vienquang2

Ai Tạo ? TÂM NÀO TẠO ?

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,345
Điểm tương tác
1,317
Điểm
113
Bài 42.- Thiền .- Công năng Giải trừ Ý Thức.

Thiền là Pháp Tu: Chỉ (Samatha)- Quán (Sâm bát đề) - Chỉ quán đồng tu (Thiền na). Một trong 3 Vô Lậu Học của PG.

* Tu Thiền Sau khi được Sơ quả. Để Hành giả vào Nhị Quả Tư Đà Hàm.

Trích: Thánh quả Nhất lai là quả vị thánh thứ hai trong tứ thánh quả. Sao gọi là nhất lai? Bởi vì thánh quả này phải còn trở lại một lần sanh tử nữa mới chấm dứt khổ đau, đạt đến quả vị vô sanh.

Những ai đoạn tận ba kiết sử như trong trường hợp của Thánh quả dự lưu, và làm muội lược hai kiết sử tiếp theo, đó là, Dục (kāmacchando) và Sân (byāpāda), được gọi là Thánh quả Nhất lai - Tư đà hoàn (Sakadāgāmi). Trường Bộ Kinh định nghĩa: “Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử và làm nhẹ bớt tham, sân, si, (Trích TỨ THÁNH QUẢ - KINH TẠNG PĀLI Thích Trung Định)

Muốn đến Nhị Quả.- Phương tiện tốt nhất là Thiền Định.- Như Bát Chánh Đạo dạy.

* Do con người thủ chấp Ý THỨC làm Tự NGÃ.- Nên vào Sanh Tử luân hồi.

  • Tánh của Ý Thức là vọng động, suy lường và Tham (Dục), sân,Mạc Na thức thì si.
  • Khi Tác Ý Tham, sân, si đến thân, khẩu, ý thì thành 3 Nghiệp.- Có Nghiệp thì dẫn vào Hữu Vi Sanh Tử.

+ Vọng Tưởng: là những ý tưởng chợt hiện khởi trong tâm (do vọng niệm, vọng chấp), sau đó được tác ý (cetanā) hỗ trợ, thôi thúc chúng ta hành động tạo nghiệp qua thân khẩu ý. Do đặc tính của tác ý (cetanā) là hành động, tạo tác và quyết định nên khi đồng sinh với tâm bất thiện (vọng tưởng) thì nghiệp xấu được tạo ra.

* Như vậy:

  • Vọng Tưởng khi chưa có Tác Ý hổ trợ.- Chỉ tạo nên Phiền Não Chướng.
  • Vọng Tưởng khi có Tác Ý hổ trợ.- Thì tạo nên Nghiệp Chướng.

+ Đức Phật dạy: ”Cần thận trọng, chớ tin vào tâm ý của các ông. Tâm ý các ông không đáng tin cậy. Chỉ sau khi các ông đã chứng được đệ tứ quả A La Hán (vào Định Không Tâm), các ông mới có thể tin vào cái "tâm Ý Thức" này.”
(42 chương)

* Muốn thuận chuyển vào Tịnh Độ, NB thì phải giải trừ vọng tưởng của Ý Thức.- Bằng cách Tu Thiền Định.- Đây là Bước thứ 2 , 7 và 8 trong Bát Chánh Đạo là Chánh Tư Duy , Chánh Niệm & Chánh Định.- Tức Thiền Định.

* Giải trừ Ý Thức cần Thực Hành Thiền:- Đầu tiên vào Sơ Thiền:

1. Sơ Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 6 Địa (xứ), dẫn sanh 6 Định. Đó là: 2 Tự Địa và 4 Thượng Địa. ĐT ĐL dạy.- Như bài kệ:

Ly dục và ác pháp,
Có giác và có quán,
Ly sanh được hỷ lạc,
Tức vào được Sơ Thiền.

Trong A Tỳ Đàm nói: “Vào Sơ Thiền có 4 giai đoạn”. Đó là:

Tương Ưng Vị.
Tịnh.
Vô Lậu.
Đắc Thiền.

Người vào được Tịnh và Vô Lậu là vào được Sơ Thiền.-Vào Đệ Nhị Thiền và Đệ Tam Thiền cũng như vậy.(ĐT ĐL)

* Sơ Thiền có 5 trạng thái Tâm: 1. Tầm, 2. Tứ, 3. hỷ, 4. lạc, 5. nhất tâm.(Hết trích)

Sơ Thiền còn gọi là Ly sanh Hỷ Lạc địa.- Nghĩa là Sơ Thiền Ly Dục, Ly Bất Thiện Pháp mà sanh hỷ lạc.

* Như vậy: Vào được Sơ Thiền thì được "MUỘI LƯỢT" DỤC & SÂN.- Đến được Nhị Quả Tu Đà Hàm .

DUY TÂM NÀO TẠO ra Vũ Trụ và Con người ? - Page 2 Se_thi11

Vào được Nhị Quả là tiến một bước khá sâu vào Cực lạc, Tịnh Độ, Niết Bàn Hữu Dư.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,345
Điểm tương tác
1,317
Điểm
113
Bài 43.- Tứ Thiền .- Sắc Giới Thiên.

SẮC GIỚI; S. Rupadathu
Một trong ba cõi sống của loài Trời. Ở cõi Trời sắc giới này, chúng sinh đã thoát khỏi mọi lòng dục, nhưng vẫn còn sắc thân; sắc thân của loài Trời ở đây rất đẹp và có thọ mạng lâu dài.

Các cõi Trời thuộc Sắc giới được phân chia, tương ứng với bốn cấp thiền của Sắc giới.

1. Cấp sơ thiền: gồm có các cõi Trời: Phạm chúng thiên (S. Brahmaparisadya):

-Phạm phụ thiên (S. Brahmapurohita)

-Đại Phạm thiên (S. Mahabrahma).

2. Cấp nhị thiền (Thiền thứ hai), gồm các cõi Trời:

-Thiểu quang thiên (S. Parittabha)


-Vô lượng quang thiên (S. Apramanabha)

-Quang âm thiên (A. Abhasvara).

3. Cấp tam thiền (thiền thứ ba) gồm các cõi Trời:

-Thiểu tịnh thiên (S. Parittasubha)

-Vô lượng tịnh thiên (S. Apramanasubha).

-Biến tịnh thiên (S. Subhakrtsna).

4. Cấp tứ thiền gồm các cõi trời:

-Vô vân thiên (S. Anabhraka).

-Phúc sinh thiên (S. Punyapasara).

-Quảng quả thiên (S. Brhatphal).

-Vô tưởng thiên (S. Asanjnisattva)

-Vô phiền thiên (S. Avraha).

-Vô nhiệt thiên (S. Atapa)

-Thiện hiện thiên (S. Sudrsa)

-Thiện kiến thiên (S. Sudarsana)

-Sắc cứu kính thiên (S. Akanistha)

-Hòa âm thiên (S. Aghanistha).

-Đại tư tại thiên (S. Mahamahesvara).(TĐ Phật học)

Kính các Bạn:

Sắc Giới Thiên, tuy là .- Cảnh do Tu Tập thiền Định , tuy còn tạo tác hữu vi nhưng đã muội lượt nên Vô Minh là vi tế.

K. NB nói rằng đây đã là "Hữu Dư Y NB", như đoạn kinh sau:

*.- Hữu - dư - y Niết - Bàn: (Niết bàn chưa hoàn toàn) Từ quả vị thứ nhất Tu-đà-hoàn đến quả vị thứ ba A-na-hàm, tuy đã đoạn trừ tập nhân phiền não, nhưng chưa tuyệt diệt, tuy đã vắng lặng an vui, nhưng chưa viên mãn. Sự an vui chưa hoàn toàn, vì phiền não và báo thân còn sót lại, nên gọi là Niết bàn Hữu-dư-y. Vì phiền não còn sót lại nên phải chịu quả báo sanh tử trong năm bẩy đời; song ngã chấp đã phục, nên ở trong sanh tử mà vẫn được tự tại chứ không bị ràng buộc như chúng sanh.
(Trích k. NB www.thuvienhoasen.org)
DUY TÂM NÀO TẠO ra Vũ Trụ và Con người ? - Page 3 To_th_10

Theo VQ.- Sắc Giới Thiên vẫn còn trong Tam Giới.- Nên là cảnh giới Tiểu Thánh.- Nhưng đã là Cõi Cực Lạc, Tịnh Độ rồi. Mà vẫn còn phải tu tiếp nữa...Như Đức Phật Thích Ca, ngài từ cõi trời Đâu Suất, mà giáng sanh để tu kiếp cuối cùng, để đắc Vô Thượng NB
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,345
Điểm tương tác
1,317
Điểm
113
Bài 44.- Vô Sắc Giới.

* Khái niệm về Chư Thiên:

Tư duy:

* Thế nào là Chư Thiên ?

+ Tất cả mọi ý niệm "chúng sanh", khi đã biết hướng về Thiện.- Lúc đó gọi là Thiện Nam, tín nữ. Khi ý niệm thiện được ngày càng thăng hoa, được gia cố bằng 10 pháp thiện. Thân có 3: Không sát, không đạo,không dâm. Khẩu có 4 Không nói dối, không nói lời thiêu dệt, không nói lời hung ác, không nói lời đâm thọc. Ý có 3: Không tham, không sân, không si. Khi ấy chúng sanh đó sẽ phát sanh Thiên nhãn, nghĩa là thấy xa hiểu rộng, vì đã mỏng bớt vô minh và được thiện pháp điều hướng. Khi ấy thì được gọi là Chư Thiên.

+ Chư Thiên ngay khi sanh ra, đã có 3 điều tự biết, đó là:
  • Biết mình từ đâu đến.
  • Biết mình đã gieo trồng những phước đức gì.
  • Biệt rõ công đức của mình đã làm trong quá khứ.
Hỏi: Làm sao chư Thiên có thể tự biết được Túc Mạng mình?
Đáp: Do sanh báo mà Chư Thiên có được 5 thần thông, nên tự biết được Túc Mạng của mình.
Lại nữa, do thần lực của Phật mà chư Thiên biết được Túc Mạng của mình, sanh tâm hoan hỷ đến đảnh lễ Phật.
Trong loài người, cũng có người do sanh báo mà biết Túc Mạng của mình, như trường hợp các vị Chuyển Luân Thánh Vương. Cũng có người nhờ nương theo thần lực của Phật mà biết được.

+ Chư thiên có nhiều tầng bậc cao thấp khác nhau, vì thế chia ra nhiều cõi Trời khác nhau. (nghĩa là nhiều lĩnh vực khác nhau) (hết trích)

* Vô Sắc Giới Thiên:

Vô sắc giới có 4 cõi tuần tự theo quả của 4 bậc thiền vô sắc như sau:
– Đệ nhất thiền vô sắc là không vô biên xứ thiền cho quả tái sinh (hóa sinh) lên cõi Không Vô Biên Xứ Thiên có tuổi thọ 20.000 đại kiếp.
– Đệ nhị thiền vô sắc là thức vô biên xứ thiền cho quả tái sinh (hóa sinh) lên cõi Thức Vô Biên Xứ Thiên có tuổi thọ 40.000 đại kiếp.
– Đệ tam thiền vô sắc là vô sở hữu xứ thiền cho quả tái sinh (hóa sinh) lên cõi Vô Sở Hữu Xứ Thiên có tuổi thọ 60.000 đại kiếp.
– Đệ tứ thiền vô sắc là phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền cho quả tái sinh (hóa sinh) lên cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên có tuổi thọ 84.000 đại kiếp lâu dài nhất trong tam giới.(theo Th Thiện Tuệ)

ĐT ĐL nói về Vô Sắc Thiền, tức Tứ Định:

Nội Thiền . b).Tứ Định:

5).Vô Biên Hư Không Xứ Định:
Niệm phân biệt tướng, diệt hết thảy các tướng Hữu thì vào được Vô Biên Hư Không Xứ Định.
Vào Định này, thiền giả lại quán “sặc thân thô trọng do duyên hòa hợp tạo thành”. Đã có thân là có Khổ, nên lại quán thân như hư không. Khi đã được thân nhẹ nhàng rồi, thiền giả thấy 4 đại ở bên trong thân và ở bên ngoài đều như nhau cả. Do vậy mà thấy vô lượng vô biên hư không, cả trong lẫn ngoài, khiến tâm trở nên nhẹ nhàng thanh thoát, nên được gọi là Vô Biên Hư Không Xứ Định. Ví như chim bị nhốt trong lồng, khi được thả tự do,thư thái, bay vút lên không trung.

6). Vô Biên Thức Xứ Định.(Vô Biên Thức Xứ Định duyên 9 Địa, dẫn sanh 9 Định. Đó là: 2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 3 Thượng Địa.)
Thiền giả lại duyên Thọ, Tưởng, Hành, Thức xem như bệnh hoạn, quán Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, rồi xả Vô Biên Hư không Xứ Định để duyên hiện tại, quá khứ,vị lai,duyên thức xứ ở nhiều đời. Rồi thiền giả lại thấy “thức xứ”cũng chăng có biên giới, vào được Vô Biên Thức Xứ Định.

7). Vô Sở Hữu Xứ Định.(Vô Sở Hữu Xứ Định duyên 7 Địa, dẫn sanh 7 Định. Đó là: 2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 1 Thượng ĐỊa.)
Dùng Vô Biên Thức Xứ làm duyên khởi, thiển giả lại quán Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều như bệnh, như mụt nhọt, quán Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã là hư dối, quán Thức cũng là như vậy. Rồi thiền giả phá được “thức tướng”, tán thán “Vô sở hữu xứ”, vào được Vô Sở Hữu Xứ Định.

8 ). Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định.(Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định duyên 6 Địa,dẫn sanh 6 Định. Đó là: 2 Tự Địa và 4 Hạ Địa.-Tất cá các Tịnh Địa khác đều lợi ích cho Tự Địa cả.)
Ở nơi Vô Sở Hữu Xứ, thiền giả lại duyên Thọ, Tưởng,Hành, Thức, thấy rõ thân là Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, do duyên hòa hợp mà thành, nên xả Vô Sở Hữu Xứ Định, vào được Vô Tưởng Định.
Vào được Vô Tưởng Định rồi, là thiền giả được “Đệ nhất diệu xứ” là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định.

Hỏi: Nơi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ vẫn còn Thọ,Tưởng, Hành, Thức. Như vậy vì sao lại gọi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ?
Đáp: Ở nơi đây vẫn còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức nhưng rất vi tế. Vì quá vi tế khó có thể biết được, nên gọi là gọi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.Phàm phu tưởng rằng Định này là Niết bàn. Theo Phật pháp thì do nhân duyên tu tập mà thấy rõ “Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng”rất vi tế, nên gọi Định này là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Định vậy thôi.

Sơ Thiền Vị thứ lớp sanh 2 Tịnh Địa VỊ: 1 Tịch và 1 Chiếu. Dẫn đến Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ cũng là như vậy.

Tới Định vị này. Hành giả coi chừng rơi vào Vô Tưởng Định (ngoại thiền).

Hỏi: Thể nào gọi là Vô Tưởng?
Đáp: Phải hiểu nghĩa Vô Tưởng theo 3 trường hợp:
  • Vô Tưởng định.
  • Diệt Thọ Tưởng định.
  • Vô Tưởng Thiên.
Phàm phu Ngoại đạo muốn diệt sự sanh khởi của Tâm nên vào Vô Tưởng Định.
Các đệ tử của Phật muốn diệt tâm vô tưởng sanh khởi, nên vào Diệt Thọ Tưởng định. Còn chư Thiên thì vào Vô Tưởng Thiên.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ Thiền định?
Đáp: Có hai thứ. Đó là: Thiển định Hữu Lậu-Thiền định Vô Lậu Thiên của phàm phu Ngoại đạo là Hữu Lậu Thiền Thiên của Thánh Hiền là Vô Lậu Thiền.
Đệ tử của Phật muốn ly phiền não ở các cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc, phải tu 9 phẩm Giải thoát (3 thượng,3 trung,3 hạ). Muốn vậy, hành giả phải y nơi Hữu Lậu để vào Sơ Thiền. Nơi đây có đủ 9 Vô Ngại Đạo, 8 Giải thoát Vô Lậu Đạo, nên dù hiện tại là hữu lậu, mà trong tương lai sẽ được vô lậu. Nếu y nơi hữu lậu vào Sơ Thiền, thì vào Đệ Nhị Thiền cũng sẽ có đủ 9 Vô Ngại Đạo và 8 Giải thoát.
Vào Đệ Nhị Thiền, hành giả vừa tu Hữu Lậu Thiền, vừa tu Vô Lậu Thiền. Như vậy ở nơi hiện tại có tu hữu lậu mà ở vị lai sẽ được vô lậu. Cho đến khi vào được Đệ Nhị Thiền thanh tịnh thì được vô lậu hoàn toàn. Nhờ tu 9 phẩm Giải thoát, Vô Ngại Đạo và 8 Giải thoát Vô Lậu Đạo mà thiền giả ra vào vô ngại nơi hữu lậu và vô lậu vậy.
Từ Sơ Thiền đã tu Hữu Lậu đề dẫn đến Vô Lậu Đạo. Vào Đệ Nhị Thiền tu Tịnh Vô Lậu, khởi tu Hữu Lậu Xứ, vào Vô Lậu Xứ,rồi tiến tu Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.
Khi đã ly dục hoàn toàn, là có đủ 9 Vô Ngại Đạo và 8 Giải thoát Vô Lậu Đạo. Nếu tu thêm giới Thiện Căn Vô Lậu Đạo đề trừ Vô Định Tâm thì sẽ có được hết thảy 9 Vô Lậu Đạo. (hết trích)

DUY TÂM NÀO TẠO ra Vũ Trụ và Con người ? - Page 3 Duyzon14

* Lộ trình đến A la Hán: Tứ Thiền + Tứ Định + Diệt Thọ Tưởng Định (A la Hán).- Do đó Tứ Định .- Vô Sắc Giới là đã đến Cõi Thánh Tịnh Độ, Hữu Dư NB.

* Các Cõi Tứ Thiền Thiên và Tứ Vô Sắc là Thánh Cảnh. Đều do TÂm Tạo.- Nhưng là Tâm Vô Lậu.

+ Tâm Hữu Lậu: Do Ý Thức vọng khởi.

+ Tâm Vô Lậu: Do Ý Thức được Giới & Định tịnh hóa thành DIỆU QUAN SÁT TRÍ.- Do Trí Tuệ hành mà hiển hiện.
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,345
Điểm tương tác
1,317
Điểm
113
Bài 45.- Diệt Thọ Tưởng Định,Vô Tưởng Định.

Diệt Tận Định—Định Tam muội, làm cho tâm và tâm sở của Lục Thức dập tắt hoàn toàn những cảm thọ và suy tưởng. Đây là một trong những phương thức thiền cao nhất dẫn tới định tâm (tâm ý không nhiễm không nương vào một cảnh nào, không tương ứng với một pháp nào. Đây là phép định của bậc Thánh. Khi vào phép nầy thì tâm trí vượt tới cõi vô sắc giới, truớc khi đi vào cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định, rồi đắc quả Phật và nhập Niết Bàn.- Từ Điển Phật học)

LUẬN:

....... Hỏi: Thế nào gọi là Vô tưởng ?

....... Đáp: Phải hiểu nghĩa Vô tưởng theo 3 trường hợp:


  • Vô tưởng Định.
  • Diệt Thọ tưởng Định.
  • Vô Tưởng Thiên.

....... Phàm phu Ngoại đạo muốn diệt sự sanh khởi của Tâm nên vào Vô tưởng Định.

....... Các đệ tử Phật muốn diệt tâm vô tưởng sanh khởi, nên vào Diệt Thọ tưởng Định. Còn chư Thiên thì vào Vô tưởng Thiên.(ĐT ĐL)

* Diệt Thọ Tưởng Ðịnh:

Gọi định này là định Diệt thọ tưởng, do vì khi chứng nhập định này hơi thở dứt (thân hành diệt), tầm tứ dứt (khẩu hành diệt) và đặc biệt là thọ, tưởng dứt (tâm hành diệt). (Theo "Hữu Minh Tiểu Kinh", Trung Bộ I, tr .302, bản dịch của HT. Minh Châu, 1973).

Ở đây thọ uẩn và tưởng uẩn diệt nên thật khó để đề cập đến định này. Vì vậy, chỉ có thể trình bày một ít nét đại cương. Khi vào Diệt thọ tưởng định thì khẩu hành, thân hành và ý hành diệt theo thứ tự đó. Hành giả không hề nghĩ rằng: "Tôi đang chứng Diệt thọ tưởng định", do vì vị ấy trước đó tu tập như vậy nên dẫn đến kết quả như vậy (Ibid., tr.302).

Khi ra khỏi Diệt thọ tưởng định, hành giả không có nghĩ rằng: "Tôi sẽ ra khỏi Diệt thọ tưởng định", hoặc "Tôi đã ra khỏi Diệt thọ tưởng định". Nhưng, khi ra khỏi định này thì tâm hành, thân hành và khẩu hành lại theo thứ tự này khởi lên trở lại. (Ibid., tr.302).

Ðặc biệt khi ra khỏi Diệt thọ tưởng định thì hành giả cảm nhận ba loại xúc: Không xúc (cảm xúc vô ngã), Vô tướng xúc (vô thường), và Vô nguyện xúc (không đưa đến khổ, hành giả nhận rõ Niết-bàn không có tham, sân, si) và có khuynh hướng độc cư ( Ibid., tr. 302).

Chính tại định Diệt thọ tưởng, một khi hành giả đã chứng nhuần nhuyễn định này thì tất cả lậu hoặc tiêu. Chánh trí phát khởi và chứng đắc vô lậu Niết-bàn.

Qua phần trình bày lộ trình tu chứng của Thế Tôn trải qua chín cảnh giới định, và qua các định mà Thế Tôn dạy cho các đệ tử về sau, chúng ta nhận ra một điểm nhất quán rằng: từ cảnh giới định này bước vào một cảnh giới định cao hơn, hành giả cần khởi tâm từ bỏ. Tâm từ bỏ có thể do hai động cơ: hoặc khởi tâm mong muốn đi vào sâu trong cảnh giới định mà từ bỏ giới định đang trú, hoặc thấy tướng vô thường và khổ đau của định đang trú mà khởi tâm nhàm chán từ bỏ ra đi. Ra đi là đi vào định cao hơn. Năng lực giác tỉnh mạnh mẽ nhất và có tính "Phật giáo" nhất là luôn nhận thức rõ khổ đau của cảnh giới đang là, như chính chúng ta đang nhận rõ khổ đau của kiếp người, để phát khởi tinh tấn lực và tăng cường niệm giác tỉnh đi vào giải thoát. Nhận thức này rất phù hợp với điều mà Thế Tôn thường nhấn mạnh: "Ta chỉ dạy rõ khổ đau và con đường đoạn tận khổ đau".

theo: HT. Thích Chơn Thiện.

Ghi chú: Có một số kinh luận. Cảnh Giới Tứ Thiền.- thứ 4 Sắc Giới, và tứ Định.-thứ 8 Vô Sắc Giới chưa phải là NB. Phải nhập Diệt Thọ Tưởng Định.- thứ 9.- Tức đắc Quả A la Hán mới có Niết Bàn.
DUY TÂM NÀO TẠO ra Vũ Trụ và Con người ? - Page 3 La_hze11
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,345
Điểm tương tác
1,317
Điểm
113
Bài 46.- Trạch Diệt Vô Vi . Tịnh Độ Phật A Di Đà

  • Trạch.- là chọn lựa,
  • Diệt.- là tên khác của Niết bàn ,an lạc.

Do chọn lựa Phải trái (trạch pháp),mà hưỡng được Niết Bàn nên gọi là Trạch diệt Vô Vi.
Như các bài kinh sau đây:

*KINH TƯƠNG ƯNG BỘ.-Samyutta Nikàya-TẬP IV - THIÊN SÁU XỨ
Chương IX.-Tương Ưng Vô Vi

I. Thân (S.iv,359)
1) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về pháp vô vi và con đường đưa đến vô vi (asankhata). Hãy lắng nghe.
2) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vô vi? Này các Tỷ-kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô vi.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến vô vi? Thân niệm (kàyagatà sati), này các Tỷ-kheo, đây gọi là con đường đưa đến vô vi.
4) Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta thuyết về vô vi, Ta thuyết về con đường đưa đến vô vi.
(KINH TƯƠNG ƯNG BỘ)

* Đấy,do trạch Pháp đoạn tận Tham -sân -si nên đến được Vô vi.

Hoặc như đoạn kinh A Di Đà sau:

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.
Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

* Đấy do bỏ niệm thế gian xoay qua Niệm Phật mà được Vãng sanh về Cực Lạc.- Đó là Trạch Diệt Vô vi.

"Mỗi bước lần sang chốn Niết Bàn,
Lướt dòng sanh tử chớ hề nan.
"CHƠN KHÔNG" dừng bước trong "LY NIỆM",
TỊNH ĐỘ là đây chính NIẾT BÀN."
(HT.Thích Thiện nhơn)

Có nhiều người cho là Tịnh Độ Tây Phương của Phật A Di Đà.- Không phải là NB !

VQ thấy ở Niệm Phật Thập Yếu. HT. Th Thiền Tâm (Bậc Trưởng bối trong TĐ Tông).- Ngài khẳng định DUY TÂM TỊNH ĐỘ, như sau:

Tức tâm là độ lý không ngoa
Tịnh khác Thiền đâu, vẫn một nhà
Sắc hiển trang nghiêm miền diệu hữu
Không kiêm vô ngại cõi hằng sa
Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc
Nguyện Phật bao la đức hải hà
Ngoảnh lại đường tu, ai sớm tỉnh?
Nỗi thương ác đạo mãi vào ra!

Thích Thiền Tâm

DUY TÂM NÀO TẠO ra Vũ Trụ và Con người ? - Page 3 Thian_15
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,345
Điểm tương tác
1,317
Điểm
113
Bài 47.- TƯỠNG THỌ DIỆT VÔ VI:

Tưởng thọ diệt vô vi : Vô vi hiển hiện trong Diệt tận định. Vì trong định này tâm tưởng của 6 thức và khổ thọ, lạc thọ đều diệt tận.

Đây là tiến trình nhập Niết bàn xuyên qua Pháp Thiền Cửu Thứ đệ Định,của Chư Vị A la Hán. Gồm: 1. Sơ Thiền ly hỷ diệu lạc địa, 2. Nhị Thiền Định Sanh Hỷ lạc địa, 3. Tam thiền Ly hỷ diệu lạc địa, 4. Tứ Thiền Xã Niệm Thanh tịnh địa, cộng cới Tứ Định là: 5. Hư Không vô biên xứ định, 6. Thức vô biên xứ định, 7. Vô sở hữu xứ định, 8. Phi hữu phi vô tưởng xứ định và định thứ 9 là Diệt thọ tưởng định.

Nói đến loại Định diệt trừ sáu thức đầu. Khi thọ và tưởng đã được diệt rồi, thì thức thứ sáu, các tâm pháp và tâm sở pháp đều cũng được diệt. Là một dạng định rất sâu và là một trong sáu pháp tâm bất tương ưng hành theo giáo lý Duy thức.

Trong quá trình này Chư Phật và A la Hán xã bỏ tất cả những Ức tưởng,những xúc,tác ý, thọ ,tưởng, tư của Vọng thức,mà thể nhập hoàn toàn Diệt Đế,Các ngài bằng Chơn Trí chiếu kiến và Thể nhập Chơn Như Lý .

Sự chứng đạt Diệt thọ tưởng định có nghĩa là giòng tâm thức ngưng lại trong lúc nhập thiền. Khi sự chứng đạt được gọi là hoàn hảo, thì không thể nói rằng sự chứng đạt ấy là hữu vi hay vô vi được vì các hình thức biểu tri (thân, khẩu) đều hoàn toàn vắng mặt. Nhưng các phái Andhakas và Uttarā-pathakas đã quan niệm rằng vì sự nhập thiền Diệt thọ tưởng định không là hữu vi, do đó là vô vi.

+ Khi nhập Diệt thọ tưỡng định, đầu tiên khẩu hành diệt trước, rồi đến thân hành; sau đó mới đến tâm hành diệt.

+ Khi xuất Diệt thọ tưởng định, tâm hành sanh ra trước, rồi đến thân hành và sau cùng mới đến khẩu hành.

* TƯỠNG THỌ DIỆT VÔ VI là cảnh giới Niết Bàn của Bậc A la Hán.
(Trích nhiều nguồn PH)

Kính các Bạn.
Như vậy chúng ta thấy rõ: Dù là cảnh giới Vô Vi, thánh cảnh hay Cực Lạc, NB đều do chính TÂM TA TẠO RA, TA TỰ TRANG NGHIÊM BẰNG GIỚI, ĐỊNH, HUỆ.- Mà Không phải do ai tạo ra sẳn rồi rướt hồn ta về an hưởng.- “Dục cầu Tịnh độ tiên tịnh kỳ tâm, tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh,” nghĩa là muốn cầu về cõi Tịnh độ trước hết phải thanh tịnh lòng của mình, hễ lòng mình thanh tịnh đó là cõi Tịnh độ của Phật.
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,345
Điểm tương tác
1,317
Điểm
113
Bài 48.- Vô Lượng Niết Bàn.(Đại Thừa PG)

Diệt Thánh Đế, tức là Niết Bàn. - Với Kinh Đại niết Bàn và Ý nghĩa Diệt Thánh Đế. Đức Phật dạy- Niết Bàn là Vô lượng, là khắp tất cả chỗ.- Đó là "Vô Trụ Xứ NB".

+ vô trụ xứ niết bàn có nghĩa là:
Phật tại Niết Bàn tự do toàn vẹn, muốn sống bất cứ nơi nào tùy ý. Ngài có thể làm bất cứ cách nào Ngài muốn, và vì rằng Ngài không có trụ xứ cố định, nên Niết Bàn của Ngài được gọi là “Vô Trụ Xứ Niết Bàn.”

Chúng ta không nên lầm tưởng Niết Bàn vô trụ xứ là "Không" (theo nghĩa thông thường của ý thức suy lường).

+ Niết Bàn không phải là Hư vô, không phải là "Không".

Như bài kinh NB sau:

Phật dạy: Này Ca Diếp ! Diệt Thánh Đế là cách gọi khác của Niết Bàn. Nói khác đi, Diệt Thánh Đế tức là Niết Bàn. Do vậy, Diệt Thánh Đế không phải là KHÔNG, rỗng không như ngoại đạo lầm tưởng. Thế cho nên người ta tu QUÁN KHÔNG, rồi trụ chấp ở pháp KHÔNG, đó là tu sai lầm chánh pháp, không phải tu Diệt Thánh Đế.

Nếu Diệt Thánh Đế là KHÔNG, các hàng ngoại đạo cũng tu pháp KHÔNG lẽ ra họ cũng có Diệt Thánh Đế ?

Pháp tu của ngoại đạo họ QUÁN KHÔNG, rồi trụ chấp ở pháp NGOAN KHÔNG, đó là tu sai lầm chánh pháp, không phải Diệt Thánh Đế.

Ngoại đạo không hề có Thánh Đế. Thế nên chúng ngoại đạo dù có khổ công tu luyện nhưng thường ở trong vòng luân chuyển trong tam giới bất an.

Người biết được rằng Diệt Thánh Đế là chân pháp, không đồng với pháp KHÔNG của ngoại đạo.- Đó là người hiểu được bí mật tạng Như Lai. Người này dầu chưa thấy, chưa chứng, nhưng đến khi trừ hết phiền não thì hoát nhiên trong một niệm được tự tại đối với tất cả pháp.

Lúc bấy giờ quán sát thấy: Tất cả pháp đều là Phật pháp. Người có nhận thức như vậy, là người thực biết Diệt Thánh Đế. Nếu hiểu biết sai lầm Diệt Thánh Đế, có thể rơi vào tánh "ngoan không" của ngoại đạo, không phải là đệ tử của Như Lai Thế Tôn. (hết trích)

Kính các Bạn.- Ở tinh thần K. hoa Nghiêm:

Xứ xứ tổng thành Hoa Tạng giới
Tòng giao hà xứ bất Tỳ Lô

1f33f.png
Chốn chốn đều là Hoa Tạng giới
Nơi nào chẳng phải chỗ Tỳ Lô
1f33f.png


* Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân của Phật.- Cũng tức là Pháp Giới, là Vũ Trụ.- Nên nói: Đức Tỳ Lô thân phắp tất cả mọi chỗ, mà chỗ của Phật ở gọi là Thường tịch Quang tịnh Độ (tức Niết Bàn).

“Với con mắt pháp thanh tịnh”. Tâm và mắt thanh tịnh đến đâu cũng là Tỳ Lô Giá Na Pháp Thấn của Phật, cũng chính là pháp giới Hoa Nghiêm (Niết Bàn) hiện ra biến khắp.

Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, rằng:

+ Bồ tát trên cầu vô thượng đạo, dưới cứu độ chúng sinh, tức Bồ tát đạo lấy sinh hoạt hiện thực tại gia làm nền tảng, bên ngoài thích ứng với thiên nhiên, bên trong lo tu hành giải thoát.

+ Bồ tát đạo chấp nhận sinh hoạt xã hội, đề cao giá trị nhân sinh và vẫn thể nghiệm được đạo xuất gia, vì Bồ tát nhập thế sự nhưng không bận tâm đến thế sự, lạc quan yêu đời, tự chủ cuộc sống, ngoại cảnh không chi phối được nội tâm.

+ Bồ tát nhìn thẳng đệ nhứt khổ đế, khắc phục khổ đau, lấy khổ làm cơ duyên, độ chúng sinh đồng tiến tới. Cuộc đời Bồ tát trở nên hứng thú và giá trị đạo đức vượt khổ được nâng cao.

+ Hữu dư, Vô dư Niết bàn không hàm chứa bản chất cứu độ, đó là Niết bàn chưa chân thật vì chỉ có giá trị cho cá nhân, thiếu tính cách xã hội, chỉ có tư lợi mà thiếu hẳn lợi tha.

+ Lý tưởng Bồ tát là thực hiện sinh mệnh vĩnh viễn trong sự tồn tại để vừa chấp nhận đệ nhứt và đệ nhị khổ đế (Khổ, Tập đế), đồng thời xây dựng Niết bàn trên diệt đế và đạo đế.

+ Bồ tát vẫn lấy Niết bàn làm ý tưởng, nhưng vì đại nguyện cứu độ chúng sanh, nên chỉ đến trước ngưỡng cửa Niết bàn mà không chịu nhập Niết bàn, vì vậy mới gọi Niết bàn của Bồ tát là VÔ TRÚ XỨ NIẾT Bàn hay là BẤT TRÚ NIẾT Bàn.

+ VÔ TRÚ XỨ NIẾT Bàn dung hòa hai tư tưởng LUÂN HỒI và GIẢI THOÁT. Bồ tát Quán Thế Âm vẫn luân hồi mà giải thoát. Trong trường hợp gặp khổ nạn, ai niệm danh Quán Thế Âm thì tức thời được Quán Thế Âm cứu thoát. Quán Thế Âm tuy sống trong sự luân hồi vì đại thệ, không phải vì nghiệp lực chi phối mà trở lại hiện thực giới. Bồ tát tuy lấy giải thoát làm lý tưởng nhưng không phải tìm sự giải thoát trong Vô dư hay Hữu dư Niết bàn, mà sự giải thoát nằm trong sự hoạt động vĩnh viễn. Đó là hạnh nguyện của Bồ tát.

+ Bồ tát hướng thượng mong cầu vô thượng Bồ đề, hướng hạ tế độ chúng sinh. Bồ tát mong cầu, mong cầu rồi lại vượt cái mong cầu để hướng hạ tức Bồ tát không còn mong cầu mang tâm trạng vô sở hữu, vô sở đắc, không xa đời mà lại nhập phiền não, thực hiện Phật tính bình đẳng, không còn phân biệt thượng hạ, xuất gia, tại gia.

+ Chính đó là lòng Từ bi vô hạn, thực hiện khả năng tính của mình, của người một cách bình đẳng hầu khai triển VÔ TRÚ XỨ NIẾT Bàn, đắc nhứt thiết trí(1).

Nói tóm lại BẤT TRÚ NIẾT Bàn là cái tưởng Niết bàn vĩnh viễn và hoạt động vĩnh viễn.

Nhờ lòng Từ bi với bình đẳng tánh trí, Bồ tát thị hiện ra thiên hình vạn trạng để độ sinh và cũng do lòng Từ bi đã giữ Bồ tát không nhập Niết bàn. Đối với Bồ tát toàn thể vũ trụ là Từ bi mà một danh hiệu khác là Chân không (sunyata).

Do đây phát khởi tư tưởng Chân không Diệu hữu và thuyết Như Lai tạng trong triết học Đại thừa. Chính do tư tưởng này mà Ngài Long Thọ chứng minh dòng trôi chảy của vũ trụ không thật, nếu không thật thì cái ý thức tri giác cũng không thật và sự luân hồi vô thỉ vô chung cũng không thật. Nếu cái thế giới vô thường không thật thì cái đối lập của nó cũng không thật nổi. Kết luận không có chỉ khác biệt giữa sinh tử luân hồi với Niết bàn tĩnh mịch. Chính vì luận thuyết này mới sinh ra câu: SINH TỬ tức NIẾT Bàn, PHIỀN NÃO tức BỒ ĐỀ, NHỨT THIẾT THẾ GIAN PHÁP tức PHẬT PHÁP.

Bồ tát thiết lập VÔ TRÚ XỨ NIẾT Bàn hay BẤT TRÚ NIẾT Bàn “tuy lấy bình đẳng giới làm lý tưởng tối hậu, nhưng không trụ vào bình đẳng giới lại trụ ở sai biệt giới để cùng chúng sinh tiến tới, phá sự tồn tại ở địa vị hạ đẳng để tiến tới sự tồn tại ở địa vị cao đẳng và chính đối với quá trình đó mà mệnh danh là BẤT TRÚ NIẾT Bàn”.

(Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Thích Quảng Độ dịch)

Như vậy là ý nghĩa Vô Lượng diệt Đế, là Xứ xứ Niết Bàn (vô trụ xứ Niết Bàn)

DUY TÂM NÀO TẠO ra Vũ Trụ và Con người ? - Page 3 Qam_jf11
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm

Users search this thread by keywords

  1. đường giải thoát
Top