B2.9 Xét định chỗ mâu thuẫn giữa luận Nhiếp Ðại Thừa và kinh này để bàn định về “biệt thời ý”
Trong Quán kinh đây, đức Phật dạy: “Người thuộc hạ phẩm thì trong hiện đời tạo tội nặng, lúc lâm chung gặp được thiện tri thức, mười niệm thành tựu liền được vãng sanh”. Luận Nhiếp Ðại Thừa thì cho rằng điều Phật dạy đó là “biệt thời ý” (3). Ða số các nhà sớ giải kinh lại thường hay cho rằng mười niệm lúc lâm chung ấy chỉ tạo thành cái nhân để vãng sanh chứ chưa được vãng sanh ngay. Vì sao biết như vậy? Vì luận Nhiếp Ðại Thừa viết: “Như dùng một đồng tiền vàng buôn bán [rồi dần dần có] được cả ngàn đồng tiền vàng; chẳng phải là chỉ trong một ngày sẽ đạt được như thế ngay. Vì thế, ta biết được là: Mười niệm thành tựu là chỉ thành tựu được cái nhân, chứ chưa được vãng sanh [thật sự], nên [lời Phật dạy trong Quán kinh] gọi là lời giảng có ý biệt thời”. Hiểu như vậy là chẳng đúng; vì sao? Hễ Bồ Tát tạo luận để giải thích kinh thì đều là muốn hỗ trợ Phật ý, khế hội thánh tâm; chẳng đời nào có bản luận nào lại trái nghịch ý kinh! Nay tôi sẽ giải thích về “lời nói có ý biệt thời”, ấy là: Khi đức Phật thuyết pháp luôn luôn là trước nêu cái nhân, sau bày cái quả, lý lẽ rạng ngời. Trong kinh này đây chỉ nói đến việc tạo nghiệp trong một đời và lúc lâm chung do mười niệm thành tựu liền được vãng sanh, chứ chẳng bàn đến chuyện quá khứ có nhân hay không nhân. Ðấy chính là đức Thế Tôn muốn tiếp dẫn bọn người tạo ác trong tương lai khiến cho họ lúc lâm chung sẽ xả ác, quy thiện, nương theo câu niệm mà vãng sanh. Ðó là Phật ẩn kín túc nhân; vì đức Thế Tôn ẩn giấu cái ban đầu, hiển thị cái chung cuộc, giấu nhân nói quả nên gọi là “lời nói có ý biệt thời”. Vì sao biết như vậy? Vì nếu chỉ mười niệm mà được thành tựu thì phải là đã có nhân quá khứ như kinh Niết Bàn nói: “Nếu ai trong quá khứ đã từng cúng dường nửa hằng hà sa chư Phật, lại đã từng phát tâm thì mới chỉ có thể ở trong đời ác nghe nói kinh giáo Ðại Thừa mà chẳng phỉ báng, chứ chưa có thể làm gì khác. Lại nếu ai từng cúng dường một hằng hà sa chư Phật và đã phát tâm thì sau đấy khi nghe kinh giáo Ðại Thừa mới chẳng những không phỉ báng mà còn thêm ưa thích”. Lấy các kinh đấy để suy nghiệm thì biết rõ là “mười niệm thành tựu” đều là do có cái nhân quá khứ chẳng sai vậy. Nếu như không có sẵn nhân trong quá khứ thì còn chẳng gặp được thiện tri thức, huống hồ là thành tựu được mười niệm hay sao?
Ðối với câu: “Dùng một đồng tiền vàng để buôn bán [cho đến khi có được] ngàn đồng vàng, chẳng phải là chỉ trong một ngày sẽ đạt được như thế ngay” trong luận Nhiếp Ðại Thừa thì nếu xét theo ý Phật, ta thấy là [trong Quán kinh] đức Thế Tôn muốn cho chúng sanh tích tập nhiều nhân lành để nhờ vào câu niệm Phật mà được vãng sanh; còn ý của luận chủ (ngài Vô Trước, tác giả luận Nhiếp Ðại Thừa) là muốn nhấn mạnh đến cái nhân quá khứ nên về mặt lý thì [câu nói trên] cũng chẳng mâu thuẫn với Quán kinh. Nếu hiểu như thế thì trên thuận theo kinh Phật, dưới hợp với ý luận, đúng là kinh và luận hỗ trợ nhau, đường vãng sanh thênh thênh chẳng còn nghi hoặc nữa.
B3 Nêu nhiều điều vấn đáp, giải thích để trừ nghi tình
Dưới đây, tôi sẽ dùng luận Ðại Trí Ðộ để trình bày các câu vấn đáp một cách chi tiết.
Hỏi: Từ bao kiếp lâu xa đến nay, hết thảy chúng sanh tạo đủ các nghiệp hữu lậu, bị buộc chặt vào tam giới, thế thì vì sao họ chẳng cần phải đoạn dứt các nghiệp trói buộc trong tam giới, chỉ nhờ vào một chút thời gian niệm A Di Ðà Phật sẽ liền được vãng sanh, thoát khỏi tam giới? Phải nên hiểu ý nghĩa của những nghiệp trói buộc ấy như thế nào đây?
Ðáp: Có hai cách giải thích: một là dùng pháp để phá [mối nghi], hai là mượn thí dụ để hiển thị [nghĩa lý ấy].
Nói “dùng pháp để phá” nghĩa là chư Phật Như Lai có trí chẳng nghĩ bàn, trí Ðại Thừa rộng rãi, không chi bằng, không chi sánh, trí thù thắng tối thượng. Trí chẳng nghĩ bàn có khả năng biến ít thành nhiều, biến nhiều thành ít, biến gần làm xa, biến xa thành gần, chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành nặng. Có các trí vô lượng, vô biên như thế chẳng thể nghĩ bàn.
Kể từ đây trở đi, trong mười bốn lần [lập luận], tôi đều dùng thí dụ để hiển thị.
B3.1 Một, ví như trăm người trong trăm năm chất củi cao đến cả ngàn nhẫn, [nhưng chỉ] một đốm lửa nhỏ bằng hạt đậu [đã có thể] trong vòng nửa ngày đốt cháy sạch hết củi, há có dám bảo là củi chứa cả trăm năm chẳng thể cháy hết sạch trong vòng nửa ngày hay sao?
B3.2 Hai, ví như kẻ thọt ngồi nhờ thuyền người khác chở, vì buồm thuận gió nên trong một ngày đi được cả ngàn dặm, há có dám bảo là trong một ngày, làm sao kẻ thọt đi xa được cả ngàn dặm ư?
B3.3 Ba, cũng giống như kẻ hạ tiện có được một vật quý đem dâng lên vua. Vua mừng được của, bèn trọng thưởng cho. Trong chốc lát, kẻ ấy trở thành phú quí, dư dả, há có nên nói là [xét ra] kẻ sĩ tận sức nhọc nhằn cả mấy mươi năm còn chẳng đạt đến đâu nên phải lui về cho nên bảo là chẳng hề có sự phú quí như vậy ư?
B3.4 Bốn, ví như kẻ yếu đuối dùng sức chính mình để cỡi lừa còn chẳng nổi, nhưng nếu đi theo Luân Vương thì lại bay lên không trung tự tại, há dám bảo là sức kẻ yếu đuối chẳng thể bay nổi lên hư không hay sao?
B3.5 Năm, lại như dây thừng quấn quanh cả mười vòng, ngàn người chẳng bứt được, nhưng đứa bé con vung thanh gươm sắc chặt đứt ngay ra làm đôi, há dám bảo là sức đứa bé con chẳng chặt nổi thừng ư?
B3.6 Sáu, ví như chim Trầm vào trong nước, cá, sò chạm phải [chất độc] đều chết; dùng sừng tê khuấy bùn thì [cá, sò] đã chết sẽ sống lại, há dám bảo là một khi sanh mạng đã dứt thì chẳng thể sống lại nổi ư?
B3.7 Bảy là như lúc chim hoàng hạc gọi Tử An, Tử An liền sống lại, há dám bảo là kẻ đã chôn xuống đất ngàn năm, quyết sẽ chẳng sống lại được nổi?
Hết thảy vạn pháp đều có tự lực, tha lực, tự nhiếp, nhiếp vật khác, ngàn mở, vạn đóng vô lượng vô biên, lẽ nào ông lại cậy vào cái hiểu biết còn có ngăn ngại để rồi ngờ vực pháp vô ngại hay sao? Thêm nữa, trong năm thứ chẳng thể nghĩ bàn, Phật pháp là chẳng thể nghĩ bàn bậc nhất. Ông coi cái nghiệp ràng buộc trong tam giới là trọng, ngờ chuyện niệm Phật trong thời gian ngắn là khinh, sẽ chẳng được vãng sanh cõi An Lạc thuộc vào trong Chánh Ðịnh Tụ thì thật chẳng đúng vậy!
Hỏi: Kinh Ðại Thừa dạy: “Nghiệp đạo như cái cân, bên nào nặng hơn thì chúc xuống [bên đó]”, thế sao chúng sanh trong cả một đời hoặc là suốt trăm năm, hoặc là trong mười năm cho đến tận hôm nay, không điều ác gì chẳng làm thì tại sao lúc lâm chung gặp được thiện tri thức, do mười niệm liên tục liền được vãng sanh? Nếu đúng là như vậy thì làm sao tin được nổi nghĩa lý “nghiệp nào nặng sẽ kéo đi trước”?
Ðáp: Ông coi ác nghiệp trong cả một đời là nặng, xem điều thiện mười niệm của kẻ hạ phẩm là nhẹ thì nay tôi sẽ dùng nghĩa lý để so lường ý nghĩa khinh trọng ấy. [Sự khác biệt ấy] rõ ràng là bởi tâm, bởi duyên, bởi quyết định, chứ chẳng phải là do thời gian [niệm Phật] lâu hay mau, nhiều hay ít.
Thế nào là bởi tâm? Tức là khi kẻ ấy tạo tội thì chỉ nương vào cái tâm hư vọng, điên đảo mà làm, còn Thập Niệm đây là nương theo phương tiện của bậc thiện tri thức an ủi, do nghe pháp Thật Tướng mà sanh. Một đằng thật, một đằng hư, há so sánh được ư! Vì sao? Ví như nhà tối suốt ngàn năm, ánh sáng vừa chiếu vào thì sẽ sáng tỏ ngay; há dám bảo là bóng tối cả ngàn năm trong nhà chẳng tan biến hay sao? Vì thế, kinh Di Nhật Ma Ni Bảo chép: “Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: ‘Chúng sanh tuy trong cả bao ngàn vạn ức kiếp ở trong ái dục, bị tội che lấp, nhưng nếu được nghe kinh Phật, một phen nghĩ tưởng điều lành thì tội sẽ liền được diệt hết’. Ðấy gọi là bởi tâm.
Hai, thế nào là bởi duyên? Chính là khi kẻ ấy tạo tội thì [tội lỗi ấy] chỉ nương theo vọng tưởng, nương theo phiền não, quả báo, chúng sanh mà sanh; còn mười niệm đây nương theo Tín Tâm, nương vào danh hiệu có vô lượng công đức chơn thật thanh tịnh của đức Phật A Di Ðà mà sanh. Ví như có người bị trúng tên độc, đứt gân vỡ xương, nếu nghe tiếng trống thuốc Diệt Trừ thì mũi tên sẽ trồi ra, độc liền tiêu ngay, há dám bảo là tên ấy đã lút sâu, độc đã ngấm nặng, dẫu nghe tiếng trống cũng chẳng thể nhổ tên, trừ độc hay sao? Ðấy gọi là bởi duyên.
Ba, thế nào là bởi quyết định? Lúc kẻ ấy tạo tội, tự nương theo cái tâm hữu hậu, tâm có gián đoạn mà sanh; còn mười niệm đây nương vào cái tâm vô hậu, tâm vô gián mà khởi. Ðó là quyết định. Lại nữa, Trí Ðộ Luận chép: “Hết thảy chúng sanh lúc lâm chung bị đao phong cắt thân, bị tử khổ đến bức bách, sanh lòng sợ hãi lớn; vì thế, gặp được thiện tri thức, phát đại dũng mãnh, tâm tâm tiếp nối chính là căn lành tăng thượng nên liền được vãng sanh”. Lại giống như người đối địch phá trận đem hết sức lực suốt cả đời mình ra vận dụng trong chốc lát; điều lành mười niệm cũng giống như thế. Lại như người lúc lâm chung nếu sanh khởi một niệm tà kiến, tâm ác tăng thượng thì liền có thể đánh tan cái phước trong tam giới, bị đọa vào trong nẻo ác.
Hỏi: Ở trên vừa nói: Lúc lâm chung, điều lành mười niệm có thể khuynh loát được nghiệp ác trong cả một đời nên sẽ được sanh về Tịnh Ðộ, nhưng chưa rõ mười niệm ấy là mấy thời?
Ðáp: Như kinh dạy rằng: “Một trăm lẻ một lần sanh diệt hợp thành một sát-na, sáu mươi sát-na là một niệm”. Ðấy là một niệm hiểu theo cách kinh, luận thường giải thích. Ở đây, ta chẳng hiểu “niệm” theo khoảng thời gian có hạn định ấy. Chỉ ức niệm tổng tướng hoặc là biệt tướng của đức A Di Ðà Phật, tùy duyên mà quán trong suốt mười niệm, không có niệm tưởng nào khác xen tạp thì gọi là “mười niệm”.
[Có thuyết] lại nói: Mười niệm liên tục là danh số của bậc thánh vậy, chỉ cốt giữ niệm lắng lòng chẳng bận tâm đến chuyện gì khác; hễ nghiệp đạo (ý nói tịnh niệm) được hoàn thành thì liền thôi không kể tới nữa, cũng chẳng nhọc công ghi nhớ số lần niệm.
Lại nói: Nếu hành nhân niệm Phật đã lâu thì phần nhiều hay dùng cách này; còn nếu là người mới niệm thì ghi nhớ số lần niệm cũng được. Ðây cũng là dựa theo thánh giáo [mà luận như thế].
Lại hỏi: Nay tôi muốn tuân theo lời khuyên, thực hành Niệm Phật tam muội, nhưng chưa biết cách thức niệm như thế nào?
Ðáp: Ví như có người nghỉ chân nơi đồng hoang, gặp phải oán tặc vung dao hùng hổ chạy đến toan giết. Người ấy bỏ chạy, gặp sông phải vượt qua. Chưa đến bờ sông đã nghĩ thế này: “Ðến bên bờ sông rồi thì mình nên cởi áo lội qua, hay là cứ mặc áo mà bơi? Nếu cởi áo lội qua chỉ sợ không kịp. Nếu mặc áo lội, lại sợ khó giữ nổi đầu cổ vẹn toàn!” Khi ấy, người đó chỉ dốc một lòng tìm cách vượt sông, không còn có tâm tưởng nào khác xen lẫn. Hành giả cũng vậy: lúc niệm Phật A Di Ðà phải cũng giống như kẻ kia nghĩ cách vượt sông; niệm niệm nối nhau, không còn có tâm tưởng nào khác xen tạp. Hoặc là niệm Pháp Thân của Phật, hoặc niệm thần lực của Phật, hoặc niệm trí huệ của Phật, hoặc niệm tướng bạch hào của Phật, hoặc niệm tướng hảo của Phật, hoặc niệm bổn nguyện của Phật. Xưng danh cũng vậy: chỉ cốt chuyên chí liên tục chẳng dứt thì quyết định sẽ sanh về trước đức Phật. Nay khuyên người học Phật đời sau: Nếu muốn thấu hiểu Nhị Ðế thì chỉ cần biết là niệm niệm bất khả đắc, đấy chính là Trí Huệ Môn; còn hệ niệm liên tục chẳng ngớt thì đấy là Công Ðức Môn. Vì thế, kinh nói: “Bồ Tát Ma Ha Tát luôn dùng công đức trí huệ để tu tâm mình”. Nếu là người mới học, chưa phá được tướng thì chỉ nên dựa vào tướng để chuyên chí thời không ai là không được vãng sanh, chớ có nghi ngờ nữa!
Lại hỏi rằng: Vô Lượng Thọ Ðại kinh chép: “Mười phương chúng sanh chí tâm tin ưa muốn sanh cõi ta, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng được vãng sanh thì ta chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Nay có người đời nghe thánh giáo ấy bèn trọn cả đời hiện tại chẳng hề tác ý, chỉ chờ đến lúc lâm chung mới tu niệm. Việc ấy như thế nào?
Ðáp: Việc ấy chẳng đúng. Vì sao? Kinh nói mười niệm liên tục tựa hồ chẳng khó khăn gì, nhưng bọn phàm phu tâm như ngựa hoang, thức quá khỉ vượn, rong ruổi theo sáu trần chưa lúc nào ngơi thì ai nấy phải nên phát tín tâm, tự tập niệm Phật sẵn để tạo dần thành thói quen, căn lành kiên cố. Như [trong kinh] Phật bảo đại vương: “Người chứa hạnh lành thì chết không ác niệm, như cây đã nghiêng về phía nào thì khi đổ sẽ đổ xuống phía ấy”. Một khi phong đao xảy đến, trăm nỗi khổ bức bách thân, nếu chẳng từng tu tập từ trước thì làm sao mà tưởng niệm nổi! Ai nấy đều nên kết sẵn ước hẹn với năm ba kẻ cùng chí hướng để lúc lâm chung họ sẽ đến khai ngộ cho, xưng niệm danh hiệu Di Ðà cho, nguyện sanh về cõi An Lạc, từng tiếng nối tiếp nhau tạo thành mười niệm. Ví như ấn sáp ấn vào đất sét, ấn nát thì đường ấn hiện. Lúc mạng này dứt chính là lúc sanh về cõi An Dưỡng, một phen đã nhập vào Chánh Ðịnh Tụ thì còn lo chi nữa! Ai nấy đều nên suy xét cái lợi lớn này; sao còn chưa quyết chí trì niệm vậy?
Lại hỏi: Các kinh, luận Ðại Thừa đều nói: “Hết thảy chúng sanh rốt ráo vô sanh dường như hư không”, cớ sao các vị Bồ Tát Thiên Thân, Long Thọ lại đều nguyện vãng sanh?
Ðáp: “Chúng sanh rốt ráo vô sanh dường như hư không” vừa nói đó có hai nghĩa:
a. Một là trong cái thấy của phàm phu thì thật có chúng sanh, thật có sanh tử; nhưng nếu xét theo [kiến giải của] Bồ Tát thì sự vãng sanh rốt ráo như hư không, như sừng thỏ.
b. Hai là cái sanh được nói ở đây chính là nhân duyên sanh. Do nhân duyên sanh nên chính là giả danh sanh. Vì là giả danh sanh nên chính là vô sanh; do đó, chẳng trái với đại đạo lý chứ chẳng phải giống như phàm phu cho là thật có chúng sanh, thật có sanh tử.
Lại hỏi rằng: Sanh là gốc của Hữu; cho nên sanh chính là nguồn cội của mọi hệ lụy. Nếu đã biết cái lỗi ấy thì phải nên bỏ sanh để cầu vô sanh mới hòng có kỳ giải thoát. Nay lại khuyên sanh về Tịnh Ðộ thì chính là “bỏ vô sanh để cầu sanh” thì làm sao hết sanh được?
Ðáp: Cõi Tịnh Ðộ kia sanh từ bổn nguyện thanh tịnh vô sanh của A Di Ðà Như Lai chứ chẳng phải như tam giới được sanh ra từ những chấp trước hư vọng của chúng sanh. Vì cớ sao? Ðối với pháp tánh thanh tịnh rốt ráo vô sanh mà lại bảo là sanh thì đó chỉ là cái ý tưởng được sanh mà thôi!
Lại hỏi rằng: Như trên vừa nói: Nếu biết sanh chính là vô sanh thì sẽ sanh trong thượng phẩm. Nếu thế, người hạ phẩm nương theo mười niệm để vãng sanh thì hóa ra họ chẳng phải là thật sanh hay sao? Nếu [kẻ thuộc hạ phẩm] thật sự được vãng sanh thì sẽ họ sẽ bị vướng vào hai mối nghi: một là sợ mình chẳng được vãng sanh; hai là điều thiện thuộc về hình tướng ấy chẳng thể tạo thành cái nhân của sự vô sanh được!