chia sẻ tâm linh

hungmq

Registered
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2014
Bài viết
503
Điểm tương tác
258
Điểm
43
Kính đạo hữu Nguyên Chiếu,
Đã lâu không gặp, nay mình xin trích đoạn bạn đang thắc mắc ra đây để giải đáp theo thiển ý của mình

....Nếu có người nào, được nghe pháp này, lòng tin bền chặt, tinh tiến tu trì, thường làm hạnh lành, được vui Niết Bàn. Kinh Niết Bàn nói: “Khi Phật còn sống, trong ao Ca La, có một con hến, nghe Phật thuyết pháp, liền bò lên bờ, ẩn trong đám cỏ, lắng nghe Phật nói. Có người chăn trâu, thấy số thính chúng, vây quanh đức Phật, mới chạy đến xem, vì muốn nghe pháp. Trong lúc vội vàng, giẵm lên con hến; nó liền chết nay, và được sinh lên, cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ nó nghĩ, mình vốn là hến, vì nhân duyên gì, được sinh lên trời? Bấy giờ người trời, tự biết thân trước, nhờ nghe thuyết pháp, mới được sinh thiên, liền rời cung điện, đến trước chỗ Phật, đính lễ bái tạ. Phật lại nói pháp, cho người ấy nghe, sau khi nghe rồi, chứng được Sơ quả, chỉ nhờ nghe pháp, mà thành Chính Giác. Súc sinh còn thế, huống là thân người, thế nên phải gắng, chăm nghe Phật pháp, một lời vào tai, nhớ nghĩ thật kỹ, sẽ làm hạt giống, đạo quả Bồ Đề, muôn kiếp không dứt; căn lành tăng trưởng, nghiệp ác tiêu dần, phát Bồ Đề tâm, lập chí kiên cố, cầu đạo Vô Thượng, rộng độ chúng sinh, cùng tu đạo quả, cùng chứng Bồ Đề, tinh tiến tu hành, quyết không thoái chuyển, hiểu rõ tự tâm, quyết thành Phật đạo, thoát ly sinh tử, chứng nhập Niết Bàn. Hiện tiền đại chúng, hãy dốc lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ....

Bạn ạ, con hến đó có may mắn nhân duyên lắm được KIM NGÔN của Đấng Chánh Biến Tri nói ra, nhờ sự oai lực của KIM NGÔN đó mà hến được giải thoát.
Trong Mi Tiên vấn đáp có đoạn Đại đức Na Tiên giải đáp cho vua Mi Lan Đà có đoạn nói
Muốn được vô sinh thoát hẳn sinh tử thì phải có 3 thứ
- Chú Tâm
- Trí Tuệ
- Tinh thần học hỏi Thiện Pháp
Về Trí tuệ và Thiện Pháp thì chỉ có Nhân Thiên trở lên mới có.
Về Chú Tâm thì ngoài Nhân thì các loài súc sinh khác đều có thể có vì loài nào cũng đều có linh tính. Vì Chú Tâm đưa về Định.
Vì vậy chú hến đó hoàn toàn có thể được giải thoát nhưng chưa thể vô sinh bởi lẽ mới chỉ thoát khỏi cõi súc sinh
Nói rằng hến là sinh vật khó tu và giải thoát cũng đúng bởi chúng không có trí tuệ như Nhân, nhưng nếu chúng gặp duyên được nghe Thiện Tri Thức hay được nghe vị đức cao vọng trọng nào đó khai thị giảng pháp thì vẫn có thể độ thoát. Sinh trở lại làm người hay sinh Thiên tuỳ thuộc vào nơi người phát tâm và năng lực của người đó cho chú hến đó và đừng quên quan trong là Nhân duyên của chú hến đó.

Mong rằng với kiến giải nông cạn của mình sẽ giúp bạn có câu trả lời chính xác nhất
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

nguoidienhocphat1

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
31 Thg 8 2015
Bài viết
1,934
Điểm tương tác
347
Điểm
83
Kính đạo hữu Nguyên Chiếu,
Đã lâu không gặp, nay mình xin trích đoạn bạn đang thắc mắc ra đây để giải đáp theo thiển ý của mình



Bạn ạ, con hến đó có may mắn nhân duyên lắm được KIM NGÔN của Đấng Chánh Biến Tri nói ra, nhờ sự oai lực của KIM NGÔN đó mà hến được giải thoát.
Trong Mi Tiên vấn đáp có đoạn Đại đức Na Tiên giải đáp cho vua Mi Lan Đà có đoạn nói
Muốn được vô sinh thoát hẳn sinh tử thì phải có 3 thứ
- Chú Tâm
- Trí Tuệ
- Tinh thần học hỏi Thiện Pháp
Về Trí tuệ và Thiện Pháp thì chỉ có Nhân Thiên trở lên mới có.
Về Chú Tâm thì ngoài Nhân thì các loài súc sinh khác đều có thể có vì loài nào cũng đều có linh tính. Vì Chú Tâm đưa về Định.
Vì vậy chú hến đó hoàn toàn có thể được giải thoát nhưng chưa thể vô sinh bởi lẽ mới chỉ thoát khỏi cõi súc sinh
Nói rằng hến là sinh vật khó tu và giải thoát cũng đúng bởi chúng không có trí tuệ như Nhân, nhưng nếu chúng gặp duyên được nghe Thiện Tri Thức hay được nghe vị đức cao vọng trọng nào đó khai thị giảng pháp thì vẫn có thể độ thoát. Sinh trở lại làm người hay sinh Thiên tuỳ thuộc vào nơi người phát tâm và năng lực của người đó cho chú hến đó và đừng quên quan trong là Nhân duyên của chú hến đó.

Mong rằng với kiến giải nông cạn của mình sẽ giúp bạn có câu trả lời chính xác nhất
Ban lavinhcuong ben phapphapthuchanh co ý kien nhu vậy mong quý hữu chia sẻ nhận định của mình để ta hiểu thêm Phật pháp.

A. _ Đối với sự giải oan kết để hồn ma không báo oán nữa (siêu thoát), Cường thấy có mấy yếu tố :

1. Hoặc là vị Cao Tăng đã tu chứng.

2. Vị Cao Tăng đã từng Trì Chú nghiêm mật.

3. Vị Cao Tăng có công đức lớn.

4. Mật lực của câu chú trực tiếp can thiệp vào Nghiệp Chướng.

5. Kèm theo lễ Phóng Sanh (chim cá) hồi hướng công đức cho tất cả.


B. _ Hồn ma không có khả năng tu học gì cả !

Chắc đ/h có nghe nói về Bát Nạn chứ ?!

1. Hóa sinh vào Địa Ngục, sự đau đớn do những hình phạt gây căng thẳng tột độ khiến tội nhân không thể nào tu học gì được cả.

2. Hóa sinh vào cõi Ngạ Quỷ, sự đói khát thường trực cũng làm cho hồn ma không thể nào tu học.

3. Thai sinh vào cõi Súc sinh, cũng không tu học gì được.

4. Hóa sinh lên cõi Trời Trường Thọ, sự thỏa mãn khi Ngũ dục lạc đầy đủ, cũng làm cho những vị Trời này không muốn không cần tu hành gì cả.

5. Hóa sinh ở Bắc Cu Lư Châu (Uất đan việt) với sự không thiếu thốn mọi tiện nghi cũng làm cho không ai muốn tu.

6. Bị đui, điếc, câm, ngọng thì vừa không thể thấy nghe Phật pháp, vừa nặng mặc cảm nên không thể tu hành gì.

7. Thế Trí Biện Thông là những người thông minh lanh lợi, nhưng duy lý trí (vốn dĩ là Ý Thức mê lầm) cho nên Ý Thức luôn bóp méo sự thật, luôn dẫn dắt tư tưởng hành giả luôn thiên về khái niệm ngôn từ, luôn hiểu sai lệch về Chân thật nghĩa.

8. Nạn sinh trước hay sau Phật. Trước Phật hay sau Phật là những thời kỳ ánh sáng Phật pháp mờ nhạt, trong khi tà kiến dị đoan thì dầy dẫy cho nên cũng rất khó để trở thành Chân Phật tử.

Trong 8 nạn này chúng ta đang đề cập đến nạn thứ 2 sinh vào cõi Ma quỷ, thì những vị Cao tăng chỉ trực tiếp hóa giải nghiệp chướng oan khiên, được bao nhiêu thì được, chứ hồn ma không có tu học gì thêm được.
 

Nguyên Chiếu

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Quản trị viên
Thượng toạ
Phật tử
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
5 Tháng 5 2014
Bài viết
987
Điểm tương tác
377
Điểm
83
Lavinhcuong

B. _ Hồn ma không có khả năng tu học gì cả !

Chào bạn Hungmq,

Cám ơn bạn Hungmq đã góp ý, đã lâu không gặp, bạn có khỏe không ?

Về câu trả lời của bạn thì Ng-Chiếu không có ý kiến gì , chỉ vì câu trả lời của đ/h Lavinhcuong khẳng định là cõi Ngạ Quỷ ( Hồn Ma ) không thể TU HỌC Phật Pháp thì Ng Chiếu thấy nó không hợp với câu nói này của đức Phật:

Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.

Vậy ban Hungmq có thể giải thích thêm cho Ng-Chiếu được không ?

Kính.
 

hungmq

Registered
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2014
Bài viết
503
Điểm tương tác
258
Điểm
43

Ban lavinhcuong ben phapphapthuchanh co ý kien nhu vậy mong quý hữu chia sẻ nhận định của mình để ta hiểu thêm Phật pháp.

A. _ Đối với sự giải oan kết để hồn ma không báo oán nữa (siêu thoát), Cường thấy có mấy yếu tố :

1. Hoặc là vị Cao Tăng đã tu chứng.

2. Vị Cao Tăng đã từng Trì Chú nghiêm mật.

3. Vị Cao Tăng có công đức lớn.

4. Mật lực của câu chú trực tiếp can thiệp vào Nghiệp Chướng.

5. Kèm theo lễ Phóng Sanh (chim cá) hồi hướng công đức cho tất cả.


B. _ Hồn ma không có khả năng tu học gì cả !

Chắc đ/h có nghe nói về Bát Nạn chứ ?!

1. Hóa sinh vào Địa Ngục, sự đau đớn do những hình phạt gây căng thẳng tột độ khiến tội nhân không thể nào tu học gì được cả.

2. Hóa sinh vào cõi Ngạ Quỷ, sự đói khát thường trực cũng làm cho hồn ma không thể nào tu học.

3. Thai sinh vào cõi Súc sinh, cũng không tu học gì được.

4. Hóa sinh lên cõi Trời Trường Thọ, sự thỏa mãn khi Ngũ dục lạc đầy đủ, cũng làm cho những vị Trời này không muốn không cần tu hành gì cả.

5. Hóa sinh ở Bắc Cu Lư Châu (Uất đan việt) với sự không thiếu thốn mọi tiện nghi cũng làm cho không ai muốn tu.

6. Bị đui, điếc, câm, ngọng thì vừa không thể thấy nghe Phật pháp, vừa nặng mặc cảm nên không thể tu hành gì.

7. Thế Trí Biện Thông là những người thông minh lanh lợi, nhưng duy lý trí (vốn dĩ là Ý Thức mê lầm) cho nên Ý Thức luôn bóp méo sự thật, luôn dẫn dắt tư tưởng hành giả luôn thiên về khái niệm ngôn từ, luôn hiểu sai lệch về Chân thật nghĩa.

8. Nạn sinh trước hay sau Phật. Trước Phật hay sau Phật là những thời kỳ ánh sáng Phật pháp mờ nhạt, trong khi tà kiến dị đoan thì dầy dẫy cho nên cũng rất khó để trở thành Chân Phật tử.

Trong 8 nạn này chúng ta đang đề cập đến nạn thứ 2 sinh vào cõi Ma quỷ, thì những vị Cao tăng chỉ trực tiếp hóa giải nghiệp chướng oan khiên, được bao nhiêu thì được, chứ hồn ma không có tu học gì thêm được.

Nam mô A Di Đà Phật
Cúi đầu đảnh lễ Tam Bảo
Bạn Cường có đưa ra nhân định:

A. _ Đối với sự giải oan kết để hồn ma không báo oán nữa (siêu thoát), Cường thấy có mấy yếu tố :

1. Hoặc là vị Cao Tăng đã tu chứng.

2. Vị Cao Tăng đã từng Trì Chú nghiêm mật.

3. Vị Cao Tăng có công đức lớn.

4. Mật lực của câu chú trực tiếp can thiệp vào Nghiệp Chướng.

5. Kèm theo lễ Phóng Sanh (chim cá) hồi hướng công đức cho tất cả.

Câu này có lẽ bạn nên xem lại kinh Vu Lan, và kinh Địa Tạng Bồ Tát để mà thấy rõ. Ngài Địa Tạng và ngài Mục Liên thần thông đạo đức là thế mà còn phải nhờ tới chư Tăng, hồi hướng phóng sinh phát nguyện cho tất cả mởi cứu được mẹ mình.
Và các việc hồn ma báo oán nhiều có lẽ do nhân duyên giữa người bị oán và người oán có nghịch duyên với nhau.
Bạn ạ, Phật pháp nhiệm mầu, ở trên là nhân định của bạn Cường cũng là sự nhận xét hữu vi có sinh có diệt.
Hành động nhờ tới Cao Tăng, chân thành đó là hành động kính Tăng Bảo ruộng phước điền.
Rõ ràng lời trên của bạn Cường là đúng, nhưng có lẽ phải kèm theo cả tâm sám hối, tâm đón nhận nghịch cảnh mong cầu điều tốt đẹp tới oan gia nữa.
Nhưng với câu Tâm làm chủ các pháp Tâm dẫn đầu thì có lẽ nếu ai đó mà không có duyên được như trên bổ trợ thì có thể với Tâm sám hối, Tâm mong cầu giải oán thù thì người Phật tử có thể kiên trì hành trì thiện pháp, tu tập miên mật.
Có người nói người Tu định lực yếu, chư Tăng hàng ngày tụng kinh niệm Phật nên định lực tốt hơn nên nhanh hơn. Điều đó đúng mà sai bởi sao Oan gia và nghiệp họ nhìn vào sự thành tâm của người mong giải oan giải oán chứ không nhìn vào lời tụng.
Chả thế mà có người mất bao tiền của mà có giải được đâu. Có chăng là chỉ mất tiền thêm mà thêm tạo nghiệp
Có tâm thành sám hối thực sự, giải oán thực sự lại được gặp Chư Tăng, nhờ oai lực chư Phật, Bồ Tát, Thánh Chúng, chư Thiên thì tuyệt vời
Có tâm thành sám hối thực sự, giải oán thực sự nhưng lại không được gặp Chư Tăng, thì đừng quá buồn bởi biết đâu giúp ta tu tập thêm Nhẫn nại. và nhờ việc làm đó mà nhờ oai lực chư Phật, Bồ Tát, Thánh Chúng, chư Thiên đặng thoát nạn.
Như vậy bạn Cường ở trên chỉ nói tới điều kiện đủ.

Nói hồn ma không tu học được gì là đúng mà không đúng. Bởi hồn ma cũng là chúng sinh trong ngã quỷ, địa ngục, a tu la, thiên là thân thức.
Hồn ma trong cõi ngã quỷ, địa ngục, a tu la do vô minh mà xa rời Phật Pháp nên khó tránh mà có thể tu tập
Nhưng là sai bởi sao: Bởi lẽ nhờ hạnh nguyện của chư Phật, chư Bồ Tát, Đức Địa Tạng và tâm thành hồi hướng của người thân, của Tăng chúng, thiện tri thức mà hồn ma đó được tu tập. Nhưng phải có ai đó khai thị, và họ không có nhà để tu tập nên họ nương vào những ai tu tập đạo Phật pháp.
Do vậy hồn mà vẫn có thể tu tập được. Chứ tự mình tu tập thì không.
Về Thiên thì ở trên bạn Cường có nói tới
4. Hóa sinh lên cõi Trời Trường Thọ, sự thỏa mãn khi Ngũ dục lạc đầy đủ, cũng làm cho những vị Trời này không muốn không cần tu hành gì cả.
5. Hóa sinh ở Bắc Cu Lư Châu (Uất đan việt) với sự không thiếu thốn mọi tiện nghi cũng làm cho không ai muốn tu.
Đúng là trường hợp này rất khó thật bởi sao cứ nhìn như cõi người đây sung sướng quá ham đắm vật chất quá khó mà tu tập được. Nhưng không gì là không thể, chẳc chắn ở nơi đó phải có vị Bồ Tát nào đó để độ sinh.

6. Về súc sinh không thể tu tập, cũng giống như hồn ma, nhưng vẫn có thể tu tập bởi chúng có linh tính, và có thể nghe pháp mà tu tập. Minh chứng về loài hến, loài rắn, hay các loài khác trong điển tích Phật học mà được độ thoát nạn 3 đường ác
7. Người mù câm điếc không thể tu tập là đúng bởi có nghe thấy đâu, có nhìn thấy đâu. Nhưng nếu có người khai thi và hướng dẫn họ vẫn có thể tự tu tập, tuy họ mù họ câm điếc nhưng vẫn tu tập tốt bởi họ có trí tuệ, vẫn có thể niệm thầm, tụng thầm.
Người tâm thần thì hơi khó hơn nhưng vẫn được miễn là có ai đó kiên trì với họ.
8 Những người thông minh thường hay dùng ngôn từ để mà tỏ rõ sự cao ngạo của mình. Cao ngạo thường khó tu tập nên điều này còn nguy hiểm hơn người câm điếc.
9. Sinh trước hay sinh sau Phật cũng là do duyên phước kém chúng ta ai cũng mắc phải, mọi suy nghĩ và lời nói về Phật pháp đều mang tính tương đối bởi không nghe được từ Phật thuyết, không nghe từ bậc Thánh Nhân, chân tu thuyết và đặc biệt Pháp luôn có sinh có diệt, và pháp luôn biến chuyển. Nhưng vẫn tu được hết. Phật pháp luôn giang tay rộng mở. Và vì đã có nhưng vì Bồ Tát, những vị phát tâm Bồ Tát nên không gì là không thể.

Có lẽ nên đổi câu không thể tu học thành câu " Khó tu học" Bởi lẽ khó chứ không phải không thể

Nếu đạo Phật gói gọn trong vài nhận định thì có lẽ không còn là đạo Phật nữa.
Phật dạy các phàm phu tưởng tri điều mình đã cho là đúng, đối chiếu với tự ngã và cho rằng mình đã hiểu như vậy chẳng hiểu gì cả. Vì vậy đừng nghĩ tới điều trên nữa, hãy tu học và kiên trì và thành tâm.
 

hungmq

Registered
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2014
Bài viết
503
Điểm tương tác
258
Điểm
43
Chào bạn Hungmq,

Cám ơn bạn Hungmq đã góp ý, đã lâu không gặp, bạn có khỏe không ?

Về câu trả lời của bạn thì Ng-Chiếu không có ý kiến gì , chỉ vì câu trả lời của đ/h Lavinhcuong khẳng định là cõi Ngạ Quỷ ( Hồn Ma ) không thể TU HỌC Phật Pháp thì Ng Chiếu thấy nó không hợp với câu nói này của đức Phật:

Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.

Vậy ban Hungmq có thể giải thích thêm cho Ng-Chiếu được không ?

Kính.

ừm mình khoẻ, hi đạo hữu vẫn khoẻ chứ, tu tập ra sao ?
Ừ mình cũng vừa trả lời ở phần dưới của bạn Nguoidienhocphat1 đó.
Nhưng mình cũng nói qua
Vì không có linh hồn linh hồn là từ ngữ của đạo giáo các đạo khác. Trong đạo Phật thì có 6 đường 3 nẻo ác. Do vậy đều là chúng sinh.
Và tất cả đều có thể thành Phật như Phật nói.
Và bạn Cường có lẽ nên đổi từ "không thể" thành từ "Khó" thì đúng hơn. Vì khó chứ không phải không thể, Vì rằng với Phật pháp không gì là không thể.
Vì rằng khó bởi chỉ có thể làm thân người, vì được làm thân người hoàn chỉnh lục căn nhờ có cái nhà (thân xác) mà ta tu tập.
Bạn nhé tất cả đều được Phật độ.
Vơi Phật pháp không gì là không thể.
 

nguoidienhocphat1

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
31 Thg 8 2015
Bài viết
1,934
Điểm tương tác
347
Điểm
83
đức Phật độ 500 người mù thành A la hán.

Bản thân ta khi trải qua những cảnh ngộ buồn đau cũng phải có Thầy lành, bạn sáng hoặc Kinh, Luật, Luận an ủi, dẫn dắt chúng ta. Thiết nghĩ, người mù lòa lại càng cần có duyên nghe pháp, đọc tụng kinh điển nhiều hơn nữa để quãng đời bất hạnh còn lại của họ bớt đi những tăm tối và đau khổ.

Ngày xưa, khi đức Phật đang hoằng pháp tại nước Xá Vệ, năm trăm người mù Tỳ Xá Ly đang đi ăn mày nghe nói rằng: Đức Như Lai ra đời rất là hiếm có, nếu chúng sinh nào được gặp, bất luận có bệnh hoạn gì cũng nhờ Ngài cứu được, kẻ mù sẽ được sáng con mắt, kẻ điếc sẽ được nghe rõ, kẻ còng gù sẽ được thẳng thiu, kẻ khễnh kiễng sẽ được duỗi thẳng, kẻ cuồng si sẽ được áo cơm, kẻ sầu khổ sẽ được an vui.

Năm trăm người mù này bàn nhau rằng: - “Lũ ta sinh nơi hạ tiện, đã bị nghèo đói, lại mù đôi mắt, trên đời không ai khổ hơn, vậy chúng ta đến đức Thế Tôn nhờ Ngài tế độ”. Có người thương tình phát tâm dắt đoàn người mù đi yết kiến đức Thế Tôn, nhưng khi họ đến Xá Vệ thì Đức Phật đã sang nước Ma Kiệt Đà, người ấy lại đắt đến nước Ma Kiệt Đà thì Phật vừa sang nước Xá Vệ, cứ thế đến bảy lần vẫn không gặp Phật, dù đường xá xa xôi, thời tiết nóng bức, đi lần mò ngày này qua ngày khác nhưng những người mù vẫn mong muốn được gặp Phật như kẻ đói mong được cơm ăn, kẻ khát mong được nước uống, một lòng chân thành khát ngưỡng đức Thế Tôn. Tuy mù con mắt thịt, nhưng con mắt tâm của họ đã bừng sáng từ lâu, nên họ vẫn hoan hỷ đi kiếm đức Phật không hề mỏi mệt.

Khi đó đức Thế Tôn xem biết thiện căn của họ đã thuần thục, lòng tin đã chắc, nên Ngài ở lại nước Xá Vệ chờ những người mù. Lần sau cùng đến nước Xá Vệ, năm trăm người được gặp Phật, nhờ ánh hào quang, mọi người hết mù, sáng tỏ đôi mắt, nhìn thấy Phật thân vàng chói lọi, vui mừng quá! Cùng nhau tới trước lễ Phật đồng thanh bạch rằng: - “Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con sinh nơi hèn hạ, ra đời thuần thấy đau khổ! Hôm nay nhờ oai thần của ngài được sáng tỏ con mắt, chúng con một lòng thành kính, cúi xin từ bi tế độ cho chúng con được xuất gia tu hành”.

Sau một thời gian tinh tấn bất thối chuyển, không bao lâu 500 người ấy đều đắc quả A La Hán[2]. Như vậy cảnh sống mù lòa của họ đã chấm dứt sau khi gặp được Đức Thế Tôn. Không phải Đức Phật ban cho họ của cải vật chất mà đưa họ vào sự tu tập Chánh pháp.

theo Thích Nữ Hương Nhũ - Giác Ngộ online: http://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=7EC05B
 

nguoidienhocphat1

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
31 Thg 8 2015
Bài viết
1,934
Điểm tương tác
347
Điểm
83
Câu Chuyện Cô Gái Câm Niệm Phật Được Vãng Sanh

Tôi có một người dì lấy chồng Chệt Quảng Đông. Dì sanh hai con, một trai và một gái. Trai tên Phá Lường (Hoa Lương), gái tên là Phá Lục Lìn (Hoa Ngọc Liên). Dượng rể tôi làm tài phú cho một chành lúa ngoài Cầu Dài, đối diện với Chợ Cá tỉnh Vĩnh Long, cách chợ bởi dòng rạch Long Hồ… Dì tôi là cô trưởng nữ, má tôi là cô gái út cách nhau mười bảy tuổi. Khi má tôi sanh ra tôi thì anh Lường của tôi bắt đầu đi hỏi vợ…
Chị Lìn thì mới sanh ra đời đã ngu khờ, câm điếc. Ba tôi khuyên dượng tôi nên đưa chị đi lên trường câm điếc ở Lái Thiêu, nhưng dì tôi không đành lòng. Người điếc thì không nghe tiếng thị phi, lại còn câm thì chẳng mắc khẩu nghiệp… Chị Lìn tôi đẹp, thần sắc rạng rỡ như gương. Má tôi xót xa cho phận cháu, nên lãnh chị Lìn về nhà dạy chị thêu đan, làm bánh, đem hết tài khéo léo để truyền cho cháu, hai chị tôi ít giống má tôi bằng chị Lìn… Nếu trời ban cho thần thái chị sáng láng, trong trẻo, thì lại ban cho má tôi tài ăn nói, tài nhứt hô bá ứng. Bởi đó, bà làm cho bên chồng phải nể nang, ba tôi phải khiếp phục, vì bà “hoàn toàn” quá, cư xử hợp tình, hợp lý, miệng dù có cười mà ánh mắt thật oai nghiêm.
Nhà chúng tôi ở gần Đình Khao. Từ Cầu Dài, ven theo sông Cổ Chiên đi thêm hai cây số là tới ngôi nhà từ đường của ba tôi. Nhà gồm năm căn rộng, phía sau, cách cái sân lót gạch tàu là dãy hậu viện, nhà bếp, có hai dãy bên hông nối liền với dãy nhà trên… Khi tôi lớn lên ông nội, bà nội tôi qua đời. Ba má tôi có căn buồng phía trái (từ ngoài nhìn vào). Ông anh kế tôi chiếm căn buồng bên mặt. Hai chị tôi có một căn ở dãy hậu viện. Còn chị Lìn thì có căn buồng hẹp gần nhà bếp. Còn tôi, năm đó mới lên tám, không được ngủ chung với mẹ, phải ở chung buồng với ông anh kế, hễ tôi lỡ làm ảnh phật ý ảnh, ảnh cứ hăm đợi tôi ngủ, khiêng tôi bỏ ra ngoài vườn cho ma xé xác…
Chị Lìn lớn hơn tôi mười tuổi, hiền hậu, học thêu đan làm bánh kiên nhẫn, khéo léo. Mỗi khi dì dượng tôi tới thăm, má tôi than:
– Em có thể dạy con Lìn tài làm khéo, chớ làm sao dạy nó chuyện đạo lý được? Đây rồi rủi nó lỡ dại bị tụi ác ôn dâm tặc làm ẩu… thì biết sao đây? Nó thanh cao trong trắng như bông sen, lại khờ khạo có hiểu phải trái ra sao, nếu lỡ mang bầu, mang cái thứ tạp chủng trong bụng thì…
Má tôi rưng rưng nghẹn lời, không dám nói tiếp, không dám vẽ thêm ác mộng…
Dì tôi lấy khăn chậm nước mắt, mà nước mắt cứ tuôn:
– Chị van vái trời Phật cho nó một là đi tu được, còn hai là có thằng nào hào hiệp chịu đi cưới nó, chị sẽ ăn chay trường.
Sau nầy, chị Hai, chị Ba tôi kể lại, vừa khi chị Lìn bắt đầu có kinh nguyệt, mỗi tháng má tôi bắt chị phải trình đồ lót cho bà xem. Đồ lót đó thường ngâm trong chiếc vịm sành, ra nước đỏ ối. Má tôi sợ chu kỳ đỏ hằng tháng của chị Lìn lỡ bặt ngang thì đổ nợ ra…
Điều má tôi sợ vậy mà ứng nghiệm hai năm sau.
Tôi thương yêu chị Lìn của tôi như thương yêu bà mẹ thứ hai của mình. Những lúc tôi lầm lỗi, chọc ba tôi nổi sùng là roi mây ông quất tôi túi bụi. Những lúc đó chị Lìn liều mạng giựt roi ông, bằng không chị nai lưng ra hứng… Sau đó, khi kéo tôi ra nhà sau, chị cởi áo, cởi quần tôi ra, lấy dầu phọng xức lên lằn roi, vừa xức vừa khóc tầm tã… Tuy nhiên, chị không phát biểu một cử động nào để “nói” với tôi. Chị kéo tôi vào phòng chị, cho tôi xem những bức tranh chị đã thêu, những mặt gối, những chiếc khăn tay… Tôi không ưa những thứ đó, nhưng phải chăm chú xem cho chị vui lòng.
Và cũng một hôm tôi làm bể chiếc dĩa vẽ mai hạc của ba tôi. Sợ ăn đòn, tôi trốn vào buồng chị Lìn.
Chị ngồi ở khung cửa sổ, mắt chăm chú nhìn qua bên kia con rạch, nhà chú Tám xưởng mộc. Thợ mộc về buổi chiều, sau khi nghỉ việc, xúm xít ở sàn nước, lấy gáo sọ dừa, lấy gàu tre múc nước tắm. Thiệt ra khuôn viên nhà tôi có bọc một lớp rào tre. Nhưng vào năm 1945, phong trào thanh niên Tiền Phong nổi lên. Tre, tầm vông đều đốn, vạt nhọn để làm khí giới, nên rào tre trở nên thưa, bên nầy và bên kia có thể trông thông thống lẫn nhau.
Má tôi quên dời buồng chị Lìn, có lẽ vì mắc nhiều công chuyện nên bả quên việc đề phòng cơ bản đó chăng?. Lúc đó trời hơi nhá nhem. Nhưng ánh trăng mọc sớm cũng đủ rọi từng tấm thân thể trần trụi vạm vỡ đẫm nước, lấp lánh ánh bạc. Tôi táy máy thắp ngọn đèn hoa-kỳ đặt trên bàn kê gần cửa vô. Chị Lìn không bằng lòng, thổi tắt đèn. Dù sao, tôi vẫn thấy rõ mắt chị sáng kỳ dị, đôi má rạo rực, vẻ mặt bất an…
Tuần sau, là ngày tựu trường. Anh tôi phải qua Mỹ Thọ học trường Trung học. Còn hai chị tôi cũng lên Sài gòn, chị Hai học nữ công ở trường Mỹ Ngọc, chị Ba học trường Áo Tím… tôi quên mất cử chỉ kỳ lạ của chị Lìn dần dần…
Ba tôi có nuôi con chó Vá mình trắng đốm đen. Chị em tôi có vẻ lơ là với nó, trong khi đó chị Lìn săn sóc nó chu đáo. Má tôi thấy ba con chó Vện đực ở lối xóm mà đâm ra lo cho cái cô chó mỹ miều của mình. Cứ vào gần tháng 7 là bà buộc nó trong nhà, sợ nó lẹo tẹo với ba con đực Vện xấu xí mà đẻ con lộn giống chăng? Chó cái rượng đực mà bị xiềng trong nhà cứ tru, cứ hú thảm thiết quá, nên tôi lén thả nó ra. Lứa chó con năm ngoái chỉ có một con cò, còn toàn là năm con Vện con. Má tôi cho hết lũ Vện nhỏ, chừa con chó cò thì đem tặng dì Hai tôi. Gần lối tháng năm, lườn sông, lòng rạch quê tôi đã có đầy ốc hến, thì con Vá của tôi có một chứng bịnh gì không biết mà mõm nó có nổi hai cục mụt lớn cỡ hột trai ửng màu hường. Má tôi lấy thuốc đỏ, thuốc pô-mat lưu huỳnh xức cho nó mà hai mụt ghẻ ấy không chịu lặn. Tuy nhiên, chị Lìn của tôi vẫn săn sóc, tắm rửa nó đều đặn như tự bao giờ.
Một bữa trưa, tôi vào vườn hái ổi rồi đem ổi vào buồng chị Lìn để tặng chị. Tôi đi từng bước nhẹ, đẩy cửa nhẹ vào căn phòng đã mở rộng cửa sổ và chan hòa ánh nắng. Chị Lìn ngồi ở chiếc ghế đặt bên cửa sổ, ngó trân trối qua bên kia con rạch. Ba anh thợ mộc trẻ cũng nhìn chị như muốn đấu nhãn. Chợt thấy tôi xuất hiện sau lưng chị, họ bỏ vào trong xưởng. Ba anh thợ mộc này ở miệt Cái Sơn Lớn hay An Hương, Hòa Mỹ gì đó lên đây học nghề từ bốn tháng nay.
Trai tráng ở miệt ruộng vườn thì thường có bắp chân chắc, đùi to. Nay làm nghề thợ mộc, họ đều có ngực nở, tay cuồn cuộn bắp thịt. Tôi không để ý lắm khuôn mặt của họ, chỉ biết anh nào cũng có vẻ láu lỉnh. Vào những đêm trời trong, trăng tỏ, họ lấy đờn kìm ra dạo, rồi thay phiên nhau ca vọng cổ mùi mẫn… chị Lìn dù không nghe được gì, nhưng đêm trăng cùng mùi dạ lý thường làm chị bứt rứt, xốn xang.
Một hôm, dì tôi từ Cầu Dài lội bộ xuống thăm, mặt mày lo lắng. Má tôi cùng dì vào buồng chị Lìn đóng cửa lại. Có tiếng ghế xô ngã. Tôi chạy lại áp tai vào vách ván. Má tôi can:
– Bây giờ làm sao ngăn ngừa là tốt hơn. Nó có biết nghe, biết nói gì đâu. Lỗi tại em ráo trọi.
Dì tôi vẫn vừa tát con gái vừa rên rỉ:
– May mà nó câm, nó điếc. Nếu nó “được” như người thường thì nó còn đĩ ngựa giàn trời mây.
Chị Lìn lí nhí rồi khóc hu hu. Tôi còn nhỏ chẳng hiểu gì hết. Sau buổi trưa đó, chị Lìn tỏ ra ghét bỏ con Vá. Nó cứ đứng ngoài rào tre sủa luôn. Có đêm, tôi đang ngủ mơ màng thì nghe con Vá sồ ra sủa thật hăng và hình như nó đâm bổ vào một vật gì để cắn xé. Rồi thì tiếng chân chạy thịch thịch ngoài hè. Tôi nhảy xuống giường. Con Vá rượt đuổi một ai đó về phía rạch. Quả nhiên có nhiều tiếng lỏm bỏm lội qua rạch. Trời đêm tối thui.
Má tôi chợt hiểu nên bắt chị Lìn dời buồng và cho rào chặt dọc theo rạch. Vậy mà có lần tôi cầm ná thun đi bắn chim trong khu vườn làng, tức là vườn thuộc về chính quyền địa phương, không ai săn sóc. Đi sâu vào chỗ trồng toàn cây dâu miền dưới, tôi đã gặp chị Lìn trong bụi rậm đi ra, tóc tai xụ xọp, áo hơi nhèo, chiếc nút ở gần cổ quên gài… Chợt thấy chị từ xa, tôi nép vào đám cỏ song chằng để trốn. Chị men theo con đường mọc lau cỏ rồng chắn đi về phía bờ sông… Mãi một lúc sâu, có tiếng hút gió từ trong bụi rậm tiến về phía tôi. tôi càng giấu mình thật kỹ. Trời ơi, té ra ba anh thợ mộc trẻ, ở trần trùng trục, quần xà lỏn sơ sài… Tôi biết là họ đã làm chuyện ám muội với chị Lìn tôi, nhưng không thể tưởng tượng sự ám muội ra sao. Tôi sực nhớ cái hôm dì tôi vừa đánh vừa chửi chị Lìn, đoán mang máng là sự việc hôm đó cũng liên quan với sự việc hôm nay chớ chẳng không.
Chị Lìn có chửa. Chị Lìn ôm hoang thai.
Phong trào thanh niên Tiền Phong cùng Việt Minh lên nắm chánh quyền đã lôi kéo ba anh trai tơ ra khỏi xưởng mộc. Họ đi đâu biệt tăm, biệt tích. Những cái miệng độc ác đổ hô ba tôi là tác giả cái bào thai chị Lìn. Nhưng tụi chăn trâu, tụi con nít lại quyết chắc thủ phạm là ba anh thợ mộc vì chúng đã bắt gặp cả bốn trong vườn làng. Dì tôi than thở với má tôi:
– Thằng tía nó, thằng tài phú Phá Cẩm Xạch (Hoa Kim Thạch) đó, cũng bởi hắn ta lường tro đãi trấu mới có đứa con gái báo đời. Con nhỏ mặt mũi ngây ngô như vậy mà dám “thiếm xực” một hơi ba trự. Biết ai là cha đứa nhỏ đây? Con gái tui khờ khạo mà sao Trời đành cho nó mang cái thứ tạp chủng trong bụng vậy cà?
Má tôi nói:
– Chị à, nó có biết cái gì là phải, cái gì là trái đạo lý luân thường đâu ? Hoặc cái gì là điếm nhục gia phong đâu ? Thôi thì mình phải chịu nuôi con giùm nó, để sau nầy nó có chỗ nương tựa lúc tuổi già. Coi vậy chớ lẩm rẩm cái may thì luôn luôn nằm trong cái rủi đó chị.
Dần dà, tôi mới hiểu tại sao dì tôi đánh và chửi chị Lìn tôi vào bữa trưa. Số là má tôi đã bắt gặp chị mấy lần lảng vảng trước xưởng mộc, mắt ngó lấm lét vào bọn thợ trẻ. Má tôi đã nhấn mạnh, mắt tuy lấm lét, nhưng là mắt mời, mắt gọi, mắt đẩy đưa của con Thị Mầu… Nhưng có ai nhét được vào đầu óc chị Lìn tôi rằng liếc trai như vậy là bậy, là xấu ?
Làm sao chị hiểu được cái giáo dục dành cho phụ nữ phải như thế nào? Chị tới tuổi thèm khát yêu, yêu đơn giản như con chó Vá cái đi tìm ba con chó Vện đực. Không ai dạy chị liếc, dạy chị tạo cặp mắt mời gọi, đẩy đưa hết. Chị chỉ làm theo bản năng, hoặc có thể được, theo cái trực giác thâm sâu của mình. Vậy mà khi khám phá được chị có thai, dì tôi chồm tới, nghiến răng, ghịt đầu chị, nguyền rủa:
– Con đĩ thúi thây lầy lụa!
Làm sao chị nghe được mấy tiếng đó ? Chị ngơ ngác như tự hỏi tại sao mình bị đòn, bị ghịt tóc ? Chị không hiểu gì hết. Dì tôi vừa tát chị vừa chỉ cái bụng chị, có thể chị hiểu tại có cái biến chuyển trong bụng chị nên chị bị đòn, nhưng chắc chị vẫn không hiểu tại sao người ta có thể đánh người khác về cái biến chuyển đó ?
Nét mặt trong sáng, ánh mắt loáng gương và hiền dịu của chị hiện rõ vẻ hãi hùng, bi thảm như ánh mắt đứa trẻ thơ bị xô ngã. Chị Lìn tôi chỉ thông minh (tuyệt vời là khác) khi ngó qua đường kim mũi chỉ do má tôi dạy là chị có thể làm y chang. Nhưng về thói đời, về phong hóa, lề thói, lễ giáo chị mù tịt. Dì tôi đã thấy ba anh thợ mộc trẻ là quân thô tục… Cũng như ba con chó Vện đực kia, dưới nhãn quan má tôi quá xấu xí. Chị Lìn không thấy những gì xấu mà dì tôi đã thấy ở ba anh thợ mộc. Con chó Vá cái dĩ nhiên là hoàn toàn không cùng một ý nghĩ về cái đẹp xấu của loài chó đực như má tôi nên nó luân phiên hết giao hoan từ con Vện thứ nhất, sang tới Vện thứ ba..
Đó là những ý nghĩ khi tôi lớn lên, lúc đó chị Lìn đã qua đời khá lâu. Hôm chị bị đòn, tôi nhào tới để hứng đòn cho chị, cũng như chị đã từng hứng đòn cho tôi. Tôi khóc tối trời mù đất, cảm thấy cuộc đời, không riêng gì dì tôi sao có thể tàn nhẫn như vậy? Dì tôi thật ra chẳng phải muốn đánh con mình, dì muốn đánh cái bất hạnh của mình dù nó đã thể hiện qua đứa con tàn tật. Đánh xong, dì tôi khóc ngất.
– Thà trời đày tôi xuống chín tầng địa ngục mà cho con Lìn nói được, nghe được, để nó hiểu cái gì phải, cái gì trái.
Chị Lìn vẫn ở nhà chúng tôi chớ không về Cầu Dài. Dì tôi không muốn ở chỗ buôn bán đông người mà chị lại mang cái bụng chửa bẹo hình bẹo dáng thiên hạ. Khi mùa mưa thoảng xa thì nước dòng sông Cổ Chiên xanh trong. Cây điều, cây lụa trong vườn nẩy lá non mỏng, tươi ngăn ngắt, đọt chiết phớt hồng, đọt lùa màu lá mạ. Hôm chị Lìn lặt lá bốn cây mai trong sân thì anh tôi ở Mỹ Tho cùng chị Hai, chị Ba tôi ở Sài gòn hẹn tháp tùng về nhà ăn Tết.
Không ai tỏ vẻ gì trước biến cố của chị Lìn. Anh chị thường xem sự hiện diện của chị Lìn như không có, từ bao lâu họ thỏa hiệp (có thể coi là quen thuộc) bóng dáng cần mẫn và yên lặng của chị Lìn vì chị Lìn không làm phiền lụy ai, luôn luôn làm lụng tận tụy, gương mặt tươi tỉnh, thản nhiên, cái nhìn lúc nào cũng trống vắng, vô hồn. Má tôi yêu chị Lìn như yêu một tác phẩm của mình. Sự hiện diện của chị Lìn làm bà vung vải được tấm lòng từ bi nhân đạo của mình. Mới khi nhìn những mũi thêu tinh vi của chị trên nền vải lụa, bà tỏ vẻ hả hê vì mình đã ra công biến cải một con ngốc nghếch, tàn tật thành “một kẻ không đến nỗi nào”.
Có thể là cha tôi si tình chị Lìn tôi, đôi lúc tôi thấy ông nhìn chị hơi lâu, lúc má tôi vắng nhà. Năm đó ông đã ngoại tứ tuần, còn tươi, còn rắn chắc. Nhưng vốn cầu an, quen sợ nể vợ nhà, lại không thích chuyện phiền phức nên ông không thích làm chuyện phiêu lưu đó thôi. Ông đành chọn vị trí người dượng rể, vui trong sự săn sóc và hiện diện cả dì lẫn cháu.
Còn tôi, tôi yêu thương chị như một bà mẹ thứ hai. Lúc tôi bị đòn, lúc tôi buồn là luôn luôn có chị. Những lúc đó, chị đến bên tôi nhẹ nhàng xoa đầu tôi, đôi mắt không còn trống rỗng nữa, cái nhìn buồn và “có hồn” hơn.
Khi chị qua đời, suốt quãng đời hoa niên của tôi, cái bóng ma và cuộc đời chị ám ảnh tôi không ngớt. Tôi cứ tự hỏi chị Lìn tôi hiểu cuộc đời như thế nào? Chị nhìn cuộc đời như nhìn qua một cuốn phim câm. Cả nhà dì dượng tôi, cả nhà tôi ai cũng làm biếng khoa chân múa tay để trao đổi ngôn ngữ tay chân với chị, dù có vung vít hoạt động song đó vẫn là ngôn ngữ câm thì làm sao để chị hiểu trọn vẹn?
Bộ óc của chị do đó mà lười hoạt động, cái nhìn thường trống vắng, vô hồn. Phải chi chị được học ở trường câm điếc, chị có một ngôn ngữ riêng để trao đổi với bạn bè đồng cảnh ngộ thì tâm hồn chị sẽ phong phú hơn.
Nhưng dù ba anh thợ mộc vốn “phường tạp chủng”, đen điu thô bạo, kệch cỡm (theo quan niệm của má tôi) lại chơi trò đoản hậu đánh trống bỏ dùi, nhưng họ đã nhóm trong mắt chị một ánh sắc rạng ngời hơn, truyền cảm hơn. Cái nhìn của chị không còn vô hồn nữa. Chị có vẻ suy nghĩ hơn, có vẻ buồn rầu uể oải hơn. Mỗi chiều chị men về dòng rạch, ngó qua xưởng mộc, nước mắt chị ứa ra, ướt đẫm má.
Hai mụt ghẻ trên mõm con chó Vá không chịu lặn mất. Rồi tuần tự những mụn ghẻ nối tiếp mọc lên kết thành một miếng dày nổi cộm tròn tròn, miếng thịt quái ác lớn dần thành một bàn tay.
Dù nó không chảy nước vàng, nhưng trông nó dễ khiếp. Má tôi sau một thời gian suy nghĩ, bà nhất định cột đá vào cổ con chó, chở nó bằng xuồng ra sông Cổ Chiên để bỏ nó chìm luôn trong đáy nước.
Hôm “thủy táng” con chó chỉ có chị Lìn và tôi. Nước lớn đầy sông, sóng vỗ ào ào, nhưng trời lại ngập tràn nắng đẹp. Con chó ngồi gần tôi, thỉnh thoảng liếm vào tay tôi… và trời ơi, trời đất ơi! Nước mắt nó chảy ròng ròng, dù tôi chưa tròng vào cổ nó cái bị có đựng cục đá xanh thật lớn. Khi tới giữa sông, tôi vừa khóc vừa tròng cái bị vào cổ con chó, nó không giẫy dụa gì hết, chỉ ngoắc đuôi.
“Um” một tiếng, con chó và cái bị đựng cục đá quăng vào nước. Sóng lấp xấp tràn tới xóa mọi dấu vết. Hình ảnh ghê tởm đã được con sông chôn vùi. Chị Lìn vừa bơi xuồng về bến nhà vừa khóc nức nở.
Sau buổi thủy táng đó, tôi bị trúng gió (có thể như vậy chăng?) ngã bịnh liệt giường. Trong những cơn mê, tôi thấy con chó ngoi lên từ mặt nước rập rờn sóng, lội qua bên kia sông, chỗ bãi cồn An Thành mọc đầy cây trầm thủy như cây bàn, cây muối, cây vạt sành. Lại có lúc, tôi thấy thây nó nổi phình lên tấp vào những giề rau mác, rau lục bình trổ hoa tím. Lại có lúc, tôi chỉ thấy cái lưỡi nó liếm vào tay tôi, hoặc chỉ thấy cái đuôi nó ngúc ngoắc.
Và cái ấn tượng mạnh nhất đã xâm vào ký ức tôi là đôi mắt tuôn lệ của nó. Đôi mắt đã lồng vào từng cơn chiêm bao của tôi.
Tôi nằm bịnh suốt tuần. Cả chị Lìn nữa. Nhà tôi không ngớt bà con họ hàng tới thăm. Dượng tôi đưa thầy Chín Đăng tới chẩn mạch cho hai chị em. Má tôi thì nghĩ rằng oan hồn con chó ám ảnh hai chị em nên bà xuống chùa Sơn Thắng ở làng Cái Sơn Bé cách nhà từ đường của ba tôi tụng kinh Cầu An cho hai chị em và tụng kinh vãng sanh cho con chó luôn.
Ni sư Diệu Pháp lúc đó sáu mươi ngoài, mặt hồng hào. Bà tu pháp môn Tịnh Độ, vốn là người dì họ của ba tôi. Nghe nói hồn còn nhỏ, bà ở trong nghề dao búa, trôi nổi từ Cái Vồn (tỉnh Cần Thơ) rồi lên miệt Tân Châu, Hồng Ngự, Nam Vang. Bà đã từng chém lính tàu tuần Pháp khi tụi nó ve vãn sàm sỡ với bà. Rồi bỗng dưng bà ta xuất gia, trường trai, tụng kinh và niệm Phật.
Trong thời gian ni sư Diệu Pháp ở nhà tôi, má tôi dành cho bà một gian phòng sạch sẽ, có giường gỗ trải nệm, có tủ áo, tủ “com-mốt”, bàn gỗ dài chất đầy lọ thuốc, hộp thuốc, lọ dầu, dĩa cam, hộp trà, ấm chén và cái rề sô để sư cô tự tay pha trà. Ni sư đem cuốn kinh Quán Vô Lượng Thọ chỉ cho cả nhà tôi xem hình về thế giới Cực Lạc do Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát là đức Quan Thế Âm và đức Đại Thế Chí trông coi. Chị Lìn lúc đó cũng nổi hứng xáp lại. Đôi mắt chị như van nài sư cô giải thích. Ni sư sau lúc giảng kinh cho mọi người nghe xong, kéo chị Lìn ngồi xáp lại gần cuốn kinh. Bà lật từng trang hình vẽ bằng nét tỉ mỉ, rồi bà khoa tay múa chân để “nói” với chị Lìn. Kỳ lạ, đôi mắt chị không còn có vẻ trống rỗng ngơ ngác như sau cơn bịnh nữa, trở nên sùng mộ vô biên. Ní sư và chị cứ múa tay. Cả hai cùng gật đầu theo từng giai đoạn diễn biến của cuốn kinh. Từng trang kinh cứ lật. Hai người đàn bà, một trẻ một già, một tục một tu, cứ trao đổi ngôn ngữ bằng cách khoa tay, đôi lúc múa chân.
Ai dám bảo là chị Lìn không hiểu những gì trong kinh Quán Vô Lượng Thọ ? Ai dám bảo ni sư không dìu dắt được chị Lìn vượt qua khỏi thế giới câm điếc để đi vào trang kinh? Lúc đó, có vài người chị họ (con của các cậu tôi) cùng vài bà hàng xóm.
Lúc đầu, ai cũng tưởng ni sư đùa giỡn với cô gái khờ khạo, dễ thương kia. Nhưng họ quên rằng một nhà tu làm sao có thể trửng giỡn như kẻ phàm phu thế tục được?
Nét mặt ni sư có vẻ cảm động, mắt có ngấn lệ trong khi nét mặt của chị Lìn càng phơi phới và trong sáng hơn. Khi quyển kinh lật tới trang cuối, bỗng dưng chị Lìn đổi sắc mặt, buồn rũ xuống và ôm mặt khóc, rút lui về buồng.
Cậu Sáu, người anh kế của má tôi từ Nha Mân lặn lội lên thăm hai cháu. Má tôi thuật hết tự sự cho cậu nghe. Cậu trầm ngâm một lúc lâu rồi trách:
– Em Bảy à, chị Hai và em thương con Lìn không phải cách. Thay vì em đưa nó vào trường câm điếc để nó học “nói”, học văn hóa để hiểu đạo lý, đàng nầy em bắt nó ở nhà học thêu, trong khi đó nó tiếp xúc cuộc đời chỉ bằng mắt, ngoài mũi lưỡi, miệng nếm đồ ăn. Nếu con Lìn hiểu rằng bị dụ dỗ làm chuyện dâm uế là nhục thì nó đâu có để cho ba thằng quỷ “xên” nó? Còn con chó, thay vì đem đến Sở Thú Y lúc đầu, em cứ trị nó bằng xức ghẻ thông thường…
Má tôi buồn lắm, dù sao bà cũng đã nuôi chị Lìn lâu năm, tấm lòng người dì cũng đổi dần thành tấm lòng người mẹ. Bà nói:
– Con Lìn đẻ xong, em cho nó vào trường câm điếc.
Ni sư Diệu Pháp trước khi về chùa Sơn Thắng, có tặng cho ba má tôi bức tranh A Di Đà Tam Tôn. Ba tôi cho đóng khung và lộng kiếng bức tranh, lập bàn thờ ở trung đường bức tranh ấy.
Chị Lìn cứ thắp nhang, trải chiếu quỳ khá lâu, tay chắp lại, thành kính chiêm ngưỡng. Nhưng ở trung đường thường có khách đến viếng nên rất ồn ào.
Ba tôi đành gửi người quen mua bức tranh A Di Đà khác rồi treo ở trong một căn phòng nhỏ, dành cho chị Lìn thắp nhang cúng nước và ngồi chiêm ngưỡng. Quả thiệt tôi chưa thấy tấm lòng sùng mộ của ai hơn tấm lòng sùng mộ của chị. Chị có thể quỳ hoặc ngồi tĩnh tọa mắt ngó hằng giờ lên tranh Phật, và lâu lắm mắt chị mới chớp. Cái nhìn của chị từ hôm ni sư Diệu Pháp đến tụng giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ trở nên rực rỡ kỳ lạ, giờ đây mỗi khi mường tượng lại, tôi có cảm tưởng nó có ngôn ngữ tha thiết để nhắn nhủ người đối diện: “Các người hãy xem đây, tôi cũng có một đời sống nội tâm. Mà bầu trời tâm cảnh của tôi đã thắp được một thứ ánh sáng lạ tự miền Cực Lạc !”
Nhưng cũng chính giờ đây làm sao tôi cắt nghĩa nổi sự sùng kính và niềm tin của người con gái tàn tật kia? Ai cũng thương xót cho chị Lìn bị ba tên thợ mộc trẻ làm hư hỏng nhưng có ai hiểu ý nghĩa hai dòng nước mắt của chị như thế nào vào lúc chiều chiều chị nhìn qua xưởng mộc? Và làm sao tôi hiểu thấu cuộc đàm thoại giữa sư cô Diệu Pháp và chị Lìn? Nhưng tôi nhận thấy từ lúc chị quỳ trông lên tranh Phật, chị như sắp biến thành pho tượng, gương mặt như lắng vào phút giây sùng kính ngưng đọng và im sững dần dần như gương mặt pho tượng.
Hầu như chị Lìn không để ý đến cái thai gần lâm bồn. Chị cứ thích chiêm ngưỡng tranh Phật. Có đêm tôi thức giấc, đi vòng ra sau hậu điện, đến dãy bồn, ảng, lu, kiệu, khạp, chóe nơi dãy nhà mới để tìm nước mưa uống giải khát… thì thấy trong buồng đặt bàn thờ Phật nhỏ còn thắp ánh đèn. Tôi uống nước xong, chạy lại khe vách dòm vào. Trên bàn Phật, cây nhang đang cháy, tuôn khói, còn chị Lìn quỳ trước bàn Phật, chiếc gối tai bèo kê trên đầu gối.
Kỳ sanh nở, chị Lìn bị chứng nhau chằng, đau đớn từng cơn mệt lả… Suốt tám tiếng đồng hồ mà đứa con chưa chịu chui ra. Cô mụ hương thôn lấy mủ cây đu đủ phết lên gang bàn chân chị, mà vẫn không hiệu quả. Túng thế, má tôi đưa chị đi nhà thương. Cái nhau chằng vừa gỡ ra là chị sanh dễ dàng, chuyện đơn giản mà cô mụ không biết, để đến nỗi chị Lìn bị hành thân hoại thể khá lâu…
Bốn tháng sau, chị Lìn qua đời. Không rõ chị bịnh gì? Chị không nằm liệt, không lên cơn sốt gì hết. Nghe má tôi nói khoảng thời gian gần đây, ngày nào chị Lìn cũng ngồi chắp tay trước bức tượng đức Phật A Di Đà, chăm chú ngắm nhìn dường như không bao giờ mỏi mắt, đôi mắt chẳng lúc nào rời hình ảnh đức Phật cả. Bất cứ lúc nào, má tôi cũng bắt gặp chị Lìn “dán mắt” vào bức tượng, ngay cả khi thêu đan, tuy hai bàn tay của chị thoăn thoắt trên tấm vải nhưng đôi mắt vẫn luôn luôn hướng về đấng từ bi với niềm vui sướng hạnh phúc tột cùng.
Trong tuần lễ cuối đời cũng vậy, chị cứ hết thêu đan là chiêm ngưỡng tranh Phật.
Từ khi chị sanh nở, không hiểu sao chị không có sữa. Dì tôi đành đem đứa nhỏ đi ở nhà người vú. Lâu lâu chị Lìn tháp tùng mẹ đi thăm con, mắt chị rạng rỡ, chị hôn hít con như bao người mẹ khác. Trước khi ra về, chị cầm hai tay đứa nhỏ chắp lại và bắt nó xá xá…
Một sáng nọ, không thấy chị nấu nước cúng Phật, má tôi liền vào buồng tìm chị. Chị đã chết, nằm ngay ngắn, bức tranh Phật áp trên ngực, tay chị còn chắp lại. Dù thương tiếc chị, dì tôi và má tôi tỏ vẻ bằng lòng vì nét mặt của chị lúc chết êm đềm, hiền dịu như ngủ, mà có phần đẹp hơn ngày bình thường. Nụ cười của chị dù chỉ mỉm nhẹ nhưng lại tươi thật là tươi, môi mọng thắm. Vì đỉnh đầu chị còn nóng rực, nên mãi tới ba ngày sau, má tôi mới cho tẩn liệm chị.
Cái chết của chị Lìn dường như đã ám ảnh cuộc đời tôi một cách lâu lắc, quá lâu. Có thể nói rằng trọn kiếp sống này tôi không bao giờ quên được hình ảnh chị an lành ngừng thở, đầu nóng như lửa, nhưng trên tay còn ôm ấp bức tượng A Di Đà, như muốn đức Phật truyền ban ánh quang minh vô lượng và sanh khí vĩnh cửu cho mình trong cõi sống âm u ngột ngạt của một người câm điếc. Bởi vì tôi chẳng có chút hiểu biết về Phật giáo cho nên tôi không tự mình giải thích nổi sự kiện tâm linh ấy, và tôi cũng luôn cảm giác lờ mờ về biến cố thiêng liêng mầu nhiệm đã đeo đẳng bản thân suốt mấy chục năm trường.
Cho đến ngày sang Mỹ định cư, mỗi lúc chiều buông, anh em rủ nhau nhâm nhi bên ly rượu, riêng tôi thường cầm ly mà không uống, và cũng chẳng nhắp. Tôi thẫn thờ nhớ về hình ảnh chị Lìn. Chị nằm an lành, kính cẩn áp ngực vào bức tượng A Di Đà. Tôi không thể hiểu được đức Phật A Di Đà đã chiếu rọi vào thân tâm chị Lìn những năng lực mầu nhiệm nào để khiến chị từ giã cuộc đời này một cách an lành, hạnh phúc như vậy.
Gần đây, tình cờ gặp lại bác Tịnh Hải, tên thật của ông ta là V.Đ.P, trước là chủ báo nổi tiếng của Sài-gòn cũ, nay không hiểu vì sao chuyển sang ăn chay niệm Phật và nghiên cứu kinh điển. Tôi mừng húm, bèn đem tất cả mọi chuyện về cái chết kỳ lạ của chị Lìn thuật lại cho ổng nghe, rõ rõ ràng ràng từng chi tiết lớn nhỏ.
Nghe xong, ổng bảo :
– Mừng cho anh có người chị hết sức tuyệt vời. Chị Lìn đã giải thoát, đã đạt được thành quả mà vô số những người Phật tử luôn luôn khát khao mơ ước. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật, thì chị Lìn đã vãng sanh.
Tôi gạn hỏi :
– Vãng sanh? Nghĩa là làm sao? Xin bác làm ơn giảng rõ cho cháu đặng chăng?
– Vãng sanh … là … Chà, thiệt khó nói quá. Anh tạm thời cứ hiểu như vậy : vãng sanh nghĩa là tâm linh chị Lìn được chuyển đổi bởi năng lực bất khả tư nghị của đức Phật A Di Đà. Và qua năng lực vi diệu ấy, chị đã hoán cải tâm linh nhiễm dơ của mình trở thành “tâm thức giác ngộ”, … ờ ờ, nhà Phật gọi là “hoa khai kiến Phật”, tạm thời phải diễn tả như vậy, như vậy, …
Nói dài dòng là phải nói như vầy : Tuy chị Lìn là một người câm điếc hoàn toàn, vô văn hóa, vô lễ nghĩa, vô trí thức – nhưng ni sư Diệu Pháp đã nỗ lực và khéo léo “thuyết giảng” bằng ngôn ngữ đặc biệt nào đó, khiến cho chị ta thâu nhận, thấu hiểu ý nghĩa của kinh Quán Vô Lượng Thọ – rồi tuyệt đối tin tưởng vào năng lực cứu độ và lòng thương yêu chúng sanh vô hạn của đức A Di Đà cùng cõi Phật trang nghiêm vi diệu. Ni sư Diệu Pháp cũng đã giúp chị Lìn phát nguyện vãng sanh Cực Lạc bằng cách nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật. Cuối cùng chị Lìn đã đạt thực hành pháp môn Niệm Phật theo kiểu cách đặc biệt rất riêng của mình và đã đạt kết quả như ý. Với niềm tin, với trình độ Phật pháp của tui, với tất cả những điềm lành xuất hiện lúc lâm chung của chị, thì tui nghĩ, chị Lìn đã rốt ráo giải thoát, chứng ngộ ngay giờ phút lâm chung và đã được đức A Di Đà tiếp dẫn về thế giới Cực Lạc !
Tôi thắc mắc :
– Chị Lìn vừa câm vừa điếc, làm sao mở miệng niệm Phật cho đặng ?
Bác Tịnh Hải cười ngất :
– Thì … chị Lìn niệm Phật bằng … đôi mắt chứ sao ? Chúng ta có lổ miệng thì mình niệm Phật bằng môi, bằng miệng, bằng lưỡi. Người không có miệng để niệm ra tiếng như tụi mình thì niệm Phật bằng mắt … Chính anh biết đó, chị Lìn đã niệm Phật bằng mắt bởi vì trong hoàn cảnh gọi là “thiếu căn” của chị, chị Lìn buộc phải niệm Phật bằng hai con mắt, vốn là khí cụ duy nhất để truyền thông và phát tín hiệu cho thế giới bên ngòai. Tuy có khó khăn nhiều đó, nhưng nếu chị không sử dụng cặp mắt thì biết làm sao bây giờ? Không được hay sao?
Điều đáng nói ở đây là: năng lực cứu độ của đức Phật quả thiệt là không thể nghĩ bàn ! (bất khả tư nghị !)
Tôi trở thành con người nhất tâm tin Phật từ đó, và bài viết này được xem như là một kỷ niệm trân trọng của một bước khởi đầu. Tôi về đâu ? Nếu không phải là mạnh dạn cất bước tiến vào hành trình trở về cõi Phật A Di Đà, như chị Lìn của tôi đã thành tựu trước đây mấy mươi năm ?
Xin xem bài viết này như một nén nhang cảm ơn đức Phật A Di Đà, cảm ơn ni sư Diệu Pháp. Xin cảm ơn chị Lìn và nhất là, xin cảm ơn những lời chỉ dẫn tận tình của cư sỹ Tịnh Hải. Cuối cùng, xin cảm ơn tất cả quý vị đã chịu khó bỏ thời gian quý báu mà đọc tới đây.
Nam mô A Di Đà Phật
Theo Đôi Mắt Di Đà
Hồ Trường An

theo http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2013/01/cau-chuyen-co-gai-cam-niem-phat-duoc-vang-sanh/
 

nguoidienhocphat1

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
31 Thg 8 2015
Bài viết
1,934
Điểm tương tác
347
Điểm
83
Bồ Tát địa tạng giáo hóa chúng sanh.


Hôm này vì sự nhận thức sai lầm 1 số người cho rằng chúng sanh ở cõi địa ngục hay diêm Phù đề không thể tu học Phật pháp. Vì sự nhận thức sai lầm mất căn bản Phật pháp của một số người, mà đi ngược với giáo Pháp phật đà là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, và sẽ là vị Phật tương lai. Cái tư duy sai lầm đó là tư duy không có sự từ bi, không hiểu rõ nhân quả, vô tình làm phá hoại chánh pháp mà không biết. Mong sao qua chủ đề này ai có tư tưởng đó thì sám hối và thay đổi.
Mong cho mỗi chúng ta ai cũng phát đại nguyện như Ngài Địa Tạng vương Bồ tát mà cứu giúp tất cả chúng sanh khổ nạn. A di đà Phật!

Người điên trích đăng một đọan trong kinh KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN, Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng, Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh

PHƯƠNG TIỆN GIÁO HÓA.

Đức Phật bảo bốn ông Thiên Vương rằng: "Từ kiếp lâu xa nhẫn đến ngày nay, Ngài Địa-Tạng Bồ-tát độ thoát chúng-sanh vẫn còn chưa mãn nguyện, Ngài thương xót chúng sanh mắc tội khổ đời nầy, lại quan sát vô lượng kiếp về sau, tội khổ cứ lây dây mãi không dứt. Vì lẽ đó nên Ngài lại phát ra lời trọng nguyện.
Địa-Tạng Bồ-tát ở trong cõi Diêm-Phù-Đề nơi thế-giới Ta-bà, dùng trăm nghìn muôn ức phương tiện chước để giáo hóa chúng-sanh.
Nầy bốn ông Thiên Vương! Ngài Địa-Tạng Bồ-tát nếu gặp kẻ sát hại loài sanh vật, thời dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải bị chết yểu.

Nếu gặp kẻ trộm cắp, thời Ngài dạy rõ quả báo nghèo khốn khổ sở.

Nếu gặp kẻ tà dâm thời Ngài dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.

Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thời Ngài dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.

Nếu gặp kẻ hay khinh chê, thời Ngài dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.

Nếu gặp kẻ nóng giận, thời Ngài dạy rõ quả báo thân hình xấu xí tàn tật.

Nếu gặp kẻ bỏn sẻn, thời Ngài dạy rõ quả báo cầu muốn không được toại nguyện.

Nếu gặp kẻ buông lung săn bắn, thời Ngài dạy rõ quả báo kinh hãi, điên cuồng mất mạng.

Nếu gặp kẻ trái nghịch cha mẹ, thời Ngài dạy rõ quả báo Trời đất tru lục.

Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cỏ cây, thời Ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.

Nếu gặp cha ghẻ, mẹ ghẻ ăn ở độc ác, thời Ngài dạy rõ quả báo thác sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.

Nếu gặp kẻ dùng lưới bắt chim non, thời Ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.

Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thời Ngài dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.

Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, thời Ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.

Nếu gặp kẻ lạm phá của thường trụ, thời Ngài dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.

Nếu gặp kẻ ô nhục người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già, thời Ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh.

Nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa, chém chặt, giết hại sinh vật, thời Ngài dạy rõ quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau.

Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thời Ngài dạy rõ quả báo cầm thú đói khát.

Nếu gặp kẻ phung phí phá tổn của cải một cách phi lý, thời Ngài dạy rõ quả báo tiêu dùng thiếu hụt.

Nếu gặp kẻ tao ta kiêu mạn cống cao, thời Ngài dạy rõ quả báo hèn hạ bị người sai khiến.

Nếu gặp kẻ đâm chọc gây gổ, thời Ngài dạy rõ quả báo không lưỡi hay trăm lưỡi.

Nếu gặp kẻ tà kiến mê tín, thời Ngài dạy rõ quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh.

Những chúng-sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề, từ nơi thân, khẩu, ý tạo ác, kết quả trăm nghìn muôn sự báo ứng như thế, nay chỉ nói sơ lược đó thôi.
Những nghiệp cảm sai khác của chúng-sanh trong chốn Diêm-Phù-Đề như thế, Địa-Tạng Bồ-tát dùng trăm nghìn phương chước để giáo hóa đó. Những chúng-sanh ấy trước phải chịu lấy các quả báo như thế, sau lại đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi. Vì thế nên các ông là bực hộ vệ người cùng bảo trợ cõi nước, chớ để những nghiệp chướng đó nó làm mê hoặc chúng-sanh."
Bốn ông Thiên Vương nghe xong, rơi lệ than thở, chắp tay lễ Phật mà lui ra.
Kinh Ðịa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện quyển Thượng hết
 

Vô Ưu

Registered
Phật tử
Tham gia
7 Thg 3 2013
Bài viết
115
Điểm tương tác
52
Điểm
28
Những câu chuyện của các Bạn kể rất hay và cảm động lắm.

Rất mong được nghe tiếp.

Xin cảm ơn.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên