11.
TỔ PHÚ-NA DẠ-XA
富那夜奢祖
Vị Tổ sư thứ mười một này gốc người xứ Hoa-thị, nơi mà trước kia vua A-Dục khai hội kết tập để bảo tồn Chánh pháp. Ngài họ Cồ-đàm. Cha tên là Bảo Thân.
Nghe danh Tổ thứ mười là Hiếp Tôn giả tu hành rất tinh tấn, ngài đến đảnh lễ. Tôn giả hỏi rằng:
“Ngươi ở đâu đến đây?”
Ngài đáp:
“Tâm con chẳng phải đến.”
“Rồi ngươi sẽ đi đâu?”
“Tâm con chẳng có đi.”
“Ngươi không an định sao?”
“Chư Phật cũng như thế.”
“Nhưng ngươi không phải là chư Phật.”
“Chư Phật lại cũng chẳng phải.”
Nhận biết là bậc pháp khí, Tổ thứ mười bèn độ cho xuất gia, truyền giới cụ túc, và về sau truyền y bát cho ngài làm Tổ thứ mười một.
Tổ Phú-na Dạ-xa sau khi được truyền pháp, liền đi khắp nơi truyền pháp độ sanh, trong chúng hội có rất nhiều người được chứng thánh quả. Ngày kia, ngài lập đàn thuyết pháp tại xứ Ba-la-nại. Trong lúc đang giảng pháp bỗng có một người đến sau. Tổ dừng lại hỏi chúng đệ tử rằng: “Các ngươi có biết người mới đến là ai chăng?” chúng đệ tử không ai biết. Tổ liền nói tiếp: “Xưa kia đức Thế Tôn có lời di ngôn rằng: Sau khi ta diệt độ chừng 600 năm, sẽ có một vị Bồ-tát tên là Mã Minh ra đời tại xứ Ba-la-nại, ở trong thành Hoa Thị mà thuyết pháp độ sanh, số đông vô kể.”
Rồi Tổ lại nói: “Trước đây khi ta nhập định có nhìn thấy nước trong biển lớn tràn cả về một góc. Trong chốc lát lại tràn chảy khắp mọi nơi. Này các ngươi, ấy là cảnh ứng trước với hôm nay đây. Người mới đến chính là biển lớn. Người ấy tên là Mã Minh, sẽ theo ta xuất gia và đem giáo pháp của Phật truyền độ cho khắp muôn người. Ấy là nước chảy tràn khắp nơi đó vậy.”
Mã Minh nghe Tổ sư gọi đúng tên mình, hết sức thán phục, tin nhận, liền bước ra lễ bái Tổ và hỏi:
“Con muốn biết Phật, thế nào là Phật?”
Tổ sư đáp:
“Ngươi muốn biết Phật, cái chẳng biết là phải.”
Mã Minh nói:
“Đã chẳng biết Phật, làm sao biết là phải?”
Tổ hỏi lại:
“Như ngươi chẳng biết Phật, sao lại biết là chẳng phải?”
Mã Minh liền nói:
“Đây chỉ là nghĩa cưa.”
Tổ nói:
“Đó là nghĩa cây. Ngươi nói nghĩa cưa là thế nào?”
Mã Minh đáp:
“Là con và thầy chia nhau mỗi người một nửa. Còn thầy nói nghĩa cây là thế nào.”
Tổ đáp:
“Ngươi bị ta xẻ rồi.”
Mã Minh ngay khi ấy tỉnh ngộ, liền chí thành lễ bái cầu xin xuất gia.
Tổ Phú-na Dạ-xa nhận cho Mã Minh làm đệ tử rồi, về sau trở thành một vị cao tăng lừng lẫy trong giới học Phật. Người người đều tôn xưng là Mã Minh Đại Sĩ hoặc Bồ-tát Mã Minh. Khi truyền pháp lại cho Mã Minh, Tổ đọc kệ rằng:
Mê, ngộ như ẩn, hiển,
Minh, ám bất tương ly;
Kim phó, ẩn, hiển pháp,
Phi nhất diệc phi nhị.
迷悟如隱顯
明暗不相離
今付隱顯法
非一亦非二。
Dịch nghĩa
Mê ngộ như ẩn hiện,
Sáng tối chẳng lìa nhau.
Nay truyền pháp ẩn hiện.
Chẳng một, cũng chẳng hai.
12.
TỔ A-NA BỒ-ĐỀ
阿那菩提祖
Tổ sư sanh ra ở xứ Ba-la-nại, thuộc dòng tộc Bà-la-môn. Ngài vốn là một học giả rất uyên thâm về văn chương, triết lý và mỹ thuật, thường được nhiều người biết đến hơn với danh hiệu là Bồ-tát Mã Minh. Ngài từng làm chức Đạo sư, cố vấn tinh thần ở triều Đại đế Ca-nhị-sắc-ca. Lúc ấy là khoảng đầu thế kỷ thứ hai Dương lịch, công nghiệp của ngài đã rực rỡ lắm rồi. Trong nền văn chương Phật giáo Đại thừa, tên tuổi ngài nổi bật lên trên hết. Ngài là người học Phật, mà vua Ca-nhị-sắc-ca, người bạn tinh thần của ngài, lại cũng là một người hâm mộ Phật giáo, nên ngài có nhiều điều kiện để khảo cứu kinh sách và truyền bá tư tưởng cho chúng dân.
Hai con người kiệt xuất ấy cùng hiệp sức mà làm cho triều vua Ca-nhị-sắc-ca trở thành ra một thời kỳ vẻ vang về Phật học. Hai thế kỷ trước, đã có nhà vua Ménandre hộ trì tăng chúng. Lúc này lại có vua Ca-nhị-sắc-ca là một nhà vua trọng đạo kính tăng. Lại nhờ có ngài Mã Minh xiển dương chánh giáo, nên nhà vua làm được rất nhiều điều công ích. Vua cho xây dựng nhiều tháp thờ dấu tích của Phật, xây dựng chùa ở các địa phương cho tăng chúng có chỗ tu học, tụng niệm. Vua còn cho đúc tượng Phật và khi đúc tiền còn cho in hình Phật lên đó nữa.
Kinh sách do Mã Minh Đại sĩ viết, về sau người ta in bằng chữ Phạn đến nay thất lạc rất nhiều, một số chỉ còn những bản đã dịch sang chữ Hán mà thôi. Trong số đó có bộ Phật sở hành tán được viết theo lối ca kệ, đến nay vẫn còn. Trong sách ấy kể rõ lịch sử đức Phật Thích-ca từ khi đản sanh cho đến khi thành Chánh giác. Đây là bộ Phật sử sớm nhất bằng Phạn ngữ, chỉ tiếc là nguyên tác Phạn ngữ không còn nữa. Tương truyền rằng bộ Đại thừa khởi tín luận cũng là do ngài soạn, mặc dù có nhiều học giả cho rằng bộ ấy xuất hiện quá xa về sau này nên có thể là tác phẩm của Phật giáo Trung Quốc.
Ngài Mã Minh có soạn bộ Sutrlamkra là một bộ sách đã có dịch ra chữ Hán và bản Phạn ngữ cũng vẫn còn. Vào đầu thế kỷ thứ hai mà soạn bộ Sutrlamkra quả thật là một công trình vĩ đại, cũng là dấu hiệu cho thấy rằng Phật giáo Đại thừa sắp đến giai đoạn thịnh hành vậy. Dưới đây xin trích dịch một số bài trong bộ sách này để giới thiệu cùng quý độc giả.
MỰC TRUNG
Ta nhờ trí huệ trau dồi,
Nên đường lầm lạc tránh rồi nẻo xa.
Làm người biết rõ chánh tà,
Cần gì hành xác mới là chân tu.
Muốn cho thấu đạt huệ mầu,
Trước là giữ Giới, kế sau Định thần.
Ta đây sống ở cõi trần,
Đã toan thoát nạn thì cần dưỡng tâm.
Phải nên ăn uống vừa tầm,
Áo quần đủ ấm, giường nằm thảnh thơi,
Nhưng mà không lấy làm chơi,
Không ham no ấm, nghỉ ngơi quá đà.
Tránh xa hai mức vượt phần,
Chớ ưa nóng nảy, chớ cầu lạnh thân,
Đừng gần với lửa cháy rần,
Cũng đừng ở chỗ tuyết vây quanh mình.
Ai mà biết cách dưỡng sinh,
Cuộc đời được khỏi gập ghềnh, lao xao.
SỰ BỐ THÍ
Con người chẳng hiểu làm doan,
Hễ nghe bố thí thì toan cho liền,
Nhưng trong cách giúp của tiền,
Ai mà biết giúp, phước hiền mới cao.
Ta từng để mắt trông vào,
Thấy cha cùng mẹ, đồng bào giúp nhau.
Mọi người cố ý về sau,
Mong chờ món nợ trả vào tận nơi.
Nếu mình biết thí lâu dài,
Ở đời tránh khỏi nạn tai dập dồn.
Lòng lành bố thí luôn luôn,
Thì phần phước lại như luồn bóng theo.
Đi đâu cũng khỏi hiểm nghèo,
Dẫu cho cảnh khó, lái lèo cũng yên.
Gió, mưa, tuyết, lạnh liên miên,
Nhưng nhờ bố thí mà yên ổn lòng,
Nhằm khi phải bước xa trông,
Có đồ vật dụng là lòng thương yêu,
Trong cơn mệt nhọc buồn hiu,
Mình mà bố thí đỡ nhiều phần suy.
Giữa khi đường sá hiểm nguy,
Tấm lòng bố đức, bạn đi với mình.
Rủi cơn nạn khổ thình lình,
Lòng từ bố thí sức lành cứu cho.
Hoặc xa giặc nghịch, cường đồ,
Làm doan là có gươm to đỡ liền.
Phải cơn bịnh hoạn chẳng hiền
Đức lành là món thuốc tiên cứu thường.
Đến khi qua nẻo hố hang,
Lòng nhân là gậy đỡ đàng vững chân.
HAI NGƯỜI ĐÀN BÀ ĂN XOÀI
Hai người đàn bà kia, mỗi người được mấy trái xoài.
Một người ăn trái rồi vất bỏ hạt, còn người kia ăn xong lại giữ hạt. Người sau này thấy xoài ăn rất ngon, mới đem hạt ra trồng ngoài chỗ đất tốt. Người trông nom và năng tưới cây. Về sau được rất nhiều trái ngon.
Ở đời cũng thế, có nhiều biết người gieo giống tốt. Họ gieo được nhiều nhân tốt thì về sau họ có quả tốt và được hưởng quả ngon. Còn người đàn bà ăn trái mà không giữ hạt giống, có khác nào những người không hiểu nghiệp quả là gì, nên không lo gieo cấy quả lành, đến sau hối hận thì đã muộn rồi.
Nên có bài kệ rằng:
Kìa người được hưởng quả ngon,
Ăn rồi liệng hột, chẳng khôn đâu là.
Đến sau nhìn thấy người ta,
Hưởng nhiều quả tốt, lòng mà tiếc than.
Còn người gieo hạt chứa chan,
Quả ngon là phước lo toan bởi mình.
Vui thay kẻ chứa đức lành!
SỰ GIẢI THOÁT
Phật rằng có ái, có ly,
Đã thương thì sớm muộn gì cũng xa.
Vô thường, số mạng người ta
Cùng trong muôn vật chịu là luật chung.
Xem qua, ta luống hãi hùng,
Khắp trong Tam giới cháy bùng như than.
Người yêu ta đến số ngàn,
Người mà ta mến cũng tràn khắp nơi.
Nhưng ta có thể tách rời,
Cam lòng ly biệt những người yêu thương.
Cõi đời là chốn ngục đường,
Là nơi u ám, là trường nạn nguy.
Con người chẳng biết nghĩ suy,
Cứ ham thương mến, dứt đi không đành,
Chết kia nào có vị tình,
Lại mong đánh đổ, tranh giành, cướp đi.
Yêu nhau ví chẳng biệt ly,
Cần chi giải thoát tu trì nữa chăng?
Càng nhiều âu yếm lăng xăng,
Thì giờ vĩnh quyết lại càng đến mau.
Hiền nhân là đấng chí cao,
Tìm đường giải thoát, chẳng cầu trí ai.
BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHẬT PHÁP
Thế tôn là đấng Đại bi,
Sang giàu, nghèo khó chẳng vì chẳng phân.
Phái môn, giai cấp chẳng cần,
Chỉ coi theo nghiệp kiếp trần đã qua.
Ai gây tội lỗi gian tà,
Khó trông giải thoát đặng ra cõi ngoài.
Sanh, già, bệnh, chết, bi ai,
Cùng là vui, khổ chung vai ở đời.
Bà-la-môn được thảnh thơi,
Còn người các cấp sao thời lại không?
Bà-la-môn học rất thông,
Còn người các cấp cũng trông biết nhiều.
Qua sông, chỗ cạn thuận chiều,
Bà-la-môn, các cấp đều được đi.
Bà-la-môn động tác chi,
Người trong các cấp cũng bì dự lây.
Qui y theo Phật từ đây,
Vì chưng Phật pháp chẳng tây vị gì.
Công bình với các tăng, ni,
Giúp trong dân chúng, hộ trì các nơi.
Chẳng như ngoại đạo dối đời,
Lạc lầm, tăm tối, chia rời chúng sanh.
Lấy lòng bác ái công minh,
Chẳng hề thóa mạ, ghét khinh ai nào.
Đến khi thuyết giáo thanh cao,
Đem điều công lý chỉ vào tận nơi.
Đạo ta ngay thẳng, rạng ngời,
Ấy là đường chánh giúp đời, giúp dân.
Chợ đông bán đủ thứ cần,
Đạo ta cũng cả ngàn phần món mua.
Ta không so tính phân bua,
Không chia giai cấp, hơn, thua, hèn, hào.
Đạo ta chẳng khác suối trào,
Nước trong lại ngọt, cấp nào cũng tôn:
Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn,
Thủ-đà, Phệ-xá ôn tồn uống theo.
Lựa là nhân loại bấy nhiêu,
Chúng sanh tất cả cũng đều uống đa.
Chẳng riêng nam, nữ xuất gia,
Đạo ta là để giúp qua toàn cầu,
Tiên, phàm chi khỏi khổ đau,
Ta cho linh dược về sau thì lành.
Tổ Mã Minh trong khi đi giáo hóa có gặp một nhà đạo trưởng trong phái ngoại đạo tên là Ca-tỳ-ma-la. Người này dùng tà thuật hóa ra một con rồng vàng lớn, làm chấn động cả vùng, muốn làm cho Tổ phải sợ sệt. Tổ ngồi điềm nhiên, rồng chẳng làm hại chi được. Ca-tỳ-ma-la lại dở ra nhiều tà thuật nữa, nhưng đều bị Tổ hàng phục. Cuối cùng ông này liền chịu phục, lễ bái Tổ mà cầu xin được xuất gia theo học Phật.
Về sau, Tổ phó chúc lại cho Ca-tỳ-ma-la nối tiếp mà làm Tổ đời thứ mười ba. Có bài kệ truyền pháp rằng:
Ẩn, hiển tức bổn pháp,
Minh, ám nguyên bất nhị.
Kim phó ngộ liễu pháp,
Phi thủ diệc phi ly.
Dịch nghĩa
Ẩn hiện đều là gốc pháp,
Sáng tối vốn thật chẳng hai.
Nay truyền trao pháp liễu ngộ,
Chẳng giữ, cũng chẳng lìa bỏ.
13.
TỔ CA-TỲ-MA-LA
迦毘摩羅祖
Trong quyển “Phật tổ thống ký”, có chép rằng Tổ sư đời thứ mười ba Ca-tỳ-ma-la là người nước Ma-yết-đà. Trước khi về quy y Phật, ngài tu theo ngoại đạo, có đến ba ngàn đệ tử. Ngài thông suốt kinh điển, lại có nhiều phép thần bí. Nhân một cuộc đối đầu với Tổ thứ mười hai là Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la dùng nhiều tà thuật nhưng không thắng được Tổ sư, liền chịu khuất phục, lễ bái xin theo làm đệ tử. Sau được truyền pháp rồi, ngài đi lần xuống miền Nam mà hóa đạo, cứu độ chúng sanh.
Ngài thu phục được Long Thọ Bồ-tát là một nhà học giả thông thái lúc bấy giờ. Sau, ngài truyền pháp cho Long Thọ, nối tiếp mà làm Tổ đời thứ mười bốn. Ngài có truyền cho Long Thọ bài kệ sau đây:
Phi ẩn phi hiển pháp,
Thuyết thị chân thật tế.
Ngộ thử ẩn hiển pháp,
Phi ngu diệc phi trí.
非隱非顯法
說是眞實際
悟此隱顯法
非愚亦非智。
Dịch nghĩa
Pháp chẳng ẩn, chẳng hiện.
Thuyết lẽ chân thật ấy.
Ngộ pháp ẩn hiện này,
Chẳng ngu, cũng chẳng trí.
14.
TỔ LONG THỤ
龍樹祖
Là vị Tổ sư thứ mười bốn, ngài ra đời vào thế kỉ thứ hai Dương lịch. Tiểu sử của ngài có lắm chuyện kỳ lạ, trong đó có nhiều phần thật, mà cũng có lắm sự khó tin. Nhưng người ta biết chắc rằng ngài sanh tại xứ Bérar, thuộc dòng tộc Bà-la-môn, và ngài hưởng thọ được chừng sáu mươi tuổi.
Ngài soạn nhiều sách, nhưng đã thất lạc đi rất nhiều, không thể nào tìm lại đủ.
Tác phẩm của ngài được dịch sang chữ Hán rất nhiều. Tên tuổi ngài nổi bật trong lịch sử văn chương Phật giáo. Tương truyền chính ngài đã soạn cuốn “Di-lan-đà vấn đạo” hay còn gọi là kinh Na-tiên Tỳ-kheo, là một quyển kinh rất có giá trị. Nhưng một số người khác không đồng ý, cho rằng kinh ấy xuất hiện về sau nên không thể do ngài trước tác được.
Ngài là người sáng lập ra phái Trung luận, một trong các học phái quan trọng của Đại thừa. Đệ tử của ngài rất đông, đều giỏi lý thuyết cao siêu.
Trong những cuộc thuyết pháp của ngài, người nghe phần đông là những người Bà-la-môn học rộng, và vua cũng về phái Bà-la-môn. Ngài luận thuyết rất cao siêu và đánh đổ được hết những kẻ muốn chống lại giáo lý Phật đà. Học phái Trung luận của ngài lấy thuyết Không làm điểm cốt lõi để phát triển luận thuyết.
Những đoạn mà chúng tôi trích dịch sau đây đều là trước tác của ngài Long Thụ.
QUẢ VỊ BỒ TÁT
Đức tánh cốt yếu của chư Bồ-tát là lòng từ ái tràn đầy và lên đến cực điểm. Các ngài thương tất cả chúng sanh, vạn vật. Bởi vậy cho nên không muốn riêng hưởng cảnh Niết-bàn. Dù tâm trí các ngài đã được an hòa, thanh tịnh, nhưng các ngài vẫn vì tình thương mà làm những việc lành, không phải bởi tham hưởng quả tốt về sau. Tuy thế, công đức của các ngài tự nhiên giúp cho các ngài được an nhiên, tự tại.
Phẩm vị của các ngài cao hơn phẩm vị của hàng Thanh văn La-hán. Các ngài đi đến đâu cũng đều cứu vớt cho chúng sanh, không muốn để họ còn chịu khổ não khi mình đã đi qua rồi. Các ngài làm việc xuất phát từ tâm đại từ đại bi, hướng đến quả Phật Như Lai.
Các ngài cũng lấy lòng thương mà nhìn xuống chúng sanh đang chịu hành khổ dưới địa ngục A-tỳ, vì họ đã làm những việc gian ác. Chính địa ngục là một cõi vô cùng vô tận, mà lại ở đó, sự khổ cũng là vô số tùy theo các nghiệp ác của chúng sanh chiêu cảm lấy. Bồ-tát là đấng đại từ đại bi, thấy chúng sanh chịu khổ, lấy làm thương xót và muốn chịu khổ thay cho họ.
Nhưng các ngài đã chứng đắc được chân lý này: những sự khổ não hành hạ người ta, một phần là không có thật, chỉ như bào ảnh, mộng ảo vậy thôi, và một phần là có thật. Các ngài cũng biết rằng những bậc thấu rõ lý Không của vạn vật đều biết được rằng tại sao nghiệp quả khi thì như thế này, có khi lại như thế khác.
Bởi thế cho nên muốn cứu độ chúng sanh khỏi mọi cảnh khổ, chư Bồ-tát luôn dùng hết sức lực và tinh thần, dấn mình vào vòng sanh tử. Tuy các ngài tự nguyện đi vào cõi luân hồi, mà lòng các ngài không hề uế trược vì tội lỗi, và cũng không có những hệ lụy chốn trần tục. Các ngài như hoa sen trong sạch, tuy mọc trong đám bùn mà không vấy bùn.
Trong khi tu tập dần lên cho đến địa vị toàn giác, các ngài luôn lấy lòng đại từ đại bi mà cứu độ, không muốn để còn có một chúng sanh nào phải chịu khổ nảo. Các ngài luôn quán sát vạn vật chỉ là hư không, song việc làm của các Ngài vẫn là ở trong cảnh trần ác lụy, khổ nguy, đặng tế độ cho chúng sanh vậy.
THƯ KHUYẾN THIỆN
Đây là một bức thơ mà ngài Long Thụ dâng lên vua, vì vua là người mộ đạo, thường gần gủi và nghe lời khuyến thiện của ngài. Bởi thấy vua hâm mộ đạo đức và triết lý, nên đại đức vui lòng đem chân lý mà giải bày với vua.
“Nên giữ thân thể, lời nói và tâm ý theo Mười điều lành. Không nên uống rượu say. Hãy dùng phương thế chân thật mà sống đời.
Nên hiểu rằng tiền của tan rã và mau đổi dời. Tốt hơn là nên bố thí cho kẻ nghèo, cứu giúp bè bạn khi khó khăn và cúng dường cho những bậc tu hành. Không có gì quí bằng nhân đức. Lòng nhân là bạn quí của mình, nó trợ tiếp mình trong những đời sau.
Nên trân trọng lấy sự tinh khiết. Không nên tự bôi nhọ mình, tự làm xấu lấy mình bằng những hành động thô bỉ, đê hèn. Tinh khiết ở tâm ý là nền tảng các đức tánh, cũng như đất là nền tảng chịu lấy tất cả động vật và thực vật.
Nên giữ lấy nhân đức, tinh khiết, bền chí, sốt sắng, nghiêm trang, giữ cho được vô cùng, vô tận. Và nếu có đạo đức làm cho mình mạnh thêm, tiếp giúp với mình thì mình có thể lướt qua biển trầm luân để mau thành quả Phật.
Phải kính trọng cha mẹ, bằng hữu hiền lành và thầy dạy mình. Biết kính trọng người làm cho mình có được thanh danh và làm cho mình được hạnh phúc đời sau.
Không nên nói hành, đánh đập, trộm cắp, láo xược, phạm đều nhơ nhuốc, say sưa, ham ăn trái giờ, ham ngủ chỗ nệm cao mền ấm, hát xướng ca múa và lòe loẹt se sua.
Nếu được như vậy thì có thể bước theo đúng đường của chư vị La-hán, được dự phần vào cõi thánh, và nên dùng những lời khuyên ấy mà truyền dạy cho thiện nam tín nữ.
Nên coi là giặc nghịch những tánh bỏn sẻn, gian trá, tham lam, cộc cằn, ghét ganh, giận dữ, tự cao tự đại vì giai cấp, của tiền, tuổi trẻ và sự thông hiểu. Nên coi quyền cao là giặc nghịch.
Những ai trước đã phóng đãng chơi bời và tham ác, nhưng sau tự thấy mình sai lầm liền sửa đổi tánh tình, sẽ được tốt đẹp như mặt trăng không còn bị mây che phủ.
Không có khổ hạnh nào hơn sự kiên nhẫn. Vậy không nên để sự giận dữ thắng được mình.
Nếu mình nghĩ rằng: “Những kẻ chửi mắng, rầy rà, ăn xén của mình làm cho mình nghèo hèn.” Nghĩ như vậy sẽ sanh ra oán giận. Vậy mình nên sớm từ bỏ những điều so đo ấy và nghỉ ngơi cho yên tĩnh.
Nên biết rằng những hình ảnh lộ trên tâm trí giống như nước, đất hoặc kho tàng. Khi những tình dục làm xao xuyến tâm thức, thì ta cho chúng nó giống như nước. Còn tư tưởng chân thật thì ta coi giống như kho tàng.
Có ba thứ lời nói: Lời ngọt ngào, lời chân thật và lời xảo trá. Loại đầu tiên giống như mật. Loại thứ hai giống như hoa. Và loại cuối cùng như những thứ đồ dơ nhớp. Nên tránh xa và từ bỏ loại này.
Trong nhân loại, có những người khởi đầu từ chỗ sáng đi đến chỗ sáng. Có kẻ lại từ chỗ tối đi đến chỗ tối. Cũng có người từ chỗ sáng đi đến chỗ tối. Và lại có người từ chỗ tối đi đến chỗ sáng. Nên học theo những người luôn vươn đến chỗ sáng vậy.
Nên hiểu rằng con người như trái xoài. Người thì có vẻ như chín mà không chín. Có kẻ giống như chín mà lại không chín. Có kẻ không chín mà dường như muốn chín. Và có kẻ chín, nhìn có thể biết là chín. Phải khéo biết rõ mà phân biệt.”
PHÓ PHÁP VÀ TRUYỀN KỆ
Long Thụ Bồ-tát giáo hóa đạo pháp rất thạnh. Nghe ngài giảng thuyết Chánh pháp, rất nhiều người đốn ngộ pháp vô sanh. Nhiều người khác phát nguyện xuất gia để cầu giải thoát.
Về sau, ngài gọi đệ tử lớn là Ca-na-đề-bà đến dạy rằng: “Nay ta đem Chánh pháp nhãn tạng của Như Lai mà phó chúc cho ngươi. Vậy ngươi hãy khéo hộ trì.” Và ngài đọc bài kệ rằng:
Vị minh ẩn hiển pháp,
Phương thuyết giải thoát lý.
Ư pháp tâm bất chứng,
Vô sân diệc vô hỷ.
爲明隱顯法
方說解脫理
於法心不證
無瞋亦無喜。
Dịch nghĩa
Muốn rõ pháp ẩn hiện,
Nên nói lý giải thoát.
Tâm không chứng đắc pháp,
Không giận cũng không vui.
14
Tổ Ca-na-đề-bà
迦那提婆祖
Sau khi ngài Long Thọ tịch, vị Tổ sư nối tiếp là Ca-na-đề-bà, hay Bồ-tát Đề-bà, làm Tổ sư thứ mười lăm.
Ngài là người miền Nam Ấn Độ, họ Tỳ-xá-la, thuộc dòng tộc Bà-la-môn. Thuở nhỏ, ngài đã rất thông minh và giỏi biện luận, lại hay làm việc phước thiện. Truyện kể lại rằng, có một lần ngài đến viếng đền thờ thần Đại Tự tại Thiên, nhìn thấy tượng thần nghiêm sức đầy những vàng ngọc, châu báu, ngài liền quở trách rằng: “Thần linh là những vị dùng linh khí để nhiếp phục người. Nay ngươi lại nghiêm sức thân mình bằng những thứ châu báu quý giá như thế, làm sao không hao tốn nhiều tiền của trong dân? Thật đáng trách lắm.”
Mấy hôm sau, ngài trở vào đền thờ ấy, thấy hình tượng của thần dường như tiều tụy, đổi khác, con mắt trái trủng sâu vào. Ngài thương cảm, liền nói: “Thần linh không nên để thân thể khiếm khuyết như thế, để ta cho ngươi con mắt trái vậy.”
Vừa nói, ngài vừa tự tay móc con mắt bên trái của mình mà cho thần. Nhưng ngài vừa móc ra thì lại sanh một con mắt khác, hoàn y như cũ. Liền đó, trên không trung nghe có tiếng ca ngợi rằng: “Đại bồ-tát! Đáng phục thay tâm bố thí của ngài.”
Khi Bồ-tát Long Thụ đi giáo hóa đến miền Nam Ấn Độ, ngài tự mình tìm đến ra mắt, cầu được xuất gia theo làm đệ tử và được Tổ sư thâu nhận.
Bồ-tát Đề-bà đem tài biện luận của mình mà xiển dương Chánh pháp, khuất phục hết thảy hàng trí giả ngoại đạo, cứu độ cho rất nhiều người. Về sau ngài có soạn bộ Bách luận, nói rộng thêm học thuyết Trung đạo của thầy mình. Nhân bộ luận ấy, về sau người ta xem ngài là người sáng lập ra Tam luận tông.
Theo Kế Đăng Lục, quyển nhất, Tổ Ca-na-đề-bà đi hóa đạo đến xứ Ca-tỳ-la có gặp một vị trưởng giả tên là Phạm-ma Tịnh-đức. Ông này rất giàu có, có hai người con trai là La-hầu-la-điểm và La-hầu-la-đa. Trong vườn ông trưởng giả này có một thân cây sanh ra một loại nấm lạ, ăn rất ngon. Nhưng kỳ dị một điều là chỉ có riêng ông với người con thứ là La-hầu-la-đa mới có thể nhìn thấy và ăn được loại nấm ấy, còn tất cả những người khác không ai nhìn thấy cả.
Trong nhiều năm, ông Tịnh-đức và người con thứ của ông ôm ấp thắc mắc về loại nấm lạ ấy, tìm hỏi rất nhiều người mà không ai có thể giải thích được. Người con thứ là La-hầu-la-đa có làm bài kệ rằng:
Thử mộc sanh kỳ nhĩ,
Ngã thực bất khô khao.
Trí giả giải thử nhân,
Ngã hồi hướng Phật đạo.
此木生奇耳
我食不枯犒
智者觧此因
我迴向佛道。
Dịch nghĩa
Cây sanh ra nấm lạ,
Ăn hoài vẫn không hết.
Bậc trí nói rõ được,
Ta theo về Phật đạo.
Ấy là lời báo trước nhân duyên xuất gia của người con này vậy.
Khi Tổ Ca-na Đề-bà đi hóa đạo đến nơi ấy, ông trưởng giả Tịnh-đức liền cùng với người con thứ tìm đến ra mắt, lễ bái cúng dường. Sau, ông mới đem câu chuyện nấm lạ mà thưa hỏi. Tổ thấu rõ nhân duyên việc ấy, liền nói cho ông Tịnh-đức biết như sau:
“Ngày trước, khi còn trẻ ngươi thường thỉnh một vị tỳ-kheo về nhà mà cúng dường. Tỳ-kheo ấy tuy cũng có phần giới hạnh, nhưng quả thật chưa tỏ ngộ được đạo lý. Thế mà thọ nhận sự cúng dường trọng hậu của ngươi, thành ra một món nợ. Nay vị ấy đã thác, phải sanh làm loại nấm kia để trả nợ cho ngươi. Lại nữa, khi ngươi cúng dường cho tỳ-kheo ấy, người trong nhà không ai tán đồng, tùy hỷ, chỉ có riêng người và người con thứ phát tâm cung kính, đem lòng thành mà cúng dường thôi. Vì nhân duyên ấy, ngày nay chỉ có riêng ngươi và đứa con ấy được ăn loại nấm này.”
Tổ sư lại hỏi: “Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?”
Đáp: “Đệ tử 79 tuổi.”
Tổ sư đọc kệ rằng:
Nhập đạo bất thông lý,
Phục thân hoàn tín thí.
Nhữ niên bát thập nhất,
Thử thụ diệc vô nhĩ.
入道不通理
復身還信施
汝年八十一
此樹亦無耳。
Dịch nghĩa
Tu hành không rõ lý,
Thác sanh trả nợ người.
Năm ngươi tám mốt tuổi,
Cây ấy không còn nấm.
Ông trưởng giả Tịnh-đức nhớ lại sự việc quả có đúng như lời Tổ sư nói, hết sức kính phục, quỳ lạy thưa rằng:
“Con nay tuổi già sức yếu, tiếc rằng không thể theo phụng sự thầy. Nay đứa con thứ của con, chí ý mộ việc tu hành từ nhỏ, xin cho được theo làm thị giả cho thầy.”
Tổ sư liền quay sang hỏi người con thứ rằng: “Ngươi tên là gì?” Đáp: “Con tên La-hầu-la-đa.”
Tổ sư vui mừng nói; “Quả đúng như lời Thế Tôn xưa kia đã nói. Ngươi xuất gia sẽ mau chứng đạo.”
Tổ liền nhận cho xuất gia, truyền giới cụ túc cho La-hầu-đa-la.
Về sau, La-hầu-la-đa trở thành đệ tử lớn nhất của Tổ sư, được ngài truyền cho làm Tổ sư thứ mười sáu. Khi truyền pháp, ngài có bài kệ rằng:
Bổn đối truyền pháp nhân,
Vị thuyết giải thoát lý;
Ư pháp thật vô chứng,
Vô chung diệc vô thủy.
本對傳法人
為說解脫理
於法實無證
無終亦無始。
Dịch nghĩa
Trước khi truyền pháp cho ai,
Hãy đem giải thoát đề tài giảng sâu.
Thật mình không chứng pháp đâu,
Không chung không thủy, đuôi đầu vốn không.
15.
TỔ LA-HẦU-LA-ĐA
羅睺羅多祖
Tổ sư đời thứ mười sáu sanh ra tại xứ Ca-tỳ-la. Theo quyển “Phật Tổ lịch đại thông tải”, khi du hành hóa độ đến thành Thất-la-phiệt, sông Kim thủy. Ngài nói với chúng đệ tử rằng: “Ở nơi kia có thánh nhân tên là Tăng-già-nan-đề. Phật có nói trước rằng người ấy sẽ là Tổ sư đời thứ mười bảy.”
Ngài bèn bảo đệ tử đưa thuyền cho ngài lên nguồn sông. Đến nơi, ngài thấy Tăng-già-nan-đề đang an tọa nhập định. Đủ hai mươi mốt ngày, ông này ra khỏi cơn thiền. Hai vị sư bèn biện luận nghĩa lý phép định. Tăng-già-nan-đề hội được ý Tổ, Tổ bèn phó cho pháp nhãn, truyền làm Tổ sư đời thứ mười bảy. Có truyền bài kệ này:
Ư Pháp thật vô chứng,
Bất thủ diệc bất ly;
Pháp phi hữu vô tướng,
Nội ngoại vân hà khởi?
於法實無證
不取亦不離
法非有無相
內外云何起
Dịch nghĩa
Thật là không chứng pháp chi,
Chẳng cầm giữ cũng chẳng lìa bỏ đâu.
Pháp không các tướng có không,
Nội tâm ngoại cảnh há lay động mình?
16.
TỔ TĂNG-GIÀ NAN-ĐỀ
僧伽難提祖
Tổ sư thứ mười bảy vốn là một vị hoàng tử, con vua Bảo Trang Nghiêm, sanh ra tại thành Thất-la-phiệt. Tục truyền rằng khi ngài mới vừa sanh ra thì đã biết nói, thường xưng tán Phật sự.
Trong quyển “Phật Tổ chánh tông đạo ảnh” có chép rằng:
Sau khi xuất gia, tôn giả tìm đến một cái động đá, vào ngồi trong ấy mà nhập định. Sau khi xuất định, ngài nhìn thấy Tổ sư thứ mười sáu là La-hầu-la-đa đang đứng trước mặt mình. Tổ sư hỏi rằng:
“Thân ngươi định hay tâm ngươi định?”
Đáp rằng:
“Cả thân và tâm đều định.”
“Thân và tâm đều định thì cái gì xuất nhập?”
“Tuy có xuất và nhập, mà không mất cái tướng định.”
Nhân được luận bàn với Tổ sư trong dịp ấy, ngài liễu ngộ được bổn tâm, được Tổ sư ấn chứng và truyền pháp cho, làm Tổ sư đời thứ mười bảy.
Về sau, Tổ Tăng-già-nan-đề truyền pháp lại cho Tăng-già-da-xá, kế nghiệp cho ngài mà làm Tổ thứ mười tám. Ngài có truyền kệ rằng:
Tâm địa bổn vô sanh,
Nhân địa tùng duyên khởi;
Duyên chủng bất tương phường,
Hoa quả diệc phục nhĩ.
心地本無生
因地從緣起
緣種不相妨
華果亦復爾。
Dịch nghĩa
Này tâm địa vốn vô sanh,
Nhân là cảnh đắc duyên hình khởi lên.
Nhân duyên chẳng ngại mọi bên,
Hoa và quả cũng kết trên nhánh cành.