TÔI LANG THANG TRÊN MẠNG CÓ GẶP MỘT BÀI VIẾT THẤY TƯƠNG ĐỒNG VỚI NỘI DUNG CÁC NGÀI ĐANG THẢO LUẬN , VẬY TÔI MẠN PHÉP ĐĂNG VÀO ĐÂY ĐỂ MỌI NGƯỜI THAM KHẢO.
Nikaya & Đốn Ngộ
14 tháng 12 lúc 19:22 ·
Luận A Tì Đàm - Tạng Vi Diệu Pháp Có Phải Do Phật Thích Ca Giảng Thuyết?
- Xin chào Ngạo Thuyết! Ngạo Thuyết học Phật theo giáo lý Nam Tông hay Bắc Tông?
- Ngạo Thuyết tự học thôi, Bắc một chút, Nam một chút; mỗi thứ một chút, không nhiều song Ngạo Thuyết lại biết rõ tri kiến Phật học của hai hệ phái hơn cả người ở hai hệ phái Năm - Bắc Tông vì lẽ Ngạo Thuyết đứng trên nền trung đạo nhìn nhận, không rơi vào biên kiến hệ phái. Nhìn thấy người học Phật ở cả hai hệ phái Nam Bắc đều rơi vào biên kiến, đánh mất trung đạo nên cứ kỳ thị, khinh miệt nhau. Kể ra đây cũng là điều đáng tiếc!
- Đúng vậy. Thú thật là hổm rày thương tiếc chú Chí Tài và suy nghĩ không biết mình còn có đủ thời gian không?
- Pháp hữu theo vi diệu pháp, duy thức luận đã nắm bắt được gì, cảm nhận ra sao sau một thời gian tham khảo?
- Thấy nó mênh mông, nhưng tôi cũng tâm đắc Duy thức học, bởi vì ít ra cũng biết được khái niệm cấu tạo của vũ trụ và con người, cũng hiểu được sơ sơ về tâm. Tôi rất tâm đắc chỗ sự chánh niệm.
- Ồ! Đấy không phải là kinh Phật Nam truyền mà là Tạng luận của mấy vị luận sư. Nếu khi đó Phật còn tại thế không chắc đã cho phổ truyền
- Hôm trước, trong lớp học có vị bảo Vi Diệu Pháp là Tạng luận đã bị sư thầy quát cho. Hiện nay, tôi đang trong nhóm học của vị Sư này, Thầy chửi nghe hay lắm. Nhưng ít ra cũng có một vị sư nói cho mình nghe...
- Tạng Vi Diệu Pháp ra đời từ thế kỷ thứ 3 (TCN) trước công nguyên đến thế kỷ thứ 3 thì cơ bản hoàn chỉnh nên không thể nhét chữ vào miệng Phật Thích Ca, ép uổng do Phật Thích Ca thuyết được. E hèm! Sư Giác Nguyên thuộc nằm lòng truyện kiếm hiệp Kim Dung luôn nên nói pháp như hiệp khách.
- Cũng nhức đầu thật!
- Sư Giác Nguyên đã cố chấp trong chuyện này rồi. Bản thân Tạng vi diệu pháp chính là Tạng luận A tì đàm mà gọi luận bị mắng là điều vô lý.
- Hôm nọ, trong khi học quên tắt micro, làm có tiếng động, tôi liền xin lỗi. Sư bảo trên 60 tuổi không có khả năng điều khiển máy móc thì về nhà mua hòm trước chờ chết, kiếp sau học lại. Hi!
- Hây da! Sư chém gió hơn cả Ngạo Thuyết luôn. Kinh thật!
- Nhưng mà vui thật, còn hơn vào chùa có biết gì đâu... Tùy duyên vậy.
- Học Vi Diệu Pháp cho biết thì được chứ việc tiến tu tu e rằng khó.
- Nhưng mà khi xưa tôi hay nghe sư cô Tâm Tâm giảng về Vi Diệu Pháp, tôi rất say mê, sau đó nghe Thầy Thích Trí Siêu dạy về Duy thức học... chắc tôi có duyên với Nam Tông hơn.
- Hi! Những món đó vốn không phải lời Phật thuyết, điều này người học Phật khá nên lưu tâm.
- Nhưng đó là giáo lý, còn việc hành trì thì .... mênh mông quá,... bởi vì tôi nợ đời còn nhiều, Ngạo Thuyết à! Vậy theo Ngạo Thuyết học theo giáo lý nào thì chuẩn?
- Hiện trạng tham cứu những Tạng luận giống như việc người bị trúng mũi tên độc nhưng không lo nhổ mũi tên rồi tìm cách trị độc mà lại tìm hiểu ai đã bắn tôi, vì sao bắn tôi, mũi tên dài hay ngắn, tên được bắn ra bởi loại cung gì, tẩm loại độc gì, xuất phát từ hướng nào, đông tây nam bắc,...
- Haha!
- Như Ngạo Thuyết đã nói học chơi, tham khảo cho biết thì không vấn đề gì. Phật chỉ thuyết Kinh Chuyển Pháp Luân mà 5 anh em Kiều Trần Như chỉ trong vòng mươi ngày đã đắc pháp.
- Đó là Tứ diệu đế?
- Kinh Chuyển Pháp Luân không chỉ Tứ Diệu Đế mà còn có Bát Chánh Đạo, Lý Trung Đạo. Còn A Tì Đàm là luận mở rộng, là những chú giải về Tâm, Pháp,... Càng nhiều càng thêm rối thôi. Nếu muốn học Phật theo lối học thuật, hàn lâm rộng cầu tri kiến thì nghiền ngẫm Tạng luận sau này giành chỗ làm Luận sư.
- Ngoài ngồi thiền ra, Ngạo Thuyết có tụng kinh theo thời khóa không? Nếu có thì tụng kinh gì?
- Những pháp hành đó Ngạo Thuyết đã từng nếm trải qua rồi, giờ chỉ giữ lòng an tịnh thôi.
- Vâng!
- Học Phật rốt ráo là buông do đó tham khảo kinh sách phải trên nền tảng giải chứ tránh rơi vào ôm đồm tri kiến.
- Vâng!
- Vô thường Khổ Không Vô Ngã, chỉ nhiêu đấy thôi mà thông suốt thì đã tự tại giác ngộ giải thoát rồi.
- Vâng!
- Ôm đồm nhiều quá làm gì rồi lo lắng không đủ thời gian. Vậy nên tham khảo kinh sách thì cứ nên xem cho biết nhưng cũng chớ rời xa gốc, khá nên cân phân nặng nhẹ ạ.
- Vâng! Cảm ơn Ngạo Thuyết! Bây giờ tập thiền nữa là điều tôi mong muốn nhưng vì lưng đau nên nhác.
...
Chuyển sang một cuộc đối thoại khác:
- Hi! Sp Ngạo Thuyết chưa ngủ à? Trò thử tham gia 1 khóa A tì đàm mà thấy khó nuốt quá. Nhưng trò muốn trải nghiệm...
- A tì đàm, Duy Thức Luận, Vi Diệu Pháp đương nhiên là khó nuốt rồi
- Không khó hiểu nhưng bắt thuộc nằm lòng thì không dễ dàng.
- Lỡ nuốt vào thì đến một lúc nào đó cũng phải nôn mửa ra cho bằng hết thôi.
- Chắc chắn rồi. Học để quên mà.
- Ồ! Học thuộc lòng! Đùa à?
- Vâng! Không chỉ học hiểu mà còn phải thuộc. Thế là 50 người học qua zoom mà không biết liệu có người nào ngon lành cành đào không? Hi!
- Học thuộc mà làm gì? Học Pháp Phật là được ý quện lời, nay học thuộc dự là để trả bài cho Phật chăng?
- Mà nói thật là "Theo kinh ghi nhận thì tuần thứ 4 sau khi chứng đạo, Đức Phật đã tư duy về Tạng A tì đàm".
- Không chuẩn đâu. Phật Thích Ca thuyết Kinh, không giảng luận.
- Và Phật Thích Ca đã lên cõi Trời thuyết Tạng Vi Diệu Pháp trải qua 3 tháng ròng rã, Phật thuyết cho Phật Mẫu Ma Da va chư Thiên nghe. Được biết là do chúng sinh lúc đó không đủ trí tuệ để hiểu. À! Vậy mà bây giờ phàm phu Sao lại được học? Chỗ này đúng là có điều quái lạ!
- Phần luận là do Tổ và luận sư đời sau kiến lập nên.
- Mà chư Thiên đâu có thân xác hữu hình, cõi vô sắc mà; Chư Thiên không có 6 căn, 6 trần; Chư Thiên học Luận A tì đàm để làm gì nhỉ?
- Cái trò thuyết pháp trên các cõi Trời, thuyết pháp cho hoàng hậu Ma Da trên cung trời Đao Lợi là hư cấu, là giả lập thôi - không có thật đâu.
- Vậy cái gì là thật? Thân này có thật không?
- Phật Thích Ca nhập diệt mãi đến thế kỷ thứ ba TCN bộ Luận A tì đàm mới manh múng định hình và cho đến thế kỷ thứ ba sau công nguyên thì bộ Luận A tì đàm mới cơ bản hoàn thiện nên luận A tì đàm chẳng do Phật Thích Ca thuyết. Mấy vị luận sư vì để lấy lòng tin của tín chúng nên nói Phật thuyết cho mẹ Ma Da ở cõi Trời và các vị Tổ phải nhập định lên trời thỉnh về, đây là những chi tiết hư cấu thường thấy ở các bộ Kinh, bộ Luận Phật học.
- Là ngài Xá Lợi Phất thuyết giảng cho chư Tăng chứ?
- Ngài Xá lợi phất tịch trước Phật Thích Ca mà ép ngài Xá lợi phất giảng thuyết cả Tạng Vi Diệu Pháp coi sao đặng. Theo thông tin truyền thống chúng ta được biết Tang Vi Diệu Pháp không chỉ do ngài Xá Lợi Phất thuyết mà còn có cả ngài Mục Kiền Liên, ngài Thế Hữu, ngài Ca Diên Duyên Tử, ngài Đề Bà Thiết Ma, ngài Ca Da Diễn Ni Tử,...
- Nghe nói ngài Xá lợi phất thuyết Tạng Vi Diệu Pháp trước khi tịch, Ngạo Thuyết đã nghiên cứu A tì đàm chưa?
- Phật Thích Ca chưa tịch hà cớ gì ngài Xá lợi phất phải cầm đèn chạy trước ô tô? Ngạo Thuyết có xem thoáng qua, nhận biết là hàng nhái nên cho qua, không đi sâu tìm hiểu, cũng giống như 50 hiện tượng ấm ma đấy - Một khi nhận biết rằng không nhiều lợi ích cho việc giải thoát hoàn toàn ở người học Phật, Ngạo Thuyết sẽ lướt qua để khỏi mất một khoảng thời gian vô nghĩa.
- Và dấu tích luận A tì đàm được phát hiện ra đời vào khoảng thế kỷ thứ ba TCN, kinh Đại thừa thì vào khoảng 450 - 550 năm sau khi Phật Thích Ca nhập diệt. Vậy mà Nam Tông chấp nhận luận A tì đàm do Phật thuyết còn kinh đại thừa nhất quyết là hàng giả, thế chẳng phải là người học Phật Nam truyền bảo thủ, cực đoan à? Luận A tì đàm ra đời sớm hơn Kinh Phật phát triển Bắc tông vào khoảng hơn 100 năm. Người học Phật Nam Truyền vẫn thường vặn vẹo vậy trong suốt 450 năm kinh Phật thuộc hệ phái phát triển bị giấu ở đâu mà giờ mới tòi ra. Thế luận A tì đàm nói do ngài Xá lợi phất thuyết cũng bị giấu ở đâu mà mãi đến 300 năm sau Phật nhập diệt mới manh múng thành hình?
- Điều này có phần đúng. Đúng là kỳ lạ! Thật là quái sự!
...
- Pháp hữu đã có từng đến Động Kỳ Xà Quật ở trên núi Linh Thứu chưa?
- Rồi! Đến ở cả tháng.
- Cái hang động đó pháp hữu nghĩ có sức chứa khoảng bao nhiêu người?
- Vâng! (Hình ảnh chắp tay)
- Chắp tay là nghĩa gì thế? Bó tay chăng?
- Là bó tay với các Tổ. Chẳng biết đường nào mà lần.
- Phật thuyết Tứ Diệu Đế, Bát chánh đạo là đủ để 5 anh em Kiều Trần Như có được chánh trí dự vào hàng bất thoái chuyển rồi.
- Vâng! Đúng vậy!
- Ngạo Thuyết biết rõ chỉ nhiêu đó là người học Phật đã dư dùng rồi.
- Vâng! Thiền su Máhasi cũng nói vậy.
- Do pháp hữu cứ vọng ngoại tìm cầu, học Phật lan man nên không suy xét đấy thôi.
- Vâng! Do ôm đồm, do tham... Cái gì cũng muốn biết, rốt cuộc lại không biết chuẩn xác điều gì.
- Bước vào cái động bé tẹo được cho rằng đã từng có 500 người chen chúc kết tập Kinh Phật là phải nhìn nhận lại, từ đó sẽ thấu đáo được rằng buổi kết tập đã có sự hư cấu.
- Ngồi bên ngoài cũng OK mà. 5 anh em Kiều Trần Như do đủ duyên lành mà lĩnh hội được.
- 500 vị A la hán cũng phải ăn uống trong nhiều ngày, ai phục vụ cho họ vậy tổng sẽ thêm bao nhiêu người nữa; Họ ngủ nghỉ ở đâu, sáng đi chiều về chăng?
- Ngủ ở nền đất, ngủ ở trong rừng. Hic!
- Vì 5 anh em Kiều Trần Như chí thiết cầu đạo, chí thiết vượt thoát sinh tử, tâm tư lại đơn thuần, trong sáng, biết ít tri kiến Phật. Bậy nè!
- Biết nói gì bây giờ?
- Kinh viết 499 vị A la hán vào động, liền đóng cửa hang động lại, đến khi ngài A Nan đắc quả A la hán đến sau, cũng chui tọt vào trong động.
- Tóm lại là hận các Tổ luôn.
- Thông tin dựa trên nền truyền thống ghi nhận buổi kết tập Kinh Phật lần thứ nhất không có ai khác ngoài 500 vị Tỳ khưu đắc quả A la hán, do đó nên việc kết tập nhất thiết sẽ phải diễn ra trong hang động Kỳ Xà Quật. Hận Tổ trước đi, Ngạo Thuyết nói riết có khi pháp hữu hờn luôn cả Phật.
- Hic! Ăn vạ Phật nhiều lần rồi.
- Muộn lắm rồi, Ngạo Thuyết nghỉ khỏe đi!
- Do mình thiếu suy xét, cả tin vào sư thầy, vào kinh sách quá đấy thôi.
- Biết gì đâu mà suy xét, thiếu chánh niệm, chánh kiến mà.
- Ngạo Thuyết vẫn là con ếch còn ở trong giếng, chưa từng đến đất Phật mà vẫn nhận ra kinh sách Phật học chứa đựng nhiều hư cấu đấy thôi.
- Chúng sinh phần đa không thật tin vào những điều minh hiểu. Là chúng sinh mà. Hic!
- Khi một việc chẳng chân tự khắc sẽ có nhiều điều thành ngụy. Việc kết tập kinh Phật chính là giềng mối đạo mà đã có chứa nhiều điều hư cấu thì người học Phật cần phải có con mắt trạch pháp để tỏ tường chân nguy.
- Sao các Tổ lại không thấy những điều này?
- Luận thuyết của Ngạo Thuyết dù mộc mạc, giản đơn là vậy. Tuy nhiên Ngạo Thuyết tin rằng cả sư thầy Nam - Bắc Tông khi gặp phải dạng luận thuyết này chỉ có nước cấm khẩu, lắng nghe vì không thể phản biện. Tiếc rằng dẫu sư thầy Tăng Bảo có im tiếng, lắng nghe nhưng cũng sẽ không dễ lĩnh hội, không dễ chịu phục vì họ tin vào tri kiến Phật học có nơi họ, họ kính tin Phật hơn. Và điều đáng tiếc hơn là họ kính tin Phật nhưng lại hoàn toàn không hiểu Phật.
- Vâng! Ngạo Thuyết mà nói về đạo pháp thì đúng thật là cấm cãi.
- Tuy nhiên, người học Phật phải thấu đáo rằng nếu các vị Tổ đời đầu không phương tiện như thế và nếu không có vị Giác Giả thứ hai xuất thế hộ pháp thì e rằng đạo Phật đã bị ngoại đạo dập vùi mất hẳn rồi. Đó là những phương tiện giả lập để giữ gìn mối đạo.
- Vị Giác Giả thứ 2?
- Có trách là trách các Tổ mãi những đời sau và chư Tăng sau này biết Phật, tin Phật nhưng không hiểu tâm Phật cũng như các vị Tổ đời trước.
- Vị Giác Gia thứ 2?
- Kinh Phật phát triển đại thừa Bắc tông chứa đựng trí tuệ viên dung, siêu tuyệt như thế không phải là Giác Giả chẳng thể kiến tạo được.
- Thế lẽ nào họ đều vô minh cả sao?
- Không hiểu đúng lời Phật thì hiển nhiên là còn trong lưới vô minh rồi.
- Thế hóa ra là một người vô minh dẫn theo một đám vô minh đi lòng vòng, loằng ngoằng à?
- Đích thị! Nói đúng hơn sẽ là một đám đông người mang chính danh là hoằng dương Phật pháp còn vô minh dẫn dắt theo đại chúng học Phật vô minh đi loanh quanh, lẩn quẩn trong vòng luân hồi và cười nói với nhau rằng chúng ta biết đạo giác ngộ giải thoát.
- Ái chà! Chắc chết quá! Vậy là Tạng Vi Diệu Pháp không do Phật Thích Ca thuyết?
- Kinh Phật còn không hoàn toàn do Phật Thích Ca thuyết thì Tạng Vi Diệu Pháp đâu thể lấy Phật Thích Ca làm con dấu xác thực tính chính danh.
- Kinh Phật cũng không do Phật thuyết, việc kết tập Kinh Phật lần thứ nhất có chứa điều hư cấu. Vậy Kinh Phật do ai thuyết? Điên đầu thật chứ!
- Ngạo Thuyết không nói rằng Kinh Phật hoàn toàn không phải do Phật Thích Ca thuyết, Ngạo Thuyết chỉ nói tất cả nội dung của Tam Tạng Kinh không chỉ chứa đựng hoàn toàn những lời Phật Thích Ca từng thuyết. Nói rõ hơn là bên cạnh việc lưu lại những lời Phật Thích Ca từng nói, nội dung của những bộ Kinh Phật còn chứa đựng phần diễn giải suy lường của người học Phật đời sau và việc kết tập Kinh Phật là việc làm tự phát của người học Phật đời sau, với đại biểu là những vị đệ tử lớn của Phật như ngài Ca Diếp, ngài A Nan, ngài Ưu Ba Li, ngài Phú Lâu Na,... Trong Kinh Phật sẽ chứa đựng ít nhiều tư kiến của những người đã đứng ra kết tập Kinh Phật và theo thời gian lâu xa thì phần thêm thắt tri kiến Phật học ở người học Phật đời sau ngày càng nhiều thêm. Người học Phật đúng mực sẽ là người biết gạn đục, khơi trong, rạch ròi được sự chân ngụy.
- Vâng!
...
Ngạo Thuyết xin cảm ơn những vị pháp hữu đã cùng tham vấn, trao đổi, chia sẻ sự hiểu biết về Phật học. Trân trọng!
...
P/S - Lưu Ý:
Trang Wikipedia chứa đựng những thông tin không hoàn toàn đúng nhưng trang Wikipedia chứa đựng những thông tin cơ bản có giá trị nhất định.
#Nikaya_Đốn_Ngộ
#Mạn_Đàm
A-tì-đạt-ma
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
A-tì-đạt-ma (zh. 阿毗達磨, sa.
abhidharma, pi.
abhidhamma, bo.
chos mngon pa) là tên phiên âm, cũng được gọi là
A-tị-đạt-ma (zh. 阿鼻達磨) hoặc ngắn là
A-tì-đàm (zh. 阿毗曇) hoặc
Tì-đàm (毘曇) hoặc
Vi Diệu Pháp. Dịch nghĩa là
Đối pháp (zh. 對法),
Đại pháp (zh. 大法),
Vô tỉ pháp (zh. 無比法),
Hướng pháp (zh. 向法),
Thắng pháp (zh. 勝法),
Luận (zh. 論). Mang nghĩa là Thắng pháp hoặc là Vô tỉ pháp (zh. 無比法), vì nó vượt (
abhi) trên các Pháp (
dharma), giải thích Trí huệ.
A-tì-đạt-ma là tạng thứ ba trong
Tam tạng. Tạng này chứa đựng các bài giảng của đức Phật và các đệ tử với các bài phân tích về
Tâm và hiện tượng của tâm, hiện tượng pháp các pháp. A-tì-đạt-ma là gốc của
Tiểu thừa lẫn
Đại thừa, xem như được thành hình giữa
thế kỷ 3 TCN và
thế kỷ 3. Lần kết tập cuối cùng của A-tì-đạt-ma là khoảng giữa năm
400 và
450. Có nhiều dạng A-tì-đạt-ma như dạng của
Thượng toạ bộ (pi.
theravāda), của
Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa.
sarvāstivāda)... A-tì-đạt-ma là gốc của mọi trường phái và người ta dùng nó để luận giảng các bài Kinh (sa.
sūtra, pi.
sutta).
A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ được
Phật Âm (zh. 佛音, sa.
buddhaghoṣa) hoàn chỉnh, được viết bằng văn hệ Pali và bao gồm bảy bộ:
- Pháp tập luận (zh. 法集論, pi. dhammasaṅgaṇi): nói về các tâm pháp, sắp xếp theo từng cách thiền định khác nhau và các pháp bên ngoài, sắp xếp theo nhóm;
- Phân biệt luận (zh. 分別論, pi. vibhaṅga): nêu và giảng nghĩa, phân biệt những thuật ngữ như Ngũ uẩn (zh. 五蘊, pi. pañcakhandha), Xứ (zh. 處, sa., pi. āyatana), Căn (zh. 根, sa., pi. indriya) v.v.;
- Luận sự (zh. 論事, pi. kathāvatthu): nêu 219 quan điểm được tranh luận nhiều nhất và đóng góp nhiều cho nền triết lý Phật giáo;
- Nhân thi thiết luận (zh. 人施設論, pi. puggalapaññati): nói về các hạng người và Thánh nhân;
- Giới thuyết luận (zh. 界說論, pi. dhātukathā): nói về các Giới (zh. 界, sa., pi. dhātu);
- Song luận (zh. 雙論, pi. yamaka): luận về các câu hỏi bằng hai cách, phủ định và xác định;
- Phát thú luận (zh. 發趣論, pi. paṭṭhāna hoặc mahāprakaraṇa): nói về những mối liên hệ giữa các pháp (pi. dhamma).
A-tì-đạt-ma của
Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa.
sarvāstivāda) được viết bằng
Phạn ngữ và
Thế Thân (zh. 世親, sa.
vasubandhu) là người tổng hợp. A-tì-đạt-ma này cũng bao gồm bảy bộ khác nhau, cụ thể là:
- Tập dị môn túc luận (zh. 集異門足論, sa. saṅgītiparyāya): bao gồm những bài giảng theo hệ thống số, tương tự như Tăng chi bộ kinh;
- Pháp uẩn túc luận (zh. 法蘊足論, sa. dharmaskandha): gần giống như Phân biệt luận trong A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ;
- Thi thiết túc luận (zh. 施設足論, sa. prajñaptiśāstra): trình bày dưới dạng Kệ những bằng chứng cho những sự việc siêu nhiên, thần bí;
- Thức thân túc luận (zh. 識身足論, sa. vijñānakāya): nói về các vấn đề nhận thức. Có vài chương nói về những điểm tranh luận giống Luận sự (pi. kathāvatthu), Giới luận (pi. dhātukathā) và Phát thú luận (zh. paṭṭhāna) trong A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ;
- Giới thân túc luận (zh. 界身足論, sa. dhātukāya): gần giống Giới thuyết luận (pi. dhātukathā) của Thượng toạ bộ;
- Phẩm loại túc luận (zh. 品類足論, sa. prakaraṇa): bao gồm cách xác định những thành phần được giảng dạy và sự phân loại của chúng;
- Phát trí luận (zh. 發智論, sa. jñānaprasthāna): xử lý những khía cạnh tâm lý của Phật pháp như Tuỳ miên (zh. 隨眠, sa. anuśaya), Trí (智, sa. jñāna), Thiền (禪, sa. dhyāna) v.v… (xem thêm Tâm sở).
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Thể loại: