Kinh A Di Đà yếu giải

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH


YẾU GIẢI <o:p></o:p>

<o:p></o:p>
Kinh A Di Đà do Phật thuyết
Hán dịch : Pháp sư Cưu Ma La Thập
Yếu giải :Sa môn Trí Húc
Việt dịch: Cư sĩ Tuệ Nhuận
<o:p></o:p>
Nguyên là chư Phật thương xót lũ người mê, phải tùy căn cơ của mỗi người mà bố thí cho lời giáo hóa.
Đưa người tới đích bằng phương tiện, tuy chỉ có một đích thôi, tất phải dùng nhiều phương tiện. Trong hết thảy các pháp phương tiện, tìm lấy một pháp rất thẳng, rất mau, rất tròn, rất chóng, thì không pháp nào bằng pháp niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Lại trong các pháp niệm Phật, tìm lấy một pháp rất giản dị, rất ổn đáng thì không pháp nào bằng pháp tín, nguyện, niệm Phật “. Thế cho nên ba bộ kinh nói về Tịnh Độ đều có lưu hành, mà cổ nhân chỉ chọn lấy một bộ kinh A Di Đà làm khóa tụng hàng ngày. Thế chẳng phải là một pháp trì danh ấy hợp với tất cả ba hạng người : Thượng căn, trung căn, hạ căn , tóm thâu được cả phần sự, phần lý không còn thiếu sót. Cả Thiền tông và các giáo môn khác cũng không thể ra ngoài được pháp trì danh này, Thực là một pháp chẳng thể nghĩ bàn vậy.
Về việc chú thích và giải nghĩa kinh này, thời nào cũng không thiếu người, nhưng để lại ở đời thì không có mấy. Bộ sách sớ sao của ngài Vân Thê thì rộng lơn tinh vi. Bộ Viên Trung Sao của ngài U Khê thì cao cả, sâu rộng, như hai vầng mặt trời, mặt trăng ở giữa trời. Ai có mắt mà chẳng thấy rõ ? Chỉ vì văn chương giàu có lắm, nghĩa lý phồn thịnh nhiều, không bờ, không bến chẳng ai đo lường được, đến nỗi những người mới học, biết ít khó bề noi lên để mở lòng tin,và phát nguyện. Cho nên tôi chẳng quản ngu hèn, lại trước thuật sách yếu giải này, chẳng dám cùng hai ông cạnh tranh mà lập dị và cũng chẳng dám cố ép cho được đồng ý với hai ông.
Trước hết tôi rút ở trong những câu văn của bộ kinh này lấy 5 tầng nghĩa lý huyền vi mà giải thích:
1 – Thích nghĩa rõ cái tên đề của bộ kinh
2 – Biện luận thể chất của bộ kinh
3 – Nói rõ tôn chỉ của bộ kinh
4 – Nói rõ lực dụng của bộ kinh
5 – Nói về giáo tướng của bộ kinh.
<o:p></o:p>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
II – BIỆN LUẬN THỂ CHẤT BỘ KINH.
Kinh đại thừa nào cũng phải lấy thực tướng làm thể chất chính của bộ kinh.
Thực tướng là cái gì ?
Thực tướng là tâm tính con người ta. Tâm tính con người ta nó chỉ hiện ra trong một niệm (Nhất niệm tâm tánh).
(Chúng ta chỉ có thể tiếp xúc với nó qua niệm hiện tại, vì niệm quá khứ đã qua rồi, còn niệm vị lai thì chưa tới)
Đối với không gian nó chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa.
Đối với thời gian, nó chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.
Đối với màu sắc, nó chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng v v…
Đối với hình thức, nó chẳng phải dài, ngắn, vuông tròn…..
Đối với phẩm chất, nó chẳng phải hương, chẳng phải vị, chẳng phải xúc, chẳng phải pháp.
Tìm nó mãi chẳng thể thấy được, mà chẳng thể bảo rằng nó là cái không thực có.
Nó tạo ra đủ 100 pháp giới, 1000 cái như thị mà chẳng thể bảo rằng nó là cái thực có.
Nó không phải là hình tướng của những cái mình suy nghĩ, phân biệt, nhận biết bằng lời nói, bằng chữ viết, bằng câu văn.
Thế mà những cái mình suy nghĩ, phân biệt, nhận biết bằng lời nói, chữ viết, câu văn đều không có tự tính nếu không có nó.
Tóm lại nó chẳng phải là hết thảy mọi hình tướng mà nó là mọi pháp . Vì nó chẳng phải là mọi hình tướng, cho nên nó không có tướng. Nhưng vì nó là mọi pháp nên hình tướng nào cũng có nó.
Bất đắc dĩ, chẳng biết gọi nó là gì, phải miễn cưỡng gọi nó là Thực Tướng vậy.
Thể chất của Thực Tướng chẳng phải yên lặng (tịch), chẳng phải soi sáng (chiếu) mà lại vẫn yên lặng mà thường soi sáng, vẫn soi sáng mà thường yên lặng.
Vì nó soi sáng mà yên lặng nên miễn cưỡng gọi nó là chỗ ở Thường còn, yên lặng, sáng ngời. (Thường tịch quang độ)
Vì nó yên lặng mà soi sáng nên miễn cưỡng gọi nó là Thân pháp tính trong sạch (Thanh tịnh pháp thân)
Nó vừa chiếu vừa tịch nên miễn cưỡng gọi nó là pháp thân
Nó vừa tịch vừa chiếu nên miễn cưỡng gọi nó là Báo thân.
Trong nó có hai đức, một đức về phần Tính và một đức về phần tu.
Tính đức của nó vừa tịch vừa chiếu nên gọi là Pháp thân .
Tu đức của nó cũng vừa tịch vừa chiếu nên gọi là Báo Thân
Lại nữa:
Tu đức của nó vừa chiếu vừa tịch nên gọi là Thụ dụng thân
Tu đức của nó vừa tịch vừa chiếu nên gọi là ứng hóa thân
ffice:eek:ffice" /><?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com<img src=" /><o:p></o:p>
Phần Tịch, phần chiếu chẳng phải là hai. Phần tính, phần tu chẳng phải là hai. Thân với độ chẳng phải là hai, cái gì cũng là Thực Tướng cả. Thực tướng không phải hai , cũng không phải là chẳng hai. Bởi thế cho nên toàn thể cái Thực Tướng ấy, cái thì tạo ra Y báo, cái thì tạo ra Chính báo, cái thì tạo ra Pháp thân, cái thì tạo ra Báo thân, cái thì tạo ra tự mình, cái thì tạo ra kẻ khác … cho đên có khi cái thì tạo ra người năng thuyết, cái thì tạo ra người sở thuyết, cái thì tạo ra người năng độ, cái thì tạo ra người sở độ, cái thì tạo ra năng tín, cái thì tạo ra sở tín, tạo ra năng nguyện - sở nguyện, năng trì - sở trì, năng sinh - sở sinh , năng tán - sở tán v v… Cái gì cũng là nét in của Thực Tướng đã in ra cả.
<o:p></o:p>
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
<B style="mso-bidi-font-weight: normal"><FONT size=3><FONT face=Arial>III – NÓI VỀ TÔN CHỈ CỦA BỘ KINH <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
P><P class=MsoNormal style=
<o:p> </o:p>
Tôn chỉ là đường lối thiết yếu tu hành, là then chốt để nhận rõ lấy thực tướng của tâm tính mình. Nó là cương lĩnh của muôn vàn đức hạnh tu trì. Cương là đầu mối của cái lưới. Hễ nắm được cương thì các mắt lưới đều phải giương lên. Lĩnh là cổ áo, hễ nắm được lĩnh thì tay áo, vạt áo đều buông thẳng xuống. Cho nên sau khi đã biện luận thể chất của bộ kinh rồi, phải biện luận tôn chỉ của nó, để người tu học nắm lấy cương lĩnh của bộ kinh, dùng làm then chốt, đường lối cho muôn vàn công hạnh tu trì.
Kinh này dùng cái tâm TÍN và NGUYỆN với việc TRÌ DANH (tức là niệm Phật) làm tôn chỉ thiết yếu tu hành. Chẳng có tâm Tín thì chẳng đủ sức phát nguyện . Nếu chẳng phát nguyện, chẳng thể đi đến chỗ thực hành. Chẳng thực hành được cái hạnh tu màu nhiệm Trì danh thì chẳng làm cho mình được mãn nguyện và chứng thực cái pháp mình đã tin theo (tức là được vãng sanh Cực Lạc).
Trong kinh này trước hết chỉ bày cho thấy rõ phần Y báo, là chỗ ở trong sạch, tức Tịnh Độ, và phần chính báo, tức là cái thân trong sạch, tức là tịnh thân , để người tu thấy rõ, hiểu rõ, để sinh lòng tin chắc thật . Sau rồi chỉ bảo cho phép trì danh, là phép niệm danh hiệu Phật. để người tu lên thẳng ngôi bất thối. (Tức là ngôi Bồ Tát, vì ngôi này chẳng còn thối lui xuống nữa).
TÍN là tin ở mình, tin ở người, tin ở nhân, tin ở quả, tin ở sự, tin ở lý.
NGUYỆN là cầu nguyện cho mình chán bỏ chỗ ở cực ác cõi Ta Bà, cầu nguyện cho mình vui thích chỗ ở chí thiện cõi Cực Lạc.
HẠNH là thực hành việc chấp trì danh hiệu (tức là niệm Phật). Niệm Phật sao cho đến chỗ “Nhất tâm bất loạn” nghĩa là niệm Phật để giữ cái tâm mình cho nó rất yên tĩnh, nó không bị những thành kiến, tà kiến , những lòng tham dục, giận dữ, ngu si kiêu mạn, nghi ngờ tuôn đến, luôn luôn làm cho tâm mình bị rối loạn.
<o:p> </o:p>
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
TIN<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
1) Thế nào là tin ở mình ?
Người tu học tin ở mình là tin ở cái tâm tính của mình, nó chỉ hiện ra trong một niệm. Tâm tính của mình đây chẳng phải là trái tim bằng thịt, chẳng phải là những cái bóng (ảnh trần) mình tưởng tượng , hiện ra trong óc, trong tim đâu. Tâm tính của mình đây:
Về thời gian: không có lúc nào là kiếp trước của nó, không có lúc nào là kiếp sau của nó.
Về không gian: Không có chỗ nào là bờ bến của nó. Lúc nào cũng có nó, chỗ nào cũng có nó, nó tràn đầy khắp cả vũ trụ, khắp không gian vô biên, khắp thời gian vô tận.
Tâm tính của mình, suốt ngày nó theo mọi trần duyên, suốt ngày nó không hề biến đổi.
Cả quãng hư không mênh mông bát ngát mười phương và bao nhiêu thế giới như vi trần đang quay cuồng trong đó đều là những vật được tạo ra trong nhất niệm tâm tính của mình. Mặc dầu mình tối tăm, điên đảo, mê hoặc không nhận rõ được. Tâm tính của mình nó bao la rộng lớn như thế, nhưng nếu mình chịu hồi tâm trong một niệm thì quyết định là mình sẽ được sinh vào cái thế giới Cực Lạc là cái thế giới có sẵn trong tâm tính của mình , không còn nghi ngờ gì nữa.
Tin như thế gọi là tin ở mình ( tức là tin ở cái tâm tính chân thực của mình, trong đó nó đã có sẵn thế giới Cực Lạc) .
<o:p> </o:p>
2) Thế nào là tin ở người ?
Người tu học tin ở người là : Tin Phật Thích Ca không nói dối, tin Phật A Di Đà không nguyện suông, tin chư Phật sáu phương, hiện tướng lưỡi rộng dài, quyết không nói hai lời. Vì vậy phải thuận theo lời dạy bảo chân thực của chư Phật, quyết chí cầu sinh sang nước Cực Lạc, không còn nghi hoặc nữa.
Tin như thế gọi là tin ở người (tức là tin vào lời dạy bảo của người).
<o:p> </o:p>
3) Thế nào là tin ở nhân ?
Người tu học tin ở nhân là tin sâu rằng : “Kẻ niệm Phật tâm tán loạn cũng còn tạo ra hột giống để thành Phật mai sau. Huống chi người niệm Phật mà nhất tâm bất loạn thì sao lại chẳng được sinh sang Tịnh Độ.
Tin như thế là tin ở nhân, vì cái hành động niệm Phật ấy là cái nhân thành Phật.
<o:p> </o:p>
4) Thế nào là tin ở quả ?
Người tu học tin ở quả là tin sâu rằng: Các vị Thượng Thiện Nhân đang tụ hội ở cõi Tịnh Độ kia đều là những người đã theo phép “Niệm Phật Tam Muội” mà được sinh sang đấy. Giống như người trồng nhân dưa đã được quả dưa, trồng nhân đậu được quả đậu. Như bóng theo hình, như vang theo tiếng, quyết không sai lệch chút nào.
Tin như thế gọi là tin ở quả. Tin rằng các vị đã sinh sang là kết quả của pháp môn niệm Phật.
<o:p> </o:p>
5) Thế nào là tin ở sự thật ?
Người tu học tin ở sự thật là tin sâu rằng : Cái tâm tính của mình tuy nó chỉ hiện ra trong một niệm (Nhất niệm tâm tính) mà thực ra nó rộng lớn vô cùng, chẳng biết đến đâu là hết được. Thế thì những thế giới khắp mười phương xuất hiện trong tâm tính mình cũng chẳng biết bao nhiêu là hết được. Vậy thời thế giới Cực Lạc ở cách đây mười vạn ức Phật độ là một thế giới Có Thực, rất thanh tịnh trang nghiêm, chứ chẳng phải thế giới tưởng tượng.
Tin như thế gọi là tin ở sự thật (Tin cảnh giới Cực Lạc là có thực)
<o:p> </o:p>
6) Thế nào là tin ở lý ?
Người tu học tin ở lý là tin sâu rằng: Mười vạn ức Phật độ tuy là nhiều lắm, xa lắm, mà thực ra nó chỉ ở trong tâm tính ta hiện ra trong một niệm đây. Nó không thể ra ngoài tâm tính của ta được, bởi vì tâm tính của ta không có đâu là ngoài để cho nó ở. Và tin rất sâu rằng :Ở Tây phương Tịnh độ, thế giới Cực Lạc có bổn thân thanh tịnh của giáo chủ A Di Đà cùng chúng Bồ Tát giống như những cái bóng hiện ra trong cái gương “nhất niệm tâm tính” của ta
Hoàn toàn những sự ấy tức là lý, hoàn toàn những vọng ấy tức là chân hoàn toàn phần tu ấy tức là phần tính, hoàn toàn phần người khác ấy tức là phần mình, bởi vì tâm tính của mình tràn đầy khắp cả. Tâm tính của Phật cũng tràn đầy khắp cả. Tâm tính của chúng sinh cũng tràn đầy khắp cả. Thí dụ như nghìn ngọn đèn cùng ở trong một căn nhà. Ánh sáng của đèn nào cũng tràn đầy khắp cả nhà. Ánh sáng này, ánh sáng khác nó giao chập với nhau chẳng hề chướng ngại.
Tin sâu như thế gọi là tin ở lý. (tin rằng toàn thể cái nhất chân pháp giới ấy chính là lý).
<o:p> </o:p>
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
NGUYỆN <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Người tu học đã có sức mạnh của lòng tin như thế rồi, thì hiểu rằng : Cõi Ta Bà ô uế này là do tâm tính mình ô uế tạo ra. Lý ưng mình phải chán bỏ nó. Cõi Cực Lạc trong sạch kia là do tâm tính mình trong sạch tạo ra nó. Lý ưng mình phải mong cầu lấy nó.
Mình đã chán ô uế thì nên bỏ, mà đã bỏ thì phải bỏ cho thật rốt ráo, không còn phải bỏ đi bỏ lại nữa. Mình đã thích trong sạch thì nên lấy, mà đã lấy cũng nên lấy cho thật rốt ráo, không còn phải lấy đi lấy lại nữa. Sách Diệu Tông nói : Người nào đã bỏ hết rồi, đã lấy hết rồi, tức là người không còn phải bỏ, phải lấy gì nữa. Nếu ai chẳng làm trọn hết cái việc lấy , bỏ, mà đã vội nói rằng tôi chẳng lấy, chẳng bỏ gì cả. Thế là người chỉ nói lý suông mà chẳng chịu làm cho xong phận sự. Phần Sự đã chẳng chịu làm cho xong thì phần Lý cũng chẳng được trọn vẹn.
Nếu mình đã hiểu thấu được hoàn toàn Sự ấy tức là Lý ấy , thời mình chỉ nguyện lấy sự này, tức là đúng lý mà lấy, và mình chỉ nguyện bỏ sự kia, cũng là đúng lý mà bỏ. Một khi bỏ, một khi lấy, chỉ là bỏ pháp giới này, lấy pháp giới kia mà thôi. Và đều đúng lý cả.
Cho nên sau khi có tâm tín rồi, thì phải phát nguyện cho rõ ràng. (nguyện bỏ cõi Ta Bà, nguyện lấy nước Cực Lạc).
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
HÀNH
Bây giờ nói đến hành. Là người chấp trì danh hiệu nhất tâm bất loạn, tức là người niệm danh hiệu Phật để cho Tâm mình đậu vào một chỗ, chẳng bị rối loạn.
Niệm danh hiệu Phật tức là niệm công đức Phật. Công đức của Phật chẳng khá nghĩ bàn (vì trí tuệ mình thấp kém quá, nghĩ bàn sao được)
Danh hiệu của Phật và công đức của Phật đều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên người niệm danh hiệu Phật mà tâm tán loạn cũng đã tạo được hột giống thành Phật mai sau. Còn người niệm Phật nhất tâm bất loạn thì sẽ được lên ngay ngôi Bồ Tát bất thối.
Các kinh nói về phép tu Tịnh Độ rất nhiều, có nghìn vạn phép khác nhau, như là những phép ngồi quán tưởng Phật, và các phép lễ bái, cúng dường, ngũ hối, lục niệm v.v…Trong các phép ấy, tu được phép nào cũng được sinh về Tịnh Độ.
Duy chỉ có một phép “Trì danh” là phép niệm Phật thu được hết mọi hạng người, ai tu cũng được và ai bắt tay vào tu cũng thấy rất dễ. Cho nên không ai hỏi mà Đức Thích Ca tự nói ra kinh này. Ngài đặc biệt hướng vào ông Xá Lợi Phất là người đại trí tuệ mà nói cho nghe. Đủ biết phép này là một phép liễu nghĩa vô thượng, rút ra ở trong các phép liễu nghĩa đệ nhất, và là một phép tối cực viên đốn, rút ra trong các phép viên đốn. Cho nên nói rằng “Ngọc minh châu bỏ vào nước đục, nước đục tất phải trong” . Danh hiệu Phật gieo vào cái tâm rối loạn , tâm rối loạn tất phải định, phải thành Phật.
Cái tâm tín và nguyện với cái việc trì danh ở kinh này là cái mầm nhân chân thực của Đạo Nhất Thừa, nó sẽ tạo ra cái quả màu nhiệm của Đạo Nhất Thừa, tức là bốn cõi Tịnh Độ. Gây được nhân , thời quả tất phải theo nhân mà mọc ra. Cho nên dùng cái tâm tín và nguyện với việc trì danh làm tôn chỉ chính đáng của bộ kinh này.
Còn tướng trạng của bốn cõi Tịnh Độ, ở bộ Diệu Tôn Sao và kinh Phạm Võng Huyền Nghĩa đã nói rất tường tận.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
IV - NÓI RÕ LỰC DỤNG CỦA BỘ KINH <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p> </o:p>
Sinh sang Tịnh độ, lên ngôi bất thối là cái điểm lực dụng (dùng sức tu hành) của bộ kinh này.
Sinh sang Tịnh độ thì có bốn cõi, mỗi cõi đều có chín phẩm để ba hạng người được sinh sang.. Nay hãy nói qua tướng trạng của những người được sinh sang bốn cõi.
1) Người nào niệm Phật mà chưa đoạn trừ được kiến hoặc và tư hoặc, những người này chia làm ba hạng, tùy theo tâm người tán loạn hay yên tịnh, sẽ sinh sang 9 phẩm ở cõi “Đồng Cư” (cõi này có phàm và thánh cùng ở chung với nhau)
2) Người nào niệm Phật đến thời kỳ “Sự nhất tâm bất loạn” thì kiến hoặc và tư hoặc tự nó đã tiêu tan hết rồi , sẽ được sinh sang cõi “Phương Tiện Hữu Dư” (cõi này dành riêng cho các vị Thanh văn, Duyên giác)
3) Người nào niệm Phật đến độ “Lý nhất tâm bất loạn” , đã phá tan được từ 1 phẩm cho đến 41 phẩm vô minh, sẽ được sinh sang cõi “Thực Báo Trang Nghiêm” , có khi chứng được một phần ở cõi “Thường Tịch Quang” (cõi này riêng cho Báo Thân Phật và các vị Đại Bồ Tát)
4) Người nào niệm Phật đã phá tan cả 42 phẩm vô minh thời được sinh lên thượng thượng phẩm ở cõi “Thực Báo Trang Nghiêm”, hay là cõi rốt ráo “Thường Tịch Quang” (cõi này riêng cho Báo Thân Phật và Pháp Thân Phật)
<o:p> </o:p>
GHI CHÚ:
(1) Kiến hoặc là bị nhiều thành kiến, tà kiến làm cho mê hoặc , vì tin theo các thuyết của các đạo tà, ma, thần, quỉ, các học thuyết sai lầm.
(2) Tư hoặc là bị các phiền náo là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v…làm cho tâm mê hoặc.
<o:p> </o:p>
Bất thối có 4 nghĩa :
Niệm bất thối, Hạnh bất thối, Vị bất thối, Tất cánh bất thối.
<o:p> </o:p>
(1) Lên ngôi “Niệm bất thối” là người đã phá hết vô minh, đã hiểu rõ Phật tánh, đã sinh thẳng sang cõi Thực Báo hay là cõi phần chứng Thương Tịch Quang.
(2) Lên ngôi “Hạnh bất thối” là người đã đoạn hết kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc cũng đã phá được, đã được sinh sang cõi Phương tiện và tiến dần lên Phật quả.
(3) Lên ngôi “Vị bất thối” là người mang cả áo nghiệp sinh sang cõi đồng cư , được gủi thể chất vào trong hoa sen, vĩnh viễn dứt hết mọi ác duyên thối chuyển.
(4) “Tất cánh bất thối” là những người niệm Phật , bất luận là nhất tâm hay tán loạn, hữu tâm hay vô tâm, hiểu hay chẳng hiểu, miễn là danh hiệu chư Phật ở sáu phương hay cái tên bộ kinh này. Một khi đã lọt vào tai rồi thì dù có lâu đến ngàn vạn kiếp về sau, tất cũng phải có ngày được độ thoát.
<o:p> </o:p>
Người nghe danh hiệu Phật lọt vào tai rồi, thì thế nào rồi cũng được độ thoát, giống như người nghe phải tiếng trống có bôi thuốc độc lọt vào tai rồi, thì dù ở gần hay xa thế nào rồi cũng phải chết, hay là như người ăn phải một tí kim cương vào bụng rồi thì chẳng đời nào tiêu hóa được.
<o:p> </o:p>
Lại một sự lạ nữa là cầu sao mang được cả nghiệp mà đi vãng sanh vào cõi Tịnh độ đồng cư để chứng được “Vị bất thối” là đã được cùng các vị Bồ Tát Bổ Xứ cùng ở đấy rồi. Mình cũng được như các vị ấy, chỉ một lần được sinh ra ấy là được bổ vào ngôi Phật. Nguyên vì đã cùng với các vị Thượng thiện nhân ấy cùng ở một nơi, thế là được vào cõi Đồng cư là được sinh tắt qua cả ba cõi Tịnh độ ở trên rồi. Chỉ một lần sinh ra ấy mà được bổ làm Phật thế là được lên ngôi “Vị bất thối”, mà tức là đã chứng đủ cả ba ngôi bất thối.
Trong bộ kinh này, dùng sức tu mạnh được như thế. Trong ngàn vạn bộ kinh khác chưa từng có bộ nào được như thế. So sánh với phép tu Thiền tông, Phép đốn ngộ chỉ là một phép đưa người dần ra khỏi trần lao, nếu đời này, đời khác sinh ra mà không thối chuyển, thì mới có hy vọng đạt đến ngôi Phật. Thật chẳng thể nào cùng với Tịnh Độ nói là trong một đời được.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
V – GIÁO TƯỚNG CỦA BỘ KINH<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p> </o:p>
Mỗi giáo pháp của Phật nói ra đều có tướng trạng riêng, gọi là giáo tướng. Giáo tướng của bộ kinh này thuộc về Đại thừa, Bồ Tát tạng. Lại là một bộ kinh “không ai hỏi, Phật tự nói ra”. Kinh này được được tấm lòng triệt để đại từ của Phật phù trì thêm cho, có năng lực khiến cho những hữu tình, nhiều nghiệp chướng ở đời mạt pháp nhờ đấy mà lên thẳng ngôi bất thối.
Bởi thế đời sau, khi kinh pháp của Phật đã diệt hết rồi, chỉ riêng kinh này còn được lưu lại ở đời thêm một trăm năm nữa, để độ cho loài hàm thức được thật nhiều. Thật là một vị thuốc “A già đà” cứu chữa được vạn bệnh, một bộ kinh tuyệt đối viên dung chẳng thể nghĩ bàn. Những phép tu bí áo trong kinh Hoa Nghiêm (10 đại nguyện của đức Phổ Hiền), những phép tu cốt tủy trong kinh Pháp Hoa (tu thành Phật) là tâm yếu của tất cả chư Phật , là kim chỉ nam cho nghìn vạn lối tu của Bồ Tát, đều rút cả vào trong bộ kinh này rồi. Muốn tán thán và nói rộng mãi ra, dầu bao nhiêu kiếp cũng chẳng hết, người trí giả phải nên tự mình biết lấy.
<o:p> </o:p>
VĂN KINH
Văn kinh chia làm 3 phần :
A – Phần tựa : (từ câu như thị ngã văn… đến câu Kim hiện tại thuyết pháp)
B – Phần chính tông (từ câu Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc … đến câu Văn thị thuyết giả ưng đương phát nguyện sinh bỉ quốc độ)
C – Phần Lưu thông (từ câu Như ngã kim giả tán thán A Di Đà Phật đến hết)
<o:p> </o:p>
Ba phần này gọi là sơ thiện, trung thiện, và hậu thiện nghĩa là phần đầu, phần giữa và phần cuối. Phần nào cũng hoàn thiện, cũng quan hệ,
Phần tựa giống như đầu người ta, có đủ ngũ quan. Phần chính tông giống như thân người ta, có đủ lục phủ, ngũ tạng. Phần lưu thông giống như tay chân, vận động, hành vi không ngừng trệ.
Cho nên ngài Trí Giả thích nghĩa kinh Pháp Hoa, ngay phẩm thứ nhất đều cho là phần tựa. Phần sau mười một phẩm rưỡi đều cho là phần lưu thông. Lai trong một thời ký, hai môn Bản và Tích, mỗi môn chia làm ba đoạn. Thế thời từ phẩm pháp sư trở xuống, 5 phẩm đều là phần lưu thông của Tích môn.
Bỏi vì phần tựa phải là cương lĩnh của cả bộ kinh, phần lưu thông là phần pháp thí không úng tắc. Cả hai phần đều quan hệ rất lớn. người sau không hiểu nghĩa ấy, thấy văn kinh hơi có chút nghĩa lý liền cho vào phần chính tông, đến nỗi phần tựa và phần lưu thông chỉ còn một ít, sáo cũ. Thế thì sao gọi là phần đầu cũng hoàn thiện và phần cuối cũng hoàn thiện được.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
A DI ĐÀ YẾU GIẢI<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>


PHẨM TỰA<o:p></o:p>

<o:p></o:p>
Phẩm tựa chia làm 2 là Thông tự và Biệt tự.
Trong phần Thông tự là nêu lên pháp hội, thời kỳ, xứ sở, và đại cúng, nững ai được nghe pháp tu Tịnh Độ này.
<o:p></o:p>
I – THÔNG TỰ <o:p></o:p>
Kinh văn:
<o:p></o:p>
Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc, kỳ thụ, Cấp Cô Động viên.<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Nghĩa :
Đúng thực như thế, chính tôi được nghe: Một thời bấy giờ, tại nước Xá Vệ, Phật ở trong vườn ông Cấp Cô Độc, có những cây của Thải tử Kỳ Đà.
<o:p></o:p>
Đoạn này mở hội nói pháp tu Tịnh Độ. Đây là lời của ngài Anan, người chép kinh này nói ra.
Ngài nói: “đúng thực như thế ” là Ngài nêu lên tấm lòng tín thuận của ngài. Ngài nói “chính tôi được nghe “ là ngài muốn nói rằng :chính tôi được nghe, thầy tôi nói như thế. (Hai câu này nguyên văn chữ Hán là: Như thị ngã văn)
Một thời bấy giờ “ là thời kỳ ấy, căn cơ của chúng sinh đã cảm động đến tâm Phật (vị giáo chủ).
Nước Xá Vệ, vườn Cấp Cô Độc “ là nơi Phật nói pháp tu Tịnh Độ này.
<o:p></o:p>
Chân lý màu nhiệm của Thực Tướng (Thực Tướng là tâm tính của con người ) Thực tướng ấy từ xưa đến nay chẳng hề biến đổi, nó vẫn như như cho nên gọi là “ Như “. Người ta y vào Lý-Thực-Tướng mà niệm Phật, cầu sinh Tịnh Độ, là một pháp nó tạo ra quyết định không sai, cho nên nói là “ Thị “.
Thực Tướng là cái ta chân thực, sống lâu mãi mãi, không giống cái thân người biến diệt đây, mà người đời nhận lầm nó là thân ta. Nó chỉ là cái ta giả tạm. Ngài Anan không bỏ cái ta giả tạm ấy cho nên ngài vẫn xưng là “Ta”. Căn tai của ngài phát ra cái biết nghe ở tai, cjinhs ngìa được nghe tiếng Phật. Cái nghe của ngài với cái tiếng của Phật giống như hai cái hư không in vào nhau, thì gọi là nghe. Ý nói cái nghe với cái tiếng đều do Thực tướng tạo ra, cùng ở trong Thực tướng, giống như hai ư không in vào nhau thành một.
(Đoạn này thích nghĩa 4 chữ “Như thị ngã văn”. Trên đầu các kinh Phật nói bao giờ cũng có 4 chữ này, là một sự tối quan trọng. Khi Phật sắp nhập Niết Bàn, Anan hỏi “Sau này con chép kinh Phật thì phải chép như thế nào ? “ Phật dạy “ Bao giờ cũng phải viết một câu Như Thị Ngã Văn lên trên hết.
GHI CHÚ: Theo nghĩa thế gian thì như thị có nghiã là như thế này hay như thế kia mà thôi. Như theo nghĩa huyền vi của nhà Phật thì mọi pháp thế gian đều có mười cái như thị như trong kinh Pháp Hoa đã nói, đó là : Tính như thị, tướng như thị, thể như thị, lực như thị, tác như thị, nhân như thị, duyên như thị, quả như thị, báo như thị, và cứu cánh như thị. Mỗi khi Phật muốn ấn chứng một pháp nào là chánh pháp, Phật thường nhắc đi nhác lại hai chữ “Như Thị”<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Chữ “NHẤT THỜI” là một thời gian, không phải pháp thực có, chỉ là lúc thầy trò đàm đạo, thầy nói trò nghe, xong rroif thì gọi là Một Thời
Chữ PHẬT nghĩa là tự mình đã giác ngộ, rồi đi giác ngộ cho người khác , mình và người đều giác ngộ đến cực điểm , làm thầy cả cõi người và cõi trời thì gọi là Phật.
XÁ VỆ là tiếng Ấn Độ, dịch ra chữ Hán là “văn vật”, là tên một nước lớn ở Trung Ấn , là kinh đô của vua Ba Tư Nặc.
KỲ ĐÀ là tiếng Ấn Độ, dịch nghĩa ra là “chiến thắng” , là tên Thái tử, con vua Ba Tư Nặc.
Một quan đại thần ở nước ấy tên là Tu Đạt Đa, dịch ra chữ Hán là “Cấp Cô Độc” vì ông này giàu lắm, hay giúp đỡ, cấp phát cho người cô độc. Ông đem vàng trải khắp vườn của Thái tử Kỳ Đà, mua lấy được để cúng Phật và tăng. Thái tử cảm động quá, còn một ít đất chưa kịp lót vàng. Thía tử bảo thôi, xin đem đất ấy cùng với cây cối trong vườn cúng Phật, cúng tăng. Vì thế chỗ Phật nói pháp được gọi là “ Vườn của ông Cấp Cô Độc, cây của thái tử Kỳ Đà”
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
ĐẠI CHÚNG <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Đoạn dưới nói về đại chúng, có những ai cùng dự nghe pháp tu Tịnh Độ này. Đại chúng chia làm 3 chúng :
1) Thanh văn chúng đứng đầu vì các ngài là hình tướng xuất thế gian, vì các ngài thường theo Phật, vì các ngài là Tăng, mà Phật, Pháp nhờ có Tăng mới lưu truyền được.
2) Các vị Bồ Tát ở giữa vì các ngài là hìn tướng bất định, (vừa xuất thế, vừa tại thế), vì các ngài chẳng thường theo Phật, vì các ngài là tiêu biểu của nghĩa Trung đạo.
3) Các vị Thiên và nhân ở sau cùng , vì các ngài là hình tướng thế gian, vì trong các ngài có cả phàm và thánh , vì các ngài là chưc ngoại hộ (đứng ở ngoài bảo vệ Phật pháp).
<o:p></o:p>
I – THANH VĂN CHÚNG :
Dữ đại tỳ khưu tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhân câu <o:p></o:p>
(Cùng với chúng tỳ kheo, một ngàn hai trăm năm mươi vị)
<o:p></o:p>
Đại tỳ kheo : là người tu xuất gia, đã giữ được cụ túc giới,
Tỳ Kheo là tiếng Ấn Độ, (đọc là Bhiksu), gồm 3 nghĩa :
1) Khất sĩ: chỉ giữ một chiếc bát để xin cơm nuôi thân, không giữ của cải, tiền bạc. Chuyên cầu xin lấy pháp xuất thế gian. Khất sĩ là kẻ đi xin ăn, xin đạo.
2) Phá ác: dùng trí tuệ chân chính để quan sát và phá trừ mọi tật ác, phiền não, chẳng sa đọa vào vòng ái kiến.
3) Bố Ma: Đã thụ giới, phép yết ma đã thành tựu, tức thời loài ma trông thấy phải sợ hãi.
Tăng : nguyên chữ là tăng già (tiếng Ấn Độ đọc là sangha), nghĩa là “hòa hợp chúng” : gồm 6 thứ hòa hợp gọi là lục hòa
1) Cùng chứng lý giải thoát , gọi là LÝ HÒA
2) Cùng chung ở với nhau là THÂN HÒA
3) Không cãi cọ là KHẨU HÒA
4) Đẹp lòng nhau là Ý HÒA
5) Cùng nhau tìm hiểu là KIẾN HÒA
6) Cùng chia sẻ với nhau là LỢI HÒA
<o:p></o:p>
Trong số 1250 vị ấy thì 3 anh em ông Ca Diếp và đồ chúng 1000 vị
Ông Xá Lợi Phất và Ông Mục Kiều Liên và các đồ đệ 200 vị
Bọn ông Xá Gia Tử 50 vị
Đều là những người, khi Phật mới thành đạo, được độ thoát trước tiên. Vì cảm thâm ân của Phật nên thường theo Phật.
<o:p></o:p>
KINH VĂN
Giai thị đại A La Hán, chúng sở tri thức <o:p></o:p>
NGHĨA
Đều là những bậc Đại A La Hán, chúng đều quen biết <o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Đại A La Hán, tiếng Ấn đọc là Arhan, có 3 nghĩa:
1) “Ứng cúng”: người được cúng dường, đó là quả khất sĩ.
2) “Sát tặc”: diệt hết giặc phiền não, đó là quả Phá ác.
3) “Vô sinh”: không còn sinh tử nữa, đó là quả Bố ma.
<o:p></o:p>
Lại có 3 bậc A La Hán khác nhau:
1- Tuệ giải thoát.
2- Câu giải thoát.
3- Vô nghi giải thoát
<o:p></o:p>
Các vị A La Hán ở đây là vô nghi giải thoát cho nên gọi là Đại A La Hán.
Lại vì các vị đều là Pháp thân Đại sĩ (Bồ Tát đã chứng được pháp thân) tị hiện ra làm Thanh văn để chứng thực pháp tu Tịnh Ddojlaf một phép bất khả tư nghị , cho nên gọi là Đại A La Hán.
<o:p></o:p>
Các vị theo Phật đi thuyết pháp, gọi là chuyển pháp luân (lăn bánh xe pháp). Làm lợi ích cho khắp cõi nhân, thiên cho nên được chúng đều quen biết.
<o:p></o:p>
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
KINH VĂN
Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiều Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hi La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, Anan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, A Nâu Lâu Đà, như thị đẳng chư đại đệ tử.
NGHĨA
Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiều Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hi La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, Anan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, A Nâu Lâu Đà, và các đại đệ thử khác cũng như thế nữa. <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p> </o:p>
Tuổi cao, đức trọng đều tôn quí thì gọi là Trưởng lão. Cũng gọi là Tôn giả là người đáng tôn quí.
<o:p> </o:p>
- Ngài Xá Lợi Phất (tiếng Ấn đọc Sariputra) trong hàng Thanh văn, ngài là người trí tuệ đệ nhất.
- Ngài Ma Ha Mục Kiều Liên (tiếng Ấn : Mahamoggallana) ngài là bậc : Thần thông đệ nhất.
- Ngài Ma Ha Ca Diếp (tiếng Ấn: Maha Kasyapa) thân ngài có ánh sáng vàng, được Phật truyền tâm ấn làm tổ Thiền tông thứ nhất. Ngài là bậc trì hạnh đầu đà đệ nhất.
- Ngài Ma Ha Ca Chiên Diên (tiếng Ấn: Maha Katyana) giòng dõi Bà La Môn, là bậc có tài nghị luận đệ nhất.
- Ngài Ma Ha Câu Hi La (tiếng Ấn : Maha Kansthila) là bậc có tài trả lời hay đệ nhất.
- Ngài Ly Bà Đa (tiếng Ấn: Revata)là bậc thiền định đệ nhất.
- Ngài Chu Lợi Bàn Đà Già (Ksudra- Panthaka) là người đần độn, chỉ nhớ nghĩa một bài kệ mà thành Alahan. Ngài là người nhớ nghĩa hay đệ nhất.
- Ngài Nan Đà (Nanda) em ruột của Phật, là người có dung mạo uy nghi đệ nhất.
- Ngài A Nan Đà (Ananda) em họ của Phật, là thị giả hầu Phật, ngài là bậc đa văn (nghe nhiều) đệ nhất
- Ngài La Hầu La (Rahula) là Thái tử của Phật, ngài là người có mật hạnh đệ nhất.
- Ngài Kiều Phạm Ba Đề (Gavampati) mồm nhai như con bò, vì tội ác khẩu kiếp trước còn sót lại, ngài là người được chư Thiên cúng dường đệ nhất.
- Ngài Tân Đầu Lư Phả La Đọa (Pindola Bharadvaja) Ngài ở lại thế gian rất lâu để hưởng cúng dường đời mạt pháp, giống như một thửa ruộng tốt để người đời trồng cây phúc. Ngài là bậc phúc điền đệ nhất.
- Ngài Ca Lưu Đà Di (Kalodayin) ngài là sứ giả của Phật, ngài giáo hóa được nhiều người đệ nhất.
- Ngài Ma Ha Kiếp Tân Na ( Maha Kapphina) là bậc xem sao đệ nhất.
- Ngài Bạc Câu La (Vakkula) ngài là bậc sống lâu, thọ mệnh đệ nhất.
- Ngài A Nâu Lâu Đà (Anirudha) em họ Phật, ngài có thiên nhãn trông xa đệ nhất.
Các ngài thường theo Phật luôn luôn nên gọi là Thường tùy chúng. Các ngài vốn là bậc Pháp thân đại sĩ, là bâc Bồ Tát đã chứng được Pháp thân, mà thị hiện ra làm Thanh văn, cho nên gọi các ngài là Ảnh hưởng chúng, là các vị tăng có ảnh hưởng đến đạo Phật.
Nay các ngài được nghe pháp tu Tịnh Độ là phép tu thu nhận được vô lượng công đức. Các ngài được lợi ích là: Phật đã bố thí cho các ngài hiểu được đệ nhất nghĩa đế trong giáo lý của Phật. Các ngài làm cho đường đạo tăng lên, đường đời giảm bớt, tự mình cải tạo cho đất nước mình thanh tịnh, giác ngộ, cho nên các ngài còn gọi là Đương cơ chúng, là các vị tăng có cơ đảm đương nổi việc Phật.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
II – BỒ TÁT CHÚNG <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p> </o:p>
KINH VĂN
Tinh chư Bồ Tát Ma Ha tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát , Thường Tinh Tiến Bồ Tát, dữ như thị đẳng chư đại Bồ Tát. <o:p></o:p>
<o:p> </o:p>
NGHĨA
Lại có các vị Bồ Tát là : Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát , Thường Tinh Tiến Bồ Tát cùng nhiều vị Bồ Tát khác cũng như thế nữa.
<o:p> </o:p>
Chữ Bồ Tát Ma Ha tát là tiếng Brahma ở Ấn Độ, (nguyên âm đọc là Boddhi Sattvaya Maha Sattvaya, đọc là Bồ đề tát đỏa bà gia, ma ha tát đỏa bà gia) nghĩa là “Đại đạo tâm thành tựu hữu tình” (Có tâm đạo lớn làm cho loài hữu tình được thành tựu). Đó là danh hiệu của người đã vận dụng được cả hai tâm : Bi và Trí, làm lợi lạc cho cả mình và người.
<o:p> </o:p>
Phật là Pháp vương, Ngài Văn Thù Sư Lợi (tiếng Ấn : Manju-Siri, nghĩa là Diệu Cát Tường) Ngài nối nghiệp nhà của Phật nên được gọi là Pháp Vương Tử. Trong hàng Bồ Tát tăng, ngài là người có trí tuệ đệ nhất. Nếu chẳng là bậc có trí tuệ, dũng mãnh thì chẳng tài nào hiểu được và chứng được pháp môn Tịnh Độ này, cho nên ngài đứng đầu.
Ngài A Dật Đa (Ajita) nghĩa là Vô Năng Thắng. tên riêng của ngài Di Lạc Bồ Tát ( Maitreya). Ngài là bậc sẽ thành Phật sau đời Phật Thích Ca. Hiện bây giờ ngài ở ngôi Đẳng Giác (Bồ Tát thập địa). Ngài lấy việc làm cho đất nước mình trở nên trong sạch, trang nghiêm, giác ngộ làm việc thiết yếu, cho nên ngài đứng thứ nhì.
Ngài Càn Đà Ha Đề ( Gandhahastin) nghĩa là Bất Hưu Tức (Chẳng ngừng nghỉ) vì ngài là người tu hành mãi mãi, chẳng ngừng nghỉ.
Ngài Thường Tinh Tiến là một vị Bồ Tát thường làm lợi ích cả cho mình và người mà không hề mệt mỏi.
<o:p> </o:p>
Các vị này đều là các vị Bồ Tát ở ngôi rất cao, các ngài đều quyết chí cầu sinh Tịnh Độ. Vì các ngài mong được thấy Phật luôn luôn chẳng rời, mong được thân cận cúng dường chúng tăng luôn luôn chẳng rời, có như thế mới mau chóng viên mãn tâm Bồ Đề của mình.
(Pháp tu Tịnh Độ, về phần sự là một nhân duyên lớn lao, về phần lý là một phép tu bí mật tạng, chớ nên bỏ qua).
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
III – THIÊN NHÂN CHÚNG <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p></o:p>
KINH VĂN
Cập Thích đề hoàn nhân đẳng, vô lượng chư thiên đại chúng câu.
<o:p></o:p>
Nghĩa:
Cả vua Đế Thích và các vua khác cùng với các đấng trên các cõi trời và các cõi khác đông không xiết kể, cùng đến dự hội. <o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Thích đề hoàn nhân: (tiếng Phạn : Sakra Devanm Indra) tức Thiên chúa, vua cõi trời Đao Lợi, trên đỉnh núi Tu Di cao nhất thế giới.
<o:p></o:p>
Đẳng : là gồm cả thượng đẳng và hạ đẳng. Tức các vị vua dưới cõi trời Đế Thích và các vị vua trên cõi trời Đế Thích. Dưới vua Đế Thích có Tứ Thiên Vương, 4 cõi trời ở lưng chừng núi Tu Di. Trên vua Đế Thích, trụ ở hư không, có 4 cõi trời dục giới (Giạ Ma, Đâu Xuất, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại), 18 cõi Sắc giới, và 4 cõi Vô Sắc giới. Tổng cộng 28 cõi trời.
<o:p></o:p>
Đại chúng câu: là tóm tắt hết tất cả các giới ở khắp mười phương : tám bộ quỉ thần, A Tu La, Nhân, Phi nhân v.v… không ai không đến dự hội nói pháp này. Không ai không được thu hút vào pháp môn tu Tịnh Độ (Vì pháp môn này rất rộng lớn nên mới màu nhiệm được như thế).
<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
II – BIỆT TỰ <o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Từ đây là phần Biệt tự, hay phát khởi tự.
Phép tu Tịnh Độ là pháp môn mầu nhiệm, chẳng thể nghĩ bàn cho nên không có ai biết mà hỏi, tự Phật phải nói ra. Phật nói cho biết trên cái thế giới kia ( Y báo ) và nhân vật ở thế giới kia ( Chính báo) để phát khởi cái tâm tín nguyện của con người. Lại nữa trí tuệ Phật soi thấy căn có chúng sinh không sai lầm . Phật thấy rõ tất cả đại chúng đây, ai cũng có cơ được nghe phép tu Tịnh độ này, ít ra cũng được 1 trong 4 lợi ích :
1) Nghe rồi toàn thân sung sướng, vui mừng
2) Nghe rồi sinh tâm thích làm thiện
3) Nghe rồi chừa bỏ hết tội ác, tật xấu.
4) Nghe rồi hiểu thấu lý Thực Tướng.
Vì lẽ ấy mà Phật chẳng đợi ai hỏi mà Phật tự nói ra phép tu Tịnh Độ này. Cũng như trong kinh Phạm Võng, nào ai biết vị hiệu của Phật là gì mà hỏi. cũng là tự Phật nói ra rằng “Chính vị hiệu của ta là Lô Xá Na (Rocana)”.
Ngài Trí Giả xếp đoạn kinh này vào phần Phát khởi tự.
<o:p></o:p>
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
KINH VĂN
Nhĩ thời Phật cáo trưởng lão Xá Lợi Phất ! Tùng thị Tây phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc, kỳ độ hữu Phật A Di Đà kim hiện tại thuyết pháp.
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p> </o:p>
NGHĨA
Bấy giờ Phật bảo ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất rằng :” Từ đây đi về phía Tây , trải qua mười muôn ức Phật độ có một thế giới gọi là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật hiệu A Di Đà hiện đang thuyết pháp.
<o:p> </o:p>
Pháp tu Tịnh độ là pháp môn thu nhiếp cả ba hạng người :thượng căn, trung căn, hạ căn, là một pháp môn viên dung tuyệt đối, bất khả tư nghị. Pháp môn này thu được tất cả, vượt được tất cả các pháp môn khác, xưa nay chưa thấy nói rõ được như thế. Một pháp môn rất sâu, rất khó tin cho nên đặc biệt bảo cho người đại trí tuệ. Vì chẳng phải người trí tuệ nhất thì chẳng tài nào hiểu ngay được, mà không nghi ngờ. (Đủ thấy người trí tuệ mới tu được, người ngu hèn cũng tu được, thực là hai việc lạ bất khả tư nghị)
<o:p> </o:p>
Hai chữ Tây Phương, Phật bảo đi tắt ngang thẳng về phía Tây, là chỗ hiện đương có cõi Tịnh độ ngay lúc ấy.
Chữ ức ở đây là một vạn. Vậy 10 vạn ức là một ngàn triệu (tức một tỷ)
Chữ Phật độ là khu vực của một vị Phật hóa độ, có một tỷ thái dương hệ. trong kinh Phật gọi là tam thiên đại thiên thế giới. Nay hãy nói thế nào là một Phật độ (hay một tam thiên đại thiên thế giới ). Ta lấy thí dụ quả đất ta đang ở đây. Ta nói quả đất có một núi tu di cao nhất, 4 bên Đông, Tây, Nam, Bắc mỗi bên là một châu , chung quanh có thiết vi bao bọc. Châu nào cũng ở dưới một mặt trời, một mặt trăng soi vào. Mỗi châu là một thiên hạ. Quả đất có 4 thiên hạ. cho nên gọi là quả “tứ thiên hạ”. Một nghìn quả tứ thiên hạ gọi là một “tiểu thiên thế giới”, Một nghìn “tiểu thiên thế giới” gọi là một “ trung thiên thế giới”, Một nghìn “trung thiên thế giới” gọi là một “Đại thiên thế giới “. Vậy chữ “Tam thiên” ở đây có nghĩa là nhân ba lần một nghìn chứ không phải là ba nghìn. Nay Phật lại bảo phải đi qua 10 vạn ức Phật độ như thế về phía Tây, đến đấy là Thế giới Cực Lạc.
Hoặc có người hỏi : - Cớ gì Cực Lạc ở phương Tây ? Xin thưa : Câu hỏi ấy không có ý nghĩa. Giả sử nó ở phương Đông, ngài lại hỏi “ cớ gì nó ở phương Đông ?” Câu hỏi ấy chẳng phải là hý luận (đùa chơi) là gì ? Huống chi ngài đi quá ra đến 11 vạn Phật độ thì nó ở đàng Đông rồi. Ngài còn nghi ngờ gì nữa ?
<o:p> </o:p>
Câu “Hữu thế giới danh viết Cực Lạc” (Có thế giới gọi là Cực Lạc) là nói cái tên cõi đất kia, là nói phần Y báo của Phật và nhân dân ở đấy. (Y báo là quả báo do nghiệp của con người tạo ra, để cho con người phải y vào đó mà sinh sống).
Cõi đất ấy vận chuyển luôn luôn, lúc này qua lúc khác, thành ra nó có 3 đời: đời trước, đời này, đời sau, cho nên gọi là thế (thời).
Cõi đất ấy ở trong hư không, chung quanh nó là 10 phương : 4 phương chính, 4 phương phụ và 2 phương thượng, hạ. Nó cũng có giới hạn ở các phương ấy, cho nên gọi nó là giới.
Vì nó vận chuyển trong tam thế và nó có giới hạn khắp thập phương cho nên gọi nó là “ Thế giới “.
Nước Cực Lạc ( tiếng Ấn Tu Ma Đề nghĩa là an lạc, diệu ý, thanh thái v.v…) nghĩa là một đất nước an vui, an ổn đệ nhất, vĩnh viễn thoát ly hết mọi khổ.
Nhưng Phật độ nào cũng có 4 cõi, cõi nào cũng chia làm 2 là Tịnh độ và uế độ.
1) Cõi Phàm Thánh đồng cư: chỗ nào ngũ trược nặng là Uế độ, chỗ nào ngũ trược nhẹ là Tịnh độ. (Nhưng ở Cực Lạc thì cõi đồng cư là Tịnh độ, vì phàm với thánh ở đấy cùng một lệ ).
2) Cõi Phương tiện hữu dư: Chỗ nào người tu phép “Tích không chuyết độ”chứng vào ở đấy là Uế độ, chỗ nào người tu phép “Thể không xảo độ” chứng vào, ở đấy là Tịnh độ. ( Nhưng ở Cực Lạc thì cõi Phương tiện là Tịnh độ, vì người tu tiểu thừa ở đấy đã hồi tâm).
3) Cõi Thực báo vô chướng ngại: chỗ nào người tu pháp “ Thứ đệ tam quán” chứng vào, ở đấy là Uế độ, chỗ nào người tu pháp “Nhất tâm tam quán” chứng vào, ở đấy là Tịnh độ. (Ở Cực Lạc thì cõi Thực báo là Tịnh độ, vì là chỗ ở của người tu pháp “Viên đốn”).
4) Cõi Thường Tịch Quang: Chỗ nào người tu “Phần chứng” ở là Uế độ, chỗ nào của người tu “Cứu cánh viên mãn” ở là Tịnh độ (như ở Cực Lạc thì cõi Thường Tịch Quang là Tịnh độ, vì có Phật A Di Đà ở đấy)
<o:p> </o:p>
Cái thế giới Cực Lạc nói trong kinh này, chính là cõi Đồng cư Tịnh độ, mà ba cõi Tịnh độ trên cũng có đủ cả, ở ngang ngay đấy. (Đây là bàn về tu đức. Đức tu của mình lên cao nên chỉ có Tịnh độ thôi. Còn bàn về tính đức, thì trong tính đức, thì dù một hạt bụi nhỏ li ty cũng đầy đủ cả 4 Phật độ, Tịnh và Uế). Nay rút vào phép tu chỉ có 3 món : Tín, Nguyện, Hạnh với danh hiệu đức Phật A Di Đà bất khả tư nghị, mà khiến người phàm phu cảm ứng hiện ra ở thế giới Cực Lạc một cõi Đồng cư cực kỳ thanh tịnh, mà ở trong những Phật độ khác ở khắp mười phương đều không thể có được. Chỉ riêng Cực Lạc mới có một cõi đồng cư như thế mà thôi. Có thế mới là tôn chỉ phép tu Tịnh độ ở Cực Lạc.
<o:p> </o:p>
Câu “Hữu Phật hiệu A Di Đà” (có Phật hiệu là A Di Đà) là nói cái tên của đức Giáo Chủ kia, Là phần Chính Báo của vị Phật ở đấy. (Chính báo là quả báo do nghiệp con người tạo ra, nó chính là cái thân người ta). Phật có 3 thân là Pháp thân, Báo thân, Ứng thân (Hóa thân). Thân nào cũng có thân đơn và thân kép.
Pháp thân đơn là cái Tính Lý của người tu chứng nhận được. Báo thân đơn là công đức và trí tuệ của người tu đã tạo ra. Hóa thân (Ứng thân) đơn là hình tướng, màu sắc 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của người tu hiện ra.
Pháp thân kép là cái pháp thân tự tính thanh tịnh. Cái pháp thân rất mầu nhiệm, lìa thoát hết trần cấu
Báo thân kép là cái báo thân mình tạo ra để thụ dụng, hay cái báo thân mình tạo ra cho người khác thụ dụng
Hóa thân kép là cái thân mình thị hiện giáng sinh vào cõi nào đó, hay cái hóa thân mình ứng hiện ra. Có 2 loại hóa thân : Hóa thân ở cõi Phật , hóa thân ở mỗi loại chúng sinh.
Tuy là phân tách thân đơn, thân kép của 3 thân như thế. Nưng thực ra thì thân của Phật chẳng phải 1, chẳng phải 3, mà là 3, mà là 1. chẳng cùng, chẳng khác, chẳng dọc, chẳng ngang. ( Nói sao cũng không đúng) Thân của Phật chẳng thể nghĩ bàn vậy.
Nay trong kinh này nói là “Phật A Di Đà “ thì chính là Hóa thân trong cõi Đồng cư Tịnh độ, mà cũng tức là Báo thân, mà cũng tức là Pháp thân, vì ở trong cả 4 cõi Tịnh độ đều có cả.
<o:p> </o:p>
Nói rằng “có thế giới” “có Phật” , là vì đức Thích Ca muốn nêu lên một cảnh một cảnh tượng chân thực , khiến cho người ta vui cầu. Vì ngài đem lời thành thực chỉ bảo cho, khiến cho người tu phải chuyên chú, nhất tâm. Thế giới Cực Lạc nói ở đây chẳng phải cảnh tượng “Càn thành, Dương diệm…” (cảnh ma) , chẳng phải là cảnh tượng “Quyền hiện khúc thị” (cảnh quyền giáo), chẳng phải là cảnh tượng “Duyên ảnh hư vọng” (cảnh tà), chẳng phải là cảnh tượng “Bảo chân thiên đản” (cảnh Tiểu thừa). Nêu ra cảnh chân thật này là vì ngài muốn phá mọi cảnh : Ma, Quyền, Tà, Tiểu.
Phá Quyền là muốn phá cái ngụy biện trong sách “Hoa Nghiêm hợp luận”
Phá Tà là phá cái tập quán của người đời mạt thế ngu mê.
Lại vì ngài muốn người tu Tịnh Độ chứng sâu vào thực tướng, là tâm tánh của con người, trong “có đủ cả” , có thế giới Cực Lạc thực, có thân Phật A Di Đà thực, chỉ cần mình tu niệm là tự khắc hiện ra đầy đủ, rõ rệt.
Câu “Kim hiện tại thuyết pháp” (nay hiện đang thuyết pháp) đối với hai cảnh tượng trên : cảnh Y bào là thế giới Cực Lạc, cảnh chính báo là Thân Phật A Di Đà, thì câu “kim hiện tại thuyết pháp” nói rằng đây chẳng phải cảnh quá khứ đã diệt, cũng chẳng phải cảnh vị lai chưa thành. (giống như cảnh Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn, và cảnh Phật Di Lạc chưa giáng sanh, đây là thời gian không có Phật cho mình nương tựa) thì cảnh “Kim hiện tại thuyết pháp” đây chính là một cảnh để cho mình nên phát nguyện vãng sanh, để được thân cận Phật, được nghe pháp, được chóng thành chính giác.
Chữ HỮU và chữ HIỆN TẠI để khuyên người tu mở lòng tin.
Chữ THẾ GIỚI CỰC LẠC khuyên người tu nên phát nguyện.
Chữ Phật hiệu A DI ĐÀ khuyên người tu thực hành hạnh trì danh.
<o:p> </o:p>
Lại nữa:
Chữ A DI ĐÀ là lời tựa về Phật
Chữ THUYẾT là lời tựa về pháp
Chữ HIỆN TẠI, trong đó có hải hội chúng là lời tựa về tăng.
<o:p> </o:p>
Phật, pháp, tăng cùng ở trong một thực tướng là lời tựa về Tâm thể (nhất thể Tam Bảo)
Y theo Tâm thể ấy mà khởi ra Tín, Nguyện, Hạnh là lời tựa về Tôn chỉ.
Tín, nguyên, hạnh đã thành rồi là được thấy Phật, được nghe pháp là lời tựa về phần Lực dụng
Chỉ có cảnh giới Phật làm cảnh giới cho tâm mình chăm chú vào, chẳng cho một sự tướng nào khác xen lẫn vào tâm mình, đó là lời tựa về Giáo tướng.
Lời nói sơ lược mà ý nghĩa rất chu đáo.
<o:p> </o:p>
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
PHẦN CHÍNH TÔNG
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p> </o:p>
Phần chính tông chia làm ba :
1) giải bầy rất rộng Y Báo và Chính Báo rất mầu nhiệm ở cõi đất bên kia để mở lòng tin (khải tín)
2) Đặc biệt khuyên chúng sinh nên cầu sinh sang cõi đất ấy, để cho chúng sinh phát nguyện.
3) Chỉ bảo người tu phải chấp trì danh hiệu (niệm Phật) để lập hạnh.
Ba phần : Tín, Nguyện và Trì danh là tông chỉ thiết yếu của cả bộ kinh. Phần Tín và phần Nguyện gọi là tuệ hạnh (hạnh tu trí tuệ). Phần Trì danh là hành hạnh ( hạnh tu thực hành).
Được sinh Tịnh độ hay không hoàn toàn bởi mình có Tín và Nguyện hay không. (Câu này vững như núi đá, chẳng thể chuyển dời được)
Được sinh phẩm cao hay ở phẩm thấp hoàn toàn bởi mình có Trì danh đã lâu năm hay là mới.
Cho nên Tuệ hạnh dẫn đường đi trước, Hành hạnh là phận sự chính tu. Giống như mắt và chân cả hai cùng vận dụng thì mới đi đến (vãng sanh) cõi đất trong sạch kia dược.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
1 – KHẢI TÍN <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>


a) Y BÁO<o:p></o:p>

<o:p></o:p>
KINH VĂN Xá Lợi Phất, bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc ?<o:p></o:p>
Kỳ quốc chúng sinh vô hữu chúng khổ, đản thụ chư lạc, cố danh Cực Lạc.
NGHĨA <o:p></o:p>

Xá Lợi Phất, cõi ấy vì sao gọi là Cực Lạc ?<o:p></o:p>
Chúng sinh cõi ấy không có những khổ, chỉ hưởng nhưng vui vì thế cho nên gọi là Cực Lạc.

Chữ chúng sinh là chỉ tất cả những người được hưởng cái vui ở đấy, từ vị Đẳng giác Bồ Tát đến người phàm đều là chúng sinh. Nhưng ở đây chỉ nói đến hạng nhân dân thôi, là có ý đem người thấp kém nhất ở phẩm hạ hạ, so sánh với người hơn nhất ở phẩm thượng thượng (điểm bất khả tư nghị của tông Tịnh độ là ở điểm này).
Cõi Ta Bà này khổ mà cũng có cái vui lẫn vào. Thực ra cái vui ấy cũng là cái khổ (vì sợ nó hết) Phật gọi là “hoại khổ”, vì nó chẳng ở lâu với mình, khi nó bị hoại thì mình khổ. Còn cái khổ thực thì Phật gọi nó là “Khổ khổ” vì nó làm thân tâm mình bức bách khổ thực. Còn cái chẳng khổ, chẳng vui gì thì Phật gọi nó là “Hành khổ”, vì nó cũng làm cho mình trôi đến chỗ khổ.
Cõi đất Cực Lạc bên kia vĩnh viên thoát ly cả ba cái khổ ấy, chỉ có những cái vui. Mà cái vui ở đấy không giống với cái vui ở đây, (cái vui đối đãi với cái khổ), mà ta quen gọi là vui. Có thế mới được gọi là Cực Lạc (là rất vui).
Nay ta hãy phân biệt những cái vui ở cõi Tịnh mười phương dưới đây:
Cõi Đồng cư Tịnh độ, còn 5 ác trược nhẹ, cũng không còn 8 cái khổ (sịnh, già, bệnh, chết, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tăng hội, ngũ ấm xí thịnh). Mà chỉ hưởng những cái vui : chẳng ốm đau, chẳng già, chẳng chết, du hành tự tại, cơm sẵn của trời, áo sẵn của trời, sum họp cùng với những người thượng thiện v.v…
Cõi Phương tiện Thánh cư của các vị tu pháp “Thể không xảo độ”, không có cái khổ “Trầm trệ, vẳng không” mà chỉ hưởng những cái vui “Thần thông du hí…..”
Cõi Thực báo Trang nghiêm của các vị tu pháp “Nhất tâm tam quán” không có cái khổ “cách biệt chẳng dung hòa” mà chỉ hưởng cái vui “Vô ngại bất tư nghị”
Cõi Thường Tịch Quang không có cái khổ “thân pháp tính bị thấm lậu, thân chơn thường bị lưu chuyển” mà chỉ hưởng cái vui “Rốt ráo, đầy đủ xứng hợp với tâm tính mình”.
Còn những chúng sinh ở thế giới Cực Lạc, cõi Tịnh độ Đồng cư thì chỉ tu phép trì danh mà có nhiều thiện căn, phúc đức ngang với Phật, cho nên được hưởng đầy đủ mọi cái vui ở bốn cõi Tịnh độ trên đây.
Lại nữa cái điểm hơn hết ở thế giới Cực Lạc chẳng ở 3 cõi Tịnh độ trên mà ở cõi Tịnh độ Đồng cư Vì thế kẻ phàm phu thích vào cõi Tịnh độ Đồng cư vì được thung dung, được độ thoát siêu việt mau lẹ, ý Phật nói cái khổ, cái vui là ở chỗ này.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
KINH VĂN

Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ , thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thụ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu , thị cố bỉ quốc, danh vi Cực Lạc <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
NGHĨA

Lại còn đây nữa, Xá Lợi Phất ơi, cõi nước Cực Lạc, bảy lần rào dậu, bảy lần lưới giăng, che bảy hàng cây, toàn bằng bốn báu, khắp cả chung quanh, bởi thế nước kia gọi là Cực Lạc.

Chữ “thất trùng” là tiêu biểu bảy khoa đạo phẩm

Chữ “tứ bảo” là tiêu biểu bốn đức (Thường, Lạc, Ngã, Tịnh)
Chứ “chu tráp vi nhiễu” là khắp cả chung quanh, là nói về chỗ ở của Phật và Bồ Tát, chỗ nào cũng có.
Nói rằng những vật ấy toàn bằng tứ bảo, thế là công đức của mình sâu lắm mới được như thế. Nói rằng “Khắp cả chung quanh” tức là các vị hiền thánh, chỗ nào cũng có cả. Đây là nói về cái nhân ở trong và cái duyên ở ngoài đều chân thật đã tạo ra thế giới Cực Lạc.
Những vật quí báu trang nghiêm như thế đã được tạo ra ở 4 cõi Tịnh đều bởi những phép tu sau đây :
1) Ở cõi Đồng cư Tịnh độ, thì do cái nghiệp “tăng thượng thiện” đã cảm ứng mà tạo ra. Lại cũng vì phép tu “Viên phẩm ngũ quán” nữa. Thể chất của những vật báu này là ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) thuộc về loại Duyên sinh thắng diệu.
2) Ở cõi Phương tiện Tịnh độ, thì bởi phép tu “Tức không quán trí” đã cảm ứng mà tạo ra, lại cũng bởi phép “Tương tự tam quán” nữa. Thể chất của những vật báu này là ngũ trần thuộc loại Diệu-chân-đế vô-lậu.
3) Ở cõi Thực báo Tịnh độ thì bởi phép tu “Diệu giả quán trí” đã cảm ứng mà tạo ra, cũng bởi tại phép “Phận chứng tam quán” nữa;Thế chất của những vật báu này là ngũ trần thuộc về loại Diệu-tục-đế vô-tận.
4) Ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh độ, thì bởi phép tu “tức trung quán trí” đã cảm ứng mà tạo ra, lại cũng bởi phép “Cứu kính tam quán” nữa. Thể chất những vật báu này thuộc về loại Diệu-trung-đế xứng-tính
<o:p></o:p>
Muốn cho dễ hiểu thì phân biệt ra có 4 nghĩa như thế, thực ra những vật báu trang nghiêm ở 4 cõi Tịnh độ đều là những vật bởi nhân duyên mà sinh ra gọi là “nhân duyên sinh pháp”. ; vật nào cũng : tức không, tức giả, tức trung cả (đây là nói về tính đức, y vào tính đức mà khởi ra tu đức ). Vì thế mà những cảnh vật ở cõi Đồng cư Tịnh độ bên thế giới Cực Lạc, đều viên dung cả Chân và Tục, vô tận vô biên chẳng có hạn lượng nào. ( đây nói về tu đức mà hoàn toàn tu đức đều ở trong tính đức. Có như thế thì mới là Tông Tịnh độ của thế giới Cực Lạc). Những đoạn giải nghĩa dưới đây đều phỏng theo một ý nghĩa như thế.
Hoặc có người hỏi rằng: cõi Thường Tịch Quang Tịnh độ chỉ là một “Cõi lý tính” thì làm gì mà có được những vật báu trang nghiêm như thế ?
Thưa: Mỗi một vật báu trang nghiêm ấy, toàn thể nó là “lý tính”, nhưng mỗi một “lý tính” ấy phải có đầy đủ mọi vật báu trang nghiêm ấy.; có thế mới là quả Y báo rốt ráo của chư Phật. Nếu bảo cõi Thường Tịch Quang Tịnh độ chẳng có một vật ngũ trần thắng diệu nào thì có khác gì cái cõi “Thiên chân pháp tính” của Tiểu thừa.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
KINH VĂN

Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công đức thủy , sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ, kim sa bố địa , tứ biên giai đạo, kim ngân lưu ly, pha lê hợp thành. Thượng hữu lầu các, diệt dĩ kim ngân, lưu ly pha lê, xích châu mã não, nhi nghiêm sức chi <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
Trì trung liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết.<o:p></o:p>
NGHĨA

Lại còn đây nữa, Xá Lợi Phất ơi, cõi nước Cực Lạc, có ao thất bảo, trong ao thường đấy, nước bát công đức, đáy ao thuần bằng cát vàng óng ánh, bốn bên bờ ao , bực lên lối đi, làm bằng vàng bạc, lưu ly pha lê, trên có lầu gác, cũng toàn làm bằng vàng bạc lưu ly, pha lê xà cừ, xích châu mã não.
Hoa sen trong ao , to bằng bánh xe, màu xanh sáng xanh, màu vàng sáng vàng, màu đỏ sáng đỏ, màu trắng sáng trắng, nhiệm màu thơm sạch.
Thất bảo là vàng, bạc và 5 thứ ngọc 5 màu: lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não. Hồ ao và cảnh vật đều do thất bảo tạo thành thì không giống với cảnh vật ở cõi này, toàn là đất đá.
Nước có tám công đức là :
1) Trừng thanh (lặng trong)
2) Thanh lãnh (man mát)
3) <?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:smarttags" /><st1:place w:st="on">Cam</st1:place> mỹ (ngon ngọt)
4) Khinh nhuyễn (mềm nhẹ)
5) Nhuận trạch (thấm nhuần, bóng sáng)
6) An hòa (yên ổn, hòa nhã)
7) Trừ cơ khát (trừ hết đói khát)
8) Trưởng dưỡng chư căn (nuôi lớn mọi căn).
<o:p> </o:p>
Sung mãn kỳ trung (trong ao thường đầy) khác với các ao ở đây, lúc thì đầy , lúc thì khô cạn.
Đáy ao thuần bằng cát vàng, khác với ở đây, đáy ao toàn bùn nhơ.
Bậc lên, lối đi làm bằng tứ bảo, khác với làm bằng đá gạch.
Chữ giai là bậc lên, chữ đạo là lối đi.
Nhà nhiều tầng gọi là lâu, lầu cao gọi là các. Lâu các bằng thất bảo, khác với ở đây làm bằng gỗ, đá, sơn xanh đỏ. Lầu các là chỗ ở và chỗ hội họp thuyết pháp.
Người tu hành được vãng sanh trong ao thất bảo, một khi hoa sen nở ra,
lên bờ ao, đi vào pháp hội, thấy Phật, nghe pháp.
Hoa sen to bằng bánh xe, (bánh xe bằng vàng của vua Chuyển Luân, to 40 dặm) . Đây là nói hoa nhỏ nhất. Còn ở Tịnh độ Đồng cư, không ai giống ai, có người lớn có người nhỏ. Hoa sen cũng vậy, nếu lớn thì không có hạn lượng nào.
Hoa sen xanh (tiếng Ấn gọi là Ưu bát la)
Hoa sen vàng (câu vật đầu)
Hoa sen đỏ (Bát đầu ma)
Hoa sen trắng (Phần đà lợi).
Bởi vì thân người có hào quang cho nên khi ở trong thai sen thì hoa sen có ánh sáng. Ở đây chỉ nói 4 màu thôi, nhưng hoa sen Cực Lạc có rất nhiều màu.
Vi, Diệu, Hương, Kiết : là tán thán 4 đức của hoa sen.
- Hoa chỉ có chất mà không có hình nên gọi là VI
- Các hoa giao chập vào nhau không hề chướng ngại nên gọi là DIỆU
- Hoa không có hình thì sạch, không bị bụi bám vào nên gọi là KHIẾT
- Có mùi thơm gọi là HƯƠNG .
<o:p> </o:p>
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
KINH VĂN

Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
NGHĨA :

Này Xá Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc chỉ lấy công đức mà tạo thành được trang nghiêm như thế.
Đoạn trên đã nói rõ chỗ ở và chỗ sinh có rất nhiều vật báu trang nghiêm như thế. Đoạn này Phật bảo cho biết những vật trang nghiêm, đều bởi công đức xứng hợp với tâm linh của Phật A Di Đà có chí nguyện rất lớn và hạnh tu rất lớn nên mới tạo thành được trang nghiêm như thế. (cái nghĩa này nói về Phật nguyện, Phật tu, Phật tạo thành). Vì ngài có tâm đức lớn nên nên mới có khả năng tạo ra được nhiều vật báu trang nghiêm khắp cả 4 cõi Tịnh độ. Và thu nhận được hết thảy phàm thánh ở khắp 10 phương, suốt 3 đời đều được sinh vào cõi ấy.
Lại nữa Phật A Di Đà đã dùng chí nguyện rất lớn của ngài để làm cái nhân có nhiều thiện căn cho chúng sinh, và dùng hạnh tu rất lớn của ngài để làm cái duyên có rất nhiều phúc đức cho chúng sinh. Cái nhân, cái duyên ấy đã khiến cho người nào có tâm Tín, Nguyện, Trì danh thì cứ mỗi tiếng niệm Phật là tạo thành được những cảnh vật, công đức trang nghiêm như thế, mà đã tạo thành rồi chứ chẳng phải nay mới tạo hay mai mới tạo. (Cái nghĩa này nói về chúng sinh niệm Phật, chúng sinh tạo thành. Nhưng ai có hiểu mới thể nhận được) Như thế nghĩa là chúng sinh cứ lấy những vật báu trang nghiêm của Phật A Di Đà để làm bản chất tăng thượng (làm vốn) mà phát khởi ra mọi vật báu trang nghiêm ở trong tâm của chúng sinh (Câu này nói rõ được cả phần tính và phần tướng đầy đủ, sáng suốt triệt để của phép tu Tịnh độ). Hoàn toàn của Phật tức là của chúng sinh, hoàn toàn của người khác tức là của mình, cho nên nói rằng: Đã thành được những vật báu trang nghiêm như thế đấy (hợp cả 2 nghĩa trên lại thành một nghĩa này).
Đoạn văn kinh dưới đây Phật Thích Ca đem cả người thụ dụng và những vật được thụ dụng mà thích nghĩa chữ Cực Lạc.
Trước hết đem cả năm căn với năm trần hợp lại mà thích nghĩa thụ dụng. Sau mới đem nhĩ căn và thanh trần riêng ra mà thích rõ nghĩa thụ dụng.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
KINH VĂN

Hựu Xá Lợi Phất bỉ Phật quốc độ, thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn đà la hoa <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
Kỳ độ chúng sinh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thành chúng diệu hoa, cúng dàng tha phương, thập vạn ức Phật; tức dĩ thực thời, hoàn đáo bản quốc, phạn thực kinh hành.
NGHĨA

Lại còn đây nữa, Xá Lợi Phất ơi, nước kia thường nghe, lưng trời hòa nhạc. Mặt đất thuần vàng, ngày đêm sáu buổi, hoa mạn đà la, rắc xuống như mưa. Chúng sinh nước kia, thường ngày sáng sớm, đều lấy vạt áo, đựng các thứ hoa, mùi thơm đẹp lạ, đi cúng phương xa, mười muôn ức Phật, chỉ trong giờ ăn, lại về ngay nhà, cơm xong đi dạo.
Âm nhạc của trời đất ở lưng chừng hư không là thanh trần. Mặt đất thuần vàng là sắc trần, các thứ hoa là hương trần và sắc trần, các món ăn là vị trần, Đựng hoa đi cúng Phật, tung hoa và đi dạo chơi là xúc trần. Đây là Phật Thích Ca nói về năm căn của chúng sinh đối với năm trần của cảnh vật, để mà hưởng thụ mọi cái vui.
Hai chữ”Thường tác” tức là thường thường tác động, khởi lên suốt cả 6 buổi (lục thời).
“Hoàng kim vi địa” là nói cái thể chất của cõi đất Cực Lạc thuần là vàng cả. Nhưng còn có cả thất bảo trang nghiêm ở trên mặt đất nữa.
“Lục thời” theo tục lệ ở Ấn Độ, ngày chia ra làm 3 buổi : Sơ phận, trung phận , hậu phận. Đêm cũng thế , cho nên gọi chung cả ngày đêm là “Trú dạ lục thời”
Đối với Phật A Di Đà và nhân dân cõi Cực Lạc thì không có thời gian, làm gì có ngày, có đêm, có 6 buổi. Bởi vì ở Tịnh Độ, người (chính báo) và vật (y báo) đều phát ra ánh sáng chẳng cần đến ánh sáng của mặt trời soi cho mới gọi là ngày. Cũng chẳng cần ánh sáng của mặt trăng mới gọi là đêm. Lúc nào cũng sáng luôn luôn như thế. Thời gian ấy là một ngày sáng tươi, dài vô hạn, thì còn làm gì có lúc nào là ngày, lúc nào là đêm. Nhưng đối với những chúng sinh ở cõi Ta Bà đều tối tăm mờ mịt, thời gian ấy chỉ là một đêm buồn rầu, dài vô hạn. Chỉ lúc nào có ánh sáng mặt trời soi cho thì gọi là ngày, lúc nào không có ánh sáng ấy gọi là đêm. Vì có ngày, có đêm nên mới chia cái quãng đời sinh sống của mình ra làm 3 thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Lý thực ra thì chẳng ở đâu có thời gian, chẳng có ngày, chẳng có đêm, mà chỉ là có Trí sáng hay không có Trí sáng mà thôi. Trong đoạn văn này, Phật Thích Ca nói :6 buổi ngày đêm ở Tịnh độ là ý Phật thuận theo tư tưởng của chúng sinh ở cõi đất tối mù, có thời gian , có ngày có đêm mà Phật nói ra thế để cho họ dễ hiểu, dễ so sánh cái thời gian của họ đấy mà thôi.
“Mạn đà la” tiếng Ấn Độ dịch là “thích ý” hay “bạch hoa”
“Y kích” là cái đựng hoa
“chúng diệu hoa” là các thứ hoa mùi thơm đẹp lạ, thì rõ ràng không phải chỉ có hoa “Mạn đà la”. Đáng lý phải có 4 thứ hoa như trong Diệu kinh đã nói để làm tiêu biểu cho 4 nhân tu hành.
“Đem hoa cúng Phật ở nhiều phương khác “ là tiêu biểu cái nhân chân thực biết đi đến cái quả tốt cực điểm (Quả Phật); quả đức ấy nhiều lắm, ở khắp cả đâu đâu cũng có. Nay hãy căn cứ vào cõi đất Ta Bà này, mà nói rằng đi cúng mười vạn ức Phật, là ý nói rằng sau khi mình đã được sinh ở thế giới Cực Lạc rồi, mình trở về cúng Phật Thích Ca, Phật Di Lạc ở đây cũng không khó gì. Nếu lại được sức thần thông của Phật A Di Đà thêm vào cho mình, thì xa đến đâu mà mình chẳng đi đến được.
Chữ “Thực thời” là giờ ăn , có nghĩa là “giờ ăn sáng sớm” , cho nên mới có chữ “tức dĩ” là ở ngay, ngay trong cái buổi sáng sớm ấy (thanh đán) đi cúng 10 vạn ức Phật rồi mới về ăn sáng, thì nhanh biết chừng nào, đủ rõ phép “Thần túc” (chân thần) của người bên Tịnh Độ đi mau lắm , chẳng thể nghĩ bàn, mau như là không phải bước chân khỏi cõi đất ấy mà đã đi khắp hết cả mười phương rồi, chẳng cần đến hết một buổi sáng sớm mà đã trở về rồi.
Đoạn văn này tỏ rõ cho ta hiểu : Ở bên Cực Lạc một tiếng bật ra, một hạt bụi trần, một sát na, cho đến bước chân đi, búng ngón tay, giờ phút nào cũng cùng với Tam bảo ở khắp mười phương cùng thông suốt, giao chập với nhau, không hề chướng ngại . Lại tỏ rõ cho ta hiểu rằng : Ở cõi Ta Bà này trược ác, nghiệp chướng nặng lắm, đối với cõi Cực Lạc chẳng cách xa đâu mà thành ra cách xa. Sống ở cõi Cực Lạc thời công đức rất sâu, đối với cõi Ta Bà tuy có cách xa mà chẳng thấy cách xa chút nào.
Bốn chữ “Phạn thực kinh hành” (cơm xong đi dạo) có nghĩa là nghĩ đến cái ăn thì nó đến ngay, chẳng cần sửa soạn; ăn rồi mâm bát tự nó bay đi chẳng cần cất dọn. Cứ việc đi dạo trên mặt đất thuần vàng , xem hoa, nghe âm nhạc vui chơi mà vẫn tự thấy tiến bước tu hành không ngừng.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên