự quen thuộc không chủ ý, khi sự sáng tỏ của các mạng lưới nguyên tố bên trong tăng lên, thì sự hiện diện mở rộng được “thoát khỏi không gian giữa hai lông mày”. Đồng thời với cảnh tự do đó, sự phụ thuộc vào môi trường khách quan giảm bớt, và kinh nghiệm về bốn linh ảnh tăng dần.103

Vì quá trình này đang diễn ra trong trường linh kiến của mắt bong bóng nước nên nó sẽ tiến dần đến điểm cạn kiệt và hoàn thành. Trong một số trường hợp, do phẩm chất siêu lý trí của cá nhân, nó sẽ được nhìn bằng con mắt của trí tuệ, và bất kỳ khả năng dự đoán nào cũng bị loại trừ, sự hoàn thành sẽ xảy ra ngay lập tức.

Hơn nữa, chúng ta có thể có tiềm năng to lớn vượt qua cả hai loại trên, sở hữu tính tự phát hiển lộ, nhưng không tự cho mình một kết quả tích cực. Một chồi lùa mình chín sớm do điều kiện thuận lợi về nhiệt độ và độ ẩm vẫn có thể bị khô và biến thành bụi.104 Do đó, hãy kiểm tra cẩn thận hướng dẫn về quá trình chín cuối cùng.105

Quán Đỉnh về Hiện Diện Thanh Tịnh Sáng Tạo

Ở đây có hai phần: Tham gia vào “mandala tối thượng của tính giác tự nhận thức về hiện tại” và “quán đỉnh về hiện diện thanh tịnh sáng tạo trong trạng thái nguyên gốc của hiện tồn”.

Thứ nhất: Than gia vào “mandala tối thượng của tính giác tự nhận thức về hiện tại”

Trên đỉnh núi hay ở một nơi hẻo lánh thuận lợi cho sự khởi sinh của những linh kiến thực sự, vào lúc thuận tiện và trong hoàn cảnh thoải mái, hãy cúng dường torma và các cúng dường phong phú , đa dạng. Hãy chuẩn bị một đĩa vàng cúng dường cho lama và thực hiện yêu cầu này:

Lama, Người hộ trì Kim cương vĩ đại,

Để con được giải thoát khỏi luân hồi,

Xin ban cho con Quán đỉnh Hiện diện Thanh tịnh Sáng tạo,

Phương tiện sinh tồn phi thường của Kim Cang Tát Đỏa.

Sau khi lặp lại yêu cầu đó ba lần, cả Lama và người nhận điểm đạo cởi y phục bên trên của họ như một biểu tượng của ánh sáng trong suốt được bộc lộ của những hình tướng xuất hiện và Lama giới thiệu biểu tượng A: “Hãy nhìn không chớp mắt vào biểu tượng A ở trung tâm trái tim và để tâm trí nghỉ ngơi không xao lãng”. Vị thầy kim cương chơi một giai điệu ban phúc trên trống damaru và đi vào tâm trí trống rỗng kết quả, Lama hét lên một tiếng PHAT thật mạnh! Rồi ngay lập tức hỏi bằng giọng kéo dài: “Tâm trí là gì?” ba lần liên tiếp. Người tầm đạo chết lặng và bị sốc, sự hiện diện thanh tịnh không tạo dựng, không tập trung sẽ được hiển lộ, dễ thấy. Đó gọi là “cái thấy huyền bí của không thấy, và “mang tỉnh giác về hiện tại vào trong pháp thân”.

Sau đó, lối vào mandala thực sự như sau: những người nhận quán đỉnh áp dụng tư thế hiền nhân với đôi mắt nhìn vào không gian mà không có sự tập trung hay hỗ trợ, đưa các cõi Phật tự nhiên vào tâm trí, rồi Lama nói:

Ema! Những đứa con tâm huyết may mắn hãy lắng nghe! Ở hướng đông, trong cõi Phật đẹp đẽ, thú vị, hấp dẫn của cõi Diệu Hỷ Hóa Hiện, Abhirati, đức Phật Kim Cang A Súc màu xanh lam, được trang hoàng bằng các món trang sức lộng lẫy ngồi trên ngai.

Ở phương nam, trong cõi Vinh Diệu tịnh độ vô cùng đẹp đẽ, thú vị , hấp dẫn, Shrimat, đức Phật Bảo Sinh với thân màu vàng được trang hoàn bằng những món trang sức quý giá ngự trên ngai.

Về hướng tây, trong cõi tịnh độ Liên Hoa đẹp đẽ, an vui, hấp dẫn lạ thường, Padmakuta, đức Phật A di Đà thân màu đỏ, được trang hoàng bằng những món trang sức quý giá ngự trên ngai.

Về hướng bắc, trong cõi tịnh độ Diệu Hành Thành Tựu đẹp đẽ, thú vị, hấp dẫn, Karmaprasiddhi, đức Phật Bất Không Thành Tựu, chúa tể của Mục đích không nghi ngại, với thân mầu xanh lục được trang hoàn bằng những đồ trang sức quý giá ngồi trên ngai.106

Mỗi vị Phật đều ở trong sự hợp nhất với vị phối ngẫu của mình. Đoàn tùy tùng của họ nhiều như số vi trần trong một hạt bụi, lắng nghe từng vị thầy của mình trong khi tiết lộ cho tùy tùng thân cận về tịnh quang như bản chất đích thực, thiêng liêng của tâm thức, và hé lộ rung động của Truyền thống Linh Ngôn của Kim Cương thừa.

Con trai, hãy nhìn về cõi phía đông với cái nhìn chăm chú của con voi và lao tới đó với cú nhảy của con sư tử! Hãy nhìn về cõi phía nam vưới ánh mắt chăm chú của sư tử và nhảy tới đó với bước nhảy của hổ! Hãy nhìn tới cõi phía tây với ánh mắt chăm chú chói lọi đáng sợ và chạm vào nó bằng cú sà xuống của chim garuda! Hãy nhìn về cõi phía bắc với ánh mắt chăm chú của Kim Cang Trì và đến đó giống như một tia sét đỏ!

Việc lặp lại âm tiết A A AH sẽ niêm phong những người nhận quán đỉnh trong mandala một cách không thể đảo ngược.

Bị lôi kéo theo cách đó qua bốn cánh cửa của mandala hiện diện thanh tịnh, nếu bạn, một người nhận quán đỉnh, với lòng sùng mộ vững chắc kết nối với một lama có linh kiến, mặc dù bạn có thể không trải nghiệm nó trong kiếp này, nhưng cuối cùng bạn sẽ được đưa đến một cõi Phật 107 hóa thân phát sinh tự nhiên. Đó là phương tiện đặc biệt của Linh Ngôn.

Sau đó, để nhập vào mandala Báo Thân, người nhận quán đỉnh nên ngồi trong tư thế kim cương nhìn chăm chú vào không gian và sau đó đưa tâm trí đến cõi Phật Hoa Nghiêm.

Lúc đó lama sẽ nói:

Ema! Những đứa con trai của tâm ta, hãy lắng nghe! Vượt trên tất cả những điều này, vượt ngoài tất cả các cõi Phật xuất sinh tự nhiên của hóa thân, vượt xa tất cả chúng không có ngoại lệ, không còn lại gì, là nền tảng mà từ đó tất cả sinh khởi như sự phản chiếu của chính con. Nền tảng của sự khởi nguyên đó là cõi Phật Hoa Nghiêm, được thấm nhuần và chiếu sáng bởi năm khía cạnh của tỉnh giác về hiện tại. Trong sự tĩnh lặng và bình đẳng ở trung tâm của nó, như trên ngai là chú tể, Như Lai, A la hán, vô nhiễm, thiện thệ, toàn tri, lãnh đạo của các điểm đạo đồ, vô song, bậc dẫn dắt chư thiên và loài người, đức Phật A Di Đà hoàn hảo vô nhiễm. Ngài được bao quanh bởi hàng tỷ vị Phật toàn thiện vô nhiễm đang hoan hỷ trong thực tại Phật hoàn toàn thanh tịnh của mình. Các con trai của tâm ta, hãy nhìn chăm chú với cái nhìn của con voi và đến đó bằng bước nhảy của sư tử!

Tụng niệm những âm thanh A A AH , những người nhận điểm đạo được niêm phong trong tính không chẳng thể đảo ngược.

Sau đó, để bước vào mandala pháp thân, các điểm đạo nhân nên ngồi trong tư thế sư tử và nhìn chăm chú lên trên, xuống dưới, và thẳng về phía trước với sự chú ý tới các góc, điều kiện đồng thời để đạt được ngũ nhãn siêu tuyệt 108 ở cấp độ Phật được xác lập và sự hiện diện thanh tịnh trống rỗng trần trụi của trạng thái tỉnh giác về hiện tại được chiếu sáng.

Sau đó lama nói:

Ema! Tâm tử may mắn duy nhất, hãy lắng nghe! Vượt qua các chiều kích của sắc tướng, hóa thân và báo thân, nền tảng khởi thủy của chúng là sự hiện diện thanh tịnh nội tại, bản tính của nó vượt khỏi tâm trí, tính giác của nó được hấp thu nhưng không suy giảm.109 Nó là thực tại không thể phân chia, bất cân xứng, không thể đo lường, không thể tưởng tượng. Này con trai, hãy là người du hành trong hiện tại, không gốc rễ, không có đích đến! Hãy tỉnh biết về cái hiện diện trống rỗng và con sẽ đạt đến điểm mấu chốt. Thông qua việc không cấi trúc hóa (khái niệm), con có thể phát huy khả năng sáng tạo! Thông qua tịnh quang trong tỉnh giác về hiện tại, con tu dưỡng trong khoảnh khắc đó! Đừng bị dính mắc vào tính đa dạng của vạn vật! An trú trong không gian không thể tưởng tượng của các hình tượng A A.

Nhờ quán đỉnh vào mandala này, vô minh được tẩy sạch trong nền tảng của hiện hữu. Hiện diện thanh tịnh được tăng cường trong tỉnh giác về hiện tại, chúng ta được trao quyền để thiền về thực tại. Ngay cả những người có ít đạo lực thiền định cũng sẽ được giải thoát trong trung ấm và với căn cơ cao nhất sẽ được giải thoát ngay trong kiếp này.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Thứ hai: Quán đỉnh vào sự Hiện diện Thanh tịnh Sáng tạo trong Nguyên gốc Sinh tồn của Phân phối Tự nhiên

Các điểm đạo nhân áp dụng tư thế thích hợp của thân, khẩu, ý và vận dụng cái nhìn chăm chú, rồi để chỉ ra mấu chốt của tịnh quang kỳ diệu trong Vượt qua, lama nói:

Kye! Con trai may mắn của lòng ta, hãy lắng nghe! Trong khoảng trống bí mật của tâm báu có một điểm sáng nhỏ phát quang, hạt giống của tỉnh giác về hiện tại. Về bản chất, nó trống rỗng và vô ngã, trong bản tính, nó phát xạ chói lọi phi cấu trúc, và trong tính sáng tạo của bi tâm, tính giác 110 và thể tính siêu phàm, không phân chia, tỏa sáng như ngọn đèn trong một chiếc bình. Ánh sáng rực rỡ đó chiếu ra từ kinh mạch pha lê quý giá, và như bốn ngọn đèn chiếu sáng tự nhiên, bạn thực sự thấy bánh xe trang hoàng vô tận của thực tại thể chất,111 năng lượng và tinh thần của tất cả các vị Như Lai. Đó là đạt được năng lực sáng tạo của sự hiện diện thanh tịnh.

Chính xác thì thế nào? Chúng ta nhìn thấy khuôn mặt của ngũ bộ Phật trong thực tế. Tịnh quang của tỉnh giác về hiện diện thanh tịnh là Đại Nhật; bản tính bất biến, không thăng hoa của nó là A Súc; cường độ trọn vẹn của tịnh quang là Bảo Sinh; vô lượng quang quán ảnh là A Di Đà;112 không cầu tìm, hoàn chỉnh và viên mãn trong tự thân là tịnh quang của Bất Không Thành Tựu.

Thực tại của tỉnh giác hiện diện thanh tịnh là gì? Hiện diện thanh tịnh được coi là không tì vết, tỉnh giác về hiện tại là tấm gương, bởi vì tịnh quang và bản chất của nó là không thể phân chia nên nó là như nhau; bởi vì sự đa dạng trong cách biểu hiện của nó không bị trộn lẫn nên nó được coi là đa dạng; bởi vì nó không cầu tìm, tự nguyện, tự nhiên nên nó thành tựu tất cả; bởi vì trong hiện tại nó hoàn toàn trống rỗng, nó là sự mở rộng. Đó là năm khía cạnh của tỉnh giác hiện diện thanh tịnh.

Bản chất của nó, bất biến, không thăng hoa, là vajra; mọi tiềm năng đầy đủ và hoàn hảo trong đó, nó là ratna; như những hình tướng thuần khiết, nó là padma; nhờ quen thuộc với nó, bởi thành tựu trong hiện tại không có cặn thừa nên nó là karma; và vì đó là con đường tất cả các vị Phật đều theo đuổi nên nó là tathagatha.

Vì tịnh quang vô nhiễm nên nó có màu trắng;113 khi phẩm tính được phát huy tối đa thì nó có màu vàng; an trú không tìm kiếm nó có màu đỏ; vì tính sáng tạo hoàn hảo nên nó màu xanh lục; vì là sự hỗ trợ vững vàng, nó có màu xanh lam.

Về năng lượng tỉnh giác hiện tại, nó bao gồm năng lượng nhiệt vì hơi ấm chưa bao giờ tách rời khỏi trường nhìn tịnh quang; năng lượng duy trì sự sống vì nó duy trì cả luân hồi và niết bàn; năng lượng phân biệt vì nó tách rời luân hồi khỏi niết bàn, tinh túy khỏi cặn bã; năng lượng toàn khắp hòa nhập vào mọi thứ đồng đều; và năng lượng của kỷ nghiệp báo vô tình này, vì nó tiêu diệt luân hồi và dẫn đến niết bàn.114

Về mặt trí tuệ,115 nhận thức về hiện tại bao gồm trí tuệ phân biệt trong phạm vi nó phân biệt giữa sự chứng ngộ và không chứng ngộ thực tại của tịnh quang và do đó phân biệt giữa luân hồi và niết bàn; trí tuệ tích hợp trong chừng mực các biểu hiện khác nhau của sự gia tăng trải nghiệm thị giác như biểu hiện sáng tạo được đồng hóa với hiện diện thanh tịnh; trí tuệ bao trùm đến mức nó thâm nhập khắp nơi; trí tuệ năng động trong phạm vi những hình dạng linh ảnh luôn chuyển động; và trí tuệ giải thoát xảy ra khi bốn điều trước đó được nhận ra là thoát khỏi luân hồi.116 Điều đó hoàn thành sáu nhóm của năm.

Nhóm bảy của năm được bao gồm khi khía cạnh màu xanh lam của hiện diện thanh tịnh được công nhận là vị Phật nữ dakini, bốn màu còn lại cũng được công nhận là dakini, tất cả đều là những gì được thanh lọc và là tác nhân của sự thanh lọc.

Bản sắc cốt yếu của bảy nhóm năm này tự nhiên bao gồm con đường. Theo cách này, quả là thực tại tối thượng được thiết lập như con đường. Như Ma trận rõ ràng đã nêu:

Tính sáng tạo vốn có của tính giác nội tại

Biểu hiện như năm thân, năm phương thức nhận biết,

Nam gia đình Phật, năm màu sắc, năm năng lượng,

Năm trí tuệ và năm chòm sao tương tự.

Tóm lại, thực tại được duy trì bởi bảy nhóm năm không được tạo ra về mặt tinh thần, nó không phải là một trải nghiệm nhận thức về không sắc xảy ra thông qua sự trùng hợp ngẫu nhiên của các năng lượng vi tế bị thao túng, là một phóng chiếu tinh thần được phát minh bởi một tri thức giàu trí tưởng tượng. Đúng hơn, nó là trải nghiệm thị giác về hiện tại, một cái nhìn sâu sắc về bản thể thực sự của thực tại không ảo tưởng. Từ lúc chấp nhận vị lama như một hiện thân của ba phương diện siêu phàm của đức Phật mà chúng ta quy y, cho đến khi mười đặc điểm 117 của vô số mật điển được hoàn toàn hiện thực hóa, mọi kinh nghiệm, bất cứ thứ gì, là kinh nghiệm hiển lộ trong khoảnh khắc, thì khoảnh khắc đó chính là con đường. Trong Ma trận sáu phần nó được trình bày theo cách này:

Phật, Pháp, Tăng

An trú trong chính thân mình

Hoàn thiện và trọn vẹn trong hiện tại.

Bản tính không si mê của tâm trí là nền tảng Phật; lập trường hiện tồn thiêng liêng là thứ nằm ngoài ngôn từ trình bày; cộng đồng quan trọng được hiểu là tự do khỏi mọi dao động. Một nơi nương tựa như vậy không phải là nơi nương tựa tạm thời, hạn chế của đạo Phật hiển giáo, được thi hành với hy vọng đạt được thành tựu nào đó trong tương lai, ác cảm với hiện tại khó chịu, và trong sự thiếu hiểu biết về bản tính của tâm trí. Trong nơi ẩn náu kim cương của sự hoàn hảo tự nhiên, chúng ta có thể tận hưởng tịnh quang của bốn loại kinh nghiệm linh kiến. Những gì được hưởng được định nghĩa trong Ngọn Đèn rực rỡ:

Nó phát sinh tự nhiên, tỏa sáng trong hiện tại;

Nó không được tạo ra bởi nỗ lực của con người;

Nó là mandala và là Phật bản tôn;

Đó là mật chú, thủ ấn, lễ vật cúng dường;

Nó bao gồm các giai đoạn phát sinh và thành tựu;

Đó là luân hồi và niết bàn, chư Phật và tất cả chúng sinh;

Đó là quán đỉnh, kỷ luật và giới nguyện mật tông;

Đó là lama và thần bản tôn.

Chuỗi kim cương: Ý nghĩa của câu thơ trước là trên hết chúng ta nên trân quý sự không chia tách khỏi linh ảnh về chuỗi kim cương ở trung tâm của điểm ảnh sáng chói của hình tướng mở trống bao la. Viên ngọc đính đá trình bày rất rõ ràng:

Nếu bạn muốn nhìn vào tâm trí của Phật toàn diện, hãy nhìn vào thể tính siêu phàm như chuỗi kim cương. Nếu bạn muốn hội nhập với linh kiến Phật toàn diện, hãy an trú trong chuỗi kim cương. Nếu bạn muốn biết Pháp, tóm lược hay mở rộng, hãy nhìn vào hình dạng của chuỗi kim cương. Nếu bạn muốn có trí tuệ trong nhận thức hiện sinh về hiện tại, hãy nhìn vào biểu hiện rực rỡ của chuỗi kim cương. Nếu bạn muốn an trú trong cái thấy, thiền định và hành động, dừng dao động khỏi hiện hữu siêu phàm như chuỗi kim cương. Nếu bạn muốn chiếm lấy cung điện của mọi kinh nghiệm có thể có, hãy nắm vững ý nghĩa của sự mở trống bao la và hiện diện thanh tịnh. Nếu bạn muốn thuộc về dòng truyền thừa của Kim Cang Tát Đỏa, đừng bao giờ rời bỏ hiện diện thanh tịnh và hiện hữu siêu phàm là chuỗi kim cương.118

Nhìn thấy thực tại với nhận thức trực tiếp về hiện diện thanh tịnh là có được may mắn giống như Thế Tôn đầu tiên, Kuntuzangpo. Như đã nói trong Hành vi tồn tại bí mật:

Người nhìn theo cách đó

Tương đương với Kuntuzangpo về vận may.

Sau đó lama kết thúc với câu nói này:

Hôm nay các bạn đã có được khám phá cuối cùng. Quán đỉnh của hiện diện thanh tịnh sáng tạo giống như nhìn thấy khuôn mặt của vô số chư Phật. Làm gián đoạn vòng luân hồi, bạn đã nắm bắt được khoảnh khắc giải thoát. Ngay cả khi đi qua con đường tuần tự của chư Bồ tát đến địa thứ mười, bạn cũng không thể phát huy được Phật tính của Như Lai như vậy. Do đó, từ giờ trở đi, để bạn có thể đạt được sự thanh tịnh của thực tại hoàn hảo, hãy cố gắng thực hành đến cùng bốn linh kiến.119

Những khuyến khích như vậy làm phát sinh niềm hứng khởi.

Phụ lục: Hai phương pháp đi vào Con đường Hẹp của sự Hội Nhập 120 Có Cấu trúc và Không Cấu trúc


Phương pháp cấu trúc phức tạp: Yoga bốn phần

Ma trận rõ ràng
dạy rằng phương pháp thực hành nghi quỹ bắt buộc bao gồm rèn luyện yoga bốn phần.121

Trong phần đầu của thời thiền trước bình minh, hãy thực hành guru yoga, ở phần giữa, duy trì trong Đột Phá, và trong phần cuối, thiền về lạc – không với nhiệt huyền bí (nội hỏa). Sau đó từ gần sáng đến lúc mặt trời mọc, hãy đọc những lời cầu nguyện, tế điển, mật chú, ... Sau khi mặt trời mọc đến buổi trưa, thực hành Vượt qua nhìn chằm chằm. Vào giữa ngày, hãy lễ lạy và đọc kinh. Vào chiều muộn, lại thực hành thiền Vượt qua. Lúc hoàng hôn, hãy cúng dường torma và niêm khí. Trong phần đầu của buổi tối, thiền về cái chết và vô thường; ở phần sau, thực hành giai đoạn phát sinh và mật chú. Trong thời thiền nửa đêm, hãy ẩn giấu giấc ngủ trong hanh động tịnh quang.

Trong tất cả các thời khóa, hãy bắt đầu bằng việc cử hành bồ đề tâm; đối với thực hành nền tảng, hãy an trú trong tỉnh giác vô niệm; và cuối cùng, kết thúc thời khóa bằng hồi hướng công đức cùng những lời cầu nguyện đầy cảm hứng. Nhận thức về sự xuất sắc ba phần là không thể thiếu.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
134
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Phương pháp có cấu trúc không phức tạp

Ngọn đèn soi sáng
nói: “Bước nhẹ nhàng hướng tới thực hành liên tục 24 giờ một ngày ...” đối với những người đang tu luyện trong Tịnh Quang Vượt qua, cách để đạt được chút hơi ấm trong toàn thiện tự nhiên là từ bỏ hoạt động chín phần của vòng quay hàng ngày 122 và không ngừng duy trì các tư thế. Nhờ đó, chúng ta có thể an trú trong sự hiện diện không thể diễn tả được trong ma trận của sự tồn tại siêu phàm và điểm toàn ảnh duy nhất.

Đêm được chia làm ba phần: lúc chạng vạng, ngồi trong tư thế hiền nhân, các giác quan được tập trung chủ yếu vào chúng như sau. Đầu tiên, hãy quán tưởng các kinh mạch và luân xa, duy trì hơi thở cái bình kumbhaka. Sau đó, ở trung tâm rốn, trên đỉnh hoa sen đỏ bốn cánh, quán tưởng chữ A ngắn màu đỏ,123 nóng khi chạm vào, lửa từ đó bốc lên theo trung mạch chạm vào chữ HAM trên đỉnh đầu, làm tan chảy hạt tinh chất màu trắng,124 nhỏ giọt xuống vào lửa, làm tăng cường ngọn lửa, đốt cháy mọi nghiệp chướng và khuynh hướng tinh thần. Cuối cùng, an nghỉ trong không gian lạc – không.

Thời khóa nửa đêm, trong tư thế sư tử: “thu thập mọi nhận thức vào trong bình”:125 ở trung tâm luân xa tim, quán tưởng một ký tự A màu trắng, chiếu sáng rực rỡ; tại lỗ mở brahmarandhra, quán tưởng một chữ A màu trắng khác; và ở giữa hai chữ đó, bên trong avadhuti, một chồng chữ A xâu chuỗi lại với nhau giống như một chuỗi tràng hạt pha lê. Các chữ A hòa tan cái này vào cái kia, cuối cùng thành chữ A ở trung tâm luân xa tim, còn trung mạch được chiếu sáng bên trong như thể bởi một chùm ánh sáng mặt trời xuyên qua một giếng trời.126 Đó là ý nghĩa cốt yếu của “ẩn mình trong hang động tịnh quang”.

Trong thời khóa bình minh, ngay lập tức khi bạn thức dậy, thở ra ba hơi dài phát âm thành tiếng HA. Sau đó ngồi trong tư thế sư tử, tư một chữ A màu trắng ở trung tâm luân xa tim, bắn một hình tượng A màu trắng khác theo trung mạch lên không gian đến độ cao khoảng sáu feet (hai mét) ngay phía trên đỉnh đẩu bạn, khi đó treo nó ở đó, hãy giữ tâm trí bạn trên đó.

Một yoga chủ đạo khác đốt cháy năm loại năng lượng phụ trong việc tạo ra bốn giai đoạn thiền định (dhyana) và tỉnh giác ngừng bặt niệm tưởng.127 Năm chữ A màu đỏ xếp chồng lên nhau của lửa, bốn chữ A màu trắng của nước, ba chữ màu xanh lá cây của không khí, hai màu vàng của đất, và một chữ A xanh lam của không gian được quán tưởng lần lượt theo trình tự. Chữ A tượng trưng cho cái không được tạo ra, khi được đồng nhất với lửa là chìa khóa để thanh lọc tinh thân cả mức thô thiển lẫn vi tế; được đồng nhất với nước, nó thanh lọc mọi kinh nghiệm về vui vẻ và hạnh phúc; đồng nhất với không khí nó thanh lọc mọi suy nghĩ; đồng nhất với đất, nó tịnh hóa các ràng buộc của chánh niệm về các pháp đối trị tinh thần; cuối cùng nó thanh lọc phương thuốc bác bỏ từ chối vốn được tìm thấy bên trong bản chất của chính con người. Yoga chủ đạo này bắt nguồn từ linh kiến hiếm có của đại học giả Vimalamitra.

Trong thời gian tham gia thực hành phương pháp có cấu trúc, việc đánh giá lại các kiểu hành vi của bạn có thể có lợi, điều này có thể được thực hiện với sự trợ giúp của Sự hợp nhất của Mặt Trời và Mặt Trăng:

Hành động như một con ong mật

Và nếm nhiều trải nghiệm;

Hành động như một con nai nhút nhát

Và thoát khỏi hoàn cảnh nguy hiểm;

Hành động như một kẻ câm

Và từ bỏ mọi lời nói mê hoặc

Hành động như một con én quan sát

Và giải quyết những nghi ngờ về phương pháp hiện sinh;

Hành động như một kẻ mất trí phi lý

Và từ bỏ gia đình và tập quán;

Hành động như một con sư tử không sợ hãi

Và nán lại nơi chôn cất trên trời;

Hành động như một con lợn hoặc một con chó

Và thanh lọc những suy nghĩ sạch sẽ và ô uế.

Đánh giá trạng thái tâm trí dựa trên bảy kiểu hành động àny, bắt đầu bằng khám phá cơ bản, chẳng hạn như lắng nghe thầy và nghiên cứu sách vở theo cách của một con ong bận rộn, và kết thúc bằng sự chấp nhận không phân biệt đối xử của nhất vị về lạc thú và đau khổ, tốt và xấu của một yogi trưởng thành, bạn có thể điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp và cái thấy cùng với thiền định của bạn sẽ được nâng cao.

Các dấu hiệu: Giải thích về Bốn Linh Kiến

Vượt ngoài Âm thanh
gải thích:

Từ đây phát sinh bốn loại linh kiến:

Nhận thức trực tiếp về thực tại

Vượt qua lối hùng biện của tư duy phân tích;

Tăng cường kinh nghiệm linh kiến

Thay thế các hình tướng ảo tưởng

Biểu lộ tỉnh giác tại đây và bây giờ về trung ấm;

Với đỉnh cao về phạm vi hiện diện thanh tịnh trọn vẹn,

Ba thân đồng hóa mọi hình tướng;

Thực tại viên mãn

Phá vỡ sự tiếp diễn của luân hồi tam giới.

Như vậy, kinh nghiệm về bốn loại linh kiến này được phân biệt với những khía cạnh khác nhau cần được tịnh hóa và sản phẩm của sự tịnh hóa đó, trong đó chúng tương tự với năm phương thức của trí tuệ ba la mật. Tuy nhiên, về mặt tốc độ đạt được, cái trước có thể được ví như một cỗ xe, trong khi cái sau di chuyển như mặt trời mặt trăng.

Linh kiến đầu tiên: Nhận thức trực tiếp về thực tại

Trong cách tiếp cận tối cao phi thường này đối với bản tính tinh yếu của chúng ta, linh kiến đầu tiên trong bốn linh kiến này là nhận thức trực tiếp về thực tại.128

Tu luyện: Vào ban ngày, việc tu luyện được thực hiện bằng điểm tập trung pháp thân, mặt trời hoặc tinh thể lửa,129 vào ban đêm, việc rèn luyện được thực thi bằng cách sử dụng điểm tập trung báo thân, mặt trăng hoặc tinh thể nước,130 do đó tránh được tổn hại cho mắt vào ban ngày. Một ngọn đèn bơ, tiêu điểm tập trung hóa thân,131 tạo điều kiện thực hành sáng sớm và buổi tối. Ngay cả khi đó, lúc đầu, đừng nhìn thẳng vào ánh ságn mà làm quen với nó bằng cách nhìn vào bên cạnh hoặc bên dưới nó.

Nhớ rằng khi màu trắng chiếm ưu thế trong linh kiến, chúng ta nên nhìn sang bên phải, khi màu vàng chiếm ưu thế hãy nhìn lên trên, khi xanh lá chiếm ưu thế hãy nhìn sang trái, đỏ chiếm ưu thế hãy nhìn bên dưới và lam chiếm ưu thế hãy nhìn chủ yếu vào trung tâm.

Nếu năm màu có kích thước bằng nhau thì đừng thay đổi hướng nhìn. Nếu bạn không nhìn thấy điểm sáng, điều quan trọng là phải để cả hai mắt nhìn vào sự giống nhau.

Trong thời gian thực hành đó, khi lần đầu bạn nhìn thấy những hình mẫu hay đường nét màu sắc cầu vồng trong linh ảnh về tính bao la rực rỡ của Phật tính Như Lai Tạng ở trung tâm luân xa tim, hãy chú ý vào chúng. Ngọn đèn của những điểm sáng trống rỗng sẽ tỏa rạng dưới dạng các quả cầu ánh sáng cầu vồng,132 hoặc dưới dạng các điểm ảnh ba phần cực nhỏ, tất cả đều khác nhau về mức độ và cường độ.133

Vượt qua tất cả những điều đó, trong khoảnh trống ở giữa,134 ánh sáng chói lọi của hiện diện thanh tịnh và tính trong sáng trống rỗng không thể diễn tả của nó, không thể tách rời, giống như mặt trời không thể phân biệt được với các tia sáng của nó, nhận thức cao độ về hiện diện thuần tịnh, xuất hiện như “chuỗi kim cương”.

Về mặt nhân quả, điều quan trọng cần hiểu là giống như một khuôn mặt và hình ảnh phản chiếu của nó trong gương, bản chất thực sự và hình dáng 135 là một, hơn nữa, cái gọi là “chuỗi kim cương của hiện diện thanh tịnh” đồng thời là cả hai nguyên nhân và kết quả.

Cho đến khi nhận ra mấu chốt đó, một số người sẽ giữ vững niềm tin mù quáng vào thực tế được cụ thể hóa thành một cái gì đó cụ thể (chẳng hạn như một “thực thể” hay “trạng thái”, là “tồn tại” hoặc “không tồn tại”) những người như vậy không có một chút manh mối nào về sự thành tựu cuối cùng của Đại Toàn Thiện.

Dấu hiệu giải thoát: Với sự hiểu biết đã nói ở trên, về mặt kinh mạch, dấu hiệu giải thoát là nhận thức về hiện diện thanh tịnh như những sợi ánh sáng mịn màng giống như xơ ánh sáng, rất tinh tế và tròn trịa.136 Về điểm ảnh phát sáng, dấu hiệu giải phóng là nhận thức về hiện diện thanh tịnh như một cặp điểm ảnh rất mịn được kết nối với nhau trong các khe hẹp.137 Về năng lượng vi tế, dấu hiệu giải thoát là nhận thức về hiện diện thanh tịnh như chuyển động, điều này bị cản trở và thông qua sự quen thuộc, bị mắc kẹt trong khuôn khổ của sự mở trống bao la và điểm ảnh. Những ngọn đèn rực rỡ nhất thiết phải có được sự trong sáng và sức mạnh, về thể chất, năng lượng và tinh thần, chúng ta thư giãn tự nhiên và thoải mái. Qua đó, định của hỷ lạc, trong sáng và vô niệm khởi lên cùng với trí tuệ phân tích phi thường, để đạt được việc làm chủ ba phần tạm thời của tỉnh giác trong hiện tại.138

Ngay cả khi những chướng ngại xuất hiện trong giai đoạn này, chúng ta vẫn được chuyển đến cõi Phật hóa thân một cách tự nhiên. Điều này không chỉ do nhìn thấy dấu hiệu đầu tiên của linh ảnh về sự mở trống bao la bên ngoài, mà đúng hơn nó là mấu chốt của việc nhìn thấy chân lý không bị đánh bóng bằng con mắt trí tuệ bên trong.

Ma trận rõ ràng đảm bảo với chúng ta rằng:

Thấy hiện diện thanh tịnh trực tiếp.

Nhờ điểm mấu chốt của linh ảnh chân thực

Không trở lại tam giới là khả thi.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top