LỜI TỰA CỦA DỊCH GIẢ:
(HÒA THƯỢNG THÍCH MINH TRỰC)
(HÒA THƯỢNG THÍCH MINH TRỰC)
Biển giác mênh mông thật khó dò
Rừng Thiền vắng vẻ dễ gì vô
Không phương chỉ lối e lầm lạc
Đặng Pháp Đàn Kinh mới tiện cho
Rừng Thiền vắng vẻ dễ gì vô
Không phương chỉ lối e lầm lạc
Đặng Pháp Đàn Kinh mới tiện cho
Đạo rất vi diệu lại ẩn tàng nơi sâu kín, ví như hột ngọc Kim Cang ẩn trong núi Thái Sơn, như hột minh châu trầm nơi biển cả, dễ gì mà tìm được !
Đức Thích Ca xưa kia bỏ hết giang san sự nghiệp, ly gia cát ái , tu khổ hạnh sáu năm, chịu trăm bề đói lạnh, đến thân hình tiều tụy, khí lực giảm suy, mà cũng chưa tìm đặng đạo mầu. Biết rằng lầm lạc, ngài bỏ phép tu khổ hạnh mà tìm đường Trung Đạo là con đường giữa , không say mê sự đời, cũng không khắc khổ cái thân, chắc đường ấy là đường chánh đạo, Ngài mới kiếm nơi vắng vẻ mà định tham thiền, trầm tư mặc tưởng, cho thấu hiểu lẽ mầu của đạo. Ngài bèn ngồi dưới cây Bồ Đề mà thề rằng :"Ta quyết ngồi đây cho đến khi đắc đạo. Nếu chưa đắc đạo mầu , ta thề không vội đứng dậy"
Sách sự tích chép rằng :Đức Thich Ca ngồi thiền định dưới cây Bồ Đề trong 49 ngày , hoắt nhiên đại ngộ , đặng trí huệ quang minh, dứt hết các điều huân tạp chướng ngại ở tâm , đặng Nhứt Thiết Chủng Trí, chứng quả Vô Thượng Chánh Chơn Giác
Sau khi thành đạo dưới cây Bồ Đề, trong bảy ngày , Ngài suy nghĩ rằng, " Ta ở chõ này đã dứt hết các nghiệp hữu lậu sanh tử luân hồi, bổn nguyện ta nay đã viên mãn. Chỗ ta đắc Pháp thật là sâu xa , khó mà hiểu được , duy có Phật với Phật mới biết đặng phép huyền diệu ấy mà thôi . Còn cả thảy chúng sanh ở trong đời ngũ trược , tâm tánh bị che lấp bởi sự tham lam , giận hờn , ngu si , tà kiến, kiêu mạn, tà mê, lại vì bạc phước độn căn, không đủ trí huệ , thế nào hiểu được chỗ đắc pháp của ta ",
Ngài suy nghĩ như vậy rồi muốn nhập Niết Bàn . Lúc bấy giờ Đại Phạm Vương tháy đức Thích Ca đã thành chánh quả mà vẫn làm thinh , không nói pháp thì trong lòng lo ngại bèn đến xin ngài vì nguyện xưa , khai duyên thuyết Pháp để độ quần sanh .
Vì lòng từ bi độ thế mới ngài mới chuyển Pháp Luân trong 49 năm , tùy căn cơ của chúng sanh, lập đủ các phương tiện và pháp môn , có quyền , có thật , có đốn có tiệm...thành một cơ giáo hóa về đạo giải thoát thật là vĩ đại và thâm diêu vô cùng
Trên đây nhắc lại chỗ đắc pháp của đức Thích Ca đặng cho hiểu cái tâm ấn của ngài đã truyền cho các đại đệ tử
Xét rõ, chỗ đắc pháp của đức Thích Ca Phật Tổ và chỗ ngài nói pháp huyền diệu , quyết
chẳng ngoài phép Thiền Định và trí huệ (Bát Nhã ) mà thoát khỏi khổ ách phiền não trần lao, đặng nhứt thiết chủng trí ( Chơn Trí)chứng quả Vô Thượng Chánh Chơn Giác tức là Niết Bàn . Dù ngài có nói ra muôn vàn phương tiện pháp môn , cũng chú ý về pháp vi diệu ấy mà thôi . Thiền Định và Trí Huệ tức là con đường đẫn đến mục đích Kiến Tánh thành Phật vậy . Ấy là phép tu Tối Thượng Nhứt thừa của các bực Thắng sĩ và các bực Bồ Tát.Chánh là phép nhiệm mầu , là tâm ấn của tam thế chư Phật , chư Bồ Tát , cùng Chư Tổ, Chư Sư , từ trên truyền xuống , cũng như cái suối từ trên chót núi Tu Di đổ xuống , hoài kiếp kiếp đời đời chẳng dứt. Cái tánh thể của nước suối này bao giờ cũng thanh tịnh và thuần nhất một màu không thay đổi
Thiền Định do tiếng Phạn Dhyana dịch ra . Trí Huệ Bát Nhã tiếng Phạn gọi là Prajna . Ấy là hai phép tối cao trong sáu phép tu (Lục Độ ) của Bồ Tát, gọi đủ là Thiền na ba la mật, Bát nhã ba la mật đa ( Dhyana pa ra mi ta và Prajna pa ra mi ta. Thiền định và trí huệ tuy có tên khác nhau mà vốn đồng một thể là Chơn Như Bổn Xu Cơ , mục vi đạo tặc . Dục phục kỳ tâm tiên nhiếp kỳ mục . "Tâm là then khóa , mắt là trộm cướp . " Muốn hàng phục cái tâm , trước phải nhắm bít con mắt lại. Con mắt là cửa âm dương , là chỗ thần dạo chơi . Phải thâu thần nơi con mắt khiến nó trở về tâm khiếu. Con mắt xem cái khiếu ấy chẳng rời , tức là chỉ chỗ bí yếu : Như Lai chánh pháp nhãn tàng , phối hiệp với Niết Bàn Diệu tâm vậy
Đức Thích Ca xưa kia bỏ hết giang san sự nghiệp, ly gia cát ái , tu khổ hạnh sáu năm, chịu trăm bề đói lạnh, đến thân hình tiều tụy, khí lực giảm suy, mà cũng chưa tìm đặng đạo mầu. Biết rằng lầm lạc, ngài bỏ phép tu khổ hạnh mà tìm đường Trung Đạo là con đường giữa , không say mê sự đời, cũng không khắc khổ cái thân, chắc đường ấy là đường chánh đạo, Ngài mới kiếm nơi vắng vẻ mà định tham thiền, trầm tư mặc tưởng, cho thấu hiểu lẽ mầu của đạo. Ngài bèn ngồi dưới cây Bồ Đề mà thề rằng :"Ta quyết ngồi đây cho đến khi đắc đạo. Nếu chưa đắc đạo mầu , ta thề không vội đứng dậy"
Sách sự tích chép rằng :Đức Thich Ca ngồi thiền định dưới cây Bồ Đề trong 49 ngày , hoắt nhiên đại ngộ , đặng trí huệ quang minh, dứt hết các điều huân tạp chướng ngại ở tâm , đặng Nhứt Thiết Chủng Trí, chứng quả Vô Thượng Chánh Chơn Giác
Sau khi thành đạo dưới cây Bồ Đề, trong bảy ngày , Ngài suy nghĩ rằng, " Ta ở chõ này đã dứt hết các nghiệp hữu lậu sanh tử luân hồi, bổn nguyện ta nay đã viên mãn. Chỗ ta đắc Pháp thật là sâu xa , khó mà hiểu được , duy có Phật với Phật mới biết đặng phép huyền diệu ấy mà thôi . Còn cả thảy chúng sanh ở trong đời ngũ trược , tâm tánh bị che lấp bởi sự tham lam , giận hờn , ngu si , tà kiến, kiêu mạn, tà mê, lại vì bạc phước độn căn, không đủ trí huệ , thế nào hiểu được chỗ đắc pháp của ta ",
Ngài suy nghĩ như vậy rồi muốn nhập Niết Bàn . Lúc bấy giờ Đại Phạm Vương tháy đức Thích Ca đã thành chánh quả mà vẫn làm thinh , không nói pháp thì trong lòng lo ngại bèn đến xin ngài vì nguyện xưa , khai duyên thuyết Pháp để độ quần sanh .
Vì lòng từ bi độ thế mới ngài mới chuyển Pháp Luân trong 49 năm , tùy căn cơ của chúng sanh, lập đủ các phương tiện và pháp môn , có quyền , có thật , có đốn có tiệm...thành một cơ giáo hóa về đạo giải thoát thật là vĩ đại và thâm diêu vô cùng
Trên đây nhắc lại chỗ đắc pháp của đức Thích Ca đặng cho hiểu cái tâm ấn của ngài đã truyền cho các đại đệ tử
Xét rõ, chỗ đắc pháp của đức Thích Ca Phật Tổ và chỗ ngài nói pháp huyền diệu , quyết
chẳng ngoài phép Thiền Định và trí huệ (Bát Nhã ) mà thoát khỏi khổ ách phiền não trần lao, đặng nhứt thiết chủng trí ( Chơn Trí)chứng quả Vô Thượng Chánh Chơn Giác tức là Niết Bàn . Dù ngài có nói ra muôn vàn phương tiện pháp môn , cũng chú ý về pháp vi diệu ấy mà thôi . Thiền Định và Trí Huệ tức là con đường đẫn đến mục đích Kiến Tánh thành Phật vậy . Ấy là phép tu Tối Thượng Nhứt thừa của các bực Thắng sĩ và các bực Bồ Tát.Chánh là phép nhiệm mầu , là tâm ấn của tam thế chư Phật , chư Bồ Tát , cùng Chư Tổ, Chư Sư , từ trên truyền xuống , cũng như cái suối từ trên chót núi Tu Di đổ xuống , hoài kiếp kiếp đời đời chẳng dứt. Cái tánh thể của nước suối này bao giờ cũng thanh tịnh và thuần nhất một màu không thay đổi
Thiền Định do tiếng Phạn Dhyana dịch ra . Trí Huệ Bát Nhã tiếng Phạn gọi là Prajna . Ấy là hai phép tối cao trong sáu phép tu (Lục Độ ) của Bồ Tát, gọi đủ là Thiền na ba la mật, Bát nhã ba la mật đa ( Dhyana pa ra mi ta và Prajna pa ra mi ta. Thiền định và trí huệ tuy có tên khác nhau mà vốn đồng một thể là Chơn Như Bổn Xu Cơ , mục vi đạo tặc . Dục phục kỳ tâm tiên nhiếp kỳ mục . "Tâm là then khóa , mắt là trộm cướp . " Muốn hàng phục cái tâm , trước phải nhắm bít con mắt lại. Con mắt là cửa âm dương , là chỗ thần dạo chơi . Phải thâu thần nơi con mắt khiến nó trở về tâm khiếu. Con mắt xem cái khiếu ấy chẳng rời , tức là chỉ chỗ bí yếu : Như Lai chánh pháp nhãn tàng , phối hiệp với Niết Bàn Diệu tâm vậy