(Hai) Hiển Tịnh Độ Chân Thật Hành Văn Loại
Ngu ngốc Thích Thân Loan biên tập.
(1)
Kính xét, vãng tướng hồi hướng có đại hành, có đại tín.
Đại hành, là xưng danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai. Hành này chính là nhiếp các thiện pháp, đủ cội công đức, mau chóng viên mãn. Chân như nhất thật[1], công đức bảo hải[2], nên gọi là đại hành. Nhưng hành ấy xuất sinh từ đại bi nguyện, chính là nguyện mà “chư Phật xưng dương”[3], là nguyện mà “chư Phật xưng danh”, là nguyện mà “chư Phật tư ta” [4], cũng gọi là nguyện của “vãng tướng hồi hướng”, cũng gọi là nguyện của “tuyển trạch xưng danh”[5].
(2)
Về “chư Phật xưng danh nguyện”, Đại kinh nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.” (Nguyện 17)
(3)
Lại nói:
“Tôi đến lúc thành Phật
Danh tiếng siêu mười phương
Trọn có người chẳng nghe
Thề chẳng thành Chánh giác.
Vì chúng khai pháp tạng,
Rộng ban báu công đức,
Thường ở trong đại chúng,
Thuyết pháp sư tử rống.”
(4)
Về “nguyện thành tựu văn”[6], Đại kinh ghi: “Hằng sa chư Phật Như Lai mười phương đồng khen ngợi oai thần công đức bất khả tư nghị của Đức Vô Lượng Thọ Phật.”
(5)
Lại nói: “Đức Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực. Vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai ở các thế giới mười phương, không đức Phật nào chẳng khen ngợi Vô Lượng Thọ Phật.”
(6)
Lại nói:
“Phật ấy có bổn nguyện
Nghe danh muốn vãng sinh
Đều được sinh nước ấy
Ở bực bất thối chuyển.”
(7)
Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói:
“Tôi đối Như Lai phát hoằng nguyện
Khi tôi chứng Vô thượng bồ-đề
Nếu không đầy đủ các nguyện trên
Không lấy mười lực Đấng ai bằng
Tâm không chịu thường hành bố thí
Rộng cứu bần cùng lìa các khổ
Lợi ích thế gian khiến an lạc
[Không thành Pháp vương vị cứu đời] …
Tối thắng trượng phu tu hành rồi
Làm phục tàng cho kẻ bần cùng[7]
Viên mãn thiện pháp không gì hơn
Ở trong đại chúng sư tử rống.”[8]
(8)
Lại nói: “Này A Nan! Do nghĩa lợi này, vô lượng vô số, bất khả tư nghị, không ai đồng đẳng, chư Phật Như Lai ở vô biên thế giới đều cùng khen ngợi những công đức của Vô Lượng Thọ Phật.”[9]
(9)
Kinh Phật Thuyết Chư Phật A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo[10] nói: “Nguyện thứ tư: Giả sử khi tôi thành Phật, danh hiệu tôi vang khắp tám phương trên dưới vô số cõi Phật, khiến các thầy tỳ-kheo trong đại chúng của mỗi Đức Phật đều nói về công đức và sự tốt đẹp của nước tôi. Chư thiên, nhân dân và loài bò bay máy cựa nghe danh hiệu tôi đều khởi tâm từ, ai hoan hỷ phấn khởi đều khiến sinh về nước tôi. Được nguyện này tôi mới thành Phật, không được nguyện này tôi trọn không thành Phật.”
(10)
Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác ghi:
“[Nguyện thứ mười bảy:] Khi tôi thành Phật, danh hiệu tôi vang khắp tám phương trên dưới vô số cõi Phật. Chúng đệ tử của mỗi Đức Phật đều ca ngợi công đức và sự tốt đẹp của nước tôi. Chư thiên, nhân dân và loài máy động nghe danh hiệu tôi thảy đều phấn khởi sinh về nước tôi. Không được như vậy thì tôi không thành Phật.”[11]
“[Nguyện thứ mười chín:] Khi tôi thành Phật, nhân dân ở cõi Phật phương khác mà đời trước có làm ác, nhưng nghe được danh hiệu tôi và chân chánh làm đạo, muốn sinh về nước tôi, khi thọ mạng hết sẽ không sinh trở lại ba đường ác, mà sinh về nước tôi theo sở nguyện nơi tâm. Không được như vậy thì tôi không thành Phật.”[12]
“Thái tử A-xà-thế và năm trăm vị trưởng giả nghe hai mươi bốn lời nguyện của Vô Lượng Thanh Tịnh Phật đều rất hoan hỷ phấn khởi, thầm nguyện trong tâm: Nguyện cho chúng con sau khi thành Phật đều được như Phật Vô Lượng Thanh Tịnh Phật.
Đức Phật biết ý nguyện của họ, bảo các thầy tỳ-kheo: Thái tử A-xà-thế và năm trăm vị trưởng giả này đến vô số kiếp sau sẽ được làm Phật, như Vô Lượng Thanh Tịnh Phật.
Đức Phật dạy: Thái tử A-xà-thế và năm trăm vị trưởng giả này tu Bồ-tát đạo đến nay trải qua vô số kiếp, mỗi người đều đã cúng dường bốn trăm ức Đức Phật, nay lại đến cúng dường Ta. Thái tử A-xà-thế và năm trăm vị này, vào thời Ca Diếp Phật, họ là đệ tử của Ta, nay đều trở lại để gặp nhau.
Các thầy Tỳ-kheo nghe Đức Phật dạy, ai cũng hoan hỷ phấn chấn.”[13]
“Những ai nghe danh hiệu Phật
Mau được lợi lớn, yên ổn
Chúng ta được công đức này
Những tốt đẹp ở cõi kia.” …
“Đức Vô Lượng Giác giải thích:
Ta đời trước có bản nguyện
Mọi người đã nghe thuyết pháp
Đều mau sinh về nước Ta
Sở nguyện Ta đều đầy đủ
Người nước khác muốn sinh về
Thảy được sinh về cõi này
Một đời được bất thối chuyển.” …
“Họ có thể mau vượt đến
Thế giới tên An Lạc quốc
Cõi nước vô lượng ánh sáng
Cúng dường nơi vô số Phật.” …
“Người chưa có công đức ấy
Không được nghe tên kinh này
Chỉ người có giới thanh tịnh
Mới đến nghe chánh pháp này.” …
“Ác kiêu mạn, xấu giải đãi
Khó thể tin vào pháp này
Ai đời trước từng thấy Phật
Ưa nghe lời dạy Thế Tôn.” …
“Thân người hiếm có khó được
Phật tại thế càng khó gặp
Có tín tuệ vẫn chưa đủ
Phải nghe thấy, tinh tiến cầu.
Nghe pháp ấy mà không quên
Tôn kính pháp được vui lớn
Là bạn thân Ta xưa kia
Vì vậy mà phát đạo ý[14].
Dẫu thế giới đầy lửa cháy
Quyết vượt qua để nghe pháp
Nhất định sẽ thành Thế Tôn
Thoát tất cả sinh già chết.”[15]
(11)
Kinh Bi Hoa, phẩm Bồ-tát Bản Thọ Ký[16] nói:
“Nguyện khi con thành ngôi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, ở vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới Phật khác, có chúng sinh nào nghe danh hiệu của con mà tu các căn bản thiện[17], muốn sinh về thế giới của con, nguyện cho họ sau khi xả bỏ thân mạng, nhất định được sinh về, chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch, hủy báng Thánh nhân, phế bỏ và phá hoại chánh pháp.”
(12)
Như vậy, xưng danh có thể phá trừ tất cả vô minh của chúng sinh, có thể thành mãn mọi chí nguyện của chúng sinh.[18] Xưng danh là chánh nghiệp chân diệu tối thắng[19]. Chánh nghiệp là niệm Phật. Niệm Phật thì là “Nam mô A Di Đà Phật”. “Nam mô A Di Đà Phật” chính là chánh niệm vậy.
(13)
Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa nói:
“Có người nói: Bát-chu tam-muội và đại bi là nhà của chư Phật. Từ hai pháp này sinh ra chư Như Lai, trong đó, bát-chu tam-muội là cha, đại bi là mẹ. Lại nữa, bát-chu tam-muội là cha, vô sinh pháp nhẫn là mẹ. Như trong Trợ Bồ-đề có nói:
Cha bát-chu tam-muội
Mẹ đại bi vô sinh
Tất cả chư Như Lai
Từ hai pháp này sinh.
Nhà không có lỗi lầm là nhà thanh tịnh. Thanh tịnh nghĩa là sáu Ba-la-mật, bốn công đức xứ[20]; phương tiện và Bát-nhã Ba-la-mật; thiện pháp và trí tuệ; bát-chu tam-muội, đại bi và các nhẫn, đều là các pháp thanh tịnh, không có lỗi lầm, nên gọi là nhà thanh tịnh. Bồ-tát lấy các pháp này làm nhà cho nên không có lỗi lầm.
Chuyển thế gian đạo nhập xuất thế thượng đạo: Thế gian đạo, là đạo mà hàng phàm phu thực hành. Chuyển, là dừng lại. Phàm phu đạo thì không thể cứu cánh đến Niết-bàn. Thường qua lại trong sinh tử, đó là phàm phu đạo. Xuất thế gian, là do đạo ấy mà được thoát ly ba cõi, nên gọi là xuất thế gian đạo. Thượng, là diệu, nên gọi là thượng. Nhập, là chánh hành đạo, nên gọi là nhập. Dùng tâm này đi vào sơ địa, gọi là Hoan hỷ địa.
Hỏi: Sao gọi địa thứ nhất là địa Hoan hỷ?
Đáp: Như được nơi Sơ quả
Cứu cánh đến Niết-bàn
Bồ tát được địa này
Tâm thường nhiều hoan hỷ
Tự nhiên được tăng trưởng
Chư Phật Như Lai chủng
Thế nên người như đây
Được gọi bậc Hiền thiện.
Như được nơi Sơ quả: là như người được Tu-đà-hoàn đạo, khéo đóng cửa “ba ác đạo”, thấy pháp, nhập pháp, đắc pháp, trú pháp kiên cố, không gì khuynh động, cứu cánh đến Niết-bàn. Đoạn pháp sở đoạn bởi kiến đế, nên tâm rất hoan hỷ. Giả sử còn thụy miên, giãi đãi cũng không đi đến hai mươi chín hữu[21]. Như lấy một sợi lông chia làm trăm phần, rồi lấy một phần lông đã chia nhúng vào nước biển cả, chỉ được vài giọt nước. Khổ đã diệt thì như nước biển cả, khổ chưa diệt thì như vài giọt nước. Tâm rất hoan hỷ, Bồ tát như vậy đắc Sơ địa rồi, gọi là sinh vào nhà Như Lai, được tất cả trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Phạm vương, Thiên vương, Sa-môn, Bà-la-môn và hết thảy Thanh văn, Bích-chi Phật cùng nhau cúng dường cung kính. Vì sao? Vì nhà này không có lỗi lầm. Chuyển thế gian đạo nhập xuất thế gian đạo, chỉ ưa cung kính chư Phật, được bốn công đức xứ, được cảm thọ quả báo của sáu Ba-la-mật. Không đoạn chủng tử của chư Phật cho nên tâm rất hoan hỷ. Bồ tát này có cái khổ sót lại bằng hai ba giọt nước, tuy trải qua trăm ngàn ức kiếp đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng đối với cái khổ sinh tử từ vô thỉ, chỉ như vài giọt nước, những cái khổ đã diệt trừ thì giống như nước biển cả. Thế nên, địa này gọi là Hoan Hỷ.”[22] (…)
“Hỏi: Bồ-tát Sơ Hoan Hỷ địa, ở trong địa này gọi là nhiều hoan hỷ, là vì có được các công đức nên hoan hỷ, hay là vì thích ứng địa pháp mà hoan hỷ? Lấy gì mà hoan hỷ?
Đáp: Thường niệm về chư Phật
Về đại pháp chư Phật
Tất định, hành hiếm có
Cho nên nhiều hoan hỷ.
Đại loại những nhân duyên hoan hỷ như vậy, Bồ-tát ở Sơ địa có nhiều hoan hỷ trong tâm.[23]
Niệm chư Phật: Là niệm chư Phật quá khứ như Nhiên Đăng Phật, v.v., chư Phật hiện tại như A Di Đà Phật, v.v., chư Phật tương lai như Di Lặc Phật. v.v. Thường niệm chư Phật Thế Tôn như vậy, như ở trước mắt. Phật là bậc Vô Năng Thắng, bậc đệ nhất trong tam giới, thế nên [niệm Phật thì] “nhiều hoan hỷ”.
Niệm đại pháp của chư Phật: Đại pháp là nói tắt cho bốn mươi pháp bất cộng của chư Phật, đó là: 1. Tự tại phi hành tùy ý; 2. Tự tại biến hóa vô biên; 3. Tự tại nghe biết vô ngại; 4. Tự tại dùng vô lượng chủng môn biết tâm của tất cả chúng sinh, v.v.[24] [Những pháp như vậy sau sẽ nói rộng.]
Niệm Tất định của Bồ-tát: Bồ-tát được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì nhập Pháp vị, được Vô sinh pháp nhẫn, ngàn vạn ức số ma quân không thể quấy rối, phá hoại, được tâm đại bi, thành pháp đại nhân[25], không tiếc thân mạng vì được Bồ đề, cần hành tinh tiến. Đây gọi là niệm Tất định của Bồ tát.
Niệm hành hiếm có: Niệm hành hiếm có bậc nhất của Bồ-tát được Tất định mà tâm hoan hỷ. Đó là địa vị mà tất cả phàm phu không thể đạt được, là địa vị mà tất cả Thanh văn và Bích-chi Phật không thể thực hành, nó khai thị “pháp của Phật là vô ngại giải thoát bằng Tát-bà-nhã trí[26]”. Lại niệm về các pháp sở hành của mười địa, gọi là “tâm nhiều hoan hỷ”. Thế nên, Bồ-tát được nhập Sơ địa gọi là Hoan Hỷ.
Hỏi: Có người phàm phu chưa phát tâm Vô thượng đạo, hoặc người có phát tâm mà chưa được Hoan Hỷ địa, người này niệm chư Phật và đại pháp của Chư Phật, niệm Tất định của Bồ tát và hành hiếm có, mà được hoan hỷ. Bồ tát Sơ địa được hoan hỷ cùng với người này [được hoan hỷ] có gì khác biệt?
Đáp: Bồ tát được Sơ địa
Trong tâm nhiều hoan hỷ
Chư Phật vô lượng đức
Tôi nhất định sẽ được.
Bồ-tát Tất định ở Sơ địa niệm chư Phật có vô lượng công đức, “Tôi ắt sẽ được sự như vậy.” Vì sao? “Tôi đã được Sơ địa này, nhập vào Tất định, người khác không có tâm này”, vì vậy Bồ-tát ở Sơ địa tâm nhiều hoan hỷ, người khác không được vậy. Vì sao? Người khác dù niệm chư Phật, nhưng không thể khởi niệm này: “Tôi nhất định sẽ làm Phật.” Thí như Thánh tử Chuyển Luân sinh trong nhà của Chuyển Luân Vương, thành tựu tướng Chuyển Luân Vương, nghĩ đến công đức của Chuyển Luân Vương ở quá khứ, tôn kính khởi niệm: “Nay tôi cũng có tướng này, cũng sẽ được giàu có tôn quý như vậy”, trong tâm rất hoan hỷ. Người không có tướng Chuyển Luân Vương thì không có niềm vui như vậy. Bồ-tát Tất định niệm chư Phật và công đức lớn lao, oai nghi, tôn quý của chư Phật, [khởi niệm:] “Tôi có tướng này, ắt sẽ làm Phật”, ngay lúc ấy vô cùng hoan hỷ, người khác không có sự này. Định tâm, là thâm nhập pháp của Phật mà tâm không lay động.”[27] (…)
(14)
“Tín lực tăng thượng: Tín, là những gì thấy nghe thì nhất định tiếp nhận không nghi ngờ. Tăng thượng, là thù thắng.
Hỏi: Có hai loại tăng thượng: 1. Nhiều; 2. Thắng. Nay nói về loại nào?
Đáp: Ở đây nói đến cả hai loại. Bồ tát nhập Sơ địa thì có được mùi vị của các công đức, cho nên tín lực chuyển tăng thượng. Dùng tín lực này tính toán công đức vô lượng thâm diệu của chư Phật mà có thể tin nhận, thì tâm này vừa nhiều vừa thắng.
Thực hành sâu xa tâm Đại bi: Thương xót nghĩ nhớ chúng sinh đến tận cùng xương tủy, nên gọi là sâu xa. Vì tất cả chúng sinh mà cầu Phật đạo, nên gọi là Đại. Tâm từ, là thường cầu sự lợi ích và an ổn chúng sinh. Tâm từ có ba loại[28].”[29] (…)
(15)
“Pháp của Phật có vô lượng môn. Như ở thế gian, đường đi có khó có dễ, đường bộ đi bộ vất vả, đường thủy ngồi thuyền an vui. Bồ-tát đạo cũng như vậy, có pháp cần hành tinh tiến, cũng có pháp lấy đức tin làm phương tiện, dễ dàng thực hành, nhanh chóng đến A-duy-việt-trí địa.”[30] (…)
“Có người mau muốn đến
Địa vị Bất thối chuyển
Phải đem tâm cung kính
Chấp trì xưng danh hiệu.” [31]
“Nếu Bồ-tát muốn ngay thân này đến được A-duy-việt-trí địa, thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì nên nghĩ nhớ chư Phật mười phương và xưng niệm danh hiệu. Như trong phẩm A-duy-việt-trí của kinh Bảo Nguyệt Đồng Tử Sở Vấn, nói: (…)[32]”
“Tây phương Thiện thế giới
Phật hiệu Vô Lượng Minh
Thân sáng trí tuệ ngời
Chiếu rọi không ngằn mé
Có người nghe Phật danh
Liền được bất thối chuyển. (…)
Quá khứ vô số kiếp
Có Phật hiệu Hải Đức
Chư hiện tại Phật này
Đều từ kia phát nguyện
Thọ mạng vô số lượng
Ánh sáng chiếu vô cực
Quốc độ rất thanh tịnh
Nghe danh chắc làm Phật
Nay hiện tại mười phương
Đầy đủ thành mười lực
Cho nên cúi đầu lễ
Tối tôn trong người trời.”[33]
“Hỏi: Chỉ nghe danh hiệu mười Đức Phật này rồi chấp trì trong tâm, thì được bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hay là còn có danh hiệu Đức Phật khác, danh hiệu Bồ-tát khác đưa đến A-duy-việt-trí chăng?
Đáp: A Di Đà chư Phật
Và các đại Bồ-tát
Xưng danh nhất tâm niệm
Cũng được bất thối chuyển.
Còn có chư Phật như A Di Đà Phật, v.v. cũng nên cung kính, lễ bái, xưng danh hiệu các Ngài.
Nay sẽ nói đầy đủ:
Vô Lượng Thọ Phật, Thế Tự Tại Vương Phật, (…)[34] Chư Phật Thế Tôn này, hiện tại an trú nơi các thế giới thanh tịnh khắp mười phương, đều xưng niệm danh hiệu và nhớ nghĩ đến bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà như vầy: “Nếu người nào xưng niệm danh hiệu của ta và nương tựa vào đó, liền nhập Tất định, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”[35] Vì vậy phải thường nghĩ nhớ, bằng kệ xưng tán:
Vô lượng quang minh tuệ
Thân như núi vàng ròng
Nay con thân miệng ý
Chắp tay cúi đầu lạy.[36] (…)
Người luôn niệm Phật này
Vô lượng lực oai đức
Tức thời nhập Tất định
Cho nên con thường niệm.[37] (…)
Nếu ai nguyện làm Phật
Tâm niệm A Di Đà
Hợp thời Ngài hiện thân
Cho nên con quy mạng.
Bản nguyện lực Phật kia
Các Bồ-tát mười phương
Đến cúng dường nghe pháp
Cho nên con cúi đầu.[38] (…)
Nếu người trồng thiện căn
Nghi thì hoa không nở
Người tín tâm thanh tịnh
Hoa nở thì thấy Phật.
Mười phương hiện tại Phật
Dùng đủ loại nhân duyên
Khen công đức Phật kia
Con nay quy mạng lễ.[39] (…)
Ngồi thuyền Bát chánh đạo
Vượt qua biển khó vượt
Tự độ cũng độ người
Con lễ lạy bậc Tự Tại[40].
Chư Phật vô lượng kiếp
Ca ngợi công đức Phật
Hãy còn không thể hết
Quy mạng bậc Thanh Tịnh.
Nay con cũng như vậy
Xưng tán vô lượng đức
Nhờ nhân duyên phước này
Nguyện Phật thường nhớ con. [41]” (…)
(16)
Tịnh Độ Luận[42] ghi:
“Con y Tu-đa-la
Tướng công đức chân thật
Thuyết nguyện kệ tổng trì
Tương ưng lời Phật dạy.[43] (…)
Quán Phật bản nguyện lực
Người gặp không luống uổng
Khiến mau được đầy đủ
Biển đại bảo công đức.”[44]
(17)
Lại nói: “Bồ-tát đi vào bốn chủng môn[45] để thành tựu hạnh tự lợi, nên biết. Bồ-tát ra khỏi môn thứ năm[46], để thành tựu hạnh hồi hướng, lợi ích tha nhân, nên biết. Bồ-tát tu năm môn hành như vậy, tự lợi, lợi tha, mau chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”[47]
(18)
Tịnh Độ Luận Chú[48] nói: “Thận trọng khảo xét, Thập Trụ Tỳ-bà-sa của Bồ-tát Long Thọ có nói: Bồ-tát cầu A-bì-bạt-trí thì có hai loại đạo: 1. Nan hành đạo; 2. Dị hành đạo.
Nan hành đạo: Ở trong thời kỳ đầy cả năm thứ vẩn đục, lúc không có Phật, cầu A-bì-bạt-trí là khó. Cái khó ở đây lại có nhiều mặt, nói sơ có năm ba mặt để biểu thị nghĩa ý: 1. Ngoại đạo tu tương tợ thiện làm nhiễu loạn pháp của Bồ-tát; 2. Hạnh tự lợi của Thanh văn làm chướng ngại đại từ bi; 3. Kẻ ác vô cớ phá hoại thắng đức của người khác; 4. Quả thiện điên đảo[49] có thể hủy hoại Phạm hạnh; 5. Chỉ nhờ tự lực chứ không nương vào tha lực. Những sự thể ấy được nhìn thấy khắp nơi. Thí như đường bộ, đi bộ thì khổ.
Dị hành đạo: Chỉ lấy nhân duyên tín Phật để nguyện sinh Tịnh độ. Nương nguyện lực của Phật thì được vãng sinh cõi thanh tịnh kia, rồi nhờ Phật lực nắm giữ an trú liền nhập chánh định tụ của Đại thừa. Chánh định tức là A-bì-bạt-trí. Thí như đường thủy, đi thuyền thì vui.
Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá này là tột đỉnh của Đại thừa, là con thuyền xuôi gió nên không thoái lui. Vô Lượng Thọ là biệt hiệu của Như Lai ở Tịnh độ An Lạc. Thích Ca Mâu Ni Phật tại thành Vương Xá và nước Xá Vệ[50], ở giữa đại chúng, ca ngợi công đức trang nghiêm của Vô Lượng Thọ Phật, tức lấy danh hiệu Phật làm thể của kinh. Bậc Thánh về sau là Bồ-tát Bà-tẩu-bàn-đầu, ghi nhớ trong lòng lời dạy đại bi của Như Lai, viết ra ‘Kệ nguyện sinh’ phụ vào kinh.”[51]
(19)
Lại nói: “Sở nguyện không được xem nhẹ, nếu Như Lai chẳng thêm oai thần, thì lấy gì để đạt? Cầu xin thần lực gia trì của Như Lai, cho nên ‘Kính thưa’.
Con nhất tâm: Là lời ‘tự đốc’[52] của Bồ-tát Thiên Thân. Nhất tâm là xưng niệm Vô Ngại Quang Như Lai, nguyện sinh An Lạc, tâm tâm tương tục, không có ý tưởng nào khác xen tạp.[53] (…)
Quy mạng hết mười phương, Vô ngại Quang Như Lai: Quy mạng, tức là Lễ bái môn. Tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai, tức là Tán thán môn. Làm sao biết ‘quy mạng’ là ‘lễ bái’? Bồ-tát Long Thọ tạo ‘A Di Đà Như Lai Tán’[54], trong đó hoặc nói ‘cúi đầu lạy’[55], hoặc nói ‘con quy mạng’[56], hoặc nói ‘quy mạng lễ’[57]. Trong phần trường hàng của luận này, cũng nói về sự tu Năm niệm môn. Trong Năm niệm môn, lễ bái là một. Bồ-tát Thiên Thân đã nguyện vãng sinh, lẽ nào không có ‘lễ bái’. Vì thế mà biết, ‘quy mạng’ tức là ‘lễ bái’. Song lễ bái chỉ là cung kính, chưa hẳn là quy mạng, còn quy mạng thì ắt là lễ bái. Nếu suy theo đó, thì quy mạng quan trọng hơn. Dùng kệ tụng để bày tỏ lòng mình, đương nhiên nói ‘quy mạng’. (Còn) Luận giải về nghĩa của kệ tụng, đại để nói là ‘lễ bái’. Quy mạng và lễ bái làm thành cho nhau, ý nghĩa càng trọn vẹn.
Làm sao biết ‘[Quy mạng] hết mười phương, Vô Ngại Quang Như Lai’ là Tán thán môn? Phần trường hàng ở sau có nói: ‘Thế nào là tán thán? Là khẩu nghiệp tán thán: xưng danh hiệu của Như Lai kia ngang qua ‘quang minh trí tướng’ của Như Lai kia, cùng ý nghĩa của danh hiệu ấy, muốn như thật tu hành tương ưng.’”[58] (…)
“Ở đây Bồ-tát Thiên Thân nói ‘[Quy mạng] hết mười phương, Vô Ngại Quang Như Lai’, tức là y theo danh hiệu của Như Lai kia, ngang qua ‘quang minh trí tướng’ của Như Lai kia mà tán thán, vì vậy mà biết câu này là Tán thán môn.
Nguyện sinh nước An Lạc, một câu này là Tác nguyện môn, là ý ‘quy mạng’ của Bồ-tát Thiên Thân vậy.” [Nghĩa của ‘An Lạc’ sẽ được nói đầy đủ ở phần Quán sát môn.]
Hỏi: Trong các kinh luận Đại Thừa, chỗ nào cũng nói chúng sinh hoàn toàn vô sinh như hư không, tại sao Bồ-tát Thiên Thân lại nói ‘nguyện sinh’?
Đáp: Nói ‘chúng sinh vô sinh như hư không’, có hai loại: 1. Phàm phu được xem là ‘chúng sinh thật có’, và cái thấy của phàm phu là ‘sinh tử thật có’. Hai sự thể này hoàn toàn là ‘vô sở hữu’, như lông rùa, như hư không[59]; 2. Nói rằng ‘các pháp do nhân duyên sinh’, cho nên chúng là ‘bất sinh’, ‘vô sở hữu’, như hư không. Bồ-tát Thiên Thân đã ‘nguyện sinh’, đó là nghĩa ‘nhân duyên’. Do nghĩa ‘nhân duyên’, nên chỉ là ‘giả danh’ mà sinh, chẳng phải như phàm phu cho rằng ‘chúng sinh thật có’, ‘sinh tử thật có’.
Hỏi: Y theo nghĩa nào mà nói ‘vãng sinh’?
Đáp: Ở thế gian này, con người giả danh tu Năm niệm môn, niệm trước làm nhân cho niệm sau. Người giả danh ở uế độ và người giả danh ở tịnh độ, không quyết định cả hai là một, không quyết định cả hai là khác. Tâm trước và tâm sau cũng y như vậy. Vì sao? Nếu là một thì không có nhân quả, nếu là khác thì chẳng có tương tục. Nghĩa này trong Luận [Thập Nhị Môn], chương Quán Nhất Dị Môn[60] có giải thích uyển chuyển. Hàng thứ nhất [được giải thích] qua ba niệm môn xong.
Con y Tu-đa-la, Tướng công đức chân thật, Thuyết nguyện kệ tổng trì, Tương ưng lời Phật dạy: (…) Y vào đâu? Tại sao y? Y thế nào? Y vào đâu là y vào Tu-đa-la. Tại sao y là bởi vì Như Lai chính là tướng công đức chân thật. Y thế nào là tu tập tương ưng Năm niệm môn. (…)
Tu-đa-la: Phần trực thuyết trong mười hai bộ kinh gọi là Tu-đa-la, nghĩa là bốn bộ A-hàm, Tam tạng các thứ. Các kinh Đại thừa ngoài Tam tạng cũng gọi là Tu-đa-la. Ở đây nói, ‘y Tu-đa-la’ là [y theo] Tu-đa-la của Đại thừa ngoài Tam tạng, không phải các kinh A-hàm.
Tướng công đức chân thật: Có hai loại công đức: 1. Từ tâm hữu lậu mà sinh, không thuận pháp tánh, cái gọi là các thiện của phàm phu nhân thiên. Các quả báo của nhân thiên, mặt nhân mặt quả, đều là điên đảo, đều là hư dối, nên gọi là ‘công đức không thật’[61]; 2. Từ trí tuệ của Bồ-tát mà nghiệp thanh tịnh hiện khởi để trang nghiêm Phật sự, y theo pháp tánh mà thể nhập tướng thanh tịnh. Pháp này không điên đảo, không hư dối, gọi là ‘công đức chân thật’. Thế nào là không điên đảo? Là y theo pháp tánh, thuận theo hai đế. Thế nào là không hư dối? Là nhiếp hóa chúng sinh, nhập tất cánh tịnh[62].
Thuyết nguyện kệ tổng trì, Tương ưng lời Phật dạy: Trì, là không buông không mất. Tổng, là lấy ít nhiếp nhiều. Kệ, là số câu năm chữ. Nguyện, là ưa thích vãng sinh. Thuyết, là nói các kệ luận. Tựu chung lại, nói ra các kệ nguyện vãng sinh, tổng trì kinh Phật, tương ưng với lời dạy của Đức Phật. Tương ưng, là ví như hộp nắp tương xứng[63] vậy.”[64] (…)
“Thế nào là hồi hướng? Không bỏ tất cả chúng sinh khổ não, tác nguyện hồi hướng làm đầu, thành tựu tâm đại bi: Hồi hướng có hai thứ tướng: 1. Vãng tướng; 2. Hoàn tướng. Vãng tướng, là đem công đức của mình hồi thí cho tất cả chúng sinh, phát nguyện cùng nhau vãng sinh tịnh độ An Lạc của A Di Đà Như Lai.”[65]
(20)
An Lạc Tập viết:
“Kinh Quán Phật Tam-muội[66] nói: Khuyên phụ vương thực hành niệm Phật tam-muội:
‘Phụ vương bạch Phật: Vì sao mà Phật chẳng dạy đệ tử thực hành Quả đức của Phật địa, Chân như thật tướng, Ðệ nhất nghĩa Không?
Phật bảo phụ vương: Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, không phải là cảnh giới thực hành của người phàm, vì thế nên khuyên phụ vương thực hành niệm Phật tam-muội.
Phụ vương bạch Phật: Công năng niệm Phật trạng thái nó như thế nào?
Phật bảo: Này Phụ vương! Trong rừng Y lan rộng lớn bốn mươi do tuần, có một gốc Ngưu đầu Chiên đàn, tuy có rễ chồi nhưng chưa mọc lên, thì rừng Y lan ấy chỉ hôi thối chẳng thơm. Nếu người ăn nhằm hoa quả của cây Y lan thì phát cuồng mà chết. Lúc sau, rễ chồi của cây Chiên đàn dần dần tăng trưởng, khi nó vừa sắp trở thành cây to thì mùi thơm đã nồng sực, có thể biến đổi cả khu rừng ấy trở thành thơm tho. Chúng sinh trông thấy đều sinh tâm hy hữu.
Phật bảo phụ vương: Tâm niệm Phật của tất cả chúng sinh trong sinh tử cũng giống như vậy. Chỉ cần buộc niệm chẳng dừng thì ắt được sinh trước Phật. Một khi được vãng sinh thì biến đổi được tất cả điều ác thành đại từ bi, giống như loại cây thơm tho kia biến đổi cả rừng Y lan.’
Rừng Y lan vừa nói dụ cho ba độc, ba chướng, vô biên trọng tội trong thân chúng sinh. Chiên đàn dụ cho tâm niệm Phật của chúng sinh. Sắp trở thành cây to, là nói tất cả chúng sinh chỉ cần tích góp niệm Phật không ngưng thì nghiệp đạo chắc được thành tựu.
Hỏi: Nếu xét công niệm Phật của tất cả chúng sinh thì có thể hiểu hết được. Vì sao sức của một niệm lại có thể đoạn được tất cả các chướng, giống như một cây có mùi thơm lại biến đổi được cả khu rừng Y lan rộng đến bốn mươi do tuần trở thành thơm tho?
Ðáp: Căn cứ theo các bộ kinh Ðại thừa, niệm Phật có công năng không thể nghĩ bàn. Vì sao? Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như có người dùng gân sư tử làm dây đàn cầm, khi âm thanh vừa tấu lên thì các loại dây đàn khác đều bị lắng xuống.”[67] Nếu ai dùng tâm Bồ-đề hành Niệm Phật tam-muội thì hết thảy phiền não, hết thảy các chướng đều bị đoạn diệt.
“Cũng như có người đem đổ lẫn hết thảy các loại sữa: bò, dê, lừa, ngựa trong một đồ đựng; nếu đem một giọt sữa sư tử nhỏ vào thì sữa sư tử sẽ xuyên suốt qua không bị ngăn trở, hết thảy các thứ sữa khác thảy đều bị hư nát, biến thành nước lã.”[68]
Nếu ai dùng tâm Bồ-đề hành Niệm Phật tam muội thì sẽ vượt qua hết thảy ác ma, các chướng không bị trở ngại.
Kinh ấy lại còn dạy: “Ví như có kẻ dùng thuốc ẩn thân du hành khắp nơi, hết thảy kẻ khác chẳng thấy được kẻ ấy.”[69]
Nếu ai có thể dùng tâm Bồ Ðề hành Niệm Phật tam muội thì hết thảy ác thần, hết thảy các chướng chẳng thấy được người ấy. Người ấy muốn đến đâu cũng không ai ngăn cản được, huống hồ là có thể gây chướng! Vì sao như vậy? Niệm Phật tam muội đây chính là vua của hết thảy các tam muội vậy.”[70] (…)
(21)
Lại nói: “Như trong Ma-ha-diễn nói: “Các tam muội khác chưa phải là tam muội. Vì sao? Là vì có tam muội chỉ trừ được tham, chẳng trừ được sân si. Hoặc có tam muội chỉ trừ được sân, chẳng trừ được tham si. Hoặc có tam muội chỉ trừ được si, chẳng trừ được tham sân. Hoặc có tam muội chỉ trừ được chướng hiện tại, chẳng trừ được quá khứ, vị lai hết thảy các chướng.” Nếu hay thường tu niệm Phật tam muội thì chẳng luận là quá khứ, hiện tại hay vị lai, hết thảy các chướng đều trừ được cả.”[71]
(22)
Lại nói: “Đại Kinh ca ngợi:
Nếu nghe A Di Đà đức hiệu
Hoan hỷ tán ngưỡng tâm quy y
Chỉ trong một niệm được lợi lớn
Là vì đầy đủ báu công đức.
Dù lửa khắp đại thiên thế giới
Cũng phải vượt qua nghe Phật danh
Nghe A Di Đà chẳng lui sụt
Cho nên chí tâm cúi đầu lạy.”[72]
(23)
Lại nói: “Lại như kinh Mục Liên Sở Vấn chép: “Phật bảo Mục Liên: Ví như ngàn sông chảy mạnh, có những cỏ cây nổi trôi, trước chẳng đoái sau, sau chẳng màng trước, mà đều hội tụ biển cả.” Thế gian cũng vậy, dẫu là kẻ quyền thế, sang cả, người giàu vui tự tại, nhưng đều chẳng thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết. Chỉ vì chẳng tin kinh Phật, đời sau làm người càng khốn khổ dữ dội, chẳng thể sinh về ngàn quốc độ Phật. Vì thế, tôi[73] nói: cõi Phật Vô Lượng Thọ dễ qua, dễ đạt mà con người chẳng chịu tu hành vãng sinh, lại chạy theo chín mươi lăm thứ tà đạo. Tôi nói kẻ ấy là kẻ không mắt, là kẻ không tai. Kinh giáo đã như vậy, sao chẳng bỏ cái khó để nương theo cái đạo dễ hành!”[74]
(24)
Hòa thượng chùa Quang Minh[75] dạy: “Kinh Văn Thù Bát-nhã nói: “Muốn rõ Nhất hành tam-muội, chỉ khuyên ở một mình nơi thanh vắng, xả bỏ ý tưởng tạp loạn, buộc tâm vào một vị Phật, không quán tưởng tướng mạo, chuyên tâm xưng niệm danh hiệu, thì trong một niệm thấy được Đức Phật A Di Đà, cùng tất cả Phật.”
Hỏi: Tại sao không khuyên tu pháp quán tưởng, mà lại khuyên tu pháp xưng niệm danh hiệu, là có ý gì?
Đáp: Đây là do chúng sinh chướng nặng, cảnh tế tâm thô, thức nhảy thần bay, tu quán khó thành tựu. Vì vậy Đại Thánh [A Di Đà] từ bi thương xót, chỉ khuyên chuyên xưng danh hiệu, bởi vì xưng danh thì dễ, tương tục liền sinh.
Hỏi: Đã khuyên chuyên xưng một vị Phật, tại sao cảnh hiện thành nhiều? Đây phải chăng là tà chánh giao nhau, một nhiều xen hiện?
Đáp: Mỗi vị Phật chứng đắc như nhau, biểu hiện không khác nhau, cho dù niệm một Phật mà thấy nhiều Phật, cũng đâu có gì trái ngược với đại đạo lý! Hơn nữa, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Phật khuyên khi tọa quán, lễ niệm, v.v. tốt nhất phải xoay mặt về hướng Tây, giống như cây nghiêng về hướng nào thì sẽ ngã về hướng đó. Trong trường hợp có trở ngại, không thể hướng về Tây, thì nên tác tưởng hướng Tây cũng được.”
Hỏi: Tất cả chư Phật đồng chứng ba thân; quả bi trí viên mãn cũng nên không hai. Hành giả tùy lúc lễ niệm, thời khóa xưng danh một vị Phật đều được vãng sanh. Tại sao lại chỉ tán thán Tây phương, khuyên chuyên lễ niệm, xưng danh, là có nghĩa gì?
Đáp: Sở chứng của chư Phật đều bình đẳng như nhau. Xét theo nguyện và hành mà nói, chẳng phải không có nhân duyên. Như A Di Đà Thế Tôn vốn đã phát thệ nguyện sâu nặng, dùng quang minh và danh hiệu để nhiếp hoá mười phương, chỉ muốn chúng sinh tín tâm, cầu sinh, xưng niệm. Niệm Phật một đời[76], cho đến mười niệm, một niệm, do nguyện lực của Phật mà dễ được vãng sinh. Đó là lý do Đức Thích Ca và chư Phật đều khuyên hướng Tây phương, và đó là sự khác biệt. Đây chẳng phải là xưng niệm Đức Phật khác thì không thể trừ chướng, diệt tội. Nên biết như vậy.
Nếu như có thể hành trì như trên, niệm niệm tương tục, trọn hết một đời, thì chắc chắn mười người tu, mười người vãng sinh, trăm người tu, trăm người vãng sinh. Vì sao? Vì không có tạp duyên nào khác, cho nên được chánh niệm, được tương ưng với bản nguyện của Phật, không đi ngược với giáo lý, và tùy thuận lời dạy của Phật.”[77]
(25)
Lại nói: “[Đức Phật ấy có ánh sáng vô lượng, chiếu soi khắp cả quốc độ mười phương, không bị chướng ngại,] chỉ quán sát chúng sinh niệm Phật, nhiếp lấy không bỏ, nên danh hiệu của Ngài là A Di Đà.”[78]
(26)
Lại nói:
“Biển trí nguyện Di Đà
Rộng sâu không bờ đáy
Nghe tên muốn vãng sinh
Thảy đều đến nước kia. (…)
Dù lửa đầy Đại thiên
Vượt qua nghe Phật danh
Nghe tên hoan hỷ khen
Đều được sinh Cực Lạc. (…)
Vạn năm Tam bảo diệt
Kinh này trụ trăm năm
Lúc đó nghe một niệm
Đều được sinh Cực Lạc.”[79]
(27)
Lại nói: “Hiện là phàm phu sinh tử, tội chướng sâu nặng, luân hồi sáu nẻo, khổ không thể tả, ngày nay gặp thiện tri thức, được nghe danh hiệu và bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sinh, nguyện Phật từ bi không quên lời thệ nguyện rộng lớn nhiếp thọ chúng sinh.”[80]
(28)
Lại nói:
“Hỏi: Xưng niệm lễ quán A Di Đà Phật, hiện đời có những công đức lợi ích gì?
Đáp: Xưng một câu A Di Đà Phật có thể diệt trừ được tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Lễ lạy và ức niệm Phật dưới đây cũng như vậy.
Kinh Thập Vãng Sinh[81] nói: “Nếu có chúng sinh niệm A Di Đà Phật, nguyện vãng sinh Cực Lạc, Đức Phật ấy liền sai hai mươi lăm vị Bồ-tát đến ủng hộ hành giả, khi đi hay đứng, khi nằm hay ngồi, dù ngày hay đêm, trong mọi thời gian, ở khắp nơi chốn, chẳng cho ác quỷ, ác thần được thừa dịp làm hại.”
Lại như Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: “Nếu xưng danh, lễ lạy, ức niệm A Di Đà Phật, nguyện vãng sinh thế giới Cực Lạc, Đức Phật ấy sẽ sai vô số hóa Phật, vô số hóa Bồ-tát như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đến hộ niệm hành giả.”[82]
Lại cùng với hai mươi lăm vị Bồ-tát nói trên, vây quanh hành giả, trăm vòng ngàn vòng, bất kể đi đứng nằm ngồi, mọi lúc mọi nơi, dù ngày hay đêm, các ngài thường không rời hành giả. Nay đã có sự lợi ích thù thắng này làm chỗ nương tựa, nguyện các hành giả, mỗi người phải chí tâm cầu vãng sinh.
Lại như Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương xưng niệm danh hiệu của tôi, [muốn sinh về nước tôi] nhẫn đến mười niệm, mà không được vãng sinh, thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”[83]
Đức Phật ấy hiện nay tại thế thành Phật, nên biết rằng, lời thệ nguyện trọng đại và căn bản đó là không hư dối. Chúng sanh xưng niệm ắt được vãng sinh.
Lại như Kinh A Di Đà nói: “Nếu có chúng sinh nào nghe nói đến Đức Phật A Di Đà, trì niệm danh hiệu của Ngài hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày mà nhất tâm bất loạn, thì người ấy lúc sắp chết, Đức Phật A Di Đà cùng với các vị Thánh giả hiện ra trước mắt. Người như thế khi chết tâm không thác loạn, và tức khắc được sinh quốc độ Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Xá-lợi-phất, Như lai thấy ích lợi như vậy, nên nói rằng ai nghe như vầy hãy nên phát nguyện nguyện sinh Cực Lạc.”
Phần dưới quyển kinh nói: “Phương Đông, hằng hà sa số các Đức Phật; phương Nam, Tây, Bắc, phương dưới, phương trên, hằng hà sa số các Đức Phật, mỗi vị đều ở nơi quốc độ của mình, đưa ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp đại thiên quốc độ, nói lời thành thật như vầy: các người nên tin bản kinh Xưng Tán Công Đức Bất Khả Tư Nghị Hết Thảy Chư Phật Đều Hộ Niệm.”
Vì sao gọi là Hộ niệm? Nếu có chúng sinh xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, hoặc bảy ngày, hoặc một ngày, nhẫn đến một niệm, hoặc một tiếng hoặc mười tiếng, thì chắc chắn được vãng sinh. Chư Phật đều chứng thành sự thể này, nên gọi là Kinh Hết Thảy Chư Phật Đều Hộ Niệm.
Tiếp theo nói thêm, nếu xưng niệm danh hiệu Phật, cầu vãng sinh nước kia, thì thường được hằng hà sa số các Đức Phật ở sáu phương hộ niệm, cho nên gọi là Kinh Hết Thảy Chư Phật Đều Hộ Niệm.[84] Hiện nay có những thệ nguyện tăng thượng để nương tựa, các vị Phật tử tại không chịu gắng chí.”[85]
(29)
Lại nói: “Nói về hoằng nguyện, như trong Đại Kinh nói: Tất cả phàm phu thiện ác mà được vãng sinh thì đều nương vào đại nguyện nghiệp lực của Đức Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên.”[86]
(30)
Lại nói: “Nói ‘Nam mô’, tức là quy mạng, cũng là nghĩa phát nguyện hồi hướng. Nói ‘A Di Đà Phật’, tức là hạnh của người ấy. Bởi nghĩa này mà nhất định được vãng sinh.”[87]
(31)
Lại nói: “Nói về Nhiếp sinh tăng thượng duyên, tức như Kinh Vô Lượng Thọ, trong 48 Nguyện có nói: “Đức Phật nói: Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương nguyện sinh vào nước tôi, xưng danh hiệu tôi, nhẫn đến mười tiếng, nương nguyện lực của tôi, nếu như không được sinh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác’.” Đây chính là Nguyện vãng sinh. Người thực hành lúc sắp chết được nguyện lực nhiếp lấy mà vãng sinh, nên gọi là Nhiếp sinh tăng thượng duyên.”[88]
(32)
Lại nói: “Muốn cho những kẻ phàm phu thiện ác hồi tâm, khởi hạnh, thảy đều được vãng sinh. Đây là Chứng sinh tăng thượng duyên.”[89]
(33)
Lại nói:
“Mỗi môn bất đồng tám vạn tư
Vì diệt vô minh quả nghiệp nhân
Kiếm bén chính là Di Đà hiệu
Một tiếng xưng niệm tội tiêu trừ. (…)
Vi trần nghiệp cũ theo trí diệt
Bất giác chuyển nhập chân như môn. (…)
Được thoát Ta-bà trường kiếp nạn
Chỉ nhờ ơn tri thức Thích Ca
Phương tiện thiện xảo những tư lương
Chọn được Di Đà hoằng thệ môn.”[90]
(34)
Như vậy, Nam-mô, nghĩa là Quy mạng (歸命).
Quy, nghĩa là Chí (至) vậy.
Lại nữa, Quy, là Thuyết (說) vậy.
Chữ Thuyết, [nên đọc là] âm Duyệt (悅).
Lại nữa, Quy, là Thuyết (說) vậy.
Chữ Thuyết, [nên đọc là] âm Duyệt (稅).
Hai âm Duyệt (悅) và Duyệt (稅) [cũng là một].
Thuyết, nghĩa là Cáo (告), là Thuật (述), là bày tỏ thêm ý vậy.[91]
Mạng, nghĩa là Nghiệp (業), Chiêu dẫn (招引), Sử (使), Giáo (教), Đạo (道), Tín (信), Kế (計), Triệu (召).
Cho nên, Quy mạng: là “Sắc mạng mà bản nguyện mời gọi”[92]
Phát nguyện hồi hướng: Đức Như Lai đã phát nguyện và hồi thí đến tâm của chúng sinh tu hành.
Tức là hạnh của người ấy: Tức là “tuyển trạch bản nguyện” vậy.
Nhất định được vãng sinh: Tuyên dương sự hoạch đắc địa vị Bất thối.[93]
Kinh nói, “tức đắc” (即得)[94]; [Bồ-tát Long Thọ] giải thích là “tất định”. (必定)[95].
Tức: Do nghe nguyện lực, Báo độ rực rỡ vĩ đại, nhân tố chân thật quyết định thời khắc cực nhanh.
Tất (必: là thẩm 審, nhiên 然, phân cực 分極.[96]): Trạng thái của Kim cương tâm thành tựu.
(35)
Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Lược Pháp Sự Nghi Tán:
“Đức Như Lai lập giáo rộng lược, tùy theo căn cơ, chung quy ở thật tướng. Bậc được chân vô sinh, thì ai có thể so với người này? Song niệm Phật tam-muội là pháp môn thâm diệu vô thượng chân thật. Đem danh hiệu và bốn mươi tám nguyện của Pháp vương Di Đà để làm Phật sự, nguyện lực độ chúng sinh.”[97] (…)
“Do đó Đức Như Lai thường ở trong biển Tam-muội, tay giơ lưới tơ, nói với Phụ vương rằng: Phụ vương ngày nay ngồi thiền, chỉ nên niệm Phật, có phải là giống lìa niệm cầu vô niệm, lìa sinh cầu vô sinh, lìa tướng hảo cầu pháp thân, lìa văn tự cầu giải thoát?”[98] (…)
“Lớn lao thay, chí lý chân pháp, nhất như hóa vật lợi người. Vì hoằng nguyện có sai khác, cho nên Đức Thích Ca ứng sinh ở đời trược, Đức Di Đà xuất hiện nơi cõi tịnh. Dù tịnh uế có sai biệt, nhưng lợi ích thì đồng nhất. Pháp dễ tu dễ chứng, thật chỉ có giáo môn Tịnh độ. Cõi Tây phương kia thù diệu, khó mà so sánh. Quốc độ ấy trang nghiêm hoa sen trăm báu, bày ra chín phẩm thu nhận người tu. Danh hiệu Phật có thể quét sạch ngàn họa, âm vang năm hội[99] nhiếp hóa muôn vật.”[100]
[Y theo Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Kinh - Thích Pháp Chiếu]
“Tôn hiệu Như Lai rất rõ ràng
Mười phương thế giới lưu hành khắp
Chỉ có xưng danh đều được sinh
Quán Âm, Thế Chí tự đến rước.[101] (...)
Bản nguyện Di Đà rất đặc thù
Từ bi phương tiện dẫn phàm phu
Tất cả chúng sinh đều độ thoát
Xưng danh liền được tội tiêu trừ.[102] (…)
Phàm phu nếu được đến Tây phương
Nhiều kiếp trần sa tội diệt vong
Đủ sáu thần thông được tự tại
Trừ hẳn già bệnh, lìa vô thường.[103]
[Y theo Kinh Phật Bản Hạnh – Pháp Chiếu]
“Cái gì gọi đó là Chánh pháp
Nếu cái đạo lý là Chân tông
Tốt xấu nay thời cần quyết trạch
Mỗi một tỉ mỉ chớ mơ hồ.
Chánh pháp là vượt thoát thế gian.
Trì giới, ngồi thiền, gọi Chánh pháp
Niệm Phật thành Phật là Chân tông![104]
Không giữ lời Phật là ngoại đạo
Bác vô nhân quả là Không kiến.
Chánh pháp là vượt thoát thế gian.
Thiền luật như nào là Chánh pháp
Niệm Phật tam-muội là Chân tông!
Thấy tánh rõ tâm bèn là Phật
Làm sao đạo lý không tương ưng?”[105]
[Y theo Kinh A Di Đà]
“Tây phương tiến đạo hơn Ta-bà
Duyên không năm dục và tà ma
Thành Phật không nhọc các thiện nghiệp
Đài hoa ngồi thẳng niệm Di Đà.[106] (...)
Ngũ trược tu hành nhiều thối chuyển
Không bằng niệm Phật sinh Tây phương
Đến đó tự nhiên thành Chánh giác
Trở lại biển khổ làm bờ bến.[107] (...)
Ở trong muôn hạnh cấp thiết là
Mau chóng không qua Tịnh độ môn
Không chỉ Bổn sư kim khẩu thuyết
Mười phương chư Phật cùng truyền chứng.[108] (...)
Cõi này một người niệm Phật danh
Tây phương liền sinh một hoa sen
Chỉ khiến một đời không lui sụt
Hoa đó về lại cõi này nghênh.[109]”
[Y theo Kinh Bát Chu Tam-muội – Hòa thượng Từ Mẫn viết]
Đại chúng trong đạo tràng hôm nay
Hằng sa kiếp số đều trải qua
Mừng thân người này khó hẹn gặp
Như hoa Ưu đàm một lần nở
Gặp giáo lý Tịnh độ hiếm nghe
Gặp pháp môn niệm Phật khai mở
Gặp hoằng thệ Di Đà mời gọi
Gặp đại chúng tín tâm trở về
Gặp hôm nay y kinh khen ngợi
Gặp kết khế ấn trên đài hoa
Gặp đạo tràng không có ma sự
Gặp người không bệnh đều về được
Gặp bảy ngày công phu thành tựu
Bốn mươi tám nguyện Phật dắt dìu
Khắp khuyên hành giả cùng đạo tràng
Nỗ lực hồi tâm về đi thôi
Thử hỏi quê hương ở nơi nào
Trong ao Cực Lạc đài bảy báu
Nhân địa Phật kia lập hoằng thệ
Nghe danh niệm Phật đều rước về
Không lựa nghèo khổ hay giàu sang
Không chọn ngu si hay tài trí (…)
Bất luận đa văn trì tịnh giới
Hoặc kẻ phá giới tội sâu dày
Chỉ cần hồi tâm niệm Phật nhiều
Gạch ngói có thể biến thành vàng
Gửi lời đến đại chúng hiện tiền
Đồng duyên người đi sớm tìm nhau
Thử hỏi tìm nhau ở nơi nào?
Đáp rằng Tịnh độ Phật Di Đà
Thử hỏi duyên gì được vãng sinh?
Đáp rằng niệm Phật tự thành công
Thử hỏi đời nay nhiều tội chướng
Làm sao Tịnh độ chịu bao dung?
Đáp rằng xưng danh tội tiêu diệt
Dụ như đèn sáng vào phòng tối
Thử hỏi phàm phu được sinh không
Làm sao một niệm sáng trong tối?
Đáp rằng trừ nghi niệm Phật nhiều
Di Đà nhất định tự thân cận.”[110]
[Y theo Kinh Tân Vô Lượng Thọ Quán[111] – Pháp Chiếu thuật]
“Mười ác, năm nghịch đến người ngu
Nhiều kiếp trầm luân ngập bụi trần
Một niệm xưng được Di Đà hiệu
Cõi ấy đồng về Pháp tánh thân.”[112]
(36)
Sư Cảnh Hưng viết: “Như Lai nói rộng, có hai: một là, nói rộng về nhân quả tịnh độ của Như Lai, tức là hạnh nguyện và những thành tựu; hai là, nói rộng về nhân quả vãng sinh của chúng sinh, tức là thu nhiếp và những lợi ích.”[113]
(37)
Lại nói:
Kinh Bi Hoa, phẩm Chư Bồ-tát Bản Thọ Ký nói: “Thiện nam tử! Bấy giờ Đức Bảo Tạng Như Lai khen ngợi Chuyển luân vương rằng: ‘Lành thay, lành thay! Đại vương, theo sở nguyện sâu xa của ông, nay là lúc thu nhận tịnh độ, và chúng sinh trong cõi ấy, tâm họ cũng thanh tịnh.
Đại vương! Ông hãy nhìn về phương Tây, qua trăm ngàn muôn ức Phật độ, có thế giới tên là Tôn Thiện Vô Cấu. Thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Tôn Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Sư, Phật Thế Tôn, hiện tại đang thuyết chánh pháp cho các vị Bồ-tát. Thế giới ấy không có tên gọi Thanh văn và Bích-chi Phật, cũng không có ai nói pháp Tiểu thừa, thuần nhất là pháp Đại thừa thanh tịnh, không xen gì khác. Chúng sinh trong thế giới ấy đều là tự nhiên hóa sinh, cũng không có người nữ, không có cả đến cái tên người nữ.
Thế giới Phật ấy có những công đức thanh tịnh trang nghiêm đúng như sở nguyện của Đại vương, y như vô lượng thế giới Phật với các thứ công đức trang nghiêm không khác gì cả, đều để nhiếp lấy vô lượng vô biên chúng sinh đã điều phục. Nay đổi tên ông là Vô Lượng Thanh Tịnh.”[114]
Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “[Tỳ-kheo Pháp Xứ] quảng phát thệ nguyện rộng lớn như thế, đều đã thành tựu, thế gian hiếm có. Phát lời nguyện ấy rồi, Ngài như thật an trú các thứ công đức, đầy đủ trang nghiêm[115], oai đức quảng đại[116], Phật độ thanh tịnh.”
(38)
Lại nói: “Hai thứ phước trí trang nghiêm đã được thành tựu, vì đầy đủ các Thánh hạnh: bố thí, v.v. vậy. Lấy sự tu tập của mình mà lợi ích chúng sinh, khiến công đức thành tựu.”[117]
(39)
Lại nói: “Nhờ nhân duyên lâu xa mà được gặp Phật, nghe pháp, nên rất đáng mừng vui.”[118]
(40)
Lại nói: “Con người là bậc Thánh, cõi nước thì vi diệu, sao không gắng sức hành thiện mà nguyện sinh. (…) Do thiện đã thành, không tự gặt quả, gọi là ‘tự nhiên’. Không lựa sang hèn, đều được vãng sinh, gọi là ‘đến chỗ không trên dưới’.”[119]
(41)
Lại nữa: “Dễ vãng sinh mà có mấy ai. Cõi nước ấy không có trái nghịch mà tự nhiên bị trói buộc: Tu nhân chính là từ bỏ (dừng lại), nên ‘dễ vãng sinh’. Không ai chịu tu nhân, ít người vãng sinh, nên ‘có mấy ai’. Tu nhân cầu sinh, mình hoàn toàn không có nghịch trái, và cõi nước không có trái nghịch, chính là tiền đề cho sự vãng sinh.”[120]
(42)
Lại nói:
“Bản nguyện lực, là sức thệ nguyện ‘tức khắc được sinh’[121].
Mãn túc nguyện, là nguyện không thiếu sót.
Minh liễu nguyện, là cầu mà không phải không có kết quả.
Kiên cố nguyện, là duyên không thể hoại.
Cứu cánh nguyện, là chắc chắn được thỏa nguyện.”[122]
(43)
Lại nói: “Tóm lại, muốn cho kẻ phàm phu thêm ý muốn vãng sinh, nên nói ‘quốc độ ấy thù thắng’.”[123]
(44)
Lại nói: “Đã nói ‘ở quốc độ này này tu hạnh Bồ-tát’, tức là biết vua Vô Tránh Niệm ở phương này, [Đại thần] Bảo Hải cũng vậy.”[124]
(45)
Lại nói: “Vì nghe Đức Phật A Di Đà thành tựu công đức quảng đại, mà được Bất thối chuyển.”[125]
(46)
Lạc Bang Văn Loại[126]:
[Kết Liên Xã Phổ Khuyến Văn] - Tổng quản Trương Luân nói: “Danh hiệu Phật rất dễ trì, Tịnh độ rất dễ sinh. Tám muôn bốn ngàn pháp môn, không có đường tắt nào như thế. Chỉ cần chút rảnh rang sớm chiều kính niệm mà làm tư lương chẳng hư hoại cho nhiều kiếp. Đó là dụng lực rất nhỏ mà thu công không cùng. Chúng sinh có nỗi khổ gì mà tự vứt bỏ, không chịu làm? Ôi, mộng huyễn chẳng thật, thọ yểu khó giữ, khoảnh khắc hơi thở đã qua đời sau. Một khi mất thân người thì muôn kiếp khó được lại. Lúc này mà không ngộ, Phật như chúng sinh sao? Xin nghĩ sâu về vô thường, chớ uổng phí [thời gian] để rồi ăn năn về sau.
Cư sĩ Tịnh Lạc - Trương Luân[127] khuyến duyên.”
(47)
Tổ sư Thai giáo là Pháp sư Sơn Âm Khánh Văn nói: “Bởi vì danh hiệu Phật từ chân thật báo thân mà kiến lập, từ biển Từ bi mà kiến lập, từ biển Thệ nguyện mà kiến lập, từ biển Trí tuệ mà kiến lập, từ biển Pháp môn mà kiến lập. Nếu chỉ chuyên xưng một danh hiệu Phật, thì là xưng đủ danh hiệu của chư Phật, công đức vô lượng, có thể tiêu trừ tội chướng, có thể sinh Tịnh độ, sao phải sinh nghi ư?”
(48)
Tổ sư Luật tông là Ngài Nguyên Chiếu nói:
“Huống chi Đức Phật đem tâm đại từ khai thị Tịnh độ, ân cần khuyên dặn trong các kinh Đại thừa. Chúng sinh mắt thấy tai nghe mà còn nghi ngờ hủy báng, tự cam chịu chìm đắm, không nghĩ cách vượt thoát. Như Lai gọi họ là những kẻ đáng thương. Bởi vì không biết pháp này là một pháp môn đặc biệt, nó không chọn hiền ngu, chẳng lựa Tăng tục, không luận tu hành mau chậm, chẳng hỏi tạo tội nặng nhẹ, chỉ cần lòng tin xác quyết, chính là nhân tố vãng sinh.”[128]
(49)
Lại nói: “Nay các kinh Tịnh độ đều không nói đến ma, tức biết rõ pháp này hoàn toàn không có ma. Pháp sư Sơn Âm Khánh Văn đối với ‘Pháp môn Chánh tín’ có sự trình bày rõ ràng, nay xin trích dẫn:
Hỏi rằng: Có người nói, lúc sắp chết thấy Phật và Bồ-tát phóng hào quang, bưng đài, nhạc trời, hương lạ đến tiếp dẫn vãng sinh đều là việc ma. Lời này như thế nào?
Đáp: Có người y kinh Thủ Lăng Nghiêm tu tập tam-muội, có khi phát động ấm ma. Có người y theo luận Ma-ha-diễn tu tập tam-muội, có khi phát động ngoại ma (gọi là Thiên ma). Có người nương theo luận Chỉ Quán tu tập tam-muội, có khi phát động thời mị[129]. Những sự thể này toàn là người tu thiền định, họ chỉ quan tâm đến tự lực, trước có hạt giống ma, nay bị kích phát bởi định, cho nên biểu hiện những việc này. Nếu có thể nhận biết rõ ràng [ma sự], dùng cách đối trị thì có thể trừ diệt. Nếu tự cho mình là một bậc Thánh, thì đều bị ma chướng (trên nói, ở phương này ai nhập đạo thì phát sinh ma sự). Ở đây cho rằng pháp tu Niệm Phật tam-muội chính là nương nhờ vào Phật lực, như gần bên nhà vua thì không có ai dám phạm. Bởi vì, Đức Phật A Di Đà có sức từ bi lớn, sức thệ nguyện lớn, sức trí tuệ lớn, sức tam-muội lớn, sức oai thần lớn, sức diệt tà lớn, sức dẹp ma lớn, sức thiên nhãn nhìn xa, sức thiên nhĩ nghe khắp, sức tha tâm thấu suốt, sức ánh sáng chiếu khắp nhiếp lấy chúng sinh, sức công đức không thể nghĩ bàn của những việc như thế, há chẳng thể hộ trì người niệm Phật khi sắp chết không bị chướng ngại được sao? Nếu không thể hộ trì được thì sức từ bi ở đâu? Nếu không trừ được ma chướng thì sức trí tuệ, sức tam-muội, sức oai thần, sức diệt tà, sức dẹp ma ở đâu? Nếu không quán sát, để người niệm Phật bị ma làm chướng ngại thì sức thiên nhãn nhìn xa, sức thiên nhĩ nghe khắp, sức tha tâm thấu suốt ở đâu? Kinh ghi: ‘Tướng hảo quang minh của Đức Phật A Di Đà chiếu khắp mười phương thế giới, nhiếp lấy không bỏ chúng sinh niệm Phật.’ Nếu cho rằng người niệm Phật lúc lâm chung vẫn bị ma chướng thì sức ánh sáng chiếu khắp nhiếp lấy chúng sinh ở đâu? Huống chi người niệm Phật lúc lâm chung cảm được những cảnh tốt, toàn là lời Phật dạy từ trong các kinh, đâu thể chế nhạo là ma chướng? Nay cần phải quyết phá trừ tà nghi để sinh chánh tín.”[130]
(50)
Lại nói: “Nhất thừa cực lực đề xướng, rốt ráo đều hướng về Lạc bang. Vạn hạnh viên mãn tu tập, tối thắng riêng tìm nơi Phật hiệu[131]. Bởi vì, từ nhân vị lập thệ nguyện, giữ chí nguyện chính mình hành, trải qua kiếp số chấm bụi, mang tình thương cứu giúp chúng sinh. Chỗ đất bằng hạt cải đâu không là nơi Bồ-tát xả bỏ thân mạng. Bi trí sáu độ, nhiếp hoá mà không sót; nội ngoại hai tài, tuỳ cầu sẽ được ứng. Thời cơ hưng khởi, nhân duyên chín muồi, các hạnh đầy đủ, công đức thành tựu. Một thời viên chứng với ba thân, muôn đức biểu lộ nơi bốn chữ.”[132]
(51)
Lại nói: “Huống chi, Đức Di Đà ta dùng danh tiếp vật. Do đó, tai nghe miệng tụng, vô biên Thánh đức ôm vào thức tâm, mãi làm giống Phật, đốn trừ ức kiếp trọng tội, hoạch chứng Vô thượng Bồ-đề. Tin biết rằng chẳng ít thiện căn, mà là rất nhiều công đức vậy.”[133]
(52)
Lại nói: “Về chánh niệm, người lúc sắp chết thì thức thần vô chủ, nghiệp chủng thiện ác đều biểu hiện ra, hoặc khởi niệm ác, hoặc khởi tà kiến, hoặc sinh lưu luyến, hoặc phát ngông cuồng, các tướng ác chẳng phải một, đều gọi là điên đảo. Nhân trước có trì niệm danh hiệu Phật mà tội diệt chướng trừ, tịnh nghiệp huân tập bên trong, từ quang nhiếp lấy ở ngoài, thoát khổ được vui chỉ một khoảnh sát na. Văn dưới khuyên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc, lợi ích của việc đó được nói ở đây.”[134]
(53)
“Pháp sư Từ Vân[135] nói: ‘Chỉ có An dưỡng tịnh nghiệp là đường tắt đáng nên tu tập. Có ai trong bốn chúng mà muốn mau chóng phá trừ vô minh, vĩnh viễn diệt trừ tội năm nghịch, mười ác, các tội nặng nhẹ, thì nên tu theo pháp này. Người muốn đắc giới thể Đại thừa hay Tiểu thừa, muốn được thanh tịnh trở lại, muốn đạt niệm Phật tam-muội, thành tựu các Ba-la-mật của Bồ-tát, thì nên tu học pháp này. Người lúc sắp chết mà lìa được nỗi sợ hãi, thân tâm an vui, được Thánh chúng hiện ra trước mắt, đưa tay tiếp dẫn, vừa rời trần lao, liền đạt bất thối, không trải nhiều kiếp, bèn được Vô sinh, thì nên tu học pháp này.’ Pháp ngữ của cổ hiền, há không nghe sao?
Năm môn trên[136] là lược nêu cương yếu, những điểm khác nói không hết, giao lại cho thích văn. Xem Khai Nguyên Tạng Lục thì kinh này có hai bản dịch. Bản dịch trước đã mất, bản này do ngài Cương-lương-da-xá dịch. Cao Tăng Truyện ghi: ‘Cương-lương-da-xá (疆良耶舍), phương này dịch là Thời Xứng (時稱). [Sư là người ở Tây Vực, tánh tình cương trực, lòng ít ham muốn, tinh thông Tam tạng.] Năm Nguyên Gia thứ nhất (424) thời Lưu Tống, Sư đến Kinh Ấp. Vua Văn Đế [rất kính mộ, ra sắc chỉ mời Sư trụ trì tinh xá Đạo Lâm ở Chung Sơn. Ở đây, ngài Tăng Hàm (僧含) thỉnh Sư dịch kinh này và kinh Quán Dược Vương Dược Thượng[137], và Tăng Hàm làm người bút thọ. Về sau, Sư du hóa đến Mân Thục, không bao lâu Sư trở về và thị tịch ở Giang Lăng]’.”[138]
(54)
Pháp sư Từ Vân ca ngợi: “Liễu nghĩa trong liễu nghĩa[139], viên đốn trong viên đốn.[140]”
(55)
Ngài Đại Trí (Luật sư Nguyên Chiếu) đề xướng: “Viên đốn Nhất thừa[141], thuần nhất không tạp[142].”
(56)
Luật tông, pháp sư Giới Độ (đệ tử của ngài Nguyên Chiếu) nói: “Danh hiệu Phật chính là vô số kiếp huân tu, nắm giữ muôn đức, sáng tỏ bốn chữ. Thế nên, xưng danh hiệu Phật thì được lợi ích rất nhiều.”[143]
(57)
Luật tông, pháp sư Dụng Khâm[144] nói: “Nay nếu ta dùng tâm và miệng xưng niệm gia hiệu một Đức Phật, thì từ nhân đến quả, vô lượng công đức không thể không đầy đủ.”
(58)
Lại nói: “Tất cả chư Phật trải qua kiếp số bụi trần, chứng ngộ thật tướng. Vì không chứng đắc gì cả, cho nên phát đại nguyện vô tướng, tu diệu hạnh vô trú, chứng Bồ-đề vô đắc, trú quốc độ phi trang nghiêm[145]. Vì biểu hiện thần thông ‘không thần thông’, cho nên tướng lưỡi trùm khắp đại thiên. Vì hiển thị lời nói ‘không lời nói’, cho nên khuyên hãy tin nhận kinh này. Há cho phép tâm nghĩ, miệng bàn ư? Nói riêng, chư Phật đều có công đức không thể nghĩ bàn, nếu trong chốc lát tiếp nhận y báo và chánh báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà, trì danh hành pháp, thì chư Phật ấy cũng phải được Đức Phật A Di Đà thu nhận.”
(59)
Tam luận tông, Tổ sư Gia Tường[146] nói: “Hỏi: Nhân gì mà niệm Phật tam-muội diệt trừ được nhiều tội như thế? Giải rằng: Đức Phật có vô lượng công đức, niệm Phật cũng được vô lượng công đức, cho nên diệt trừ được vô lượng tội.”[147]
(60)
Pháp tướng tông, Tổ sư Pháp Vị nói: “Chư Phật đều có tên là Đức Thí. Xưng danh tức là xưng đức. Đức có thể diệt tội sinh phước, danh cũng như thế. Nếu tin danh hiệu Phật, thì có thể sinh thiện diệt tội, quyết định không nghi. Xưng danh được vãng sinh, điều này còn nghi ngờ gì nữa!”[148]
(61)
Thiền Tông, ngài Phi Tích[149] nói: “Niệm Phật Tam-muội là điều thiện tối thượng, là hạnh đầu trong muôn hạnh, nên gọi là vua Tam-muội vậy.”[150]
(62)
Vãng Sinh Yếu Tập nói: “(2) Kinh Song Quyển[151] nói, nghiệp của ba hạng người [vãng sinh] tuy có cạn sâu, nhưng cả ba đều “nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật”. (3) Trong bốn mươi tám nguyện, đối với pháp môn niệm Phật, [Đức Phật A Di Đà] riêng phát một nguyện rằng, “Nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.” (4) Quán Kinh nói: Người ác cực trọng, không cách nào khác, chỉ xưng Di Đà, được sinh Cực Lạc.[152]”[153]
(63)
Lại nói: “Nên y theo sáu thứ công đức [vi diệu] được thuyết trong kinh Tâm Địa Quán: (1) Bậc vô thượng có ruộng công đức lớn lao; (2) Bậc vô thượng có ân đức lớn lao; (3) Bậc tôn cao trong chúng sinh không chân, hai chân và nhiều chân; (4) Bậc rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm; (5) Bậc độc nhất xuất hiện trong Tam thiên đại thiên thế giới; (6) Bậc viên mãn tất cả công đức mà thế gian và xuất thế gian đều y theo để làm thành mọi sự nghĩa. Do đầy đủ sáu thứ công đức như thế và thường đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sinh, [gọi đó là ‘bất tư nghị ân của Phật bảo’.]”[154]
(64)
Y theo sáu công đức này, Hòa thượng Tín nói: “Một nên niệm: ‘Một xưng Nam mô Phật, đều đã thành Phật đạo’[155], nên con quy mạng lễ, ‘Ruộng công đức vô thượng’. Hai nên niệm: ‘Mắt thương nhìn chúng sinh, bình đẳng như con một’[156], nên con quy mạng lễ, ‘Mẹ từ bi cực đại’. Ba nên niệm: Mười phương chư Đại sĩ, cung kính Di Đà tôn, nên con quy mạng lễ, ‘Bậc phước trí toàn hảo’[157]. Bốn nên niệm: Một phen nghe Phật danh, Hơn cả hoa Ưu-đàm, nên con quy mạng lễ, ‘Bậc rất khó gặp gỡ’. Năm nên niệm: Một trăm câu-chi giới[158], Hai Phật không cùng hiện, nên con quy mạng lễ, ‘Đại pháp vương hy hữu’. Sáu nên niệm: Phật pháp: biển chúng đức, Ba đời đồng một thể, nên con quy mạng lễ, ‘Đấng viên dung vạn đức’.”[159]
(65)
Lại nói: “Hoa của cây Ba-lợi-chất-đa xông thơm y phục trong một ngày; hoa Chiêm-bặc và hoa Bà-sư-ca dẫu ngàn năm xông thơm cũng không thể sánh bằng.”[160]
(66)
Lại nói: “Một cân thạch châm có thể biến ngàn cân đồng thành vàng.[161] Núi tuyết có thứ cỏ tên là Nhẫn nhục, trâu ăn vào thì cho ra đề hồ.[162] Cây Thi-lợi-sa[163] khi gặp sao Mão thì cho ra quả thực sự.”[164]
(67)
Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập[165] nói: “Nam mô A Di Đà Phật – Chánh nghiệp vãng sinh lấy niệm Phật làm căn bản.”
(68)
Lại nói:
“Muốn mau thoát sinh tử
Trong hai thứ thắng pháp
Nên bỏ môn Thánh đạo[166]
Mà chọn môn Tịnh độ.
Muốn vào môn Tịnh độ
Trong hai hạnh chánh tạp
Hãy bỏ các tạp hạnh
Chọn về đúng chánh hạnh.[167]
Nếu muốn tu chánh hạnh
Trong hai nghiệp chánh trợ
Gạt một bên trợ nghiệp
Chọn chuyên tu chánh định.[168]
Và nghiệp của chánh định
Tức là xưng danh Phật
Xưng danh ắt vãng sinh
Vì nương bản nguyện Phật.”[169]
(69)
Biết rõ, đó chẳng phải là hạnh tự lực của phàm Thánh, nên gọi là hạnh Bất hồi hướng.[170] Bậc Thánh lớn nhỏ, kẻ ác nặng nhẹ[171], đều cùng nhau trở về biển cả ‘tuyển trạch đại bảo’[172], niệm Phật thành Phật.
(70)
Thế nên, Luận Chú viết: “Quốc độ An Lạc kia, ai cũng được hóa sinh trong hoa sen thanh tịnh chánh giác của A Di Đà Như Lai, vì cùng niệm một Phật, không có con đường riêng.”[173]
(71)
Như vậy, người có được hành tín chân thật, thì tâm nhiều hoan hỷ, đó gọi là Hoan hỷ địa. Đây là dụ cho Sơ quả. “Thánh giả Sơ quả giả sử còn thụy miên, giải đãi, thì không đến được hai mươi chín hữu.” [174] Huống chi biển cả ‘quần sinh mười phương’ đều quy mạng Đức Phật, và Ngài nhiếp thủ không bỏ người hành tín chân thật ấy, nên gọi là Đức Phật A Di Đà. Đó gọi là tha lực. Vì thế, Đại sĩ Long Thọ nói là “tức thời nhập Tất định”[175], Đại sư Đàm Loan gọi là “số người nhập chánh định tụ”[176]. Kính mộ thì nên nương tựa đây, chuyên tâm thì nên thực hành đây.
(72)
Thật biết, không có đức hiệu của Từ phụ thì thiếu sót nhân năng sinh; không có quang minh của Bi mẫu thì trái ngược duyên sở sinh. Nhân duyên năng sở tuy có thể hòa hợp, nhưng không có tín tâm và nghiệp thức thì không đến được cõi quang minh. Chân thật tín tâm và nghiệp thức, đây là nội nhân; danh hiệu của cha và quang minh của mẹ, đây là ngoại duyên. Nhân duyên nội ngoại hòa hợp, thì đắc chứng báo độ, chân thân. Cho nên Tông sư nói: “Dùng quang minh và danh hiệu để nhiếp hoá mười phương, chỉ muốn chúng sinh tín tâm, cầu sinh, xưng niệm.”[177] Lại nói: “Niệm Phật thành Phật là Chân tông.”[178] Lại nói: “Chân tông khó gặp.”[179] Đáng biết.
(73)
Nói về hành và tín của Vãng tướng hồi hướng: hành có một niệm, và tín có một niệm. Một niệm của hành là “con số biến xưng danh”, là chỉ bày và lựa chọn sự “dị hành chí cực”[180].
(74)
Cho nên kinh Đại Bản nói: “Phật bảo Di Lặc: Có ai được nghe danh hiệu Ðức Phật Vô Lượng Thọ mà hoan hỷ phấn chấn, dù chỉ một niệm, phải biết người ấy đã được lợi lớn, là đã đầy đủ công đức vô thượng.”[181]
(75)
Hòa thượng chùa Quang Minh nói: “Tối thiểu một niệm”. Lại nói: “Một tiếng một niệm”. Lại nói: “Chuyên tâm chuyên niệm”.[182]
(76)
Tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi, quyển hạ, Sa-môn Trí Thăng nói: “Thâm tâm tức là tín tâm chân thật. Tin biết tự thân là phàm phu có đủ phiền não, thiện căn ít ỏi, bị lưu chuyển trong ba cõi, không ra khỏi nhà lửa. Nay tin biết bản hoằng thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà và xưng niệm danh hiệu, tối thiểu mười tiếng một tiếng, thì nhất định được vãng sinh, và dù chỉ một niệm mà không có lòng nghi, nên gọi là thâm tâm.”
(77)
Kinh nói “nãi chí” (乃至: dù chỉ). Thích kinh ghi “hạ chí” (下至: tối thiểu). Nãi chí và hạ chí dẫu có khác, nhưng ý nghĩa như nhau. Lại nữa, “nãi chí” mang ý nghĩa bao hàm một và nhiều.[183]
Nói “lợi lớn” là đối “lợi nhỏ”. Nói “vô thượng” là đối “hữu thượng”.
Tin biết, “lợi lớn” và “[công đức] vô thượng”, là lợi ích của Nhất thừa chân thật. “Lợi nhỏ” và “[công đức] hữu thượng”, là tám vạn bốn ngàn giả môn.
Chuyên tâm, tức là nhất tâm, sắc thái không hai tâm.
Chuyên niệm, tức là nhất hạnh, sắc thái không hai hạnh.
Đức Phật phó chúc Bồ-tát Di Lặc: “Một niệm”, tức là “một tiếng”. “Một tiếng” tức là “một niệm”. “Một niệm” tức là một hạnh. Một hạnh tức là chánh hạnh. Chánh hạnh tức là chánh nghiệp. Chánh nghiệp tức là niệm Phật, đó là “Nam mô A Di Đà Phật” vậy.[184]
(78)
Như vậy, nương thuyền đại bi nguyện, xuôi biển rộng quang minh[185], chí đức là gió lặng, các họa là sóng chuyển, liền phá vô minh che lấp, mau đến quốc độ Vô Lượng Quang Minh, chứng Đại Bát-niết-bàn (Mahāparinirvāṇa), thuận theo đức hạnh của Phổ Hiền. Đáng biết.
(79)
An Lạc Tập nói: “Kinh ghi: ‘Mười niệm tương tục là một mạch danh hiệu của Đức Phật vậy.’ Chỉ có thể dồn niệm dừng nghĩ, không duyên việc gì khác, miễn đạo nghiệp hoàn thành mới thôi, cũng không nhọc ghi nhớ đếm số. Lại nói: ‘Người niệm Phật đã lâu, phần nhiều y theo đây. Người bắt đầu niệm Phật thì ghi nhớ đếm số cũng tốt.’ Đây cũng y theo lời Phật dạy.”[186]
(80)
Đây là minh chứng cho “Hiển chân thật hành”. Thật biết, bản nguyện “tuyển trạch nhiếp thủ” là thắng hạnh siêu thế hy hữu, chánh pháp “viên dung chân diệu” là đại hạnh chí cực vô ngại. Đáng biết.
(81)
Tha lực là bản nguyện lực của Như Lai.
(82)
Luận nói:
“Bản nguyện lực: là đại Bồ-tát thường an trú tam-muội ở trong Pháp thân, mà hiện đủ loại thân, đủ loại thần thông, đủ loại thuyết pháp, đều sinh khởi từ bản nguyện lực. Ví như cây đàn của A-tu-la, tuy không người đánh mà âm khúc tự nhiên phát. Đó gọi là tướng công đức thứ năm của giáo hóa địa.”
“Bồ-tát nhập bốn chủng môn, hạnh tự lợi thành tựu, nên biết:
Thành tựu, là tự lợi đầy đủ.
Nên biết, là nên biết do tự lợi mà có thể lợi tha, chẳng phải không thể tự lợi mà có thể lợi tha.”
“Bồ-tát xuất môn thứ năm, hạnh lợi ích tha hồi hướng thành tựu, nên biết:
Thành tựu, là đem nhân hồi hướng mà chứng quả giáo hóa địa. Hoặc nhân, hoặc quả, không có một sự nào mà không lợi người.
Nên biết, là nên biết do lợi tha mà có thể tự lợi, chẳng phải không thể lợi tha mà có thể tự lợi.”
“Bồ-tát tu năm môn[187] như vậy, hành tự lợi, lợi tha, mau được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề:
Pháp của Phật chứng đắc gọi là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì được Bồ-đề này, nên gọi là Phật. Nay nói mau đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, là được sớm thành Phật.
A, là vô. Nậu-đa-la, là thượng. Tam-miệu, là chánh. Tam, là biến. Bồ-đề, là đạo. Dịch chung lại là Vô thượng Chánh biến đạo.
Vô thượng, là nói đạo này cùng lý tận tánh, không còn gì hơn nữa. Vì sao nói vậy? Bởi vì là chánh. Chánh, là Thánh trí. Như pháp tướng mà biết, nên gọi là Chánh trí. Pháp tánh vô tướng, nên Thánh trí vô tri. Biến, có hai thứ: một là, Thánh tâm biến tri tất cả pháp; hai là, Pháp thân biến mãn pháp giới. Hoặc thân, hoặc tâm, không gì không cùng khắp. Đạo, là vô ngại đạo.
Kinh nói: “Mười phương người vô ngại, Một đạo thoát sinh tử.”[188] Một đạo, là một đạo vô ngại. Vô ngại, là biết sinh tử tức Niết-bàn. Đại loại như vậy, nhập ‘vô ngại tướng’ của ‘pháp môn Bất nhị’.
Hỏi: Có nhân duyên gì mà nói mau đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?
Đáp: Luận nói, tu năm môn hạnhđể tự lợi, lợi tha thành tựu. Nhưng xét gốc rễ, thì A Di Đà Như Lai là tăng thượng duyên.
Người lợi cùng với lợi người, luận ra có hai mặt: từ Phật mà nói, thì nói là lợi người; từ chúng sinh mà nói, thì nói là người lợi.
Nay sẽ bàn về Phật lực, cho nên lấy lợi người để nói, phải biết ý này. Sự sinh Tịnh độ kia, và Bồ-tát, người, trời cõi kia phát khởi các hạnh, đều vin nơi bản nguyện lực của A Di Đà Như Lai. Vì sao nói vậy? Nếu chẳng phải Phật lực thì bốn mươi tám nguyện bèn là không tác dụng.
Nay lấy ba nguyện để chứng minh nghĩa ý:
Nguyện rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi, dù chỉ mười niệm, nếu không được sinh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và gièm chê chánh pháp.”[189]
Do duyên nguyện lực của Phật mà mười niệm niệm Phật sẽ được vãng sinh. Do được vãng sinh, tức khỏi bị các sự luân chuyển Tam giới. Do không luân chuyển, cho nên “mau được”. Đây là chứng cứ thứ nhất.
Nguyện rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhân ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ, quyết đến diệt độ thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”[190]
Do duyên nguyện lực của Phật nên trụ chánh định tụ. Do trụ chánh định tụ mà quyết đến diệt độ. Không bị cái nạn lưu chuyển trở lại, cho nên “mau được”. Đây là chứng cứ thứ hai.
Nguyện rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi nước khác sinh về nước tôi, rốt ráo quyết đến bậc Nhất sinh bổ xứ. Trừ người có bản nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sinh mà mặc giáp hoằng thệ, dồn chứa công đức, độ thoát tất cả, đi qua các nước Phật, tu hạnh Bồ-tát, cúng dường chư Phật Như Lai mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sinh, khiến họ đứng nơi đạo chánh chân vô thượng, vượt hơn công hạnh thông thường ở các địa, hiện tiền tu tập đức hạnh của Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”[191]
Do duyên nguyện lực của Phật mà vượt hơn công hạnh thông thường ở các địa, hiện tiền tu tập đức hạnh của Phổ Hiền. Do vượt hơn công hạnh thông thường ở các địa, cho nên “mau được”. Đây là chứng cứ thứ ba.
Theo đây mà suy, tha lực là tăng thượng duyên, chẳng phải vậy hay sao? Lại dẫn thí dụ để nói sắc thái tự lực và tha lực: Như có người lo sợ ba đường dữ bèn thọ trì cấm giới. Do thọ trì cấm giới mà có thể tu thiền định. Do tu thiền định mà tu tập thần thông. Do thần thông mà có thể dạo chơi bốn thiên hạ. Những sự như thế gọi là tự lực. Lại như kẻ yếu ớt, trèo lên lưng lừa không nổi, theo Chuyển Luân Vương du hành, bèn bay lên hư không, dạo chơi bốn thiên hạ chẳng bị chướng ngại. Những sự như thế gọi là tha lực. Ngu thay! Người học đời sau, nghe tha lực có thể nương cậy, hãy sinh tín tâm, đừng tự hạn cuộc vậy.” [192]
(83)
Luật sư Nguyên Chiếu nói: “Hoặc đối với việc phá mê chứng thật ở cõi này, cần phải vận dụng tự lực, cho nên diễn thuyết các kinh Đại thừa, Tiểu thừa; hoặc sinh về phương khác nghe pháp ngộ đạo, cần phải nương vào tha lực, cho nên trình bày về vãng sinh Tịnh độ. Đây kia tuy khác nhưng tất cả đều là phương tiện khiến ngộ được tự tâm.”[193]
(84)
Nhất thừa hải (一乗海): Nhất thừa là Đại thừa. Đại thừa là Phật thừa. “Đắc Nhất thừa, tức đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tức là cảnh giới Niết-bàn. Cảnh giới Niết-bàn tức là pháp thân Như Lai. Đắc cứu cánh Pháp thân chính là đắc cứu cánh Nhất thừa. Như Lai và Pháp thân không khác. Như Lai tức Pháp thân. Đắc cứu cánh Pháp thân cũng là đắc cứu cánh Nhất thừa. Cứu cánh nghĩa là vô biên bất đoạn.”[194] Đại thừa không có Nhị thừa, Tam thừa. Nhị thừa, Tam thừa cũng là để đưa về Nhất thừa. Nhất thừa tức là đệ nhất nghĩa thừa, chỉ là thệ nguyện Nhất Phật thừa vậy.
(85)
Kinh Niết-bàn nói: “Thiện nam tử ! Thật đế thì gọi là Ðại thừa. Chẳng phải Ðại thừa thì không gọi là Thật đế. Thiện nam tử ! Thật đế là lời của Phật nói, chẳng phải là lời của ma nói. Nếu là lời của ma nói, chẳng phải là lời của Phật nói, thì không gọi là Thật đế. Thiện nam tử ! Thật đế là một đạo thanh tịnh, không có hai vậy.”[195]
(86)
Lại nói: “Sao gọi là Bồ-tát tin thuận một thật ? Bồ-tát biết rõ tất cả chúng sinh đều về một đạo. Một đạo là gọi Ðại thừa vậy. Các Đức Phật, Bồ-tát vì chúng sinh nên phân thừa đó làm ba. Thế nên Bồ-tát tín thuận chẳng trái nghịch.”[196]
(87)
Lại nói: “Thiện nam tử ! Tất cánh có hai thứ, một là trang nghiêm tất cánh, hai là cứu cánh tất cánh. Một là thế gian tất cánh, hai là xuất thế gian tất cánh. Trang nghiêm tất cánh là sáu Ba-la-mật. Cứu cánh tất cánh là tất cả chúng sinh đều có Nhất thừa. Nhất Thừa đó gọi là Phật tánh. Do nghĩa này nên Phật nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có Nhất thừa, nhưng vì vô minh che lấp nên chẳng thấy được.” [197]
Lại nói: “Sao gọi là nhất? Tất cả chúng sinh đều là Nhất thừa. Sao gọi là phi nhất? Là nói về Ba thừa. Sao gọi là phi nhất phi phi nhất? Là vô số pháp.”[198]
(88)
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Văn Thù ! Pháp thường vậy
Pháp vương chỉ một pháp
Tất cả người vô ngại
Một đạo thoát sinh tử
Tất cả thân chư Phật
Chỉ là một Pháp thân
Một tâm, một trí tuệ
Lực vô úy cũng vậy.”[199]
(89)
Như vậy, sự giác ngộ toàn hảo đều lấy đại lợi của tịnh độ An Dưỡng và chí đức của Phật nguyện khó nghĩ.[200]
(90)
Hải (海): Từ lâu xa đến nay, chuyển nước sông “tạp tu, tạp thiện[201] của phàm Thánh” và chuyển nước biển “nghịch báng, xiển-đề, hằng sa vô minh” thành nước đại bảo hải của “bản nguyện, đại bi, trí tuệ, chân thật, hằng sa vạn đức,” dụ đó như biển. Bởi vì, như Kinh nói rằng: “Băng phiền não tan thành nước công đức.”[202]
Nguyện hải (願海): Không thể giữ lại thây chết “tạp thiện trung hạ của Nhị thừa”, huống chi giữ thiện nghiệp “hư giả, tà ngụy”[203] của nhân thiên, giữ thây chết “tạp độc, tạp tâm”[204] ư!
(92)
Cho nên kinh Đại Bản nói:
“Thanh Văn hoặc Bồ-tát
Chẳng xét được tâm Phật
Ví như kẻ mù lòa
Muốn làm người dẫn đạo.
Biển trí tuệ Như Lai
Sâu rộng không bờ bến
Nhị thừa chẳng lường được
Chỉ riêng Phật tỏ rõ.”[205]
(93)
Tịnh Độ Luận nói: “Thế nào là thành tựu ‘bất hư tác trụ trì công đức trang nghiêm’?
Kệ rằng:
Quán Phật Bản nguyện lực
Ai gặp không luống qua
Khiến được mau đầy đủ
Biển báu lớn công đức.[206]
Sự thành tựu ‘bất hư tác trụ trì công đức trang nghiêm’: Đó là bản nguyện lực của A Di Đà Như Lai. Nay lược nói tướng ‘hư tác’ không thể trụ trì, để nêu rõ nghĩa ‘bất hư tác trụ trì’. (…)[207] Nói ‘bất hư tác trụ trì’, là y theo bốn mươi tám bản nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng, ngày nay là thần lực tự tại của A Di Đà Như Lai. Nguyện để thành lực, lực để tựu nguyện. Nguyện chẳng luống không, lực chẳng dối bày. Lực nguyện hợp nhau, rốt cuộc không sai, nên gọi là thành tựu.”[208]
(94)
“Hải (海): Chỉ cho Nhất thiết chủng trí của Phật, nó sâu rộng vô bờ, không chứa các thây chết “tạp thiện trung hạ của Nhị thừa”, dụ đó như biển. Cho nên nói, “Trời người chúng bất động, Biển trí thanh tịnh sinh.” Bất động, là nói trời người cõi kia thành tựu căn tánh Đại thừa, không thể khuynh động.”[209]
(95)
Hòa thượng chùa Quang Minh nói:
“Tôi y Bồ-tát tạng
Biển Nhất thừa Đốn giáo.”[210]
(96)
Lại nói:
“Trong kinh An Lạc nói Tiệm giáo
Vạn kiếp tu công chứng Bất thối.
Quán Kinh, Di Đà Kinh đều nói
Chính là Bồ-tát tạng Đốn giáo.”[211]
(97)
Lạc Bang Văn Loại, Thiền sư Tông Hiểu nói: “Một viên hoàn đan, biến sắt thành vàng; một lời chân lý, chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện.” [212]
(98)
Xét về Giáo, giữa niệm Phật và các điều thiện, so sánh đối luận có: khó dễ đối, đốn tiệm đối, ngang dọc đối, cao thấp đối, thuận nghịch đối, lớn nhỏ đối, nhiều ít đối, hơn kém đối, thân sơ đối, gần xa đối, sâu cạn đối, mạnh yếu đối, trọng khinh đối, rộng hẹp đối, thuần tạp đối, thẳng quanh đối, nhanh chậm đối, thông biệt đối, bất thối thối đối, trực biện nhân minh đối, danh hiệu định tán đối, lý tận phi lý tận đối, khuyến vô khuyến đối, vô gián gián đối, đoạn bất đoạn đối, tương tục bất tương tục đối, vô thượng hữu thượng đối, thượng thượng hạ hạ đối, tư nghị bất tư nghị đối, nhân hành quả đức đối, tự thuyết tha thuyết đối, hồi hướng bất hồi hướng đối, hộ bất hộ đối, chứng bất chứng đối, tán bất tán đối, phó chúc bất phó chúc đối, liễu giáo bất liễu giáo đối, căn cơ đảm đương không đảm đương đối, tuyển bất tuyển đối, chân giả đối, Phật diệt bất diệt đối, Pháp diệt bất diệt đối, lợi bất lợi đối, tự lực tha lực đối, hữu nguyện vô nguyện đối, nhiếp bất nhiếp đối, nhập định tụ bất nhập định tụ đối, báo hóa đối.[213] Nghĩa đây như thế, nhưng xét giáo pháp của Nhất thừa Bản nguyện hải, đó là giáo pháp viên dung mãn túc, cực tốc vô ngại, tuyệt đối bất nhị vậy.[214]
(99)
Và xét về Cơ, đối luận có: tín nghi đối, thiện ác đối, chánh tà đối, đúng sai đối, thật giả đối, chân ngụy đối, sạch dơ đối, lợi độn đối, chậm gấp đối, sang hèn đối, sáng tối đối.[215] Nghĩa đây như thế, nhưng xét căn cơ của Nhất thừa hải, đó là căn cơ Kim cương tín tâm, tuyệt đối bất nhị vậy. Đáng biết.
(100)
Kính bạch tất cả những người vãng sinh: Hoằng thệ Nhất thừa hải, là thành tựu chí đức vô ngại, vô biên, tối thắng, thâm diệu, bất khả thuyết, bất khả xưng, bất khả tư nghị. Vì sao? Vì thệ nguyện thì không thể nghĩ bàn. Bi nguyện dụ như hư không rộng lớn, công đức vi diệu thì rộng lớn vô biên. Giống như một cổ xe vĩ đại, có thể chuyên chở tất cả các phàm Thánh. Giống như đóa hoa sen mầu, không bị các pháp thế gian làm ô nhiễm. Giống như dược vương Thiện Kiến, có thể trừ diệt mọi bệnh phiền não.[216] Giống như con dao bén, có thể cắt đứt mọi áo giáp kiêu mạn. Giống như ngọn cờ của dũng tướng, có thể khuất phục được tất cả ma quân. Giống như cái cưa bén, nó có thể đốn hạ tất cả cây vô minh. Như lưỡi rìu sắc, có thể chặt những cây khổ đau. Giống như một thiện tri thức, có thể tháo gỡ mọi trói buộc của sinh tử. Giống như một đạo sư, khéo cho biết yếu đạo để phàm phu xuất ly [sinh tử]. Giống như con suối ngầm, chảy ra nguồn nước trí tuệ vô cùng tận. Giống như hoa sen, không nhiễm tất cả những tội cấu. Giống như cơn gió mạnh, có thể xua tan sương mù ‘tất cả chướng’. Giống như mật ngon ngọt, đầy đủ mùi vị ‘tất cả công đức’. Giống như con đường chân chánh, khiến các quần sinh đi vào thành trí tuệ. Giống như thỏi nam châm, thu hút nhân tố ‘bản nguyên’. Giống như khối vàng diêm-phù-đàn, che chói sáng tất cả pháp lành hữu vi. Giống như phục tạng, có thể thu nhiếp tất cả Phật pháp. Cũng như đại địa, nơi ba đời mười phương tất cả Như Lai xuất hiện. Như ánh sáng mặt trời, phá tan mọi ngu si che lấp phàm phu, sinh ra tín lạc. Giống như đấng quân vương, vượt trội hơn tất cả bậc thượng thừa. Giống như người cha nghiêm, dạy bảo tất cả phàm Thánh. Giống như người mẹ hiền, sinh trưởng nhân chân thật[217] cho báo độ của tất cả phàm Thánh. Giống như một nhũ mẫu, nuôi dưỡng và gìn giữ tất cả người thiện ác vãng sinh. Giống như đất rộng, có thể nắm giữ mọi sự vãng sinh. Giống như nước lũ, có thể cuốn trôi mọi bụi bẩn phiền não. Giống như lửa lớn, có thể thiêu rụi củi kiến chấp. Giống như gió mạnh, du hành khắp thế gian không chướng ngại.[218]
[Những công đức của bi nguyện có thể đưa chúng sinh] ra ngoài tường thành ‘ba cõi trói buộc’, đóng sập cánh cửa ‘hai mươi lăm hữu’, được sống nơi báo độ chân thật, nhận rõ đường đi tà chánh, khô cạn biển ngu si, chảy vào biển thệ nguyện. Nương thuyền Nhất thiết trí, trôi trong biển quần sinh, viên mãn khối phước trí, mở bày tạng phương tiện. Tốt thay được vâng giữ, riêng đem đỉnh đầu đội lên.
(101)
Nói đến thệ nguyện, có chân thật hành tín, cũng có phương tiện hành tín. Nguyện của chân thật hành là Chư Phật xưng danh nguyện[219]. Nguyện của chân thật tín là Chí tâm tín lạc nguyện[220]. Đây chính là hành tín của Tuyển trạch bản nguyện[221].
Căn cơ, là tất cả phàm ngu lớn nhỏ thiện ác. Vãng sinh, là nan tư nghị vãng sinh[222]. Phật độ, là báo độ của Báo Phật[223]. Đây chính là Thệ nguyện bất tư nghị Nhất thật chân như hải[224], là tông giáo của kinh Đại Vô Lượng Thọ, là chánh ý của Tha lực chân tông[225].
Lấy đó để “tri ân báo đức”, lật xem lời giải thích của Tông sư: “Bồ Tát quy hướng Phật, như con hiếu hướng về cha mẹ, như tôi trung hướng về quân vương, động tĩnh chẳng tự ý, ra vào phải lý do. Tri ân báo đức, theo lý phải thưa trước. Lại nữa, sở nguyện không hề nhẹ, nếu Như Lai không tiếp thêm oai thần, làm sao thành tựu được? Cầu xin ban thần lực, nên ngẩng đầu thưa bạch.”[226]
[1] Nhất thật 一實: Chân như. Nhất, là nghĩa bình đẳng. Gọi thật tướng bình đẳng của các pháp là nhất thật. Tam Tạng Pháp Số, quyển 4: “Nhất thật đế, là lý ‘nhất thật tướng trung đạo’. Không có hư vọng, không có điên đảo, gọi là Nhất thật đế.” Tứ Giáo Nghi, quyển 1: “Sở chứng kiến của chư Phật, Bồ-tát thì chắc thật không hư dối, gọi đó là đế.” Ở đây, Chân như nhất thật là bản nguyện của Đức Phật A Di Đà.
[2] Công đức bảo hải: biển đại bảo công đức. Danh hiệu Đức Phật A Di Đà là biển cả công đức.
[3] Kinh Vô Lượng Thọ: “Chư Phật Như Lai ở những quốc độ mười phương thường ca ngợi đức Vô Lượng Thọ Phật chẳng chướng ngại chẳng nhiễm trước.”
[4] Chư Phật tư ta nguyện (諸佛咨嗟願): Còn gọi là Chư Phật xưng thán nguyện (諸佛稱歎願), Chư Phật đồng tán danh tự nguyện (諸佛同讚名字願), Chư Phật xưng danh nguyện (諸佛稱名願), Chư Phật xưng dương nguyện (諸佛稱揚願). Là nguyện thứ 17 trong 48 nguyện của Phật A Di Đà, tức là thệ nguyện chư Phật đề cao, khen ngợi danh hiệu của Phật A Di Đà. Kinh Vô Lượng Thọ, quyển thượng, có chép lời thệ nguyện ấy như sau (Đại 12, 268 thượng): “Nếu tôi được thành Phật mà chư Phật trong mười phương vô lượng thế giới đều không tán thán danh hiệu của tôi, thì tôi sẽ không giữ lấy ngôi chánh giác.” Tư ta: tán thán, cảm thán.
[5] Nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà là “tuyển trạch bản nguyện”, cũng gọi là “chí tâm tín nhạo nguyện”, “vãng tướng tín tâm nguyện”. Đây là một điều nguyện quan trọng nhất trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà. Gọi là “tuyển trạch bản nguyện” là vì khi Đức Phật A Di Đà phát nguyện ở nhân địa, Ngài dùng “xưng danh nhất hạnh” để làm hành pháp cho chúng sinh vãng sinh. Đây không phải là một hành động ngẫu nhiên, mà là một sự lựa chọn đặc biệt của Đức Phật A Di Đà sau năm kiếp suy nghĩ sâu xa.
[6] Nguyện thành tựu văn (願成就文): Gọi tắt là Thành tựu văn. Kinh văn nói về việc Đức Phật A Di Đà phát nguyện thành tựu Phật quả khi còn ở địa vị tu nhân. Kinh Vô Lượng Thọ, quyển thượng, ghi lời nguyện thứ 11 của Ngài như sau (Đại 12, 268 thượng): “Nếu tôi được thành Phật mà những trời, người trong cõi nước của tôi không trụ ở chánh định cho đến khi được diệt độ, thì tôi sẽ không lên ngôi Chánh giác. Cũng kinh trên, quyển hạ, thuật lại tướng thành tựu như sau (Đại 12, 272 trung): “Nếu có những chúng sinh được sinh về nước kia thì tất cả đều trụ nơi chánh định. Tại sao vậy? Vì trong nước Phật kia không có tà tụ và bất định tụ.”
[7] Phục tàng (伏藏): Kho báu ẩn giấu trong lòng đất. Trong nhà cô gái nghèo có chôn giấu của báu, nhưng cô gái tội nghiệp không biết, và được bậc trí giả dạy để khám phá nó, dụ cho chúng sinh không biết ngay tự thân mình có Phật tánh, đợi đến lúc Phật thuyết pháp chỉ dạy mới giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết-bàn, phẩm Như Lai Tánh: "Nầy Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, tất cả chúng sanh chẳng nhận thấy được. Khác nào cô gái nghèo có kho vàng mà chẳng biết. Hôm nay ta chỉ bày Phật tánh sẵn có của tất cả chúng sanh hiện bị các phiền não che đậy. Như cô gái nghèo kia trong nhà sẵn có kho vàng nhưng không thấy được. Hôm nay đức Như-Lai chỉ bày kho báu giác tánh cho chúng sanh, đây chính là Phật tánh. Chúng sanh thấy được tánh nầy lòng rất vui mừng quy ngưỡng đức Như-Lai.”
[8] Kinh Đại Bảo Tích (大寶積經, No. 310), Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai, quyển 17, tr. 94c29 và 95a14.
[9] Kinh Đại Bảo Tích (大寶積經, No. 310), Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai, quyển 17, tr. 98a17. Nghĩa lợi, là ba bậc vãnh sinh: thượng, trung và hạ. “Những chúng sinh ở cõi Phật phương khác nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Như Lai, cho đến phát một niệm tịnh tín, hoan hỷ ưa thích, có bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng nguyện sinh về quốc độ của Vô Lượng Thọ Như Lai, thì tùy nguyện đều được vãng sinh, được bậc bất thối chuyển, nhẫn đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ trừ kẻ phạm ngũ vô gián, kẻ phá hoại chánh pháp và phỉ báng bậc Thánh.” (tr. 97c22)
[10] Phật Thuyết Chư Phật A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (佛説諸佛阿彌陀三耶三佛薩樓佛檀過度人道經), còn gọi là Đại A Di Đà Kinh (大阿彌陀經), A Di Đà Kinh (阿彌陀經), Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經), Quá Độ Nhân Đạo Kinh (過度人道經), Nhị Thập Tứ Nguyện Kinh (二十四願經), Đại tạng kinh 12, Bảo tích bộ, No. 362, Chi Khiêm dịch, ghi lại tiền thân của Đức Phật A Di Đà là Tỳ-kheo Pháp Tạng cùng với hai mươi bốn nguyện, rồi tả quốc độ Tu-ma-đề của Đức Phật ấy với việc kế ngôi của Bồ-tát Quán Âm và Đại Thế Chí, cũng như việc vãng sinh của ba hạng người về nước đó.
[11] Phật thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (佛説無量清淨平等覺經), No. 361, Chi Lâu Ca Sấm (支婁迦讖, 147-?) dịch, tr. 281b27.
[12] Kinh Phật Thuyết Chư Phật A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo: “Nguyện thứ năm: Giả sử khi tôi thành Phật, khiến cho tám phương trên dưới, vô số chư Thiên, nhân dân và loài bò bay máy cựa, nếu đời trước làm việc ác, nghe danh hiệu tôi, muốn sinh về nước tôi, liền cải đổi tự hối lỗi, làm đạo tác thiện, trì kinh giữ giới, nguyện muốn sinh nước tôi không ngừng nghỉ, thọ mạng hết đều không còn sinh vào nê lê, cầm thú, bệ lệ, liền sinh về nước tôi theo sở nguyện nơi tâm. Được như nguyện này tôi mới thành Phật, không được như nguyện này trọn không thành Phật.” (tr. 301b14)
[13] Phật thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, tr. 282c17-28.
[14] Phát đạo ý (發道意): Phát Bồ-tát ý, phát khởi đạo tâm, phát Bồ-đề tâm, phát ý cầu đạo Vô thượng Chánh chân.
[15] Phật thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, tr. 288b10-289a02. Trên đây là một phần của chỉnh cú được gọi Đông Phương Kệ (東方偈), cũng gọi Vãng Quán Kệ (往覲偈), cũng gọi Tán Trùng Kệ (讃重偈) ở trong các bản Kinh Vô Lượng Thọ.
[16] Kinh Bi Hoa (悲華經), No. 157, Tam tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm dịch. Chánh văn ghi là phẩm Đại Thí thứ 3, nhưng đoạn trích dẫn ở phẩm Bồ-tát Bản Thọ Ký thứ 4, tr. 184b10.
[17] Tu chư thiện bản (修諸善本): Là tu phước đức và tri tuệ, là có đủ thiện căn. Căn bản của thiện căn là “niệm Phật”. Thực chư thiện bản (植諸善本): Đời trước tu phước tuệ.
[18] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú (無量壽經優婆提舍願生偈註), No. 1819 [cf. No. 1524], Đàm Loan chú giải, quyển hạ, tr. 835b18: “Danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai kia có thể phá trừ tất cả vô minh của chúng sinh, có thể thành mãn tất cả chí nguyện của chúng sinh.” (彼無礙光如來名號能破衆生一切無明, 能滿衆生一切志願.) Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá, do Bồ-tát Thế Thân biên soạn, còn gọi là Vãng Sanh Tịnh Độ Luận, gọi đơn giản là Vãng Sinh Luận, hoặc gọi là Tịnh Độ Luận.
[19] Xưng danh là ca ngợi, trì tụng, tin tưởng và thiền định về Thánh hiệu A Di Đà Phật. Xưng danh là chánh nghiệp chân diệu tối thắng vì nó bao gồm tất cả thiện pháp và tất cả thiện căn công đức, vì nó là chân lý tối thắng và chân như bất khả tư nghị, vì nó là kho tàng công đức vô lượng, diệu dụng vô biên và ánh sáng vô cùng của A Di Đà Như lai.
[20] Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, quyển 1, phẩm Tựa, tr. 22b28: “Tôi nay tạo luận này, Đế - xả và diệt - tuệ, Là bốn công đức xứ, Tự nhiên mà tu tập” (我今造此論, 諦捨及滅慧, 是四功徳處 , 自然而修集.) “Lại nữa, bốn công đức xứ: đế, xả, diệt, tuệ, gọi là Như Lai.” (tr. 25b04) “Có người nói: Bốn công đức xứ, đó là: đế, xả, diệt, tuệ. Chư Như Lai từ trong đây sinh ra, cho nên gọi là nhà Như Lai.” (tr. 25b19)
[21] Hữu, chỉ cho các cảnh giới còn trong vòng sinh tử luân hồi, không giải thoát. Vì vậy, tam giới cũng được gọi là tam hữu: Dục hữu, Sắc hữu, Vô-sắc hữu. Tam giới chia thành 25 hữu (nhị thập ngũ hữu): Địa ngục, Ngạ quỉ, Bàng sinh, A-tu-la, Đông Thắng-thần châu, Nam Thiệm-bộ châu, Tây Ngưu-hóa châu, Bắc Câu-lô châu, Tứ thiên vương thiên, Đao lợi thiên, Đâu suất thiên, Dạ ma thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, Sơ thiền thiên, Đại Phạm thiên, Nhị thiền thiên, Tam thiền thiên, Tứ thiền thiên, Vô tưởng thiên, Ngũ Tịnh cư thiên, Không vô biên xứ thiên, Thức vô biên xứ thiên, Vô sở hữu xứ thiên, Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên. Chia nhỏ hơn nữa thì có 29 hữu (nhị thập cửu hữu): cũng 25 hữu trên, nhưng đem Ngũ Tịnh cư thiên chia ra thành 5 hữu: Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện kiến thiên, Thiện hiện thiên, Sắc cứu cánh thiên. Những nghiệp nhân thiện, ác dẫn đến thọ các quả báo thiện ác ở các cảnh giới này, gọi là nhân hữu lậu và quả báo hữu lậu.
[22] Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa (十住毘婆沙論), No. 1521, Bồ-tát Long Thọ tạo, quyển 1, phẩm Tựa, tr. 25c03-26a10.
[23] Kinh Thập Trú, No. 286, Cưu-ma-la-thập dịch, quyển 1, tr. 500c01: “Các Phật Tử ! Các Bồ-tát trú Hoan Hỷ địa này, do niệm chư Phật mà sinh tâm hoan hỷ, do niệm các pháp của Phật mà sinh tâm hoan hỷ, do niệm các Đại Bồ-tát mà sinh tâm hoan hỷ, do niệm sở hành của các Bồ-tát mà sinh tâm hoan hỷ, do niệm tướng thanh tịnh của các Ba-la-mật mà sinh tâm hoan hỷ, do niệm các Bồ-tát với những thù thắng mà sinh tâm hoan hỷ, do niệm các Bồ-tát có cái lực không thể phá hoại mà sinh tâm hoan hỷ, do niệm pháp giáo hóa của chư Như Lai mà sinh tâm hoan hỷ, do niệm luôn vì lợi ích chúng sinh mà sinh tâm hoan hỷ, do niệm tất cả Phật, tất cả Bồ-tát đã nhập trí tuệ môn phương tiện mà sinh tâm hoan hỷ.”
[24] Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, quyển 10, phẩm Bốn Mươi Pháp Bất Cộng, tr. 71c19: “Bốn mươi pháp bất cộng là: (1) Phi hành tự tại; (2) Biến hóa vô lượng; (3) Thánh như ý vô biên; (4) Văn thanh tự tại; (5) Trí lực vô lượng biết tâm người khác; (6) Tâm được tự tại; (7) Thường ở an tuệ xứ; (8) Thường không sai lầm; (9) Được sức mạnh của Kim cương Tam muội; (10) Khéo biết sự bất định; (11) Khéo biết sự Vô sắc định; (12) Thông hiểu đầy đủ các sự vĩnh diệt; (13) Khéo biết tâm bất tương ưng vô sắc pháp; (14) Đại thế Ba-la-mật; (15) Vô ngại Ba-la-mật; (16) Tất cả hỏi đáp và thọ ký đều trả lời đầy đủ bằng Ba-la-mật; (17) Đầy đủ tam chuyển pháp luân; (18) Pháp đã thuyết không trống rỗng; (19) Pháp đã thuyết không có sai lầm; (20) Không ai có thể làm hại; (21) Bậc Đại tướng giữa các Hiền Thánh; (22)-(25) Bốn bất thủ hộ (thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp và tài sản); (26)-(29) Bốn vô sở úy; (30)-(39) Mười lực của Phật; (40) Vô ngại giải thoát.”
[25] Luận Đại Trí Độ, quyển 13, tr. 155c21: “Lại nữa, hành giả nên học pháp đại nhân. Trong hết thảy đại nhân, Phật là tối đại, vì cớ sao? Vì tất cả trí tuệ được thành tựu, mười trí lực đầy đủ, hay độ chúng sanh, thường hành từ mẫn, giữ giới sát sanh, tự được thành Phật, cũng dạy đệ tử thực hành tâm từ mẫn đó.” (H.T Thích Thiện Siêu dịch)
[26] Tát-bà-nhã trí (薩婆若智) = Nhất thiết trí: Tuệ giác biết toàn thể, biết về bản thể. Luận Đại Trí Độ, quyển 21, tr. 220c29-221a02: “Phật giải thoát khỏi các phiền não và tập khí, nhổ hết gốc rễ, giải thoát chân thật không thể hư hại, do thành tựu hết thảy trí tuệ nên gọi là vô ngại giải thoát.” (H.T Th1ch Thiện Siêu dịch)
[27] Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, quyển 2, phẩm Địa Tướng, tr. 26b20-27a02.
[28] Từ có ba loại: (1) Chúng sinh duyên từ; (2) Pháp duyên từ; (3) Vô duyên từ.
[29] Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, quyển 2, phẩm Tịnh Địa, tr. 29a09-17.
[30] Trong Luận này, Bồ-tát Long Thọ nói về Dị hành đạo, tức là đạo rất dễ tu hành. Đó là chỉ cần niệm danh hiệu A Di Đà Phật, tu thiện căn làm duyên, thì có thể sinh về Tây Phương. Pháp môn Tịnh Độ cậy vào tín tâm, nguyện sinh là cậy vào nguyện lực. Đã có tín tâm, đã có nguyện lực, nương theo sức mạnh của 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà, thì có thể sinh về cõi nước thanh tịnh. Nhờ có sức gia trì của Đức Phật A Di Đà mà được sinh về Tây Phương, nhập Chánh định tụ, chẳng còn thoái chuyển. Giống như chúng ta đi theo đường bộ sẽ rất chậm, nhưng ngồi thuyền theo đường thủy, chẳng tốn sức, đạt tới đích rất nhanh, tức là nương vào chiếc thuyền đại nguyện của Phật sinh về Tây Phương. Đây là pháp môn rất dễ tu hành.
[31] Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, quyển 5, phẩm Dị Hành, tr. 41b02-14. Luận ấy nêu lên câu hỏi: “Thực hành Đại thừa như đức Phật dạy, là phát nguyện cầu Phật đạo, sự kiện này còn nặng nề hơn cả việc nâng ba ngàn Đại thiên thế giới. Ông nói A-duy-việt-trí địa là pháp sâu xa khó đạt đến, và hỏi có con đường dễ đi nào để nhanh chóng đến A-duy-việt-trí địa hay không, thì đó là lời nói khiếp nhược thấp hèn, không phải là lời của bậc đại nhân có chí cao cả. Nhưng nếu ông muốn nghe con đường dễ đi ấy, thì tôi sẽ nói.” (tr. 41a27) Con đường dễ đi mà Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) hứa hẹn là sự xưng niệm danh hiệu các đức Phật trong mười phương. Sau khi liệt kê danh hiệu các đức Phật trong mười phương ấy, ngài Long Thọ giới thiệu thêm 107 vị Phật khác, mà đứng đầu là Đức Phật Vô Lượng Thọ. (tr. 42c14) Tiếp theo, ngài Long Thọ giới thiệu bản nguyện của Đức Phật A Di Đà: “Nếu người nào xưng niệm danh hiệu của ta và nương tựa vào đó, liền nhập Tất định, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” (tr. 43a11)
[32] Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, quyển 5, phẩm Dị Hành, tr. 41b18-c11: “Đức Phật dạy Bảo Nguyệt: Về phương Đông đi qua vô lượng vô biên Phật độ nhiều như cát sông hằng không thể nghĩ bàn được, có thế giới gọi là Vô Ưu, cõi ấy bằng phẳng do bảy báu hợp thành, dây vàng Tử ma đan xen giăng dọc mép đường đi, cây báu xếp hàng đều đặn để làm trang nghiêm, không có địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la đạo và các nạn xứ, thanh tịnh không có dơ bẩn, không có cát sỏi, gạch đá, núi đồi, gò đống, hố sâu, hang tối, trời thường mưa hoa để rải khắp mặt đất. Vào thời ấy có Đức Phật danh hiệu Thiện Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, chúng Đại Bồ-tát cung kính vây quanh, thân tướng sáng ngời như ngọn đại kim sơn rực rỡ, như khối châu báu to lớn, vì các Đại chúng rộng thuyết chánh pháp mà sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có từ có nghĩa. Pháp đã thuyết đầy đủ không tạp, thanh tịnh, như thật, không sai lầm. Sao gọi là không sai lầm? Đó là không sai lầm đối với đất, nước, lửa, gió; không sai lầm đối với cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc; không sai lầm đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Này Bảo Nguyệt! Đức Phật ấy thành đạo đến nay trải qua sáu mươi ức kiếp. Lại nữa, cõi Phật ấy ngày đêm không khác nhau, chỉ dùng số lượng ngày tháng năm ở cõi Diêm-phù-đề này để nói đến kiếp thọ của cõi ấy. Ánh sáng của Đức Phật thường soi chiếu thế giới. Mỗi lần thuyết pháp khiến cho vô lượng vô biên ngàn vạn ức A-tăng-kỳ chúng sinh trú trong vô sinh pháp nhẫn, gấp bội số người như vậy được trú trong Nhẫn thứ nhất, Nhẫn thứ hai, Nhẫn thứ ba. Này Bảo Nguyệt! Đức Phật ấy vốn có nguyện lực, nếu có chúng sinh ở phương khác, ở trước Phật mà gieo trồng các thiện căn, thì Phật chỉ dùng ánh sáng tiếp xúc trên thân, liền đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Này Bảo Nguyệt! Nếu người thiện nam, người thiện nữ nào nghe danh hiệu Đức Phật này mà tự mình tin nhận, thì không lui sụt đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sự việc về chín Đức Phật còn lại cũng đều như vậy”.
[33] Ibid., tr. 42a28-c07.
[34] Ibid., tr. 42c14-43a09: “Vô Lượng Thọ Phật, Thế Tự Tại Vương Phật, Sư Tử Âm Phật, Pháp Ý Phật, Phạm Tướng Phật, Thế Tướng Phật, Thế Diệu Phật, Từ Bi Phật, Thế Vương Phật, Nhân Vương Phật, Nguyệt Đức Phật, Bảo Đức Phật, Tướng Đức Phật, Đại Tướng Phật, Châu Cái Phật, Sư Tử Man Phật, Phá Vô Minh Phật, Trí Hoa Phật, Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật, Trì Đại Công Đức Phật, Vũ Thất Bảo Phật, Siêu Dũng Phật, Ly Sân Hận Phật, Đại Trang Nghiêm Phật, Vô Tướng Phật, Bảo Tạng Phật, Đức Đảnh Phật, Đa Già La Hương Phật, Chiên Đàn Hương Phật, Liên Hoa Hương Phật, Trang Nghiêm Đạo Lộ Phật, Long Cái Phật, Vũ Hoa Phật, Tán Hoa Phật, Hoa Quang Minh Phật, Nhật Âm Thanh Phật, Tế Nhật Nguyệt Phật, Lưu Ly Tạng Phật, Phạm Âm Phật, Tịnh Minh Phật, Kim Tạng Phật, Tu Di Đảnh Phật, Sơn Vương Phật, Âm Thanh Tự Tại Phật, Tịnh Nhãn Phật, Nguyệt Minh Phật, Như Tu Di Sơn Phật, Nhật Nguyệt Phật, Đắc Chúng Phật, Hoa Vương Phật, Phạm Âm Thuyết Phật, Thế Chủ Phật, Sư Tử Hành Phật, Diệu Pháp Ý Sư Tử Hống Phật, Châu Bảo Cái San Hô Sắc Phật, Phá Si Ái Ám Phật, Thủy Nguyệt Phật, Chúng Hoa Phật, Khai Trí Tuệ Phật, Trì Tạp Bảo Phật, Bồ-Đề Phật, Hoa Siêu Xuất Phật, Chân Lưu Ly Minh Phật, Tế Nhật Minh Phật, Trì Đại Công Đức Phật, Đắc Chánh Tuệ Phật, Dõng Kiện Phật, Ly Siểm Khúc Phật, Trừ Ác Căn Tài Phật, Đại Hương Phật, Đạo Ánh Phật, Thủy Quang Phật, Hải Vân Tuệ Du Phật, Đức Đảnh Hoa Phật, Hoa Trang Nghiêm Phật, Nhật Âm Thanh Phật, Nguyệt Thắng Phật, Lưu Ly Phật, Phạm Thanh Phật, Quang Minh Phật, Kim Tạng Phật, Sơn Đảnh Phật, Sơn Vương Phật, Âm Vương Phật, Long Thắng Phật, Vô Nhiễm Phật, Tịnh Diện Phật, Nguyệt Diện Phật, Như Tu Di Phật, Chiên Đàn Hương Phật, Uy Thế Phật, Nhiên Đăng Phật, Nan Thắng Phật, Bảo Đức Phật, Hỷ Âm Phật, Quang Minh Phật, Long Thắng Phật, Ly Cấu Minh Phật, Sư Tử Phật, Vương Vương Phật, Lực Thắng Phật, Hoa Xỉ Phật, Vô Úy Minh Phật, Hương Đảnh Phật, Phổ Hiền Phật, Phổ Hoa Phật, Bảo Tướng Phật.”
[35] Đây chính là nguyện thứ 18 trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà.
[36] Ibid., tr. 43a13.
[37] Ibid., tr. 43a19.
[38] Ibid., tr. 43b10-13.
[39] Ibid., tr. 43b18-21.
[40] Bậc Tự Tại là Đức Phật A Di Đà, Ngài cứu độ chúng sinh một cách nhậm vận, tự tại, vô ngại.
[41] Ibid., 43c09-14.
[42] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá (無量壽經憂波提舍), No. 1524, 1 quyển, còn gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Luận, Vô Lượng Thọ Luận, Vãng Sinh Tịnh Độ Luận, gọi đơn giản là Vãng Sinh Luận hay Tịnh Độ Luận, do Bồ-tát Thiên Thân tạo. Đời Nguyên Ngụy, Thiên Trúc Tam Tạng Bồ-đề Lưu Chi dịch. Đây là một bộ luận quan trọng của Tịnh độ tông, dựa theo Tịnh Độ Tam Kinh, nhất là kinh Vô Lượng Thọ, đề ra cương yếu và phương pháp tu hành là Ngũ niệm môn (Lễ bái, Tán thán, Tác nguyện, Quán sát, Hồi hướng) để tu tập cầu vãng sinh Cực lạc quốc của Đức Phật A Di Đà. Bản tiếng Phạn của bộ luận này đã bị thất lạc, hiện nay chỉ còn bản dịch tiếng Hán. Sau đời Đường, cuốn sách này được du nhập vào Nhật Bản, nhưng sau đó bị thất lạc ở Trung Quốc. Vào cuối thời nhà Thanh, nó được truyền lại từ Nhật Bản cho Trung Quốc.
[43] Ibid., tr. 230c19.
[44] Ibid., tr. 231a24.
[45] Bốn chủng môn là: (1) Lễ bái Đức Phật A Di Đà vì muốn sinh về thế giới Cực Lạc; (2) Tán thán Đức Phật A Di Đà, tùy thuận nghĩa của danh mà xưng danh Như Lai, nương theo quang minh trí tướng của Như Lai để tu hành, bèn được dự vào đại chúng trong đại hội; (3) Nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện sinh về cõi ấy, tu Xa-ma-tha, tịch tĩnh tam-muội hành, được vào thế giới Liên Hoa Tạng; (4) Chuyên niệm, quan sát sự trang nghiêm vi diệu ở cõi Cực Lạc, tu Tỳ-bát-xá-na, đến được quốc độ ấy, thọ dụng hỷ lạc của các thứ pháp vị.
[46] Môn thứ năm là Bồ-tát đem tâm đại từ bi, quan sát hết thảy chúng sinh khổ não, thị hiện Ứng hóa thân, trở vào vườn sinh tử, rừng phiền não bằng du hý thần thông, đạt đến giáo hóa địa, bởi vì sức bản nguyện hồi hướng.
[47] Ibid., tr. 233a22-25.
[48] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú (無量壽經優婆提舍願生偈註), No. 1819, Sa-môn Đàm Loan chú giải tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá của Bồ-tát Thiên Thân. Đoạn trích dẫn này giải thích kệ tụng: “Thế Tôn con nhất tâm, Quy mạng hết mười phương, Vô Ngại Quang Như Lai, Nguyện sinh An Lạc quốc, Con y Tu-đa-la, Tướng công đức chân thật, Nói nguyện kệ tổng trì, Tương ưng lời Phật dạy."
[49] Hành giả tuy không gặp kẻ cực ác, nhưng sự tu hành đều là thiện pháp của nhân thiên, thiện pháp xen lẫn tính chất khổ và phiền não, chỉ có thể tái sanh vào thiện đạo nhân thiên, không phải sự tu hành thanh tịnh (Phạm hạnh), nó hủy hoại đại sự thành Phật, có lúc đưa hành giả đi lên rồi trở xuống, nên gọi là ‘quả thiện điên đảo’.
[50] Đức Phật thuyết Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và Kinh Vô Lượng Thọ ở thành Vương Xá, thuyết Kinh A Di Đà ở nước Xá Vệ.
[51] Ibid., tr. 826a28-b16.
[52] Tự đốc (自督): Chỉ cho điều mà chính mình thể nhận được, hoặc thấu triệt được chánh pháp đã tin nhận. Đốc nghĩa là đốc suất, khuyến khích, chân thành. Tịnh độ Chân tông của Nhật Bản lấy ‘tự đốc’ làm biệt danh cho ‘an tâm’.
[53] Ibid., tr. 827a11-a15.
[54] Thập Trụ Tỳ-bà-sa, quyển 5, phẩm Dị Hành, Kệ tụng tr. 43a13-c18.
[55] Khể thủ lễ (稽首禮): “Vô lượng quang minh tuệ, Thân như núi vàng ròng, Con nay thân miệng ý, Chắp tay cúi đầu lạy.” “Kim sắc ánh sáng mầu, Lan khắp các thế giới, Theo vật thêm sắc màu, Cho nên cúi đầu lạy.” “Người sinh quốc độ kia, Vô ngã, vô ngã sở, Tâm không sinh kia đây, Cho nên cúi đầu lạy. Siêu xuất tam giới ngục, Mắt như lá hoa sen, Vô lượng chúng Thanh văn, Cho nên cúi đầu lạy.” “Các đại Bồ-tát kia, Hằng ngày trong ba thời, Cúng dường mười phương Phật, Cho nên cúi đầu lạy.” “Những lời dạy Phật kia, Phá trừ các tội căn, Lời đẹp nhiều lợi ích, Con nay cúi đầu lạy. Đem lời dạy đẹp này, Cứu các bệnh chấp lạc, Đã độ, nay còn độ, Cho nên cúi đầu lạy.”
[56] Ngã quy mạng (我歸命): “Nếu người khi mạng chung, Được sinh quốc độ kia, Liền đủ vô lượng đức, Cho nên con quy mạng.” “Nhờ thiện sinh ‘minh tịnh’, Vô lượng vô biên số, Bậc nhất trong loài người, Cho nên con quy mạng. Nếu ai nguyện làm Phật, Tâm niệm A Di Đà, Hợp thời vì hiện thân, Cho nên con quy mạng,” “Tối tôn trong nhân thiên, Chư thiên đầu mặt lễ, Mũ bảy báu, ma-ni, Cho nên con quy mạng.”
[57] Quy mạng lễ (歸命禮): “Người nước kia mạng chung, Nếu phải thọ các khổ, Chẳng đọa ác địa ngục, Cho nên quy mạng lễ. Nếu người sinh nước kia, Trọn không đọa ba đường, Cùng với A-tu-la, Con nay quy mạng lễ.” “Các chúng sinh nước ấy, Thần biến và tâm thông, Và đủ túc mạng trí, Cho nên quy mạng lễ.” “Các Bồ-tát cõi kia, Đầy đủ các tướng hảo, Để tự trang nghiêm thân, Con nay quy mạng lễ.”
[58] Ibid., tr. 827a11-b02.
[59] Những người bình thường như chúng ta chấp trước rằng có chúng sinh thực sự, và chúng sinh thực sự này có một vòng sinh tử thực sự trong Tam giới. Từ quan điểm Đại thừa, chúng sinh thực sự và sự sinh tử thực sự mà chúng ta nhận thức, đều là ảo ảnh, là những việc trong chiêm bao, giống như nói lông rùa (rùa không có lông) và hư không (một pháp không thể thiết lập). Đây là để tiêu diệt những tri thức và quan điểm sai lầm. lầm đó.
[60] Thập Nhị Môn Luận (十二門論), No. 1568, Long Thọ tạo, có 12 môn, trong đó, môn thứ 6 nói về “Quán Nhất Dị”, nội dung trừ bỏ cái chấp ‘hữu tướng và vô tướng là một pháp hay là hai pháp khác nhau’ bằng cánh cửa ‘bất nhất bất dị’.
[61] Phàm phu nhân thiên, chỉ cho nhân giới và thiên giới trong sáu cõi. Trong sáu cõi, chỉ có nhân giới và thiên giới là có thiện, nhưng thiện nhân mà họ tu được và thiện quả mà họ đạt được thì toàn là giả dối, điên đảo, không phải công đức thật sự. Ngũ giới là nhân, loài người là quả, và thập thiện là nhân, sinh cõi trời là quả. Theo quan điểm của Đức Phật, ở mặt thắng nghĩa, nhân quả của ngũ giới và thập thiện là không có chân thật, mà là hư giả. Trong Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ (觀經四帖疏), Ngài Thiện Đạo dạy: “Chư Phật xuất thế, dùng mọi phương tiện khuyến hoá chúng sinh, không phải chỉ muốn họ dứt ác tu phước, hưởng phước báo trời người. Sự vui sướng của cõi trời người giống như điện chớp, phút chốc bèn xả, trở vào ba đường ác, thọ khổ lâu dài. Vì lý do này, các ngài còn khuyên chúng sinh cầu sinh Tịnh độ, hướng về Vô thượng Bồ-đề. Cho nên hôm nay, tôi khuyến khích những người hữu duyên, phát nguyện sinh Tịnh độ, tức là xứng với bản nguyện ý của chư Phật vậy.”
[62] Tất cánh tịnh (畢竟淨): Rất mực thanh tịnh. Tức chỉ cho Niết-bàn, Thật tướng. Vì Niết-bàn, Thật tướng xa lìa tất cả phiền não, nghiệp khổ nhiễm ô, rốt ráo thanh tịnh, vĩnh viễn bất biến. Thám Huyền Ký, quyển 12, giải thích Tất cánh tịnh nói trong kinh Hoa Nghiêm, quyển 25, là được quả Niết-bàn. Tất cánh an lạc đại thanh tịnh xứ, nói trong Vãng Sinh Luận Chú là sinh về thế giới An lạc chứng diệu quả Niết-bàn.
[63] Hàm cái tương xứng (函蓋相稱), cũng gọi Hàm cái tương ưng, Hàm cái hợp. Hàm là chiếc hộp, Cái là nắp đậy. Hộp và nắp ăn khớp nhau không trở ngại. Cứ theo luận Đại Trí Độ, quyển 2, thì các pháp vô lượng, trí tuệ cũng vô lượng, cả hai phối hợp với nhau thì vô lượng vô biên, giống như hộp lớn thì nắp đậy cũng lớn, hộp nhỏ thì nắp đậy cũng nhỏ. Lại nữa, từ ngữ này cũng biểu thị ý nghĩa trí năng chiếu và cảnh sở chiếu khế hợp nhau; hoặc pháp nói ra và căn cơ của chúng sinh phù hợp nhau; cơ duyên thầy trò truyền thụ khế hợp nhau; hoặc sự và lý khế hợp nhau.
[64] Ibid., tr. 827b14-c28.
[65] Ibid., tr. 836a20-27: “Hoàn tướng, là sinh về tịnh độ kia rồi, được thành tựu phương tiện lực là xa-ma-tha và tỳ-bát-xá-na, quay trở vào rừng rậm sinh tử, giáo hóa tất cả chúng sinh cùng hướng về Phật đạo. Dù là vãng tướng hay hoàn tướng, đều vì cứu chúng sinh qua khỏi biển sinh tử, thế nên nói ‘hồi hướng làm đầu, được thành tựu tâm đại bi’.”
[66] Quán Phật Tam Muội Kinh (觀佛三昧經, sa. Buddha-dhyāna-samādhisāgara-sūtra), cũng gọi Quán Phật Tam-muội Hải Kinh, 10 quyển, 15 phẩm, do ngài Phật-đà-bạt-đà-la (佛陀跋陀羅) dịch vào đời Đông Tấn, Trung Quốc, được xếp vào Đại Chánh tạng, tập 15. Nội dung kinh này nói về việc Đức Phật thuyết pháp để độ cho Phụ vương là Duyệt-đầu-đàn và Di mẫu là Kiều-đàm-di tại rừng Ni-câu-lâu-đà, thành Ca-tỳ-la-vệ, Ngài dạy trụ Quán Phật tam-muội, đồng thời cho rằng tam-muội này có công đức sâu rộng, có năng lực đưa đến giải thoát.
[67] Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, No. 278, do Phật-đà-bạt-đà-la dịch, quyển 59, phẩm Nhập Pháp Giới, tr. 778c07.
[68] Ibid., tr. 778c10.
[69] Ibid., tr. 779a23.
[70] An Lạc Tập (安樂集), No. 1958, Đạo Xước soạn, quyển thượng, tr. 5b10-c10.
[71] An Lạc Tập, quyển hạ, tr. 16a01.
[72] Kinh Vô Lượng Thọ, No. 360, quyển hạ, tr. 279a01: “Phật bảo Di Lặc: Nếu có người được nghe danh hiệu của Ðức Phật Vô Lượng Thọ, sinh tâm vui mừng, chỉ trong một niệm, cũng biết người ấy, được lợi ích lớn, công đức tròn đầy. Này Di Lặc! Nếu có lửa dữ, đầy khắp ba ngàn Ðại thiên thế giới, gắng sức vượt qua, được nghe Kinh này, vui mừng tin ưa, chịu giữ đọc tụng, theo như Phật dạy mà tu hành, thì được lợi ích không thể kể xiết.” (H.T Thích Tuệ Đăng dịch) An Lạc Tập, quyển hạ, tr. 16c21.
[73] Ngài Đạo Xước.
[74] An Lạc Tập, quyển thượng, tr. 14a19.
[75] Thiện Đạo (善導, 613-681), là vị thứ 2 trong 13 vị tổ Tịnh độ tông và là vị thứ 5 trong 7 vị tổ của Tịnh độ Chân tông. Sư xuất gia khi còn nhỏ tuổi và tu tập thiền quán tưởng A Di Đà và Tịnh độ. Khi nghe tiếng Đạo Xước (道綽), Thiện Đạo đến gặp và nhận giáo lý Tịnh độ từ vị này. Suốt đời Thiện Đạo hiến mình tu tập và hoằng truyền giáo lý nầy. Tương truyền Sư đã chép kinh A Di Đà hơn 100.000 lần và vẽ hơn 300 bức tranh về Tịnh độ. Ngoài việc tụng kinh và niệm Phật thường xuyên, Sư còn tiến hành các thời khoá thiền quán tưởng Phật A Di Đà và Cực Lạc quốc của ngài. Thiện Đạo còn viết 5 tác phẩm trong 9 cuốn, gồm những luận giải khác nhau về kinh Quán vô lượng thọ. Sư thường được gọi là Quang Minh tự Hoà thượng (光明寺和尚), Chung Nam Đại sư (終南大師). Đoạn trích dẫn, “Kinh Văn Thù Bát-nhã … không chịu gắng chí”, lấy từ Vãng Sinh Lễ Tán Kệ (往生禮讃偈), No. 1980, do ngài Thiện Đạo tập ký.
[76] Thượng tận nhất hình (上盡一形): Là đa niệm, chính là một đời niệm Phật.
[77] Vãng Sinh Lễ Tán Kệ, tr. 439a24-b19.
[78] Ibid., tr. 440a04.
[79] Ibid., tr. 441a17, 441c23 và 441c27.
[80] Ibid., tr. 441c03.
[81] Phật Thuyết Thập Vãng SInh A Di Đà Phật Quốc Kinh (佛說十往生阿彌陀佛國經), Vạn Tự Tục Tạng, Quyển 87, No. 738, không rõ dịch giả, còn được gọi là Quán A Di Đà Phật Sắc Thân Chánh Niệm Giải Thoát Tam Muội Kinh (觀阿彌陀佛色身正念解脫三昧經), Độ Chư Hữu Lưu Sinh Tử Bát Nạn Hữu Duyên Chúng Sinh Kinh (度諸有流生死八難有緣眾生經) và Thập Vãng Sinh Kinh (十往生經). Nội dung giải thích mười cách hộ niệm để được vãng sinh Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà. Đoạn nổi tiếng nhất trong kinh này là: “Hai mươi lăm Bồ-tát ấy ủng hộ hành giả, khi đi hay đứng, khi nằm hay ngồi, dù ngày hay đêm, trong mọi thời gian, ở khắp nơi chốn, chẳng cho ác quỷ, ác thần được thừa dịp làm hại.” Nhiều nhà sư lỗi lạc và đại đức trong lịch sử thường trích dẫn kinh văn này, nhưng Đại Chu San Định Chúng Kinh Mục Lục (大周刊定眾經目錄), tập 15, và Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋教錄), tập 18, coi đây là kinh ngụy tạo. Ở phần sau của kinh này có đính kèm Thập Vãng Sinh Kinh Chân Ngụy Quyết Nghi (十往生經真偽決疑).
[82] Kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Lúc ấy Phật A Di Ðà liền sai Hóa Phật, hóa Quán Thế Âm, hóa Ðại Thế Chí đến trước hành giả, khen rằng: ‘Nầy thiện nam tử! Vì ngươi xưng danh hiệu Phật, các tội tiêu diệt, ta đến rước ngươi’. Nghe lời nói ấy rồi, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật chiếu sáng cả nhà. Thấy rồi hoan hỷ mạng chung, ngồi bửu liên hoa theo sau Hóa Phật, sanh trong ao báu Cực Lạc thế giới.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch)
[83] Nguyện thứ 18 trong 48 bản nguyện của Đức Phật A Di Đà.
[84] Kinh A Di Đà: “Xá-lợi-phất, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe bản kinh này mà thọ trì, lại được nghe danh hiệu của các đức Phật, thì những thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được sự không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do vậy, Xá-lợi-phất, các người hãy tin nhận lời của Như Lai nói, của các Đức Phật nói.”
[85] Đoạn văn “Hiện là phàm phu sinh tử … không chịu gắng chí” trong Vãng SInh Lễ Tán Kệ, là ngài Thiện Đạo trích dẫn từ Tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi (集諸經禮懺儀), No. 1982, do Sa-môn Trí Thăng (智昇, 669–740) soạn.
[86] Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ (觀無量壽佛經疏), No. 1753, 4 quyển, do Sa-môn Thiện Đạo tập ký, trích quyển 1, tr. 246b10. Đại nguyện nghiệp lực, chính là đại nguyện, đại nghiệp và đại lực.
[87] Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (còn gọi Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ), No. 1753, Đại sư Thiện Đạo tập ký, tr. 250a27: “Nay trong Quán Kinh này nói xưng niệm danh hiệu Phật mười tiếng, tức là đầy đủ mười nguyện, mười hạnh. Vì sao đầy đủ? Nói Nam mô, tức là quy mạng, cũng có nghĩa là phát nguyện hồi hướng; nói A Di Đà Phật, tức là hạnh Phật. Dựa vào hai nghĩa trên mà khẳng định người đó sẽ được vãng sinh.” Bốn chữ “A Di Đà Phật” chính là chúng sinh quy mạng về Đức Phật A Di Đà. Bốn chữ “A Di Đà Phật” là chánh nghiệp, tư lương và công đức của sự vãng sinh thế giới Cực Lạc. Chỉ cần niệm sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” thì đã cụ bị sự tu hành vãng sinh, công đức vãng sinh, cho nên Đại sư Thiện Đạo nói: “Bởi nghĩa này mà nhất định được vãng sinh.”
[88] Phật Thuyết A Di Đà Phật Tướng Hải Tam Muội Công Đức Pháp Môn (觀念阿彌陀佛相海三昧功徳法門), No. 1957, Đại sư Thiện Đạo tập ký, tr. 27a16.
Ngũ chủng tăng thượng duyên, còn gọi là Ngũ tăng thượng duyên, cũng gọi là Ngũ duyên: Lấy Phật làm tăng thượng duyên, người niệm Phật nhận được lợi ích, có 5 loại:
1. Diệt tội tăng thượng duyên: Còn gọi là Hiện sinh diệt tội tăng thượng duyên, lấp Đức Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên, tiêu trừ mọi nghiệp chướng.
2. Hộ niệm đắc trường mạng tăng thượng duyên: Còn gọi là Hộ niệm tăng thượng duyên, Hiện sinh hộ niệm tăng thượng duyên, được Đức Phật A Di Đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí gia hộ.
3. Kiến Phật tăng thượng duyên: Còn gọi là Kiến Phật tam muội tăng thượng duyên, nhờ ba niệm nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà được thấy Phật.
4. Nhiếp sinh tăng thượng duyên: Chúng sinh nương nguyện lực của Đức Phật A Di Đà nhiếp lấy mà được vãng sinh.
5. Chứng sinh tăng thượng duyên: Sau khi Phật diệt độ, bảo chứng kẻ phàm phu nương Phật nguyện lực, đời vị lai nhất định sẽ vãng sinh.
Ba duyên đầu là Hiện ích, hai duyên sau là Đương ích.
[89] Ibid., tr. 27b25: “Lại nói Chứng sinh tăng thượng duyên. Hỏi: Nay đã nói 48 nguyện của Đức Phật A Di Đà nhiếp lấy tất cả chúng sinh được sinh về Tịnh độ, nhưng chưa biết hàng chúng sinh nào được sinh? Lại nữa, người nào được bảo chứng là sẽ được sinh? Đáp: Như Quán Kinh nói: Ðức Phật bảo Vi Ðề Hy: ‘Nay phu nhân có biết chăng? Đức Phật A Di Ðà cách đây chẳng xa, bà nên nhiếp niệm quán kỹ cõi nước ấy thì tịnh nghiệp được thành. Nay ta sẽ vì bà mà nói rộng các pháp quán, cùng khiến đời vị lai tất cả hàng phàm phu, những người muốn tu tịnh nghiệp được thọ sinh Tây Phương Cực Lạc quốc độ.’ Nay dùng chứng cứ của Kinh này, chỉ là sau khi Đức Phật diệt độ, phàm phu nương nguyện lực của Phật thì quyết định được vãng sinh. Đây là Chứng sinh tăng thượng duyên.”
[90] Y Quán Kinh Minh Bát Chu Tam Muội Hành Đạo Vãng Sinh Tán (依觀經等明般舟三昧行道往生讃), No. 1981, Đại sư Thiện Đạo tuyển chọn, tr. 448c23, tr. 449a21, và tr. 452b14.
[91] Sách Luận Ngũ, chương Học Nhi: Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? 學而時習之,不亦説乎. (Khổng tử nói: Học thì phải luyện tập, chẳng vui lắm sao?)
[92] Bản nguyện chiêu hoán chi sắc mạng (本願招喚之敕命). Sắc mạng là sắc lệnh, là mệnh lệnh. Quy mạng là mệnh lệnh của Đức Phật A Di Đà bằng bản nguyện. Quy mạng là mệnh lệnh ‘quy thuận’, ‘quy y’. Quy mạng là quy thuận ‘sự mời gọi (chiêu hoán) của Đức Phật A Di Đà) thông qua niềm tin. Niềm tin “quy mạng” là phát sinh từ sự mời gọi của Đức Phật A Di Đà, nó thấm đẫm trong tâm chúng ta, chẳng phải do tâm chúng ta sinh ra. Do đó, hai chữ “quy mạng” thuộc về bản nguyện của Phật. Niềm tin là sự biểu hiện trang thái giao phó trọn vẹn thân tâm chúng ta cho Phật vậy.
[93] Ngôn nam mô giả, tức thị quy mạng, diệc thị phát nguyện hồi hướng chi nghĩa; ngôn A Di Đà Phật giả, tức thị kỳ hạnh: dĩ kỳ nghĩa cố, tất đắc vãng sinh. (言南無者,即是歸命,亦是發愿回向之義;言阿彌陀佛 者,即是其行:以斯義 故,必得往生。)
[94] Kinh Vô Lượng Thọ: Chư hữu chúng sinh văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ, nãi chí nhất niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sinh bỉ quốc, tức đắc vãng sinh trụ bất thối chuyển. (Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu của Ngài mà tín tâm hoan hỷ, dốc lòng hồi hướng dù trong một niệm, nguyện sinh sang cõi nước ấy, liền được vãng sinh, trụ vào ngôi Bất thoái chuyển.) Kinh A Di Đà: “Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sinh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ.” (Người như thế khi chết tâm không thác loạn, và tức khắc được sinh quốc độ Cực lạc của đức A Di Đà Phật.)
[95] Tất định (必定, sa. Avaivartikā): Dịch là Bất thối chuyển, cũng dịch là Tất định. Không thoái chuyển Vô thượng Bồ-đề thì nhất định nhập giai vị Tất định. Luận Đại Trí Độ, quyển 93, tr. 713b15: “A-bệ-bạt-trí tức là Tất định.” (阿鞞跋致即是畢定). Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, phẩm Dị Hành, tr. 43a19: "Ai có thể niệm vô lượng [nguyện] lực và công đức của Đức Phật A Di Đà thì ngay lập tức nhập Tất định.”
[96] Thẩm: quả là, đúng. Nhiên: cho là đúng, tán đồng. Phân cực: sự tách riêng do cương giới.
[97] Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Lược Pháp Sự Nghi Tán (淨土五會念佛略法事儀讃), No. 1983, Sa-môn Pháp Chiếu (747-821) thuật, tr. 474c24. Đại sư Pháp Chiếu là vị Tổ thứ tư của Liên Tông vào đời nhà Đường, còn gọi là Ngũ Hội Pháp Sư (五會法師).
[98] Ibid., tr. 476b11: “Trong Quán Kinh chép: Nếu người niệm Phật, phải biết người này ở trong hoa Phân-đà-lợi, gọi là hiếm có. Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí là bạn thù thắng của người này, đang ngồi đạo tràng, sinh vào nhà Chư Phật. Do đó Đức Như Lai thường ở trong biển Tam-muội, tay giớ lưới bông, thưa Phụ vương: Phụ vương ngày nay ngồi thiền, chỉ nên niệm Phật, có phải là giống lìa niệm cầu vô niệm, lìa sinh cầu vô sinh, lìa tướng hảo cầu pháp thân, lìa văn tự cầu giải thoát? Người như vậy thì trụ nơi đoạn diệt kiến, chê Phật hủy kinh, thành nghiệp chấp pháp, đọa vào Vô gián. Phàm tại tu đạo, há không cẩn thận, há không cung kính!”
[99] Ngũ hội niệm Phật (五會念佛): Cũng gọi Ngũ hội chân thanh (五會真聲). Năm hội niệm Phật do ngài Pháp Chiếu đời Đường phỏng theo sự miêu tả gió thổi cây báu phát ra 5 thứ âm thanh trong kinh Vô Lượng Thọ mà sáng lập pháp môn ‘Năm hội niệm Phật’, làm cho kẻ tăng người tục ham thích cảnh Tịnh độ. Nghi thức này thường lựa chọn một số vị xuất gia, tại gia có giọng hay, tiếng tốt, họp tập lại, uy nghi tề chỉnh, chia làm 5 hội, dựa theo 5 âm điệu cao thấp, nhanh chậm mà niệm Phật. Hội thứ nhất niệm chậm rãi, âm điệu trầm bình; hội thứ 2 cũng niệm chậm rãi nhưng âm điệu cao hơn; hội thứ 3 niệm không chậm không nhanh; hội thứ 4 niệm nhanh dần; hội thứ 5 niệm nhanh hơn. Năm hội niệm Phật này có năng lực: trừ 5 khổ, dứt 5 cái, cắt đứt 5 đường, tịnh hóa 5 mắt, đầy đủ 5 căn, thành tựu 5 lực, được giác ngộ, đủ 5 giải thoát, mau chóng thành tựu 5 phần pháp thân. Hiện nay, tại Nhật bản, phái Bản Nguyện Tự (本願寺) thuộc Chân tông vẫn còn thực hành pháp môn niệm Phật này.
[100] Ibid., tr. 475c12.
[101] Ibid., tr. 477c08.
[102] Ibid., tr. 477c14.
[103] Ibid., tr. 478a01.
[104] Chân tông, có nghĩa là niệm Phật để thành Phật, là giáo pháp Nhất thừa cao tột và thâm sâu, cứu cánh để thành Phật, cũng là viên giáo trong viên giáo, đốn giáo trong đốn giáo. Chân tông khó gặp nhất, khó tin nhất, đây là điều khó nhất trong pháp giới, thế mà phàm phu có thể gặp, nghe, tin được Chân tông. Đây hoàn toàn là do Đức Phật A Di Đà, Đấng từ bi thương xót như cha như mẹ, đã dốc hết sức thu nạp tất cả chúng sinh bằng nguyện lực đại từ bi của Phật, khiến cho tất cả chúng sinh đều tin nhận. Ngược lại kẻ phàm phu phiền não không có khả năng nghe và tin được Chân tông. Đại sư Thiện Đạo nói rằng những người thực sự tin tưởng vào Đức Phật A Di Đà là "người tốt", "người tuyệt vời", "người cao thượng", "người hiếm có" và "người tối thắng" trong số những phàm phu. Sau khi được vãng sinh Tịnh Độ, người ấy tự nhiên sẽ chứng ngộ được niềm hỷ lạc vĩnh cửu của pháp tánh.
[105] Ibid., tr. 479c14-c21.
[106] Ibid., tr. 480a06.
[107] Ibid., tr. 480a09.
[108] Ibid., tr. 480c01.
[109] Ibid., tr. 480c07.
[110] Ibid., tr. 481b13-482a05.
[111] Theo Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Nghĩa Sớ, No. 1754, Nguyên Chiếu thuật, tr. 285b24: “Kinh này có hai bản dịch, bản trước kia đã mất, bản hiện nay chính là do ngài Cương Lương Da Xá dịch.” Lịch Đại Tam Bảo Ký, quyển 4, 7, thì ngoài bản dịch của ngài Cương Lương Da Xá ra, còn liệt kê hai bản không rõ dịch giả được dịch vào đời Đông Hán và Đông Tấn. Bản hiện nay so với bản trước kia nên gọi là “tân”.
[112] Ibid., tr. 487b11.
[113] Vô Lượng Thọ Kinh Liên Nghĩa Thuật Văn Tán (無量壽經連義述文賛), No. 1748, 3 quyển, Thích Cảnh Hưng soạn, quyển trung, tr. 147c12.
[114] Kinh Bi Hoa (悲華經), No. 157, Đàm Vô Sấm dịch, phẩm Chư Bồ-tát Bản Thọ Ký, tr. 184c16-c28.
[115] Đầy đủ trang nghiêm là có đủ hai thứ thanh tịnh: 1. Khí thế gian thanh tịnh; 2. Chúng sinh thế gian thanh tịnh.
[116] Danh hiệu Phật A Di Đà có đủ đức tính hội tụ quảng đại. Khắp mười phương chúng sinh đều được vãng sinh Cực Lạc, pháp hội rộng lớn, Thánh hiền vô lượng, toàn là nhờ oai đức của Đức Phật A Di Đà.
[117] Ibid., quyển trung, tr. 154b15: “Kinh nói: ‘Cung kính Tam bảo … thành tựu công đức’. Thuật rằng: Phần thứ hai là tu cung kính. Cung kính Tam bảo, là phước phương tiện. Phụng thờ Sư trưởng là trí phương tiện. Đem đại trang nghiêm, tức là hai thứ phước trí trang nghiêm đã thành tựu, vì đầy đủ các Thánh hạnh: bố thí, v.v. vậy. Lấy sự tu tập của mình mà lợi ích chúng sinh, khiến công đức thành tựu.” Trong sáu độ, 5 độ đầu là phước đức trang nghiêm, và tuệ độ là trí tuệ trang nghiêm. Kinh Vô Lượng Thọ, tr. 269c16: “Cung kính Tam bảo, phụng thờ Sư trưởng, đem đại trang nghiêm để đầy đủ các hạnh, khiến các chúng sinh thành tựu công đức.”
[118] Ibid., quyển hạ, tr. 165c20: “Kinh nói: Nhẫn đến đời này … Ta giúp ông được vui mừng. Thuật rằng: Đây là Như lai chính thức vui mừng. Nhờ nhân duyên lâu xa mà được gặp Phật, nghe pháp, nên rất đáng mừng vui.” Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ, tr. 275c03: “Nhẫn đến đời này, sinh tử chưa dứt, cùng Phật gặp nhau, nghe nhận kinh pháp, lại được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật, thật vui sướng lắm thay! Ta giúp ông được vui mừng.”
[119] Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ, tr. 274b18: “Phật bảo Bồ-tát Di Lặc, chư thiên, nhân loại, v.v. rằng: Trong quốc độ Vô Lượng Thọ Phật, các Bồ-tát, Thanh văn có công đức, trí tuệ không thể kể xiết. Lại nữa, quốc độ ấy thật vi diệu, an lạc và thanh tịnh như thế, sao chẳng gắng sức hành thiện, niệm đạo là tự nhiên, đến chỗ không trên dưới, thấu triệt chỗ không biên tế. Thế nên, hãy chuyên cần tinh tiến, nỗ lực tự cầu, ắt được siêu tuyệt [sinh tử] mà bước đi, vãng sinh An Lạc quốc, cắt ngang năm đường dữ. Đường dữ tự nhiên đóng lại, đường đi lên không có cùng cực, dễ vãng sinh mà có mấy ai.”
[120] Ibid., quyển hạ, tr. 163c05.
[121] Ngài Tuệ Viễn (慧遠, 523 – 592) cho rằng, đối lại thần lực hiện tại gọi là ‘vãng tích bản nguyện lực’ (往昔本願力, bản nguyện lực trước kia). Ở Thuật Văn Tán, ngài Cảnh Hưng đổi là ‘tức vãng thệ nguyện chi lực’ (即往誓願之力).
[122] Ibid., quyển trung, tr. 156c14. Kinh Vô Lượng Thọ, tr. 271a13: “Này A Nan, trời và người ở cõi kia, nếu ai trông thấy cây ấy thì được ba Pháp nhẫn: Âm hưởng nhẫn, Nhu thuận nhẫn và Vô sinh pháp nhẫn. Ðó đều là uy thần lực, bản nguyện lực, mãn túc nguyện, minh liễu nguyện, kiên cố nguyện và cứu cánh nguyện của Ðức Phật Vô Lượng thọ.”
[123] Ibid., quyển hạ, tr. 159c17. Kinh Vô Lượng Thọ, tr. 272c12: “Vô lượng vô số các chúng Bồ-tát của hằng sa Phật độ ở phương Ðông, đều đi tới chỗ Ðức Phật Vô Lượng Thọ, cung kính cúng dường, và các Bồ-tát, Thanh văn, đại chúng lắng nghe, nhận lãnh Kinh pháp, rồi tuyên bố đạo hóa. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, phương trên, phương dưới, cũng đều như thế cả.”
[124] Ibid., quyển hạ, tr. 161a05. Kinh Vô Lượng Thọ, tr. 273b24: “A Nan bạch Phật: Hai vị Bồ Tát ấy danh hiệu là gì? Ðức Phật bảo: Vị thứ nhất tên là Quán Thế Âm, vị thứ hai tên là Ðại Thế Chí. Hai vị Bồ Tát đó đều ở quốc độ này tu hạnh Bồ Tát, khi mạng chung chuyển hóa sinh nơi Phật quốc kia.”
[125] Ibid., quyển hạ, tr. 170c27. Kinh Vô Lượng Thọ, tr. 279a22: “Bốn mươi ức Bồ-tát được Bất thoái chuyển, đem công đức thệ nguyện rộng lớn mà trang nghiêm cho mình, đến đời sau này, thì thành Chánh Giác.”
[126] Lạc Bang Văn Loại (樂邦文類), Tập 47, No. 1969A, 5 quyển, do ngài Tông Hiểu (宗曉, 1151-1214) biên soạn vào đời Nam Tống, hoàn thành vào năm Khánh Nguyên thứ 6 (1200). Nội dung sách này là biên tập những bài văn trọng yếu trong các kinh luận có liên quan đến tông Tịnh độ cho đến các trước thuật, thi kệ, truyện ký, v.v. của các sư. Sách này chia làm 14 môn, gồm 220 thiên. Về sau, ngài Tông Hiểu còn soạn bộ Tục Biên Lạc Bang Di Cảo (續編樂邦遺稿), 2 quyển.
[127] Trương Luân (張掄): Cư sĩ Phật giáo Trung Quốc sống vào thời Nam Tống, tự là Tài Phủ (材甫). Nhờ có tài văn chương mà ông được vua Cao Tông sủng ái, cho làm Phòng Ngự sứ ở Quân Châu, sau thăng đến Lưỡng Chiết Tây Lộ Phó đô Tổng quản, Tri các. Ông tinh cần niệm Phật, cầu sinh Tịnh độ. Về già, ông xây dựng đạo tràng ở phía Đông nhà mình, đào ao trồng sen, phỏng theo di ý kết xã của ngài Tuệ Viễn, hướng dẫn người vợ hằng ngày niệm Phật một vạn biến. Trong hai mùa Xuân và Thu, ông chọn ngày đi đến tinh xá Phổ Tĩnh, cùng niệm Phật theo định kỳ với đại chúng. Năm 1166, vua Cao Tông đích thân viết hai chữ “Liên Xã” tặng ông. Tác phẩm: Cao Tông Hoàng Đế Ngự Thư Liên Xã Ký (高宗皇帝御書蓮社記), Kết Liên Xã Phổ Khuyến Văn (結蓮社普勸文, được xếp vào Lạc Bang Văn Loại), Thiệu Hưng Nội Phủ Cổ Khí Bình (紹興內府古器評).
[128] Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Nghĩa Sớ (觀無量壽佛經義疏), No. 1754, Nguyên Chiếu thuật, quyển thượng, tr. 285b11. Nguyên Chiếu (元照, 1048 - 1116): Cao tăng Trung Quốc, sống vào đời Tống, người Dư Hàng (huyện Hàng, tỉnh Chiết Giang), tự Trạm Nhiên, hiệu An nhẫn tử. Sư xuất gia năm 18 tuổi, theo ngài Thần Ngộ Khiêm học Thiên Thai giáo quán, nhưng tâm chí sư chú trọng Luật học. Sau, sư lễ ngài Quảng Từ thọ giới Bồ-tát, nối pháp ngài Doãn Kham thuộc Luật tông Nam Sơn. Khoảng năm Nguyên Phong (1078 - 1085), sư trụ trì chùa Chiêu Khánh, hoằng truyền giới luật. Lúc về già, sư dời đến chùa Linh Chi, trụ 30 năm, người đương thời tôn xưng sư là Linh Chi tôn giả. Năm Chính Hòa thứ 6 (1116), sư thị tịch, thọ 69 tuổi, thụy hiệu Đại Trí Luật Sư. Sư để lại tác phẩm: Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký, Phật Chế Tỳ-kheo Lục Vật Đồ, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Nghĩa Sớ, A Di Đà Kinh Nghĩa Sớ.
[129] Thời mị (時魅): một trong ba thứ qủy. Vào giờ Tý (nửa đêm), qủy này hóa thành tinh linh con chuột hoặc hình dáng thiếu nam, thiếu nữ hoặc biến ra các tướng đáng sợ để dọa nạt hay mê hoặc người tọa thiền. Bấy giờ, người tọa thiền đều biết giờ ấy là giờ gì, nếu là giờ Tý, biết nó là loài chuột, kêu thẳng tên nó thì nó sẽ tự tan biến.
[130] Ibid., tr. 283c18-284a13. Lạc Bang Di Cảo (樂邦遺稿), No. 1969B, 2 quyển, do ngài Tông Hiểu biên soạn, tr. 234b13, trích dẫn đoạn này, với đầu đề là “Người niệm Phật khi mạng chung tuyệt nhiên không có ma sự”.
[131] Chánh văn là quả hiệu 果號, chỉ cho danh hiệu Phật sau khi thành Chánh giác. Danh hiệu là kết quả của sự tích tập công đức ở nhân vị, nên gọi là quả.
[132] A Di Đà Kinh Nghĩa Sớ (阿彌陀經義疏), No. 1761, do ngài Nguyên Chiếu thuật, tr. 356b13.
[133] Ibid., tr. 362a22.
[134] Ibid., tr. 362b13. Kinh A Di Đà: “Xá-lợi phất, không thể chỉ đem thiện căn nhỏ làm yếu tố để được sinh Cực lạc. Xá-lợi phất, thiện nam hay thiện nữ nào nghe nói đến đức A Di Đà Phật, trì niệm danh hiệu của ngài hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày mà nhất tâm bất loạn, thì người ấy lúc sắp chết, Đức Phật A Di Đà cùng với Thánh chúng hiện ra trước mắt. Người như thế khi chết tâm không điên đảo, và tức khắc được sinh quốc độ Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Xá-lợi phất, Như Lai thấy lợi ích như vậy nên nói rằng ai nghe như vầy hãy nên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc.”
[135] Từ Vân Tuân Thức (慈雲遵式, 964 - 1032): vị tăng dưới thời nhà Tống, xuất thân Lâm Hải (臨海), Đài Châu (台州, Ninh Hải, Triết Giang), họ Diệp (葉), tự là Tri Bạch (知白). Ông theo xuất gia với Thiên Thai Nghĩa Toàn (天台義全), năm 18 tuổi xuống tóc, đến năm 20 tuổi thọ Cụ Túc giới tại Thiền Lâm Tự (禪林寺) và năm sau trở về chùa cũ học Luật. Ông thường đốt lóng tay mình trước tượng Phổ Hiền, thề nguyện sẽ truyền bá giáo pháp Thiên Thai. Vào năm đầu (984) niên hiệu Ung Hy (雍熙), ông theo Nghĩa Thông (義通) ở Bảo Vân Tự (寳雲寺) học các thư tịch của Thiên Thai Tông, thông hiểu tận cùng áo nghĩa và cùng với Tri Lễ (知禮) của Phái Sơn Gia (山家派) trở thành nhân vật trung tâm. Năm 28 tuổi, ông tuyên giảng các kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Niết Bàn, Kim Quang Minh, v.v., ở Bảo Vân Tự, rồi tập trung tăng tục chuyên tu Tịnh Độ. Sau đó, ông còn giảng kinh, tu tập sám hối ở các địa phương như Tô Châu (蘇州), Hàng Châu (杭州), v.v., học giả rất ngưỡng mộ. Vào năm đầu (1022) niên hiệu Càn Hưng (乾興) đời vua Chơn Tông (眞宗), ông được ban hiệu là Từ Vân (慈雲). Đến năm thứ 2 (1024) niên hiệu Thiên Thánh (天聖), ông dâng sớ tâu xin biên nhập giáo học Thiên Thai vào Đại Tạng Kinh. Đến năm đầu niên hiệu Minh Đạo (明道) đời vua Nhân Tông, ông thị tịch, hưởng thọ 69 tuổi. Soạn thuật và trước tác của ông rất nhiều như Đại Di Đà Kinh Sám Nghi (大彌陀經懺儀), Tiểu Di Đà Sám Nghi (小彌陀經懺儀), Vãng Sanh Tịnh Độ Sám Nguyện Nghi (徃生淨土懺願儀), Kim Quang Minh Tam Muội Nghi (金光明三昧儀), Đại Thừa Chỉ Quán Thích Yếu (大乘止觀釋要), Triệu Luận Sớ Khoa (肇論疏科), Kim Viên Tập (金園集), Thiên Trúc Biệt Tập (天竺別集), v.v. Vì ông là người đã soạn ra rất nhiều nghi thức sám hối, nên được gọi là Bách Bản Sám Chủ (百本懺主), Từ Vân Tôn Giả (慈雲尊者), Linh Ứng Tôn Giả (靈應尊者), Thiên Trúc Sám Chủ (天竺懺主). Sau này ông còn được truy tặng hiệu Pháp Bảo Đại Sư (法寳大師), Sám Chủ Thiền Tuệ Pháp Sư (懺主禪慧法師). Đệ tử kế thừa dòng pháp của ông có Diệu Quả Văn Xương (妙果文昌), Minh Trí Tổ Thiều (明智祖韶), Pháp Hỷ Thanh Giám (法喜清鑑), v.v. [Phật Học Tinh Tuyển]
[136] Năm môn: 1. Trình bày phước quán; 2. Định thiện và tán thiện; 3. Trình bày địa vị; 4. Giải thích ma thuyết; 5. Nêu rõ sự lạm truyền.
[137] Phật Thuyết Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ-tát Kinh (佛說觀藥王藥上二菩薩經), No. 1161, Cương-lương-da-xá dịch.
[138] Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Nghĩa Sớ, quyển thượng, tr. 285b16.
[139] Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, quyển thượng, tr. 280a21: “Ngài Từ Vân nói: ‘Pháp của Phật có hai loại: Một là pháp Tiểu thừa bất liễu nghĩa; hai là pháp Đại thừa liễu nghĩa. Đại thừa lại có liễu và bất liễu nghĩa.’ Nay bàn luận, Tịnh độ chỉ là pháp Liễu nghĩa trong Đại thừa liễu nghĩa. Kinh ghi: ‘Tìm kỹ khắp mười phương, hoàn toàn không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa.’ Đó là nói nghĩa này vậy. Liễu nghĩa, là liễu Tịnh độ kia chính là tự tâm ta, chẳng phải ở đâu xa; ngộ Di Đà kia chính là tự tánh ta, đâu có Phật nào khác. Như thế thì, thần thức gá nghìn cõi nước, thật ở ngay tại tâm mình; thể chất nương chín phẩm sen, đâu vượt khỏi khoảng sát-na. Cho nên kinh ghi: ‘Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật’, chính là chỉ bày tri kiến Phật cho chúng sinh. Đại thừa liễu nghĩa há lại vượt hơn giáo nghĩa này ư?”
[140] Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, quyển thượng, tr. 280a16: “Căn cứ theo giáo quán trong một đời của Đức Phật thì kinh A Di Đà là pháp Viên đốn Nhất Phật thừa, hoàn toàn không thuộc thừa nào khác. Pháp sư Từ Vân nói: ‘Soát hết Kinh bộ Tiểu thừa hoàn toàn không có một chữ nói về Tịnh Độ, huống gì nói đến chuyện khuyên vãng sinh. Lại nữa, trong Tiểu thừa không hề bàn luận đến Đức Phật khác, cũng không hề có một chữ nói về Phật A Di Đà. Thế thì, Tịnh độ A Di Đà một khi lọt vào tai, là đã gieo hạt giống Đại thừa thành Phật.’ Như vậy người không nghe, không tin, há chẳng phải mất mát lớn ư?”
[141] A Di Đà Kinh Nghĩa Sớ, 1 quyển, ngài Linh Chi Nguyên Chiếu đời Tống soạn, thu vào Đại chánh tạng tập 37, cũng là sách chú thích bản dịch kinh A Di Đà của ngài Cưu-ma-la-thập. Trước phần chánh văn, soạn giả lập ra bốn môn: giáo, lý, hành, quả.
(1) Giáo, chia làm hai thứ: Giáo hưng và Giáo tướng. Giáo hưng, trình bày ý nghĩa đức Như Lai ra đời, mục đích là khiến chúng sinh chán nỗi khổ Ta bà, hâm mộ Tịnh độ Cực Lạc, chấp trì danh hiệu mà được vãng sinh. Giáo tướng, nói rõ giáo môn Tịnh độ là pháp Đại thừa viên đốn thành Phật.
(2) Lý, là thể của giáo. Nói về nghĩa chung, Đại thừa là lý được giải thích rõ ràng (lý sở thuyên). Nói về nghĩa riêng, lấy công đức y báo, chánh báo trang nghiêm không thể nghĩ bàn của Đức Phật A Di Đà tu nhân cảm quả làm lý sở thuyên.
(3) Hành, là tông chỉ của giáo. Nói theo nghĩa chung, thì chỉ cho sáu độ muôn hạnh; nói theo nghĩa riêng, thì chỉ cho tịnh nghiệp. Kinh này chuyên nêu rõ pháp trì danh, đó chính là tông chỉ của kinh.
(4) Quả, là dụng của giáo. Quả gần, được thân pháp tánh, ở Tịnh độ Đồng cư. Quả xa, được Vô thượng Bồ-đề không trở lui, chứng pháp thân trong sạch, ở cõi Pháp tánh, rốt ráo thành Phật.
[142] Kinh Pháp Hoa, phẩm Tựa: “Ngài tuyên thuyết chánh pháp (một cách) mà phần đầu, phần giữa, phần cuối, ba phần đều tuyệt hảo, nghĩa lý sâu xa, lời tiếng tuyệt diệu, thuần nhất không tạp, đủ hết sắc thái phạn hạnh trắng trong.” (H.T Thích Trí Quang dịch) Tông Thiên Thai cho cái tinh diệu của Pháp Hoa so với cái thô diệu của các kinh Phật nói trước kinh Pháp Hoa là diệu vị đề hồ thuần nhất không tạp, cho nên gọi là Thuần viên độc diệu (純圓獨妙).
[143] Quán Kinh Nghĩa Sớ Chánh Quán Ký (觀經義疏正觀記), cũng gọi Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ Chánh Quán Ký, Linh Chi Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ Chánh Quán Ký, gọi tắt là Chánh Quán Ký. Tác phẩm gồm 3 quyển, do ngài ới độ soạn vào đời Nam Tống, được thu vào Vạn Tục tạng tập 33, No. 411. Nội dung sách này chú thích bộ Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ của ngài Nguyên Chiếu đời Tống, có nêu ra ý chỉ (Vạn tục 33, 10 hạ): “Gắng tu chánh quán, mau rõ tâm này là Phật”. Lúc đầu, ngài Giới Độ định bác bỏ thuyết sai lầm Phụ chánh giải (輔正解) của ngài Đạo Nhân (道因), nên soạn Quán Vô Lượng Thọ Kinh Phù Tân Luận (觀無量壽經扶新論 ), sau lại soạn bộ Ký này để bổ túc những điểm còn thiếu sót. Đoạn trích ở quyển hạ.
[144] Dụng Khâm (用欽): Vị tăng đời Nam Tống. Lúc đầu theo ngài Nguyên Chiếu học Luật ở chùa Linh Chi, giữ gìn kính cẩn, được mọi người quí mến. Một hôm, Sư nghe lời ngài Nguyên Chiếu dạy chúng tăng: Sống truyền bá Tỳ-ni, chết sinh về An dưỡng, Sư liền theo lời dạy ấy mà nguyện vãng sinh Tịnh độ, một lòng kiên định, không lui sụt. Về sau, Sư mở đạo tràng, ở viện Thất Bảo tại Tiền Đường, mỗi ngày niệm Phật ba vạn câu. Một hôm, thần thức của Sư đến Tịnh độ, thấy các tướng lạ của Phật và Bồ-tát, mới bảo thị giả, ngày mai ta sẽ về Tây phương. Rồi Sư cho họp chúng niệm Phật, sáng hôm sau Sư ngồi xếp bằng chắp tay hướng về Tây mà tịch, không rõ tuổi thọ. Sư để lại các tác phẩm: A Di Đà Kinh Sớ Siêu Huyền Ký (阿彌陀經疏超玄記) 1 quyển, Quán Kinh Sớ Bạch Liên Ký (觀經疏白蓮記) 4 quyển.
[145] Kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật: “Trang nghiêm Phật độ, là phi trang nghiêm, gọi đó là trang nghiêm.”
[146] Cát Tạng (吉藏, 549 - 623): Là một trong 25 đồ đệ xuất sắc của Pháp Lăng (道朗). Ông sống vào đời Tùy, quê ở Kim Lăng, họ An Thế, tổ tiên là người An Túc (dân tộc Hồ) nên gọi là An Cát Tạng hoặc Hồ Cát Tạng. Thuở nhỏ, ông theo cha học đạo với ngài Chân Ðế (Paramàrtha), được ban hiệu là Cát Tạng. Ðến năm 13 tuổi (có thuyết nói 7 tuổi), ông theo học Tam luận với Pháp Lăng. Năm 19 tuổi bắt đầu đi thuyết giảng. Năm 32 tuổi, sau khi thầy tịch, Cát Tạng về hành đạo ở chùa Gia Tường, Cối Khê, tỉnh Chiết Giang. Vì mỗi pháp hội của Sư có hơn ngàn thính giả, nên được gọi là Gia Tường Ðại sư (嘉祥大師). Về công trình nghiên cứu của Sư, gồmTam Luận Huyền Nghĩa, Ðại Thừa Huyền Luận, Nhị Đế Chương, 7 sớ giải về kinh Pháp Hoa, 2 tác phẩm sớ giải về kinh Niết Bàn, Ðại Bát Nhã, và 120 quyển sớ giải về kinh Hoa Nghiêm, Thắng Man, Tịnh Danh, Ðại Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ. Sư đã từng biện luận với Tam quốc luận sư Tăng Xán. Năm 618, Sư là một trong 10 vị thầy được vua Cao Tổ tuyển làm Quản tăng. Tháng 5 năm 623, trước khi viên tịch, tắm gội xong, sư viết bài Tử Bất Bố Luận (死不怖論) rồi thị tịch.
[147] Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ (觀無量壽經義疏), No. 1752, Cát Tạng soạn, tr. 242c19.
[148] Pháp Vị (法位): Nhà sư nước Tân La (Cao Ly), ngày sinh và mất không rõ, khoảng thế kỷ thứ 7. Huyền Nhất (玄一) và Cảnh Hưng (憬興) trích dẫn tác phẩm của Pháp Vị, và được coi là lớn tuổi hơn họ. Pháp Vị là tác giả của Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ (無量壽經義疏) và Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ (觀無量壽經義疏), nhưng chúng đã bị thất lạc. Tuy nhiên, Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ đã được trích dẫn trong nhiều chú sớ khác, bao gồm cả An Lạc Tập (安養集), và hầu hết nó đã được khôi phục dựa trên những trích dẫn này. Từ bản phục chế, có thể suy ra rằng tư tưởng Tịnh độ của Pháp Vị dựa trên lý thuyết của ngài Tịnh Ảnh Tuệ Viễn.
[149] Phi Tích (飛錫): Nhà sư đời Đường. Nơi sinh, ngày sinh và ngày mất của ông là không rõ. Khí phách hiên ngang, lượng kiến thức uyên bác, thông thạo Nho giáo và Mặc gia, rất giỏi viết lách. Từng nghiên cứu Luật nghi, sau đó thực hành Mật giáo, và thân chứng nhiều chỗ. Vào năm Vĩnh Thái thứ nhất (765), phụng chiếu vua Đường Đại Tông (唐代宗), Sư cùng Lương Bí (良賁) và mười sáu người, tham gia dịch trường của nhà đại dịch kinh Bất Không (不空) người Bắc Thiên Trúc, ở trong cung Đại Minh. Tác phẩm dịch thuật có Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Kinh (仁王護國般若經) 2 quyển, Mật Nghiêm Kinh (密嚴經) 3 quyển, v.v. Sư cũng đã viết Niệm Phật Tam-muội Bảo Vương Luận (念佛三昧寶王論) 3 quyển, để tuyên dương Tịnh độ. Ngoài ra, còn có bộ Vô Thượng Thâm Diệu Thiền Môn Truyền Tập Pháp Bảo (無上深妙禪門傳集法寶) 1 quyển, và Thệ Vãng Sinh Tịnh Độ Văn (誓往生淨土文) 1 quyển.
[150] Niệm Phật Tam-muội Bảo Vương Luận (念佛三昧寶王論), No. 1967, ngài Phi Tích soạn, quyển thượng, tr. 136c23.
[151] Song Quyển Kinh (雙卷經): dị danh của Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh. Bản kinh này là kinh nói về Tịnh độ quán hạnh, nên gọi là Quán kinh. Có hai quyển, nên gọi là Song, để phân biệt với Quán Vô Lượng Thọ Kinh, 1 quyển. Sách Vãng Sinh Thập Nhân (往生十因), do ngài Vĩnh Quán (永観, 1033 - 1111) soạn, ban đầu ghi là “Song Quán Kinh” (雙觀經), sau ghi là “Song Quyển Kinh”. Vãng Sinh Thập Nhân nêu 10 lý do quyết định vãng sinh: (1) Quảng đại thiện căn; (2) Chúng tội tiêu diệt; (3) Túc duyên sâu dày; (4) Quang minh nhiếp thủ; (5) Thánh chúng hộ trì; (6) Cực Lạc hóa chủ; (7) Tam nghiệp tương ưng; (8) Tam-muội chứng đắc; (9) Pháp thân đồng thể; (10) Tùy thuận bản nguyện.
[152] Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật: “Người này lúc lâm chung, gặp thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ Kinh Ðại Thừa danh tự đầu đề. Do nghe tên các kinh như vậy, dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo chắp tay xếp cánh, xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trừ năm mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc ấy Phật A Di Ðà liền sai Hóa Phật, hóa Quán Thế Âm, hóa Ðại Thế Chí đến trước hành giả, khen rằng: ‘Nầy thiện nam tử! Vì ngươi xưng danh hiệu Phật, các tội tiêu diệt, ta đến rước ngươi’. Nghe lời nói ấy rồi, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật chiếu sáng cả nhà. Thấy rồi hoan hỉ mạng chung, ngồi bửu liên hoa theo sau Hóa Phật, sanh trong ao báu Cực Lạc thế giới.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch)
[153] Vãng Sinh Yếu Tập (往生要集), No. 2682, 3 quyển, quyển hạ, tr. 77a16, do Nguyên Tín (源信, 942 - 1017) soạn, Tổ của dòng Huệ Tâm, thường gọi là Huệ Tâm Tăng Đô (惠心僧都). Nội dung sách gom tập những yếu nghĩa vãng sinh trong hơn 160 bộ kinh, luận, chú sớ để trình bày tư tưởng Tịnh độ. Ngài Nguyên Tín được Tịnh độ Chân tông Nhật Bản tôn xưng là Đệ nhất Tổ. Tuy rằng thời gian kế tiếp cả hơn 200 năm sau mới có Đệ nhị Tổ là Ngài Pháp Nhiên ra đời. Tịnh độ tông Nhật bản có sự truyền thừa mạch lạc như sau: Đệ nhất Tổ là ngài Long Thọ (Ấn Độ), Đệ nhị Tổ là ngài Thế Thân (Ấn Độ), Đệ tam Tổ là ngài Đàm Loan (Trung Quốc), Đệ tứ Tổ là ngài Đạo Xước (Trung Quốc), Đệ ngũ Tổ là ngài Thiện Đạo (Trung Quốc), Đệ lục Tổ và cũng là Sơ Tổ của Tịnh độ tông Nhật Bản là ngài Nguyên Tín (Nhật Bản), Đệ thất Tổ và cũng là Đệ nhị Tổ của Tịnh độ tông Nhật Bản là ngài Pháp Nhiên (Nhật Bản), Đệ bát Tổ và cũng là Sơ Tổ của Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản là ngài Thân Loan (Nhật Bản).
[154] Ibid., tr. 48a08. Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經), No. 159, do ngài Bát-nhã (般若, 734-?) dịch, phẩm Báo Ân, tr. 299b05.
[155] Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, tr. 9a25: Nhất xưng nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo. (一稱南無佛, 皆已成佛道).
[156] Thắng Quân Bất Động Minh Vương Tứ Thập Bát Sử Giả Bí Mật Thành Tựu Nghi Quỹ (勝軍不動明王四十八使者祕密成就儀軌), No. 1205, Biến Trí và Bất Không biên tập, tr. 35b22: Từ nhãn thị chúng sinh, bình đẳng như nhất tử (慈眼視衆生, 平等如一子).
[157] Vô thượng lưỡng tức tôn (無上兩足尊). Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện: “Đấng vô thượng Lưỡng túc, Xin nói pháp đệ nhất, Con là trưởng tử Phật, Xin thương phân biệt nói.”
[158] Câu-chi (俱胝, sa. Koṭi): đơn vị chỉ số lượng của Ấn Độ, là số nghìn vạn hoặc ức của Trung Quốc. Trăm câu-chi giới tương đương Tam thiên đại thiên thế giới.
[159] Ibid., quyển thượng, tr. 48a14.
[160] Ibid., quyển thượng, tr. 51b14. “Hoa của cây Ba-lợi chất-đa (…) Hoa Bồ-đề tâm cũng lại như vậy, một ngày được xông bằng hương công đức, thì thơm thấu mười phương quốc độ chư Phật. Hàng Thanh văn, Duyên giác đem trí vô lậu để xông hương các công đức [được thực hiện bằng Bồ-đề tâm] suốt trăm ngàn kiếp cũng không sánh bằng.”
[161] Arthur Waley, một nhà Hán học người Anh, lần đầu tiên chú ý đến những ghi chép Phật giáo về thuật giả kim, ông đã tìm thấy 7 ghi chép từ bốn bản dịch kinh Phật bằng tiếng Trung. Theo luận án của mình, tác giả hiện đã tìm ra nguồn gốc và văn bản gốc của những ghi chép này, và liệt kê chúng như sau:
1. Kinh Hoa Nghiêm, No. 279, Thật-xoa-nan-đà dịch năm 695-699: “Như có một loại nước thuốc tên là Ha-trạch-ca, người ta có được nó, dùng một lượng nước thuốc ấy có thể biến ngàn lượng đồng thành vàng thật. Không phải ngàn lượng đồng có thể biến nước thuốc này [thành vàng]. (quyển 78, tr. 432b23)
2. Luận Đại Trí Độ, No. 1509, Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Hậu Tần năm 402-405:
(1) “Chú thuật dược thảo có thể biến đồng thành vàng.” (quyển 16, tr. 178a27)
(2) “Ví dụ, một người biết công nghệ có khả năng biến bạc thành vàng và vàng thành bạc, nhờ sức mạnh của thuốc.” (quyển 18, tr. 195c07)
(3) “Ví dụ, một người có thần thông có khả năng biến ngói và đá thành vàng.” (quyển 32, tr. 298b24)
(4) Ví dụ, một cân thạch châm có thể biến một nghìn cân đồng thành vàng. (quyển 47, 401a27)
3. Nhiếp Đại Thừa Luận Thích của Thế Thân, No. 1597, Huyền Trang dịch khoảng năm 650: “Nếu bạn muốn biến đất thành vàng và các bảo vật khác, bạn có thể tùy ý làm.” (quyển 7, tr. 358b21)
4. Luận A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa, No. 1545, Huyền Trang dịch năm 656 – 659: “Vả lại, sự việc bên ngoài là như Già-lặc-ca cùng với bề tôi Hoài Nguyệt, đã học phương pháp chế tạo vàng trong mười hai năm. Ban đầu họ làm được một hạt vàng to bằng hạt lúa mạch, nên thầy trò liền hét lên: Bây giờ chúng ta có thể làm ra núi vàng.” (quyển 80, tr. 414c22)
Thời gian biên soạn chính xác các văn bản gốc tiếng Phạn của bốn bản kinh do Trung Quốc dịch ở trên là không chắc chắn, nhưng về cơ bản chúng sớm hơn nhiều so với thời nhà Đường. Waley đã lầm tưởng rằng những ghi chép trong bản dịch Kinh Hoa Nghiêm của Thật-xoa-nan-đà không được tìm thấy trong bản dịch của Phật-đà-bạt-đà-la thời Đông Tấn (No. 278, dịch vào năm 418 & 421), và do đó tin rằng phần nội dung này phải muộn hơn bản Tấn. Thật ra, trong quyển 59 của bản dịch Phật-đà-bạt-đà-la cũng có ghi chép tương tự: “Ví như một lạng thuốc A-la-sa có thể biến ngàn lạng đồng thành vàng thật, và phần thuốc ấy cũng không mất mát gì.” (tr. 778b16) Bản dịch Hoa Nghiêm của Bát-nhã (dịch vào năm 759 & 798) quyển 36, cũng nói: “Như có một loại nước thuốc tên là Ha-trích-ca, người ta có được nó, dùng một lượng nước thuốc ấy có thể biến ngàn lượng đồng thành vàng thật. Không phải ngàn lượng đồng có thể biến nước thuốc này [thành vàng]." (tr. 828b07) Trong Hoa Nghiêm Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao (華嚴經隨疏演義鈔, No. 1736) ngài Trừng Quán đã so sánh loại dược châm được nói trong kinh Hoa Nghiêm với ‘cửu chuyển hoàn đan’ của Đạo giáo: “Dược châm tên là Ha-trạch-ca, đây gọi là loại nước màu vàng kim, thậm chí còn mạnh hơn cửu chuyển hoàn đan." (quyển 89, tr. 694c15) Trên thực tế, nội dung liên quan đến thuật giả kim xuất hiện trong một số kinh điển Phật giáo trước đó không phải là hiếm, và còn có những ví dụ khác. Ví dụ, quyển 16 của luận Đại Trí Độ nói: “Xuống dưới biển cả tìm các loại bảo vật; leo núi cao vót tìm diệu dược; vào hang đá sâu tìm các loại dị vật, thạch chấp, trân bảo, để bố thí cho chúng sinh. ... Dược thảo, chú thuật, khiến đồng biến thành vàng, như vậy các thứ biến hóa, trao các tài vật và vật vô chủ bốn phương, để chu cấp cho chúng sinh.” (tr. 178a23) Quyển 28 ghi: "Thạch châm (nhựa đá) làm ra vàng, vàng hư rã thành đồng, hoặc trở lại thành đá.” (tr. 264c13) Lại nữa: “Hãy biến vàng thành đá vụn, đá vụn thành vàng, những vật đó có thể chuyển hóa cho nhau.” (tr. 264b24)
[162] Kinh Đại Bát Niết-bàn, No. 374, do Đàm Vô Sấm dịch, phẩm Bồ-tát Sư Tử Hống, tr. 525c25: “Này thiện nam tử! Núi Tuyết có thứ cỏ tên là Nhẫn nhục, trâu ăn vào thì cho ra đề hồ. Ở đó lại có thứ cỏ khác, trâu nếu ăn thì không có đề hồ. Tuy không đề hồ nhưng chẳng thể nói rằng, trong núi Tuyết không có cỏ Nhẫn Nhục. Phật tính cũng vậy, núi Tuyết là gọi Như Lai, cỏ Nhẫn Nhục là gọi Ðại Niết Bàn, cỏ khác là mười hai bộ Kinh. Chúng sinh nếu có thể thính thọ, hỏi han, gợi mở Ðại Bát Niết Bàn thì thấy Phật tính. Trong mười hai bộ Kinh, tuy chẳng nghe nói có nhưng chẳng thể nói rằng, không Phật tính vậy.” (Cư sĩ Tuệ Khai dịch)
[163] Kinh Đại Bát Niết-bàn, phẩm Bồ-tát Ca Diếp, tr. 573a21: “Bốn đại cũng lại như vậy. Nếu nói từ bốn đại bên ngoài tăng trưởng bốn đại bên trong, chẳng thấy từ bốn đại bên trong tăng trưởng bốn đại bên ngoài. Như trái cây Thi lợi sa, trước không hình chất nhưng khi có sao Mão thì trái sinh ra lớn đủ năm tấc. Quả (trái) như vậy thì thật chẳng nhân vào bốn đại bên ngoài mà lớn.” (Cư sĩ Tuệ Khai dịch)
[164] Ibid., quyển thượng, tr. 48a02-07. Nhựa Thạch châm dụ cho tác dụng diệt tội. Cỏ Nhẫn nhục và cây Nguyệt-lợi-sa (尸利沙) dụ cho tác dụng sinh thiện.
[165] Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集), No. 2608, tông điển căn bản của Tịnh độ tông Nhật Bản, thuật về yếu chỉ sâu xa của bản nguyện do đức Phật A Di Đà tuyển chọn, và thuyết về việc pháp môn Niệm Phật là giáo lý tương ứng với thời mạt pháp; do Nguyên Không (源空), tức Pháp Nhiên (法然, 1133 - 1212) soạn, 1 quyển; được soạn thuật vào năm Kiến Cửu (建久) thứ 9 (1198) thể theo lời thỉnh cầu của Cửu Điều Kiêm Thật (九條兼實, Kujō Kanezane). Thông thường, tác phẩm này được gọi tắt là Tuyển Trạch Tập (選擇集). Cơ sở soạn thuật Tuyển Trạch Tập được xem như có trong tác phẩm Nghịch Tu Thuyết Pháp (逆修說法) cũng như Tam Bộ Kinh Thích (三部經釋), cho nên nó được hình thành trước khi đem ra giảng thuyết ở Đông Đại Tự (東大寺) vào năm đầu niên hiệu Kiến Cửu (1190). Bản thảo hiện tồn ở Lô Sơn Tự (盧山寺), Kyoto. Đầu đề hàng chữ “Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集)”, “Nam Mô A Di Đà Phật, Vãng Sanh Chi Nghiệp Niệm Phật Vi Tiên (南無阿彌陀佛、徃生之業念佛爲先)” tương truyền do chính tay Nguyên Không viết. Nội dung của thư tịch này được chia làm 16 chương: (1) Hai Môn (二門), (2) Hai Hạnh (二行), (3) Bản Nguyện (本願), (4) Ba Hạng Người (三輩), (5) Niệm Phật Lợi Ích (念佛利益), (6) Đặc Lưu (特留), (7) Nhiếp Thủ (攝取), (8) Ba Tâm (三心), (9) Bốn Tu (四修章), (10) Hòa Tán (和讚), (11) Ước Đối (約對), (12) Phó Chúc (付囑), (13) Đa Thiện (多善), (14) Chứng Thành (証誠), (15) Hộ Niệm (護念), (16) Ân Cần (慇懃). Hầu hết các chương đều có trích dẫn văn trong 3 bộ kinh của Tịnh Độ, thuật rõ ý kinh theo giải thích của Đại Sư Thiện Đạo, nêu rõ yếu chỉ đức Phật A Di Đà tuyển chọn chỉ một hạnh Niệm Phật trong muôn vàn pháp môn của Phật đạo, và chính đó là pháp môn duy nhất có thể giúp chúng sinh vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Căn cứ của chủ trương này thông qua quá trình chọn lựa ba tầng, được thể hiện mang tính lý luận, tức làm sáng tỏ vấn đề chính một hạnh Xưng Danh là Chánh định nghiệp. Nhờ chuyên tu Chánh định nghiệp này mà được an tâm, như trong đoạn văn khai tông của Quán Kinh Sớ (觀經疏) có giải thích lập trường căn bản là: “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di Đà, chẳng kể xa gần, thời gian khi đi đứng nằm ngồi, người không xả từng niệm, đây gọi là Nghiệp chánh định; vì lẽ thuận theo nguyện của đức Phật kia.” Tuyển Trạch Tập có thể được xem như là thư tịch làm sáng tỏ một cách có hệ thống nội dung khai tông của Tịnh độ tông. Sau khi Nguyên Không qua đời, sách này được khai bản, nhưng gặp phải khá nhiều phản ứng mạnh, như Cao Biện (高辨) ở Mẫu Vĩ (栂尾, Tsugao), Định Chiếu (定照) ở Tinh Hạ (幷榎, Namie), v.v., bị phía Thánh Đạo Môn công kích mãnh liệt. Tuy nhiên, chính tác phẩm này đã mang lại ảnh hưởng vô cùng to lớn cho Phật Giáo Liêm Thương. Tuyển Trạch Tập được truyền thừa như là điển tịch trọng yếu của chư Tổ; nhưng chung quanh việc giải thích của môn hạ Nguyên Không về thư tịch, lại nảy sinh đối lập, và cuối cùng phát triển thành nhiều dòng phái khác nhau. Chính sự đối lập này càng tăng lên thì nhiều sách chú thích về thư tịch này càng xuất hiện, thậm chí lên đến 521 bộ. Riêng trong Chân Tông đã có 266 bộ. Nguyên bản hiện được bảo tồn tại Lô Sơn Tự. Tuyển Trạch Tập được thu tập vào trong Pháp Nhiên Thượng Nhân Toàn Tập (法然上人全集) của Thạch Tỉnh Giáo Đạo (石井敎道, Ishi Kyōdō), Tịnh Độ Tông Toàn Thư (淨土宗全書). [Phật Học Tinh Tuyển]
[166] Tuyển Trạch Tập, phẩm Hai Môn: “Pháp tu Thánh đạo, hiện nay rất khó chứng đắc, một là vì thời đại đã cách Phật rất lâu xa, hai là do nghĩa lý Đại thừa sâu xa khó hiểu. Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng có nói: “
Trong thời mạt pháp, có ức ức chúng sinh phát tâm tu hành, nhưng có rất ít người đắc đạo.” (tr. 1b11) Theo ngài Nguyên Không, Thánh đạo là giáo pháp Đại thừa và Tiểu thừa. Đại thừa giáo có Hiển, Mật, Quyền, Thật, chi tiết thì có 8 tông phái: Chân Ngôn, Thiền, Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Tam Luận, Pháp Tướng, Địa Luận, Nhiếp Luận. Tiểu thừa giáo. Tiểu thừa giáo bao gồm các tông phái như Luật tông, Câu-xá tông và Thành Thật tông.
[167] Năm chánh hạnh (五正行) do tông Tịnh độ lập ra cho người tu hành pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ. Đó là: 1. Chánh hạnh đọc tụng; 2. Chánh hạnh quán xét; 3. Chánh hạnh lễ bái; 4. Chánh hạnh xưng danh; 5. Chánh hạnh tán thán cúng dường. Năm hạnh này căn cứ vào 3 bộ kinh Tịnh độ, chỉ thực hành những hạnh hướng về Đức Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc phương Tây, cho nên gọi là Chánh hạnh. Trái lại, làm 5 việc trên đối với các Đức Phật khác, Bồ-tát khác thì gọi là Tạp hạnh.
[168] Bốn trong năm chánh hạnh là phụ trợ, và chánh hạnh còn lại là quan trọng nhất. Sau đó, hãy tạm gác bốn hạnh đó sang một bên và tập trung vào hạnh cơ bản và quan trọng nhất, đó là xưng danh.
[169] Ibid., chương Ân Cần Phó Chúc, tr. 18c19.
[170] Bất hồi hướng (不回向): Tiếng dùng của Phật giáo Nhật bản. Môn Tịnh độ lập ra hai thứ hồi hướng: (1) Vãng tướng hồi hướng (nguyện đem công đức đã tu hồi hướng đạo Bồ đề để được sinh về Tịnh độ); (2) Hoàn tướng hồi hướng (nguyện sau khi thành Phật trở lại đường sinh tử, giáo hóa hết thảy chúng sinh). Nhưng, Tịnh độ Chân tông thì chủ trương, chỉ cần một niềm tin chí thành, tha thiết là hai thứ hồi hướng trên đều do Đức Phật A Di Đà hồi hướng cho người tu hành, chứ người tu hành thì không cần phải hồi hướng, nên gọi là Bất hồi hướng. Bất hồi hướng là pháp tha lực, hiển bày chỗ cùng tột của tha lực. Thế nên, niệm Phật tha lực (tuyệt đối tin tưởng vào sự cứu vớt của Phật A Di Đà) gọi là hạnh Bất hồi hướng.
[171] Bản nguyện của Đức Phật A Di Đà là cứu độ những kẻ ác tội lỗi, và những kẻ ác đó là những người có khả năng và phẩm chất nghe lời Phật dạy và đạt được giác ngộ, đáng được vãng sinh. Đây là nền tảng tư tưởng của Thân Loan.
[172] Sau pháp nạn Thừa Nguyên (承元), Thân Loan rời Kinh đô (Kyoto) ở tuổi 35 và bị đày đến Việt Hậu (越後, Etsugo). Trong 7 năm cho đến khi Ngài rời đi Quan Đông (關東, Kanto) vào năm 42 tuổi. Trong khi ngắm nhìn biển Nhật Bản yên lặng và sôi động vào mỗi mùa, Ngài đã bày tỏ thế giới của lòng từ bi sâu xa và không thể nghĩ bàn của Đức Phật A Di Đà là "biển", và Thân Loan cũng dùng từ “biển” để mô tả thế giới của những ham muốn trần tục, mê muội không đáy của chúng ta. Pháp ngữ “biển” trong Giáo Hành Tín Chứng như sau: (1) Căn cơ: nan độ hải (難度海), quần sinh hải (群生海), vô minh hải (無明海), ngu si hải (愚癡海), phiền não hải (煩惱海), sinh tử hải (生死海), chư hữu hải (諸有海), ái dục quảng hải (愛欲廣海), sinh tử đại hải (生死大海), khổ hải (苦海). (2) Giáo pháp: đức hải (德海), bảo hải (寶海), công đức bảo hải (功德寶海), công đức đại bảo hải (功德大寶海), tuyển trạch đại bảo hải (選擇大寶海), vạn đức đại bảo hải (萬德大寶海), từ bi hải (慈悲海), trí tuệ hải (智慧海), pháp môn hải (法門海), chúng đức hải (眾德海), chân như hải (真如海), quang minh quảng hải (光明廣海), thanh tịnh trí hải (清淨智海), nguyện hải (願海), đại bị nguyện hải (大悲願海), tuyển trạch nguyện hải (選擇願海), đại trí nguyện hải (大智願海), nhất thừa hải (一乘海), bản nguyện nhất thừa hải (本願一乘海), hoằng thệ nhất thừa hải (弘誓一乘海), tín hải (信海), tín tâm hải (信心海), đại tín hải (大信海), đại tín tâm hải (大信心海), đại trí hải (大智海), nan tư pháp hải (難思法海).
[173] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú (無量壽經優婆提舍願生偈註), Đàm Loan chú giải, quyển hạ, tr. 838b02, giải thích câu kệ: “Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh giác hoa hóa sinh” (如來淨華眾,正覺華化生). Thánh chúng của A Di Đà Như Lai đều hóa sinh trong hoa sen thanh tịnh, nên nói ‘Như Lai tịnh hoa chúng’. Hoa sen ấy là kết quả của sự hoàn thành bản nguyện của Như Lai mà thành ngôi Chánh giác, nên nói ‘Chánh giác hoa”. Bất luận căn cơ người niệm Phật như nào, không phân biệt trí ngu, thiện ác, già trẻ, chỉ cần phải thành tâm niệm Phật, thì có được công đức đồng nhất. Tạp sinh về các thế giới bằng thai, noãn, thấp hay hóa, quyến thuộc bao nhiêu, khổ sướng vạn kiểu, đó là do tạp nghiệp. Chánh nhân sinh về Cực Lạc là một hạnh niệm Phật, cho nên thuần một hóa sinh. Tịnh và uế là nhân quả tương đối, cho nên nói “không có con đường riêng”.
[174] Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, quyển 1, tr. 25c27. Thánh giả Sơ quả lấy 28 hữu làm cực độ, không có 29 hữu.
[175] Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, quyển 5, tr. 43a20.
[176] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú, quyển hạ, tr. 838a14: “Kinh nói: Nếu người nào chỉ nghe về sự thanh tịnh an lạc của cõi nước kia, khắc niệm nguyện sinh, cũng được vãng sinh, liền nhập chánh định tụ.” Chánh định tụ, tức là A-bệ-bạt-trí, là Bất thối chuyển.
[177] Vãng Sinh Lễ Tán Kệ, No. 1980, Đại sư Thiện Đạo tập ký, tr. 439b12.
[178] Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Lược Pháp Sự Nghi Tán (淨土五會念佛略法事儀讃), No. 1983, Sa-môn Pháp Chiếu thuật, tr. 479c17.
[179] Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, No. 1753, Đại sư Thiện Đạo tập ký, quyển 4, phần Tán thiện, tr. 278b13.
[180] Dị hành chí cực (易行至極): Dễ làm tột cùng. Bất kể ai, khi nào, ở đâu, lý do là gì, mọi người có thể xưng danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Việc dễ làm trong những việc dễ làm không gì bằng “bản nguyện xưng danh”.
[181] Phật thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, No. 360, Pháp sư Khương Tăng Khải dịch, quyển hạ, tr. 279a01.
[182] Vãng Sinh Lễ Tán Kệ (往生禮讃偈), No. 1980, Đại sư Thiện Đạo tập ký: “Nay tin biết bản hoằng thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà và xưng niệm danh hiệu, tối thiểu

hạ chí 下至) mười tiếng một tiếng, thì chắc chắn được vãng sinh, và dù chỉ (乃至 nãi chí) một niệm mà không có lòng nghi, nên gọi là thâm tâm.” (tr. 438c08) “Thế nào gọi là Hộ niệm? Nếu có chúng sinh xưng niệm A Di Đà Phật, hoặc bảy ngày và một ngày, hoặc tối thiểu là mười tiếng, tối thiểu một tiếng một niệm, thì ắt được vãng sinh. Chư Phật đều chứng thành sự kiện này, nên gọi là Hộ Niệm Kinh.” (tr. 448a07)
[183] Cứ theo Vãng Sinh Lễ Tán của ngài Thiện Đạo thì từ ngữ “cho đến mười niệm” (nãi chí thập niệm) trong văn nguyện, có hàm ý là “tối thiểu mười tiếng” (hạ chí thập thanh), tức chỉ niệm mười lần câu “Nam mô A Di Đà Phật” cũng được sinh về Tịnh độ. Vì đức Phật A Di Đà đã thành Phật rồi và hiện đang ở cõi Tịnh độ, nên lời thệ nguyện của Ngài không hề hư dối. Về từ ngữ “cho đến mười niệm”, có nhiều thuyết: Ngài Đàm Loan chủ trương “cho đến mười niệm” là niệm liên tục không gián đoạn. Các ngài Nguyên Hiểu, Pháp Vị, Huyền Nhất thì cho đó là “mười pháp mười niệm”: từ tâm, bi tâm, hộ pháp tâm, quyết định tâm, thâm tâm, nhất thiết chủng trí tâm, tôn trọng tâm, bất vị trước tâm, viễn ly tán loạn tâm, chánh niệm quán Phật tâm, được nói trong kinh Di Lặc Phát Vấn. Ngài Nghĩa Tịch thì cho niệm tức hàm ý thời gian, xưng niệm sáu chữ danh hiệu một lần là một niệm, mười lần tức thành mười niệm, trong mỗi niệm ấy tự nhiên đầy đủ mười pháp mười niệm: từ, bi, v.v. Trong Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập, ngài Nguyên Không, người Nhật Bản, cho rằng giữ giới, tụng kinh, thực hành sáu độ, công đức tuy rất lớn, có thể hồi hướng vãng sinh, nhưng đều không thù thắng bằng công đức xưng danh niệm Phật, cho nên chỉ lấy một hạnh niệm Phật làm bản nguyện vãng sinh mà thôi.
[184] Đoạn này giải thích cho đoạn (74): Kinh Đại Bản nói: “
Phật bảo Di Lặc: Có ai được nghe danh hiệu Ðức Phật Vô Lượng Thọ mà hoan hỷ phấn chấn, dù chỉ một niệm, phải biết người ấy đã được lợi lớn, là đã đầy đủ công đức vô thượng.”
[185] Quang minh quảng hải (光明廣海).
[186] An Lạc Tập (安樂集), No. 1958, Đạo Xước soạn, quyển thượng, tr. 11a23.
[187] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú (無量壽經優婆提舍願生偈註), Đàm Loan chú giải, quyển hạ, tr. 843a-b01: “Những gì là năm môn? (1) Cận môn; (2) Đại hội chúng môn; (3) Trạch môn; (4) Ốc môn; (5) Viên lâm du hý địa môn. Năm môn này chỉ rõ tướng xuất nhập theo thứ tự. Tướng của nhập môn là: mới đến Tịnh Độ là cận tướng, tức là dự vào Chánh định tụ của Đại thừa, gần với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; đã vào trong Tịnh độ, bèn dự vào đại chúng trong pháp hội của Như Lai; đã dự vào hàng đại chúng, sẽ đến được căn nhà “an tâm tu hành”; đã vào nhà rồi, sẽ đến phòng ốc dành cho tu hành. Khi đã tu hành thành tựu, sẽ đạt đến địa vị giáo hóa. Địa vị giáo hóa chính là chỗ vui sướng của Bồ-tát. Vì thế, tướng của xuất môn (từ Cực Lạc trở lại giáo hóa chúng sinh) được gọi là viên lâm du hý địa môn.”
[188] Kinh Hoa Nghiêm, No. 278, Phật-đà-bạt-đà-la dịch, quyển 5, tr. 429b19: Nhất thiết vô ngại nhân, nhất đạo xuất sinh tử. (一切無礙人 , 一道出生死.)
[189] Nguyện thứ 18.
[190] Nguyện thứ 11.
[191] Nguyện thứ 22.
[192] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú (無量壽經優婆提舍願生偈註), Đàm Loan chú giải, quyển hạ, tr. 843b27-844a27.
[193] Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Nghĩa Sớ (觀無量壽佛經義疏), No. 1754, Nguyên Chiếu thuật, quyển thượng, tr. 279b21.
[194] Kinh Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Quảng (勝鬘師子吼一乘大方便方廣經), No. 353, Cầu-na Bạt-đà-la (394 – 468) dịch, phẩm Nhất thừa, tr. 220c21.
[195] Kinh Đại Bát Niết Bàn, No. 374, Đàm Vô Sấm dịch, quyển 13, phẩm Thánh Hạnh, tr. 443b23.
[196] Ibid., quyển 25, phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát, tr. 515b10.
[197] Ibid., quyển 27, phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát, tr. 524c11.
[198] Ibid., quyển 27, phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát, tr. 526a11.
[199] Kinh Hoa Nghiêm, No. 278, Phật-đà Bạt-đà-la dịch, quyển 5, phẩm Như Lai Quang Minh Giác, tr. 429b18.
[200] Bản nguyện là Nhất thừa vô ngại. Đại lợi là cứu cánh Nhất thừa.
[201] Tạp tu là đối với chuyên tu; chuyên tu là trì danh niệm Phật. Tạp thiện là “thiểu thiện căn”, thế nên ngài Thiện Đạo nói: “Cực Lạc vô vi, Niết-bàn giới, Tùy duyên tạp thiện e khó sinh, Bởi thế Như Lai tuyển yếu pháp, Dạy niệm Di Đà chuyên càng chuyên.” (Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập, tr. 17a27) Kinh Di Đà tiểu bản nói: “không thể chỉ đem thiện căn nhỏ (thiểu thiện căn) làm yếu tố để được sinh Cực Lạc.” Thiện căn nhỏ là những việc thiện ngoài sự trì danh niệm Phật. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Muốn sinh Cực Lạc thì phải làm ba phước: một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, làm mười thiện nghiệp; hai là thọ trì tam quy, giữ đủ tịnh giới, không phạm uy nghi; ba là phát bồ đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tiến người tu.” Chỉ có ba phước phải và nên làm, vậy mà người tu bỏ cả một đời vẫn không làm nổi! Thiện căn như vậy mà nói là nhỏ, là chỉ vì có yếu tố và cảnh ngộ mới có làm có giữ, không thì làm và giữ gián đoạn.
[202] Không rõ kinh nào. Vãng Sinh Yếu Tập, No. 2682, có ghi: “Như tánh nước và tánh băng chẳng khác nhau. Thế nên kinh nói: ‘Phiền não, Bồ-đề thể không hai, Sinh tử, Niết-bàn chẳng khác xứ.’ Chúng ta ngày nay chưa có lửa trí thì không thể tan băng phiền não. Xin Phật thương xót chúng ta. Như pháp sở đắc của Ngài, định tuệ lực trang nghiêm, do đây khiến giải thoát. Nghĩ như vậy rồi, học nghe, niệm Phật mà thỉnh cầu cứu hộ.” (tr. 65a15)
[203] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú nói: “Tất cả các loại thiện nghiệp của trời người, cho đến những quả báo nhận được, bất luận là nhân hay quả, đều là điên đảo, đều là hư ngụy, cho nên nói là công đức không thật.” (tr. 827c18) Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn giải thích: “Đời có kẻ tu hành mà chỉ tu hành một chiều, không cứu xét tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc vụ lợi, hoặc háo danh, hoặc ham cái thú hiện tại, hoặc cầu cái vui mai sau: phát tâm như vậy gọi là tà.” “Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong bẩn ngoài sạch, trước siêng sau nhác, tâm tốt dẫu có cũng phần lớn bị danh lợi xen lấn, thiện pháp dẫu tu cũng phần nhiều bị vọng nghiệp nhuốm bẩn: phát tâm như vậy gọi là ngụy.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
[204] Tạp độc (雜毒): là kết (結), còn gọi là kiết sử (
結使). Kết là các phiền não trói buộc chúng sinh, khiến không ra khỏi được sinh tử. Sử là các phiền não sai khiến làm não loạn chúng sinh. Kết có 9 thứ, Sử có 10 thứ, gọi là 9 kết 10 sử. Luận Đại trí độ quyển 1 (Đại 25, 58 hạ), nói: “Tất cả chúng sinh bị bệnh kết sử làm cho phiền não, từ vô thủy sinh tử đến nay, không ai có thể chữa được bệnh này.” Tạp tâm (雜心): là định tán, tâm loạn. (Giáo Hành Tín Chứng, 6).
[205] Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ, No. 360, quyển hạ, tr. 273b05.
[206] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá, No. 1524, Bồ-tát Thế Thân tạo, tr. 232a15: “Quán sát công đức trang nghiêm của Đức Phật kia thành tựu như thế nào? Quán sát công đức trang nghiêm của Đức Phật kia thành tựu có tám thứ cần nên biết. Những gì là tám? (1) Tòa sen trang nghiêm; (2) Thân tướng trang nghiêm; (3) Lời nói trang nghiêm; (4) Tâm ý trang nghiêm; (5) Thánh chúng trang nghiêm; (6) Thượng thủ trang nghiêm; (7) Pháp Chủ trang nghiêm; (8) Bất hư tác trụ trì trang nghiêm.
[1] Tòa sen trang nghiêm như thế nào? Kệ rằng: "Vô lượng Đại Bảo Vương, Đài hoa sạch vi diệu". [2] Thân tướng trang nghiêm như thế nào? Kệ rằng: "Tướng hảo chiếu một tầm, Sắc tướng vượt quần sinh". [3] Lời nói trang nghiêm như thế nào? Kệ rằng: "Tiến Như Lai vi diệu, Phạm âm vang mười phương". [4] Tâm ý trang nghiêm như thế nào? Kệ rằng: "Đồng đất nước gió lửa, Hư không vô phân biệt" Do không có phân biệt cho nên không có tâm phân biệt. [5] Thánh chúng trang nghiêm như thế nào? Kệ rằng: "Trời người chúng bất động, Biển trí thanh tịnh sinh". [6] Thượng thủ trang nghiêm như thế nào? Kệ rằng: "Như vua núi Tu Di, Thắng diệu không ai bằng". [7] Pháp Chủ trang nghiêm như thế nào? Kệ rằng: "Trời người chúng trượng phu, Cung kính quanh chiêm ngưỡng". [8] Bất hư tác trụ trì trang nghiêm như thế nào? Kệ rằng: "Quán Phật bản nguyện lực, Ai gặp không luống qua, Sẽ Khiến được mau đầy đủ, Biển báu lớn công đức".”
[207] (…): “Có kẻ nhịn ăn nuôi người, mà lại gây sự trên thuyền; trữ vàng đầy kho, mà chẳng khỏi chết đói. Những sự như vậy, thấy ở khắp nơi. Có được mà chẳng làm để có được; yên ở mà chẳng giữ để yên ở, tất cả đều do hư vọng nghiệp gây ra, nên không có khả năng trụ trì.”
[208] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú (無量壽經優婆提舍願生偈註), Đàm Loan chú giải, quyển hạ, tr. 840a04-16.
[209] Ibid., quyển thượng, tr. 832b24.
[210] Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, No. 1753, Đại sư Thiện Đạo tập ký, quyển 1, tr. 278b13. Đốn giáo Nhất thừa: chỉ cho pháp môn Tịnh độ. Thời Hậu Đường, Đại sư Thiện Đạo phán giáo: lấy sự mau chóng thành Phật của pháp môn Tịnh độ, nên gọi là Đốn giáo, và lấy tất cả chúng sinh đều được nương thừa này, nên gọi là Nhất thừa.
[211] Y Quán Kinh Đẳng Minh Bát Chu Tam Muội Hành Đạo Vãng Sinh Tán (依觀經等明般舟三昧行道往生讚), No. 1981, 1 quyển, Đại sư Thiện Đạo soạn, tr 448c03. “Quán Kinh, Di Đà Kinh đều nói, Chính là Bồ-tát tạng Đốn giáo, Một ngày bảy ngày chuyên xưng Phật, Mạng tận chốc lát sinh An Lạc.”
[212] Chánh văn là Tông Thích (宗釋), e là lầm, phải là Tông Hiểu (宗曉). Lạc Bang Văn Loại (樂邦文類), No. 1969A, quyển 4, tr. 213b26: “Một viên hoàn đan điểm sắt thành vàng, một lời chân lý đổi phàm thành Thánh. Di Đà giáo quán thật là diệu dược điểm sắt thành vàng.” (
還丹一粒, 點鐵成金. 真理
一言, 革凡成聖. 彌陀教觀, 真
點鐵成金之
妙藥也.)
[213] Về Giáo pháp, có 48 đối.
[214] Tuyệt đối bất nhị (絶對不二), còn gọi tuyệt đãi bất nhị (絶待不二): Không có so sánh với cái khác. Trái ngược với tuyệt đối là tương đối, tương đãi. Bất nhị (không hai) là giúp chỉ rõ nghĩa tuyệt đối. Chân tông của Nhật Bản lấy niệm Phật làm pháp Nhất thừa Bản nguyện, còn các pháp khác là phương tiện quyền giả.
[215] Về Căn cơ, có 11 đối.
[216] Kinh Hoa Nghiêm, No. 278, quyển 36, phẩm Bảo Vương Như Lai Tánh Khởi, tr. 629b27: “Ví như núi Tuyết có đại dược vương gọi Thiện Hiện. Nếu có người nhìn thấy, mắt được thanh tịnh. Nếu có người nghe thấy, tai được thanh tịnh. Nếu có người ngửi mùi thơm, mũi được thanh tịnh. Nếu người nếm mùi vị, lưỡi được thanh tịnh. Nếu có người chạm vào, thân được thanh tịnh. Nếu cầm lấy đất của nó, đều có thể trừ diệt vô lượng các bệnh, yên ổn vui sướng.”
[217] Nhân chân thật là nhất niệm, nhất tâm, Kim cương tín tâm.
[218] Đoạn này, ngài Thân Loan có tham khảo những định nghĩa Bồ-đề tâm trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, No. 279, tr. 429b25-430c23. Có 28 ví dụ để biểu thị công đức không thể nghĩ bàn của bản nguyện Phật.
[219] Nguyện thứ mười bảy: “Giả sử khi tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác”, được gọi là “Chư Phật xưng dương nguyện”, là “Chư Phật xưng danh nguyện”, là “Chư Phật tư ta nguyện”, là “Vãng tướng hồi hướng nguyện”, cũng là “Tuyển trạch xưng danh nguyện”.
[220] Nguyện thứ mười tám: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác”, được gọi là “Chí tâm tín lạc nguyện”, là “Niệm Phật vãng sinh nguyện”, cũng là “Thập niệm tất sinh nguyện”.
[221] Tuyển trạch bản nguyện, hiểu rộng là cả 48 nguyện, hiểu hẹp là nguyện thứ 18. Gọi là Tuyển trạch bản nguyện vì A Di Ðà Phật khi tu nhân đã chọn lấy những thệ nguyện thù thắng nhất của chư Phật để kết thành 48 nguyện, và Niệm Phật Vãng Sinh là tinh tủy, là cốt lõi của cả 48 lời nguyện. Đây là quan điểm đặc sắc của sư Pháp Nhiên, khai tổ Tịnh độ tông Nhật Bản.
[222] Nan tư nghị vãng sinh (難思議往生): Chỉ cho sự vãng sinh khó nghĩ bàn, tức nhờ lòng tin vào hoằng nguyện tha lực của đức Phật A Di Đà mà được vãng sinh, là 1 trong 3 thuyết vãng sinh của Tịnh độ chân tông Nhật bản. Do lòng tin vào tha lực hồi hướng được sinh về cõi Thật báo trang nghiêm của đức Phật A Di Đà, đó chẳng phải là việc mà phàm phu nói bàn, suy nghĩ có thể biết được, cho nên gọi là Nan tư nghị vãng sinh. Tông này còn lập ra 2 thuyết vãng sinh khác: (1) Nan tư vãng sinh: Nhờ nhân tự lực niệm Phật mà được sinh vào Nghi thành Thai cung (疑城胎宮) ở chỗ biên giới cõi Tịnh độ, tức là Hóa độ của đức Phật A Di Đà, được hưởng vô lượng sự an lạc chẳng thể nghĩ bàn, theo như lời nguyện thứ 20 của Ngài. Vì loại tự lực vãng sinh này không thù thắng bằng tha lực vãng sinh đã nói ở trên, cho nên gọi là Nan tư. (2) Song thọ lâm hạ vãng sinh: Lấy việc hóa thân của đức Thích Ca nhập diệt ở rừng Sa la song thọ để ví dụ sự vãng sinh về cõi Phương tiện hóa độ của đức Phật A Di Đà, theo lời nguyện thứ 19 của Ngài. [X. Chuyển kinh hành đạo nguyện vãng sinh Tịnh độ pháp sự tán, quyển thượng; Giáo hành tín chứng, quyển 6].
[223] Ở Hóa độ thành Phật là Hóa Phật. Ở Báo độ thành Phật là Báo Phật. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật là “Ta-bà Hóa chủ”, bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật ở Ta-bà Hóa độ, tức là Hóa Phật. Tây phương An Lạc quốc là Báo độ, và Đức Phật A Di Đà là Báo Phật.
[224] Thệ nguyện bất khả tư nghị Nhất thật chân như hải (誓願不可思議一實真如海).
[225] Thân Loan kế thừa Tịnh độ Chân tông của Pháp Nhiên, biểu hiện bằng Tha lực Chân tông (他力真宗) hay Bản nguyện Tha lực Chân tông (本願他力真宗). Quan điểm của Thân Loan về con đường thành Phật được thành lập dựa trên sự hồi hướng bản nguyện lực của Bồ-tát Pháp Tạng (Đức Phật A Di Đà), như được thuyết trong kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ. Học giả D. T. Suzuki phân loại những lời dạy của ông thuộc trường phái Tha lực tông (他力宗). Thuật ngữ Tha lực đã khiến nhiều người coi Đức Phật A Di Đà là yếu tố trung tâm của con đường thành Phật này. Trên thực tế, sự hiểu biết của Thân Loan về Tịnh độ tập trung vào những chúng sinh nhận được năng lực cứu độ từ bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. Thân Loan rời bỏ trường phái Tự lực và lý tưởng Đại thừa vốn “làm lợi ích cho người khác thông qua sự quên mình”, chấp nhận đường lối thực hành niệm Phật của Pháp Nhiên như một phương tiện để tự cứu mình. Tuy nhiên, từ một quan điểm khác, chính sự tự cứu này chỉ ra sự tương đồng giữa niệm Phật và con đường thực hành Đại thừa. Nhiều người đã chỉ ra những điểm tương đồng giữa sự nhấn mạnh của trường phái này vào sự tin cậy vào năng lực cứu rỗi của Đức Phật A Di Đà và thần học Kitô giáo. Tuy nhiên, đối với Thân Loan, giáo lý Tịnh độ đã hình thành một cách diễn đạt tự nhiên và trực quan của Phật giáo Đại thừa, dựa trên sự gặp gỡ của những chúng sinh bình thường với năng lực hồi hướng bản nguyện của Đức Phật A Di Đà.
[226] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú, quyển thượng, tr. 827a09. Đoạn chú này giải thích câu kệ trong luận bản: “Thế Tôn con nhất tâm” (世尊我一心). Tông sư là Đại sư Đàm Loan.