Bài 3. Mật tàng.
Một hôm, Sư cùng với chúng đi hái trà, Sư bảo:
- Huệ Tịch trọn ngày hái trà, chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con, bây giờ hãy hiện bổn hình cho ta xem!
Sư nói Huệ Tịch cả ngày đi hái trà với Sư mà chỉ nghe tiếng nhưng không thấy hình, vậy lúc đó Ngài Huệ Tịch ở đâu?
Huệ Tịch liền lấy cây trà đập vào cây trà.
Sư bảo:
- Con chỉ được cái dụng mà chẳng được cái thể của nó.
Huệ Tịch thưa:
- Chưa biết Hòa thượng thế nào?
Sư im lặng. Huệ Tịch nói:
- Hòa thượng chỉ được cái thể mà không được cái dụng của nó.
Sư bảo:
- Tha cho con hai chục gậy.
Vậy tức là sao? Bảo hiện hình thì liền đập cây trà. Vậy là có hiện hình chưa? Ngài Quy Sơn bảo như vậy chỉ được cái dụng mà không được cái thể, có thật vậy không?
Chúng ta học thiền là phải sáng mắt, đừng để các Ngài gạt. Nghe Sư bảo là "Con chỉ được cái dụng của nó, không được cái thể của nó", rồi chúng ta cũng theo đó lý luận là chỉ được cái dụng, không có cái thể thì đó là bị ngôn ngữ gạt. Nếu không có thể thì làm sao hiện ra cái dụng đập cây trà. Cho nên nếu không khéo là bị ngôn ngữ lừa gạt. Vì cái dụng hiện ra thì bảo đảm là có cái thể rồi. Có thể mới hiện ra dụng, không có thể làm sao có cái dụng, mà bảo rằng được cái dụng không được cái thể.
Rồi khi Sư im lặng thì Huệ Tịch nói "Hòa thượng chỉ được cái thể mà không được cái dụng", cũng phải thấy thấu qua lời này.
Được cái thể mà không được cái dụng, có thật như vậy không? Nếu không có dụng thì sao biết thể, sao biết im lặng? Cho nên không khéo là bị ngôn ngữ gạt. Đây chính là các Ngài khéo léo để chúng ta bổ túc vào chỗ đó. Chỗ đó là chỗ mỗi người cần bổ túc, là chỗ thấy của mình. Đó là chỗ quan trọng. Người khéo thấy được chỗ này là thấy được các Ngài, còn không khéo là bị ngôn ngữ lừa.
***
Sư ngồi xuống thì Ngài Huệ Tịch đi vào, Sư bảo: "Tịch con, hãy nói mau! Chớ vào ấm giới". Ấm, giới tức là năm ấm, 18 giới, vừa rơi vào trong đó là rơi vào trong cái suy nghĩ, cái sanh diệt.
Huệ Tịch thưa: "Huệ Tịch tin cũng chẳng lập". Đúng là lanh lợi, tin cũng chẳng lập nữa thì rơi vào cái gì?
Sư bảo:
- Con tin rồi chẳng lập, hay là chẳng tin mà chẳng lập?
Huệ Tịch thưa:
- Chỉ là Huệ Tịch thì lại tin cái gì?
Sư bảo:
- Nếu thế thì chỉ là định tánh Thanh Văn.
Huệ Tịch thưa:
- Huệ Tịch thì Phật cũng chẳng lập nữa.
Chỗ này coi chừng! Khi Ngài Huệ Tịch nói là "Tin cũng chẳng lập" thì tổ Quy Sơn mới gạn lại "Con tin rồi chẳng lập hay là chẳng tin mà chẳng lập?" Đó là gài bẫy.
Tin rồi chẳng lập hay là chẳng tin mà chẳng lập đó là hai bên. Nếu người chưa sáng mắt thì đáp bên này bên kia, dính bên này bên kia là bị ló đuôi. Cho nên Ngài Huệ Tịch khéo léo đáp: "Chỉ là Huệ Tịch thôi, còn cái gì nữa nói là tin chẳng tin?" Là vượt qua được bẫy.
Rồi Tổ Quy Sơn gạn thêm: "Nếu như vậy thì chỉ là định tánh Thanh Văn", tức còn nghiêng một bên. Ngài Huệ Tịch nói "Huệ Tịch thì Phật cũng chẳng lập nữa". Cũng vượt qua cái bẫy hai bên Thanh Văn, Phật luôn. Đúng là chỗ thấy vượt thoát thường tình.
***
Rồi có lần Tổ Quy Sơn ngủ vừa thức giấc thì Ngài Huệ Tịch đến thăm, Sư liền xoay mặt vào vách không nói gì.
Huệ Tịch thưa:
- Hòa thượng đâu được như vậy.
Sư trổi dậy bảo:
- Vừa rồi ta nằm một điềm chiêm bao, giờ con thử vì ta đem lại xem.
Chiêm bao mà bảo đem lại? Ngày xưa các Ngài thử nhau để thấy chỗ tâm ngộ của học trò sáng tới đâu.
Lúc đó, Ngài Huệ Tịch đi múc một thau nước đem lại cho Sư rửa mặt. Rửa mặt xong, giây lát thì Ngài Hương Nghiêm - Trí Nhàn đến thăm, Sư bảo:
- Vừa rồi ta nằm một điềm chiêm bao, Huệ Tịch vì ta đem lại xong rồi. Bây giờ tới ngươi lại đem cho ta xem!
Trí Nhàn liền đi rót chung trà đem đến.
Sư bảo:
- Hai con thấy hiểu còn xa hơn Xá-lợi-phất.
Chúng ta thấy các Ngài rất khéo léo. Thức dậy thì có nước rửa mặt, có trà uống xong rồi, nếu còn nhớ tới nữa là chiêm bao chứ gì. Đúng là hai Ngài Huệ Tịch, Trí Nhàn lanh lợi, khéo léo.
***
Sư hỏi Ngài Vân Nham - Đàm Thạnh:
- Nghe huynh ở Dược Sơn lâu lắm phải chăng?
Vân Nham đáp:
- Phải.
Sư hỏi:
- Tướng Dược Sơn đại nhân thế nào?
Vân Nham đáp:
- Sau khi Niết-bàn mới có được.
Sư hỏi:
- Sau khi Niết-bàn có thể nào?
Vân Nham đáp:
- Nước rưới chẳng dính.
Chỗ đó nước rưới vào cũng chẳng dính mới gọi là tướng Dược Sơn đại nhân. Làm sao thấy được chỗ đó mới đúng là thấy Ngài Dược Sơn, chứ không phải là thấy Ngài Dược Sơn là thấy hình tướng ông Hòa thượng chống gậy đi, không phải cái đó.
Cho nên Vân Nham mới nói là "sau khi Niết-bàn mới thấy được", còn cái hình tướng này thì ngay đây thấy được rồi. Nhưng thấy được rồi thì sao? Ít hôm là sẽ nhập Niết-bàn thì đưa vào thiêu hoặc là nhập tháp. Tướng này là như vậy, còn tướng Dược Sơn đại nhân là phải thấy được cái kia! Tướng đó thì nước rưới cũng chẳng dính, tức không ướt, phải thấy được tướng đó mới là tướng thật.
***
Vân Nham lại hỏi Sư:
- Bá Trượng đại nhân tướng thế nào?
Sư đáp:
- Chững chạc vòi vọi, sáng suốt rực rỡ, trước tiếng chẳng phải tiếng, sau sắc chẳng phải sắc, con muỗi đậu trên trâu sắt không có chỗ cho huynh cắn mỏ.
Hai Ngài đều là bậc sáng mắt cho nên đối đáp có chỗ vượt ngoài hiểu biết thường tình. Tức là ngay sắc mà thấy thấu qua sắc, ngay tiếng mà thấu qua tiếng, chứ không có dừng ở trên thanh sắc, không có chỗ cho ông cắm mỏ để sanh hiểu, thì đó mới là tướng thật.
***
Một hôm, Sư thấy Trí Nhàn, Huệ Tịch làm bánh liền bảo:
- Bá Trượng Tiên sư đương thời thân được đạo lý này.
Ngài Huệ Tịch, Trí Nhàn mới nhìn nhau nói:
- Người nào đáp được lời này?
Để thấy các Thiền viện ngày xưa thực hiện theo tinh thần của Tổ Bá Trượng là tu trong lao động, cho nên ở đây cũng có làm bánh... Vậy thì ngay khi làm bánh đó cũng là đang tu, cũng tham thiền sống thiền, chứ không phải là làm bánh chỉ lo nghĩ đến bánh, đến ăn thôi. Như vậy chúng ta mỗi ngày làm bếp cũng phải tham thiền sống thiền, chứ không phải làm bếp chỉ lo nghĩ đến rau, đến gạo, đến ăn... hoặc nghĩ lăng xăng thì càng không hay nữa.
Sư nói:
- Có một người đáp được.
Huệ Tịch thưa:
- Là người nào?
Sư mới chỉ con trâu bảo:
- Nói! Nói!
Ngài Huệ Tịch liền chạy đi lấy bó cỏ đem lại, còn Ngài Trí Nhàn thì lấy thùng múc nước đem lại để trước con trâu. Con trâu ngay đó có cỏ ăn, có nước uống thoải mái.
Sư bảo:
- Cho gì, cho gì? Chẳng cho gì, chẳng cho gì?
Huệ Tịch, Trí Nhàn ngay đó đồng lễ bái Sư.
Sư bảo:
- Hoặc khi sáng, hoặc khi tối.
Để thấy các Ngài ngay trong công việc hàng ngày cũng khơi dậy lẽ thật nơi chính mình, chứ không để qua mất. Chúng ta cần nhớ kỹ điều này. Trong công việc nhưng không để mất mình, ngay đó vẫn sáng tỏ được tự tâm.
Hai Ngài Huệ Tịch, Trí Nhàn nghe nói vậy cũng khéo biết được ý của Sư, liền lấy bó cỏ đem lại cho trâu ăn, múc thùng nước đem lại cho trâu uống. Có cỏ, có nước ngay trước mặt mà chưa chịu ăn, còn đợi gì nữa? Đó là nói lên chỗ sống, chỗ tu của người tu thiền chứ không phải lo nghĩ đến làm bánh thôi.
Như vậy để nhắc nhở tất cả mọi người, đạo lý thiền luôn hiển hiện ngay trong việc làm hàng ngày của mình, chưa từng mất. Nên phải khéo ngay trong mọi lúc đó để mà thấy trở lại.
***
Một hôm, Sư thúc trong chúng trình ngữ:
- Ngoài thanh sắc cho ta cùng thấy.
Làm sao mà thấy?
Ông Thượng tọa Giám Huyền mới trình ngữ:
- Chẳng từ đây ra, người ấy không mắt.
Sư chẳng nhận. Nói vậy thì cũng chưa được sáng tỏ lắm nên Sư chưa chịu nhận. Ngài Huệ Tịch ba phen trình ngữ.
Lần đầu:
- Thấy lấy, chẳng thấy lấy.
Sư bảo:
- Nhỏ như chót lông, lạnh tựa sương tuyết.
Sư cũng chưa chịu.
Lần thứ hai:
- Ngoài thanh sắc thì còn ai cầu thấy!
Tức là ngoài thanh sắc rồi thì ai cầu thấy nhau nữa?
Sư bảo:
- Chỉ kẹt Thanh Văn, bên ngoài giường hẹp.
Sư chưa chịu vì còn kẹt một bên.
Lần thứ ba mới trình:
- Như hai gương chiếu nhau, ở trong không hình tượng.
Tức là hai gương cùng chiếu nhau, bên trong không hình tượng gì hết. Cũng là khéo! Giống như là tâm tâm soi thấu với nhau, tâm thầy, tâm con soi thấu nhau mà bên trong không có hình tượng gì hết, tức là vượt ngoài thanh sắc thì đúng là khéo léo!
Sư mới bảo:
- Ngữ này chính, ta phải ngươi chẳng phải, sớm lập hình tượng rồi vậy.
Tức là khen khéo léo nhưng cũng còn có đây kia, có ta có người thì cũng là có lập rồi. Tuy nói không lập hình tượng nhưng mà cũng có lập hình tượng. Cho nên Sư mới nói "Ở đây ta phải nhưng ngươi không phải".
Huệ Tịch hỏi lại:
- Tinh thần con tối tăm, hỏi đáp vụng về, chẳng biết Hòa thượng hồi còn ở chỗ Sư ông Bá Trượng thì trình ngữ thế nào?
Sư bảo:
- Ta hồi ở với Bá Trượng Tiên sư trình ngữ như vầy: "Như trăm ngàn gương sáng, soi sáng hình bóng, chiếu nhau cõi cõi, bụi bụi, mỗi mỗi chẳng lầm lẫn".
Huệ Tịch liền lễ bái.
Đúng là chỗ thấy của Sư tròn sáng. Ngài Huệ Tịch chỉ trình như hai gương soi nhau, còn ở đây Sư nói là như trăm ngàn gương soi sáng hình bóng chiếu nhau. Trong đó, mỗi cõi mỗi cõi, một hạt bụi, không lầm lẫn cái gì hết.
Quả là tâm thật sáng mới thấy thấu được chỗ đó. Dù cho cõi cõi, bụi bụi nó hiện nhưng không một chút lầm lẫn, một điểm cũng không dối được.
Thấy đến chỗ đó mới gọi là thấy tột tâm. Còn chúng ta bây giờ quả núi to lớn cũng còn lầm thì nói gì hạt bụi, ở đây một hạt bụi cũng không lầm được. Mới thấy tâm các Ngài sáng tới đó, xét lại chúng ta thì còn phải tu nhiều, đừng có dễ duôi.
Trong tập Tổ Đường Tập có thêm phần Ngài Ngưỡng Sơn thưa hỏi Tổ Quy Sơn:
- Chỉ như Lục Tổ Hòa thượng sắp tịch, phó chúc cho các đệ tử là hãy lấy một miếng sắt mỏng nặng khoảng hai cân đặt trong cổ của ta, sau đó rồi sơn lại. Các đệ tử hỏi đặt sắt trong cổ là có ý gì?
Lục Tổ bảo:
- Hãy đem giấy bút lại đây ta huyền ký cho.
Sư nói kệ:
Trong năm sáu năm,
Trên đầu nuôi thân,
Trong miệng cần ăn,
Gặp phải nạn Mãn,
Dương Liễu làm quan.
Quy Sơn nói:
- Ông có hiểu ý huyền ký của Tổ sư chăng?
Ngưỡng Sơn thưa:
- Hiểu nhưng mà việc đó qua rồi.
Quy Sơn bảo:
- Việc ấy tuy qua rồi nhưng ông thử nói lại xem.
Ngưỡng Sơn thưa:
- Trong năm sáu năm tức là ba mươi năm.
Đó gọi là những lời ẩn mật. Lục Tổ nói ra giống như sấm ký, lúc đó không ai biết. Năm lần sáu ba mươi tức là ba mươi năm.
"Trên đầu nuôi thân" tức là gặp hiếu tử. "Trong miệng cần ăn" là thường thiết trai. "Gặp phải nạn Mãn" tức là Trương Tịnh Mãn ở Nhữ Châu bị vị tăng ở Tân La là Kim Đại Bi đem tiền mua chuộc mới đến cắt lấy đầu Lục Tổ và trộm y bát. "Dương Liễu làm quan" tức là Thích sử Thiều Châu họ Dương và Huyện lệnh Khúc Giang họ Liễu sau đó phát giác vụ trộm và bắt được trộm ở thành Giác Đài.
Ngài Ngưỡng Sơn giải thích bài kệ rõ ràng, rồi hỏi:
- Hòa thượng hiện nay có cái thấy này chăng?
Tức là Lục Tổ biết trước nên huyền ký như vậy, thì đúng 30 năm sau có việc đó xảy ra như lời huyền ký. Ngưỡng Sơn mới hỏi lại là Hòa thượng hiện nay có cái thấy như Lục Tổ chăng?
Tổ Quy Sơn bảo:
- Đây là Hành thông (cũng gọi Hạnh thông), là một pháp trong lục thông, ta cũng chưa được.
Ngưỡng Sơn thưa:
- Bạch Hòa thượng! Hòa thượng hiện nay thọ ký cho người có kiến giải thì được; nếu thọ ký cho người hành giải thì thuộc nhân tình, chẳng phải Phật pháp.
Quy Sơn vui vẻ nói:
- Tiên sư Bá Trượng thọ ký trong số mười người hiểu Phật pháp, hiểu Thiền, về sau trăm ngàn người vây quanh, kịp đến số tự trụ chăng?
Ngưỡng Sơn thưa:
- Sợ e như thế. Nhưng mà Thánh ý khó lường, hoặc nghịch hoặc thuận cũng chẳng phải là chỗ Huệ Tịch biết được.
Quy Sơn bảo:
- Ông về sau lại thọ ký cho người chăng?
Ngưỡng Sơn thưa:
- Nếu thọ ký, chỉ thọ ký kiến giải, chẳng thọ ký hành giải. Kiến giải thuộc khẩu mật, hành giải thuộc ý mật. Chưa ngang bằng với Tào Khê, chắng dám thọ ký cho người.
Kiến giải là chỗ thấy. Chỗ đó thọ ký được. Còn chỗ hành giải là chỗ sống thực của người đó thì làm sao biết mà thọ ký. Cho nên Ngài nói chưa dám, phải ngang bằng với Tào Khê tức là Lục Tổ mới dám thọ ký.
Quy Sơn bảo:
- Ông cớ sao chẳng thọ ký?
Ngưỡng Sơn thưa:
- Việc trước Phật Nhiên Đăng, bên ấy thuộc chúng sanh, hành giải không dính dáng.
Tức là trước Phật Nhiên Đăng là thuộc về chúng sanh còn chưa sáng.
Quy Sơn bảo:
- Sau Nhiên Đăng thì ông lại thọ ký được cho y chăng?
Ngưỡng Sơn thưa:
- Sau Nhiên Đăng thì họ tự có người thọ ký rồi, cũng chẳng đợi đến Huệ Tịch thọ ký.
Ngài đáp rất khéo léo, chỗ này để dành phần cho mỗi người.
Rồi Ngưỡng Sơn lại hỏi Hòa thượng Quy Sơn:
Thức như bọt nổi của Hòa thượng gần đây chẳng biết đã dừng hay chưa?
Nguyên văn là "Phù âu thức" hoặc có chỗ nói là "Thức lưu chú", tức là cái thức sanh diệt tương tục. Ở đây, Ngài Ngưỡng Sơn hỏi Tổ Quy Sơn là cái thức sanh diệt tương tục của Hòa thượng gần đây chẳng biết đã dừng hay chưa?
Tổ Quy Sơn bảo:
- Ta không đến đã trải qua năm sáu năm.
Ngưỡng Sơn mới thưa:
- Nếu như thế, hiện nay trước thân Hòa thượng lẽ ra khắp siêu tam-muội đảnh rồi.
Tức vượt lên cả tam-muội đảnh.
Quy Sơn bảo:
- Chưa.
Ngưỡng Sơn thưa:
- Tánh địa bọt nổi còn dừng, thì trước thân Nhiên Đăng vì sao lại chưa?
Tức là cái sanh diệt trôi chảy đã dừng, thì trước thân Nhiên Đăng vì sao lại chưa?
Quy Sơn bảo:
- Tuy lý như thế, ta cũng chưa dám bảo nhậm.
Ngưỡng Sơn thưa:
- Chỗ nào là chỗ chưa dám bảo nhậm?
Quy Sơn bảo:
- Ông chớ có miệng nói giải thoát. Ông chẳng nghe hai Thiền sư An và Tú được Võ Tắc Thiên một phen thử bằng cách cho cung nữ hầu tắm mới biết có người giỏi đến trong đây. Thật là Phật sắt cũng phải tháo mồ hôi. Ông phải tu hành, chớ trọn ngày miệng nói thao thao.
Tức là Ngưỡng Sơn hỏi Tổ Quy Sơn về "Thức trôi chảy sanh diệt của Hòa thượng gần đây đã dừng hay chưa?". Thì Tổ nói: "Ta không đến cũng đã trải qua năm, sáu năm". Ngài Ngưỡng Sơn nói: "Nếu như vậy lẽ ra trước thân Hòa thượng đã vượt lên khỏi tam-muội đảnh rồi", nhưng Tổ Quy Sơn nói là "Chưa". Ngưỡng Sơn mới thưa: "Vì sao lại chưa vượt qua?", Tổ Quy Sơn bảo: "Tuy trên lý như thế nhưng ta chưa dám bảo nhậm".
Chúng ta thấy các Ngài rất cẩn thận.
Ngưỡng Sơn hỏi chỗ nào là chỗ chưa dám bảo nhậm? Đây Tổ Quy Sơn mới bảo rõ là "Ông chớ có miệng nói giải thoát, phải làm sao tu cho được giải thoát, phải tâm giải thoát mới được". Còn nói giải thoát thì ai nói không được. Đó là điểm phải hết sức cẩn thận.
Tổ mới dẫn câu chuyện Thiền sư Lão An với Ngài Thần Tú được bà Võ Tắc Thiên cung kính như hai bậc Thầy. Một hôm, bà thỉnh hai vị vào cung rồi cho cung nữ hầu tắm, bà đứng ngoài rình. Chỉ có Thiền sư Lão An thì thần thái tự nhiên, nhưng Ngài Thần Tú chưa được. Mới thấy như lời Tổ Quy Sơn nói "Đến chỗ đó là Phật sắt cũng phải tháo mồ hôi", chứ không phải thường nên đừng vội tự hào. Bình thường nói gì cũng được nhưng đến lúc đó mới biết được tâm mình thế nào. Khi gặp chuyện như vậy thì mới biết được tâm mình động hay không?
Vì vậy mà Tổ mới nhắc Ngài Ngưỡng Sơn là ông phải tu hành, chớ có trọn ngày miệng nói thao thao. Nhắc kỹ như vậy, phải lo tu mới là thật, chớ đừng miệng nói hay thì cũng chưa đến đâu.
Người xưa tu hành kỹ như vậy, còn chúng ta ngày nay thì thế nào? Chỗ sống của mình được đến đâu rồi? Có sánh được với người xưa chưa? Vậy mà không chịu lo công phu cho kỹ!!!
Đó là chỗ muốn nhắc cho chúng ta chưa gì mà lo tự hào, rồi bỏ quên công phu. Có khi học đạo ít lâu thì coi như là đủ, rồi lơ là chuyện công phu. Hoặc có người sáng được một chút thì chấp vào đó, cũng xem thường công phu, điều này phải xét lại.
***
Sư thượng đường bảo chúng:
- Sau khi lão tăng trăm tuổi, đến dưới núi làm con trâu, hông bên trái viết năm chữ "Quy Sơn Tăng Linh Hựu". Khi ấy gọi là "Quy Sơn Tăng" hay gọi là "con trâu"? Gọi thế nào mới đúng?
Như vậy là sao? Tổ tu hành như thế mà nói là khi chết sẽ xuống núi làm con trâu. Rồi mới đặt câu hỏi "Lúc đó gọi là Quy Sơn Tăng hay gọi là con trâu?".
Chỗ này đúng là chỗ của những bậc thật sự đạt đạo, sạch hết kiến giải phàm Thánh, không còn dấu vết; không thấy có được, có chứng, có đắc mới nói được như vậy. Điều này người tu hành thông thường thì chắc không ai dám nói, vì tâm còn phân biệt phàm Thánh.
Đây các Ngài sạch hết cái tình phàm Thánh, quên hết những sở đắc, tâm rất rỗng rang. Còn chúng ta nếu ngay đây nếu ai nói mình là con trâu hoặc nói mình ngu thì sao? Thì sanh chuyện liền. Mới thấy đó là tâm phân biệt còn mạnh, còn cái ngã; đây thì quên ngã, mà quên ngã thì còn cái gì để nói?