vienquang2

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách.

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,027
Điểm
113
Bài 34.- Đáo Niết Bàn .
Minh Văn 6:

Lục đạo vãng hoàn
Tam giới bồ bặc
Tảo phóng minh sư
Thân cận cao đức.

dịch

Qua lại sáu đường
Lăn lóc ba cõi
Sớm hỏi minh sư
Thân cận cao đức.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Tam Giới, Lục Đạo .
  • Lục Đạo là 6 đường luân hồi mà chúng sanh qua lại luân hồi sanh tử. Đó là: Trời, người, A tu la, Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
  • Tam Giới là 3 cõi: Dục, Sắc và Vô Sắc.
Người tu Phật là ra khỏi 3 cõi 6 đường.
* Nhưng ra khỏi rồi ở đâu ?

+ 10 Cảnh giới.
Theo lời Phật dạy. Có đến 10 cảnh giới gồm Lục phàm.- Tức 6 nào luân hồi của phàm phụ. Còn 4 cõi Thánh. Là: Thỉnh văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật.
+ Thực chất 10 cảnh giới.

Kính Kim Cang Bát Nhã Phật dạy: Phật - Chúng sanh - Tâm vô sai biệt. Nghĩa là cả 3 không sai khác nhau.- Nói cách khác tất cả 10 cảnh giới đều có trong nhau.- Một chúng sanh nào dù ở trong 6 nào phàm thì đều có Tâm, đều có Phật (tánh).- và ngược lại một Phật nào cũng có Tâm, có chúng sanh.
Như vậy.Nếu trầm tư quán chiếu thì chúng ta thấy: Người tu mà vượt thoát 6 nẽo luân hồi. Thực chất là nâng tầm Tâm Thức từ lục Phàm lên Tứ Thánh. - Vậy thôi.
Nghĩa là. Dù mang hình dạng con người nhưng có tầm Tâm thức tương ứng 4 cõi Thánh. Thì đó là vượt phàm nhập Thánh.

+ Tam Giới: Tức là 3 cõi Dục, Sắc, Vô Sắc.

Ngộ Tánh Luận. Tổ Đạt Ma nói: Ba cõi ấy là tham, sân, si vậy.
Chuyển ngược tham, sân, si làm giới, định, huệ tức gọi siêu lên ba cõi.
Tuy nhiên, tham, sân, si chẳng có thực tính, chỉ bằng vào chúng sanh mà đặt tên. Nếu có thể soi ngược trở lại thì sẽ thấy rõ:
Tánh của tham, sân, si tức là tánh Phật.(hết trích)

Như vậy. Chúng ta thấy. Vượt thoát Tam Giới. Thực chất là vượt khỏi Tham, sân, si trong Tâm chính ta.

Không Tham, sân, si Tâm ta chính là Niết Bàn. Như vậy Niết Bàn không phải ở nơi không gian nào nhất định. Mà ở đâu không Tham, sân, si nơi đó là NB.
Nhưng. Nói thì dễ. Hành rất khó. Phải học hỏi bậc Đạo cao, đức trọng mới tránh được lầm lẫn.

1000000172.jpg


Tuy vậy. Đường đến Niết Bàn nhiều nỗi nhiêu khê.

Kinh Lăng nghiêm Phật dạy:

Phật bảo A-nan: - Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, theo các thứ điên đảo, tự nhiên tạo giống nghiệp như chùm ác-xoa. Những người tu hành không thể thành được vô thượng Bồ-đề, mà chỉ thành Thanh văn, Duyên giác và thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến thuộc của ma, đều do không biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm. Họ giống như nấu cát mà muốn thành cơm ngon, dù trải qua số kiếp như vi trần, trọn không thể được. (Hết trích)

Kính các bạn. Dó đó Tổ dạy

Sớm hỏi minh sư
Thân cận cao đức.

Nhờ nơi đây mới hòng ra khỏi 6 đường 3 cõi. Trực chỉ Niết Bàn.
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,027
Điểm
113
ài 35.- Giải trừ vọng Thức.

Minh Văn 7:

Quyết trạch thân tâm
Khử kỳ kinh cức
Thế tự phù hư
Chúng duyên khởi bức?

dịch

Quyết lọc thân tâm
Bỏ điều gai góc
Đời tự phù hư
Duyên nào ép ngặt?

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Học Giải: (trích)

Cuộc đời vốn là vô thường giả tạm, các pháp đều do duyên sinh rồi cũng do duyên diệt. Mọi việc hãy để các pháp vận hành theo quy luật tự nhiên của chúng, đừng để tâm dính mắc chúng thì chúng làm sao ép bức được mình?

Chỉ khi nào còn tâm phan duyên dính mắc thì các pháp mới ép bức được mình.

Như Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Quán Chúng Sanh chép khi được một vị Thiên nữ rãi hoa cúng dường, đến thân các Bồ Tát thì liền rơi xuống đất, còn các đại đệ tử như ngài Xá Lợi Phất thì bị hoa dính trên thân, nên ngài phủi hoa cho rơi xuống đất mà không được. Khi đó Thiên nữ hỏi tại sao phủi hoa, ngài Xá Lợi Phất đáp vì hoa này chẳng đúng pháp nên phủi. Lúc đó Thiên nữ nói rằng:

“Chớ bảo hoa này chẳng đúng pháp. Tại sao? Vì hoa này chẳng có phân biệt, tại nhơn giả tự sanh phân biệt tưởng mà thôi.

Người ở nơi Phật pháp xuất gia, có tâm phân biệt là chẳng đúng pháp, nếu chẳng phân biệt tức là đúng pháp.Nay thử xem các vị Bồ Tát chẳng dính hoa là vì đã đoạn diệt phân biệt tưởng vậy.

Ví như người đang có khiếp sợ thì phi nhơn mới được dịp mê hoặc. Cũng thế, các vị đệ tử vì đang sợ sanh tử thì sắc, thanh, hương, vị, xúc mới được dịp mê hoặc. Kẻ đã lìa được khiếp sợ thì tất cả ngũ dục đều chẳng thể mê hoặc.

Kẻ kiết tập (tập khí trói buộc) chưa sạch, hoa mới dính vào thân. Kẻ kiết tập đã sạch thì hoa chẳng dính vậy.”

Do Tâm phan duyên hay ý thức Phân Biệt nên mới dính mắc ở sáu trần dụ cho hoa dính thân không thể phủi. Bồ Tát do vì đã đoạn diệt phân biệt tưởng nên được thấy nghe tự tại không còn dính mắc nơi cảnh trần.

Do vậy Tổ Quy Sơn ở phần trên nói, “văn thanh kiến sắc cái thị tầm thường”. Ngài cũng dạy, “Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối”hay “bất dụng tương tâm tấu bạc, đãn tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân” (Chẳng cần đem tâm nương gá nơi đâu, chỉ cần không bám theo vật, thì vật cũng chẳng chướng ngại được người).

Chỉ vì mình mê, nhận vọng thân, vọng tâm, vọng cảnh làm mình nên mới theo chúng lưu chuyển sinh tử, cũng như bị chúng duyên ép bức. Mê thì chúng duyên ép bức, Ngộ thì chúng duyên chẳng ép bức được mình.

Do vậy chúng ta cần phải tham cứu giáo lý sâu xa (nghiên cùng pháp lý) của đức Phật đến chỗ cùng tận tức Triệt Ngộ, cũng như phải quyết lấy sự giác ngộ giải thoát làm mục tiêu hay mục đích duy nhứt của đời tu mình đến khi nào giác ngộ mới thôi (dĩ ngộ vi tắc).

Vì vậy người tu hành chúng ta chỉ có một sự nghiệp duy nhứt đó là “Duy Tuệ Thị Nghiệp”. Nếu chúng ta duy cái gì khác ngoài sự tu hành để đưa đến giác ngộ giải thoát là sai lầm, vì nó nằm ngoài bổn phận của người xuất gia chúng ta. ( nguồn trích hoavouu.com )

tải xuống.jpeg
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,027
Điểm
113
Bài 36.- Chuyển Thức thành Trí.

Minh Văn 8

Tâm cảnh câu quyên
Mạc ký mạc ức.
Lục căn dĩ nhiên
Hành trú tịch mặc.
Nhứt tâm bất sanh
Vạn pháp câu tức.

dịch

Tâm cảnh đều Xả trừ (chữ nguyên bản là quên)
Không nhớ không nghĩ
Sáu căn an nhiên
Đứng đi lặng yên
Một tâm không sanh
Muôn pháp đều Như.

++++++++++++

Học Giải: (trích hoavouu.com)

Muốn được giác ngộ giải thoát chúng ta cần phải cất hết mọi sở niệm của thức. Khi sở niệm đã Không thì năng niệm cũng Không. Năng Sở đều không nên nói “Tâm cảnh câu quyên, mạc ký mạc ức”(tâm cảnh đều quên, không nhớ không nghĩ). Đến chỗ này gọi là Đầu Sào Trăm Thước hay tới Thoại Đầu. Lúc này chỉ cần một sự việc hay hành động nhỏ như thấy chiếc lá rơi, hoa nở, nghe tiếng chuông ngân v.v… cũng có thể làm cho chúng ta vỡ khối nghi mà Tánh Giác được bùng lên. Lúc đó thì sáu căn được an nhiên (lục căn dĩ nhiên), tức như HT Minh Điền có dạy, mắt thấy y như nó thấy cảnh vật mà chẳng ở nơi vọng thấy nên mắt là Không hay vắng lặng, và rồi sự thấy của mắt cũng vắng lặng, và cái Tánh Thấy cũng vắng lặng nên còn gọi là Tánh Không. Vì vậy Kinh Bát Nhã Quyển Một, Phẩm Ba, Tu Tập Tương Ưng chép, “Xá-lợi-phất! Bồ-tát lớn tu tập tương ưng mắt là Không, đây gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật; tu tập tương ưng tai, mũi, lưỡi, thân và tâm đều Không, đây gọi là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật.”Suy ra mà biết những căn khác cũng đều như vậy. Sáu căn không còn dong ruỗi theo sáu trần để phát sinh sáu thức hư vọng mà mình lầm nhận cho chúng là mình. Sáu căn đã thanh tịnh, thì sáu trần cũng thanh tịnh, nên sáu thức cũng thanh tịnh, và chuyển thành sáu Trí. Tiền ngũ thức chuyển thành Thành Sở Tác Trí(Trí giúp chúng ta hoàn thành tất cả mọi việc mà chẳng tác ý), ý thức chuyển thành Diệu Quan Sát Trí(Trí thấy rõ và phân biệt rõ các pháp đúng như chúng đang là mà không có ý thức phân biệt bám chấp). Còn Mạt Na Thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí(Trí không có ta người, bỉ thử, lấy bỏ, thương ghét, Trí hoàn toàn Bình Đẳng không còn ngã chấp và pháp chấp), và A Lại Da Thức chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí(Trí Thanh Tịnh hoàn toàn không bị ô nhiễm, cũng gọi là Tánh Thanh Tịnh, được ví như cái tấm gương lớn soi tất cả các vật mà chẳng lưu lại bóng hình). Toàn thể là một Tánh Giác chiếu soi cùng khắp chẳng ngăn ngại. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng có dạy về Bốn Trí như sau:


Hán-Việt:

“Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh
Bình đẳng tánh trí tâm vô bệnh
Diệu quan sát trí kiến phi công
Thành sở tác trí đồng viên cảnh
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển
Đản dụng danh ngôn vô thật tánh
Nhược kim chuyển xứ bất lưu tình
Phiền hưng vĩnh xứ Na Già định”

Việt Dịch, Nguyễn Thế Đăng:

“Đại viên cảnh trí: tánh thanh tịnh
Bình đẳng tánh trí: tâm không bệnh
Diệu quan sát trí: thấy chẳng công
Thành sở tác trí: đồng viên cảnh
Năm, tám, sáu, bảy quả nhân chuyển
Chỉ dùng danh ngôn không thật tánh
Nếu nơi chỗ chuyển chẳng lưu tình
Rộn ràng vẫn mãi Na-già định.”


Đại Viên Cảnh Trí nghĩa là Trí như tấm gương tròn lớn. Đây cũng gọi là Tánh Thanh Tịnh hay Tánh Phật nơi mỗi con người chúng ta đều sẵn có. Ở nơi chúng sanh khi mê thì gọi là A Lại Da Thức, còn ở các bậc giác ngộ thì chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí.

Bình Đẳng Tánh Trí nghĩa là Trí rõ thấy Tánh Bình Đẳng của muôn loài muôn vật, tức là Trí chẳng thấy có nhân ngã, bỉ thử, thương ghét, lấy bỏ, cao thấp, dơ sạch, sâu cạn v.v… Tất cả các pháp đều là bóng ảnh được tấm gương chiếu soi một cách bình đẳng y như nhau. Do vậy đây cũng là sự nhấn mạnh tính chất bình đẳng của tấm gương Đại Viên Cảnh Trí.

Diệu Quan Sát Trí nghĩa là Trí soi thấy tất cả vạn pháp đúng như chúng đang là mà chẳng có ý thức phân biệt bám chấp ở trong đó hoặc không có lập tình thức trước vật. Cho nên gọi là “Trí chẳng thấy có không”(trí bất đắc hữu vô -kinh Lăng già) hay Kinh Lăng Nghiêm gọi là “Tri kiến phi kiến tư tức Niết Bàn.” Đây thật ra cũng là nói lên cái tính chất chiếu soi rõ ràng chân thật của tấm gương Đại Viên Cảnh Trí, tức gương sáng soi tất cả các vật mà gương vẫn như như bất động. Người mê thì dùng ý thức để phân biệt vạn pháp, người Trí thì dứt cái nghiệp phân biệt của ý thức nên chuyển thành Diệu Quan Sát Trí.

Thành Sở Tác Trí nghĩa là Trí giúp chúng ta hoàn thành tất cả mọi việc mà chẳng tác ý. Lúc còn mê thì tiền ngũ thức ở nơi năm giác quan như Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, và Thân mà tiếp xúc cảnh trần. Khi giác ngộ thì tiền ngũ thức này chuyển thành Thành Sở Tác Trí. Đây là diệu dụng của Tự Tánh hay Đại Viên Cảnh Trí. Nói cách khác, Đại Viên Cảnh Trí hoạt động ở nơi các giác quan một cách tự tại vô ngại gọi là Thành Sở Tác Trí. Ở mắt thì thấy đúng như thật mà vẫn như nhiên, chẳng chấp dính sở thấy hay sắc trần, ở tai thì nghe đúng như thật mà vẫn như nhiên, chẳng chấp dính sở nghe hay thanh trần, ở mũi thì ngửi đúng như thật mà vẫn như nhiên, chẳng chấp dính sở ngửi hay hương trần, ở lưỡi thì nếm đúng như thật mà vẫn như nhiên, chẳng chấp dính sở nếm hay vị trần, và ở thân thì xúc biết đúng như thật mà vẫn như nhiên, chẳng chấp dính sở xúc hay xúc trần. Do vậy, sáu căn thanh tịnh (lục căn dĩ nhiên),sáu trần cũng thanh tịnh, sáu thức cũng thanh tịnh nên chuyển thành Thành Sở Tác Trí.

Tất cả tám thức tâm vương vốn là đồng một Thể Tánh Thanh Tịnh. Vì mê mà chia thành tám thức ô nhiễm, nên mới có các tên gọi giả lập chứ các thức ấy chẳng có thật tánh. Khi ngộ thì thật tánh của các thức ấy là Trí, vốn là một tấm gương tròn sáng hằng chiếu soi vạn pháp mà chẳng lưu lại hay vướng một thứ gì (chẳng lưu tình) nên vẫn thường thanh tịnh và bất động. Do vậy, Như Thiền Sư Hương Hải của Việt Nam có bài kệ như sau:


Hán-Việt:

“Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm”

Việt Dịch:

“Nhạn bay qua trời không
Bóng chìm trong nước lạnh
Nhạn không ý lưu hình
Nước không lòng lưu ảnh”


Do Trí Tuệ Bát Nhã hằng soi rõ nên mọi việc làm của mình như đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hay biết, đều đúng như thật các pháp đang là, không qua lăng kính của vọng thức mà vẫn thấy biết rõ ràng và vẫn an nhiên bất động (hành trú tịch mặc)trước mọi thấy nghe hay biết vì không có chấp dính bởi tình thức. Một tâm nếu không sanh thì muôn pháp đều dứt, nghĩa là nếu mình dùng tuệ quán chiếu soi vào trong lòng thực tại để dẹp hết mọi đối tượng của thức hay sở quán không thì năng quán cũng không. Năng sở đều mất thì Tánh Giác hiển lộ chiếu soi vạn pháp một cách rõ ràng tự nhiên không chướng ngại. Đây có nghĩa là thấy đúng như thật các pháp đang là mà không phải do ý thức phân biệt xen vào. Vì vậy, muôn pháp đều dứt hết sự phân biệt của ý, nên vạn pháp đều Như. Đó chính là Thật Tướng xưa nay của vạn pháp vậy. Kính mong tất cả người tu chúng ta, tất cả mọi hành giả, ai nấy cũng quý tiếc thời gian có được của mình để tinh tấn tu hành, cùng trở về với Bản Tánh Thanh Tịnh sẵn có nơi mình, đồng Ngộ Nhập Tri Kiến Phật, đồng thấy rõ Thật Tướng xưa nay của vạn pháp, và đồng được giải thoát an vui nơi Niết Bàn Vô Trụ. Sau cùng, chúng tôi xin để lại một câu hỏi cuối cùng của Tổ Quy Sơn trước khi ngài Viên Tịch để kết thúc bài Học Giải này. Ngưỡng mong tất cả mọi người ai cũng được “Nhất tâm bất sanh, vạn pháp câu tức.”

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách - Page 2 Trzeu114

“Sau khi Lão tăng trăm tuổi đến dưới núi làm con trâu, hông bên trái viết năm chữ ‘Qui Sơn Tăng Linh Hựu’. Khi ấy gọi là Qui Sơn Tăng hay gọi là con trâu? Gọi là con trâu hay gọi là Qui Sơn Tăng? Gọi thế nào mới đúng?”

+++++++++++++++++

Kính các Bạn bài sưu tầm và viết lại đến đây xin kết thúc.

Chúc các Bạn có đôi phút ôn lại lời Tổ Quy Sơn mà làm hành trang trên đường tu học.
 
Sửa lần cuối:

trừng hải

Well-Known Member
Thành viên BQT
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,330
Điểm tương tác
958
Điểm
113
Kính Thầy Viên Quang

Kính đa tạ Thầy đã công phu soạn thảo những kiến giải về lời dạy của Ts Linh hựu trong Quy Sơn Cảnh Sách.
Và để tỏ lòng đáp tạ trừng hải xin có thêm vài lời thô tháo về đoạn kết của bài minh như sau:

Tâm cảnh câu quyên
Mạc kỳ mạc ức
Lục căn di nhiên
Hành trú tịch mặc
Nhất tâm bất sanh
Vạn pháp câu tức.

Tâm cảnh câu quyên:
Quyên nghĩa là bỏ, xã; trừ bỏ trừ khử...Vì vậy nếu chuyển dịch là "quên' thì e rằng sẽ mang âm hưởng đạo giáo như chữ VONG vì còn ở trong đối đãi bởi, nhớ đối quên. Vì vậy chữ "quyên" này nên chuyển ngữ theo nghĩa Xã trong Tứ Vô Lượng Tâm sẽ tương ưng với câu "Mạc kỳ mạc ức", không nhớ cũng không quên nghĩa là vượt thoát nhớ quên.
Hơn nữa dùng chữ Xã sẽ tương ưng với hai câu minh kế tiếp:
Lục căn di nhiên
Hành trú tịch mặc
Bởi nghĩa Xã trong Hành xã bao gồm ba địa, Bình đẳng, Bất động và An trú vô dụng công. Do bình đẳng nên bất động, do bất động nên an nhiên, do an nhiên nên vô dụng công tức tịch mặc.


kính, trừng hải
 
Sửa bởi Amin:

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,087
Điểm tương tác
1,027
Điểm
113
Kính Thầy Viên Quang

Kính đa tạ Thầy đã công phu soạn thảo những kiến giải về lời dạy của Ts Linh hựu trong Quy Sơn Cảnh Sách.
Và để tỏ lòng đáp tạ trừng hải xin có thêm vài lời thô tháo về đoạn kết của bài minh như sau:

Tâm cảnh câu quyên
Mạc kỳ mạc ức
Lục căn di nhiên
Hành trú tịch mặc
Nhất tâm bất sanh
Vạn pháp câu tức.

Tâm cảnh câu quyên:
Quyên nghĩa là bỏ, xã; trừ bỏ trừ khử...Vì vậy nếu chuyển dịch là "quên' thì e rằng sẽ mang âm hưởng đạo giáo như chữ VONG vì còn ở trong đối đãi bởi, nhớ đối quên. Vì vậy chữ "quyên" này nên chuyển ngữ theo nghĩa Xã trong Tứ Vô Lượng Tâm sẽ tương ưng với câu "Mạc kỳ mạc ức", không nhớ cũng không quên nghĩa là vượt thoát nhớ quên.
Hơn nữa dùng chữ Xã sẽ tương ưng với hai câu minh kế tiếp:
Lục căn di nhiên
Hành trú tịch mặc
Bởi nghĩa Xã trong Hành xã bao gồm ba địa, Bình đẳng, Bất động và An trú vô dụng công. Do bình đẳng nên bất động, do bất động nên an nhiên, do an nhiên nên vô dụng công tức tịch mặc.


kính, trừng hải

x̌xxxxxxxxx

kính tạ ơn Bác Trừng Hải. Và xin cúng dường bậc chánh trí
Screenshot (202).png
 
Sửa lần cuối:

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3/11/21
Bài viết
1,521
Điểm tương tác
217
Điểm
63
Nơi ở
Nam Định .Việt Nam
Kính Thầy Viên Quang

Kính đa tạ Thầy đã công phu soạn thảo những kiến giải về lời dạy của Ts Linh hựu trong Quy Sơn Cảnh Sách.
Và để tỏ lòng đáp tạ trừng hải xin có thêm vài lời thô tháo về đoạn kết của bài minh như sau:

Tâm cảnh câu quyên
Mạc kỳ mạc ức
Lục căn di nhiên
Hành trú tịch mặc
Nhất tâm bất sanh
Vạn pháp câu tức.

Tâm cảnh câu quyên:
Quyên nghĩa là bỏ, xã; trừ bỏ trừ khử...Vì vậy nếu chuyển dịch là "quên' thì e rằng sẽ mang âm hưởng đạo giáo như chữ VONG vì còn ở trong đối đãi bởi, nhớ đối quên. Vì vậy chữ "quyên" này nên chuyển ngữ theo nghĩa Xã trong Tứ Vô Lượng Tâm sẽ tương ưng với câu "Mạc kỳ mạc ức", không nhớ cũng không quên nghĩa là vượt thoát nhớ quên.
Hơn nữa dùng chữ Xã sẽ tương ưng với hai câu minh kế tiếp:
Lục căn di nhiên
Hành trú tịch mặc
Bởi nghĩa Xã trong Hành xã bao gồm ba địa, Bình đẳng, Bất động và An trú vô dụng công. Do bình đẳng nên bất động, do bất động nên an nhiên, do an nhiên nên vô dụng công tức tịch mặc.


kính, trừng hải

x̌xxxxxxxxx

kính tạ ơn Bác Trừng Hải. Và xin cúng dường bậc chánh trí
Xem đính kèm 9004
Kính Thầy Viên Quang 2 Và Bác Trừng Hải . Thì Có Nghĩa Thì Cảnh Giới Ayys
Về : VÔ CÔNG DỤNG HẠNH (Trong PHÁP PHẬT ), Theo Thiển Nhận Của An Long Thì Cảnh Giới Đó Là : Khi TẬP TRUNG Mọi GIÁC QUAN = TRỰC GIÁC , TRỰC NHẬP ==> THÌ TRỰC GIÁC,TRỰC NHẬN ĐƯỢC CÁC CẢM GIÁC , CẢM XÚC ( Thọ Giả ) Của Các PHÁP TƯƠNG DUYÊN ,TƯƠNG TÁC , TƯƠNG THỜI...=>Nhưng =CHỈ THẦM KIẾN NHẬN =>... NHƯ ĐANG LÀ...NHƯ THỊ ...NHƯ NHƯ...=VÀ RỜI LÌA CÁC VỌNG TƯỞNG HIỆN HÀNH ( NGÃ TƯỚNG - NHÂN TƯỚNG - CHÚNG SANH TƯỚNG )=> KHÔNG KHỞI NIỆM THAM GIA TÁC ĐỘNG TẠO TÁC ...Hay CƯỠNG CHẾ PHỦ NHẬN THEO CHỦ QUAN NHẬN THỨC ) = KHÔNG LÀM GÌ THÊM ! =Đó Là VÔ CÔNG DỤNG HẠNH .
- VÔ CÔNG DỤNG HẠNH = KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ VÔ TRI , VÔ KÝ KHÔNG ...KHÔNG PHẢI LÀ : ÍCH KỶ VÔ TRÁCH NHIỆM ,VÔ ... = Mà CHỈ TRONG TRẠNG THÁI =VÔ CÔNG DỤNG HẠNH ==> MỚI CHÂN THẬT TRỰC NHẬP TOÀN ĐỒ TỰ TÁNH CHÂN TÁNH PHÁP GIỚI TÁNH =PHÁT HUY TỰ TÁNH CHÂN TÁNH = TỰ TẠO CỘNG HƯỞNG LỰC , KHUYẾCH TÁN NĂNG LƯỢNG TƯƠNG ƯNG CHÂN TÁNH KHẮP GIÁP PHÁP GIỚI TÁNH ==> TÁC ĐỘNG LỰC CÂN BẰNG GIÚP BẢO TOÀN CHÂN TÁNH PHÁP GIỚI TÁNH : BẤT SANH , BẤT DIỆT ,BẤT CẤU , BẤT TỊNH ,BẤT TĂNG , BẤT GIẢM...= ĐẠI TỪ -ĐẠI BI -ĐẠI TRÍ-ĐẠI DŨNG...==>Đến MUÔN LOÀI TRONG PHÁP GIỚI ( VÔ DƯ NIẾT BÀN )
*-ĐÓ MỚI LÀ : ĐẠI TÁC ĐẦY ĐỦ THEO TỰ TÍNH .


-
 

trừng hải

Well-Known Member
Thành viên BQT
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,330
Điểm tương tác
958
Điểm
113
Đạo hữu An long mến,

Vô công dụng hạnh là Hành xã thuộc địa thiện pháp được cả hai thừa Nam, Bắc tông gọi là "Vô dụng công mà Nhậm vận chuyển" cũng chính là Pháp tánh.
Việc xác quyết nhân duyên tăng thượng/Pháp tánh này được ghi lại trong Tăng chi bộ Kinh/A.v.2:


Này các Tỷ kheo, với người có giới, có giới đầy đủ, không cần làm với dụng ý (Cetanaaya) rằng "Mong rằng không hối tiếc sẽ sanh khởi nơi ta." Pháp nhĩ (Pháp tánh/Dhammataa) là vậy, này Tỷ kheo với người có giới, có giới đầy đủ, không hối tiếc sanh khởi. Này các Tỷ kheo với người không hối tiếc không cần phải làm với dụng ý rằng "Mong rằng hân hoan sẽ sanh khởi nơi ta". Pháp nhĩ/Dhammataa là vậy, với người không hối tiếc hân hoan sanh khởi. Này các Tỷ kheo, với người có hân hoan, hoan hỉ sanh khởi. Này các Tỷ kheo với người hoan hỉ, không cần phải làm với dụng ý rằng "Mong rằng thân ta được khinh an". Pháp nhĩ/Dhammataa là vậy, này các Tỷ kheo, người có ý hoan hỉ thân được khinh an. Này các Tỷ kheo với người có thân khinh an không cần phải làm với dụng ý rằng "Mong rằng ta cảm thọ an lạc" Pháp nhĩ/Dhammataa là vậy, với ngừơi có thân khinh an, an lạc được cảm thọ. Này các Tỷ kheo với người có an lạc không cần phải làm với dụng ý rằng "Mong rằng tâm ta được thiền định" Pháp nhĩ/Dhammataa là vậy , này các Tỷ kheo người có an lạc tâm được thiền định. Này các Tỷ kheo người có thiền định không cần phải làm với dụng ý rằng "Mong rằng ta thấy ta biết như thật" Pháp nhĩ/Dhammataa là vậy, này các Tỷ kheo người có tâm thiền định thấy biết như thật, nhàm chán và ly tham. Này các Tỷ kheo, người nhàm chan, ly tham không cần làm với dụng ý "Mong rằng ta sẽ chứng ngộ giải thoát tri kiến". Pháp nhĩ/Dhammataa là vậy, người nhàm chán ly tham, chứng ngộ giải thoát tri kiến.
Như vậy này các Tỷ kheo, các pháp khiến cho các pháp (khác) tăng thịnh; Các pháp khiến các pháp khác viên mãn, đưa từ bờ này qua bờ bên kia.


Mong rằng đoạn kinh nói về Vô dụng công mà Nhậm vận chuyển/Pháp tánh với các nhân duyên tăng thượng sẽ giúp ích cho đạo hữu trên con đường tu tập.

Mến

Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Users search this thread by keywords

  1. https://diendanphatphap.com/diendan/threads/gioi-thieu-luan-quy-son-canh-sach.38833/page-2
Top