KINH PHÁP BẢO ĐÀN bản dịch của HT Thích Minh Trực

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
LỜI TỰA CỦA DỊCH GIẢ:
(HÒA THƯỢNG THÍCH MINH TRỰC)

Biển giác mênh mông thật khó dò
Rừng Thiền vắng vẻ dễ gì vô
Không phương chỉ lối e lầm lạc
Đặng Pháp Đàn Kinh mới tiện cho

Đạo rất vi diệu lại ẩn tàng nơi sâu kín, ví như hột ngọc Kim Cang ẩn trong núi Thái Sơn, như hột minh châu trầm nơi biển cả, dễ gì mà tìm được !
Đức Thích Ca xưa kia bỏ hết giang san sự nghiệp, ly gia cát ái , tu khổ hạnh sáu năm, chịu trăm bề đói lạnh, đến thân hình tiều tụy, khí lực giảm suy, mà cũng chưa tìm đặng đạo mầu. Biết rằng lầm lạc, ngài bỏ phép tu khổ hạnh mà tìm đường Trung Đạo là con đường giữa , không say mê sự đời, cũng không khắc khổ cái thân, chắc đường ấy là đường chánh đạo, Ngài mới kiếm nơi vắng vẻ mà định tham thiền, trầm tư mặc tưởng, cho thấu hiểu lẽ mầu của đạo. Ngài bèn ngồi dưới cây Bồ Đề mà thề rằng :"Ta quyết ngồi đây cho đến khi đắc đạo. Nếu chưa đắc đạo mầu , ta thề không vội đứng dậy"
Sách sự tích chép rằng :Đức Thich Ca ngồi thiền định dưới cây Bồ Đề trong 49 ngày , hoắt nhiên đại ngộ , đặng trí huệ quang minh, dứt hết các điều huân tạp chướng ngại ở tâm , đặng Nhứt Thiết Chủng Trí, chứng quả Vô Thượng Chánh Chơn Giác
Sau khi thành đạo dưới cây Bồ Đề, trong bảy ngày , Ngài suy nghĩ rằng, " Ta ở chõ này đã dứt hết các nghiệp hữu lậu sanh tử luân hồi, bổn nguyện ta nay đã viên mãn. Chỗ ta đắc Pháp thật là sâu xa , khó mà hiểu được , duy có Phật với Phật mới biết đặng phép huyền diệu ấy mà thôi . Còn cả thảy chúng sanh ở trong đời ngũ trược , tâm tánh bị che lấp bởi sự tham lam , giận hờn , ngu si , tà kiến, kiêu mạn, tà mê, lại vì bạc phước độn căn, không đủ trí huệ , thế nào hiểu được chỗ đắc pháp của ta ",
Ngài suy nghĩ như vậy rồi muốn nhập Niết Bàn . Lúc bấy giờ Đại Phạm Vương tháy đức Thích Ca đã thành chánh quả mà vẫn làm thinh , không nói pháp thì trong lòng lo ngại bèn đến xin ngài vì nguyện xưa , khai duyên thuyết Pháp để độ quần sanh .
Vì lòng từ bi độ thế mới ngài mới chuyển Pháp Luân trong 49 năm , tùy căn cơ của chúng sanh, lập đủ các phương tiện và pháp môn , có quyền , có thật , có đốn có tiệm...thành một cơ giáo hóa về đạo giải thoát thật là vĩ đại và thâm diêu vô cùng
Trên đây nhắc lại chỗ đắc pháp của đức Thích Ca đặng cho hiểu cái tâm ấn của ngài đã truyền cho các đại đệ tử
Xét rõ, chỗ đắc pháp của đức Thích Ca Phật Tổ và chỗ ngài nói pháp huyền diệu , quyết
chẳng ngoài phép Thiền Định và trí huệ (Bát Nhã ) mà thoát khỏi khổ ách phiền não trần lao, đặng nhứt thiết chủng trí ( Chơn Trí)chứng quả Vô Thượng Chánh Chơn Giác tức là Niết Bàn . Dù ngài có nói ra muôn vàn phương tiện pháp môn , cũng chú ý về pháp vi diệu ấy mà thôi . Thiền Định và Trí Huệ tức là con đường đẫn đến mục đích Kiến Tánh thành Phật vậy . Ấy là phép tu Tối Thượng Nhứt thừa của các bực Thắng sĩ và các bực Bồ Tát.Chánh là phép nhiệm mầu , là tâm ấn của tam thế chư Phật , chư Bồ Tát , cùng Chư Tổ, Chư Sư , từ trên truyền xuống , cũng như cái suối từ trên chót núi Tu Di đổ xuống , hoài kiếp kiếp đời đời chẳng dứt. Cái tánh thể của nước suối này bao giờ cũng thanh tịnh và thuần nhất một màu không thay đổi
Thiền Định do tiếng Phạn Dhyana dịch ra . Trí Huệ Bát Nhã tiếng Phạn gọi là Prajna . Ấy là hai phép tối cao trong sáu phép tu (Lục Độ ) của Bồ Tát, gọi đủ là Thiền na ba la mật, Bát nhã ba la mật đa ( Dhyana pa ra mi ta và Prajna pa ra mi ta. Thiền định và trí huệ tuy có tên khác nhau mà vốn đồng một thể là Chơn Như Bổn Xu Cơ , mục vi đạo tặc . Dục phục kỳ tâm tiên nhiếp kỳ mục . "Tâm là then khóa , mắt là trộm cướp . " Muốn hàng phục cái tâm , trước phải nhắm bít con mắt lại. Con mắt là cửa âm dương , là chỗ thần dạo chơi . Phải thâu thần nơi con mắt khiến nó trở về tâm khiếu. Con mắt xem cái khiếu ấy chẳng rời , tức là chỉ chỗ bí yếu : Như Lai chánh pháp nhãn tàng , phối hiệp với Niết Bàn Diệu tâm vậy
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Kinh Lăng Nghiêm nói :" Tác thị quán giả danh vi chánh quán , nhược tha quán giả danh vi tà quán ". Xem chỗ ấy là xem chỗ chánh , bằng xem chỗ khác là xem chỗ tà . Lại trong Quán Kinh phẩm Quán Tâm có nói "Tam Giới chi trung dĩ tâm vi chủ . Năng quán tâm giả cứu cánh giải thoát, bất năng quán tâm giả tất cánh trầm luân " Xem tâm được thì cứu cánh giải thoát , chẳng xem tâm được ắt bị trầm luân
Ngày xưa đức Đạt Ma Tổ Sư qua đông độ , sau khi độ Lương Võ Đế không đặng , ngài tới chùa Thiếu Lâm Tự, vào núi Tung Sơn ngồi diện bích chín năm , cũng là dùng Chánh Pháp nhãn mà đặng chứng quả Niết Bàn
Đức Lục Tổ bảo Huệ Minh trở soi vào trong , tức là chỉ chánh pháp nhãn tàng hiệp với Niết Bàn Diệu Tâm . Huệ Mính tu hành nhờ phép này mà đặng thấy bổn lai diện mục của mình vậy
Xem đây đủ thấy sự tu hành phái có pháp mới thành đạo , dầu các vị giáo chủ cùng các vị tổ sư cũng không bỏ Pháp được . Nhưng Pháp mà không Pháp mới thiệt là chánh Pháp , tức là chỗ gọi tiên tồn hậu vong. Người học đạo khá xét, kẻo lầm chỗn ngoan không
Phép phối hợp Nhãn và Tâm , là phép Thiền Định tập trung Thần Quang mà chiếu vào tâm khiếu , gọi là hồi quang phản chiếu. Tu hạnh này thì lìa khỏi ngũ trược , các sự phiền não trần lao không làm rối tự tâm . Thế là đắc cảnh chân không , phát đại Trí Huệ Ma Ha Bát Nhã mà chứng quả Chánh Chơn Giác hay là Niết Bàn Diệu Tâm . Kinh gọi Phản Bổn Hoàn Nguyên , chính là chỉ chỗ bí quyết này
Như Lai Chánh Pháp nhãn tạng với Niết Bàn Diệu Tâm là bí quyết của Tổ Tổ tương truyền bằng tâm khẩu , ngoài các giáo lý phổ thông , cho nên gọi là giáo ngoại biệt truyền. Ấy là phép Huyền Diệu nhiệm mầu gọi là Đại Đạo, là Cang Yếu của Phật Pháp di truyền trong phái Bát Nhã Thiền Tông vậy
Đức Huệ Năng xuống thế thuyết Pháp ba mươi bảy năm , ấy cũng vì cái nhân duyên mở rộng môn Bát Nhã Thiền Tông . Cho nên trong chỗ ngài nói pháp , nhứt nhứt đều có cái khí tượng xuất trần , từ lời nói , từ câu nói đều căn cứ ở mục đích Kiến Tánh thành Phật. Tâm pháp của ngài thật là vi diệu vô cùng , tức là phép Như Lai Thiền , là Tâm Ấn của đức Thích Ca Phật Tổ cùng Tam Thế Chư Phật vậy
Thế thì Đàn Kinh là Pháp Bửu Vô giá , cũng gọi là Thậm Thâm Vi diệu pháp , là hy hữu đại pháp Thuyền . Nếu chẳng có duyên phần , dẫu muôn năm ngàn kiếp cũng không gặp được . Cho nên người nào gặp được cuốn kinh này là người có đại căn và duyên phần với Phật Pháp ,lại cũng như gặp Phật và Tổ ra đời . Xem và thấu hiểu tới chỗ thâm uyên là chỗ thiệt nghĩa chân lý trong đó mới gọi là tham thấu thiền đạo
Nếu trong một niệm mà công phu đầy đủ , trong nhất thiết thời gian niệm niệm mình thấy tự tánh , thì chắc thành Phật đạo
Nhưng tiếc thay nghĩa lý của Đàn Kinh thật là sâu xa , lời dịch giải của kẻ hành giả này e còn khuyết điểm , thành ra không đạt tới bổn ý và tâm ấn của Tổ Sư . Vậy xin chư Đại Đức trong Thiền Môn cùng chư vị cao minh lượng thứ và bổ cứu cho
Thậm thâm Diệu Pháp Bửu Đàn Kinh
Giống Phật Thừa gieo đất Hữu Tình
Bát nhã mưa chan , mầm giác nở
Bồ Đề bông trái tự nhiên sinh

NAM MÔ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Huệ Năng Lục Tổ Bồ Tát
Nam Mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát
Saigon 30 tháng 4 năm 1944
THIỀN TỊNH ĐẠO TRÀNG
Hòa Thượng Minh Trực Thiền Sư Kỉnh Tự
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
ĐÀN KINH TỰ

Diệu Đạo vốn hư huyền , không thể suy nghĩ và bàn luận được , bỏ lời nói mới thấu hiểu cái ý chỉ huyền vi của đạo . (Đạo là vô hình và cực kỳ huyền bí , không thể dùng danh từ mà bày tỏ được . Phải dùng trí Huệ của Bổn Tánh mình mà tự ngộ tự giác , thế mới đạt đặng đạo Vô Thượng Bồ Đề )
Cho nên khi Đức Thế Tôn thuyết pháp tại Hội Linh Sơn , trước Tháp Đa Tử , ngài phân hai tấm tọa cụ , bảo Ca Diếp Tôn Giả ngồi, rồi cầm cành hoa mà bí truyền cái Diệu Đạo. Ấy cũng như lấy lửa chuyền lửa, tức là dụng tâm truyền tâm . Ở Tây Thiên Trước truyền xuống hai mươi tám đời Tổ, đến Tổ Bồ Đề Đạt Ma (Boddhi Dharma ) là tổ thứ hai mươi tám. Từ Tây Ấn Độ sang qua đông độ , Đạt Ma Tổ Sư đem pháp đốn giáo "Trực chỉ chân tâm , kiến tánh thành Phật " mà chỉ truyền khai hóa tại xứ này
Trước hết có Huệ Khả Đại Sư hỏi đạo nơi Sơ Tổ , khi nghe nói Pháp rồi, liền hiểu rõ diệu lý , sau rốt lạy tổ sư ba lạy mà đặng truyền Diệu Đạo, lãnh y bát , nối ngôi Tổ Sư và rộng mở chánh tông vậy
Truyền xuóng ba lần thì tới Đức Huỳnh Mai ( Tức là Hoằng Nhẫn Đại Sư ). Trong bảy trăm cao tăng , đệ tử của Huỳnh Mai Ngũ Tổ ,mà đăn tại Hội Tăng Già , duy có Phụ Thung Cư sỹ ( Huệ Năng ) làm một bài kệ mà đặng truyền thọ y bát và lãnh ngôi Tổ thứ sáu .
Đức Huệ Năng Lục Tổ qua phương nam lánh nạn trên mười năm . Một ngày kia , ngài dùng cái cơ hội tranh biện của hai vị tăng về chỗ "chẳng phải gió động cùng phướng động" mà khai thị cái Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm , cho Ấn Tông pháp sư . Nhơn dịp ấy ngài mới xuống tóc và đăng đàn thọ giới. Thiệt ứng hiện y như lời sấm truyền của Sư Bạt - Đà -La nói về sự khai diễn Đông Sơn pháp môn
Quan Vi Thứ Sử giao cho Pháp Hải Thiền Sư chép các lời thuyền pháp của đức Huệ Năng hiệp thành một bổn , nhan đề là Pháp Bửu Đàn Kinh
Đại sư trước hết ở thành Ngũ Dương , sau đến huyện Tào Khê. Ngài thuyết pháp ba mươi bảy năm , thắm mùi cam lộ khắp nơi, các vị siêu phàm nhập thánh không xiết kể . Còn hạng người hiểu rõ tông chỉ Phật tâm , hạnh giải tương ưng, thành bậc đại tri thức , thì có ghi tên vào quyển Truyền Đăng Lục . Duy có Nam Nhạc Nhượng Thiền sư và Thanh Nguyên Tư Thiền sư , nhờ theo phụng sự đức Huệ Năng rất lâu , nên cả hai đều được truyền diệu pháp .
Bát Nhã Ba la mật đa , Tàu dịch là Trí Huệ đáo bỉ ngạn , có nghia là pháp tu Trí Huệ vượt qua biển sanh tử luân hồi đến bờ Chánh Giác
Bởi Trí Huệ (Bát Nhã ) ở trong thể Chơn Như bổn tánh mà phát ra, cho nên gọi là Chơn Không . Tánh Trí Chơn Không này chẳng phải tâm trầm không thủ tịch , chánh là tánh đức viên minh gồm cả thảy diệu lý diệu pháp , huyền bí vô cùng không thể tỏ ra bằng lời nói được
Thế thì Bát Nhã tức là tâm ấn của Phật Tổ vậy. Đức Ngũ Tổ bảo người tụng kinh Kim Cang Bát Nhã . Đức Lục Tổ xưng là Bồ tát học Bát Nhã , đều là lấy Bát Nhã làm tâm ấn . Người đời sau gọi là Thiền Tông . Phép Thiền này là phép của bực đại thừa ra khỏi thế gian , cho nên gọi là Xuát Thế Gian Thượng Thừa Thiền . Người hành giả phải tu cả năm pháp trong Lục Độ của Bồ Tát , mới vào đặng cõi Bát Nhã (Chơn Không )
Đức Phật Tổ nói pháp Bát Nhã ở nhiều nơi , những cang yếu về pháp môn vi diệu này đều có ghi chép trong Kim Cang Bát Nhã Kinh và Bát Nhã Tâm Kinh , mà ít có người hiểu được
Một khi thuyết pháp tại Hội Linh Sơn , đức Thế Tôn cầm một cành bông sen mà chỉ cho chúng đệ tử . Lúc bấy giờ cả thảy đều lặng thinh , duy có Ca Diếp tôn giả lộ vẻ tươi cười chúm chím . Đức Thế Tôn nói :"Ta có chánh pháp nhãn tàng , Niết Bàn Diệu tâm , thật tướng mà không tướng . Ấy là pháp môn vi diệu không có lập văn tự và truyền ở ngoài các giáo lý . Nay ta truyền cho Đại Ca Diếp"
Thế nên Ca Diếp đặng tâm ấn của Phật và làm Tổ thứ nhứt phái Thiền Tông bên Ấn Độ . Pháp môn này truyền xuống tới Tổ thứ hai mươi tám là Bồ Đề Đạt Ma tức là Sơ Tổ bên Trung Quốc
Do Sơ Tổ truyền xuống tới Lục Tổ tức Huệ Năng Đại Sư
Đây tưởng cũng nên nói sơ qua cho biết ý nghĩa của Chánh Pháp Nhãn Tạng và Niết Bàn diệu tâm . Chánh pháp nhãn tạng là thanh tịnh pháp nhãn, là tâm đức của Phật . Tâm này thấy và hiểu suốt chánh pháp , cho nên gọi là chánh pháp nhãn. Sâu rộng mà gồm chứa hết muôn đức , nên gọi là tàng . Kinh Pháp Hoa gọi là Phật Tri Kiến
Niết Bàn Diệu Tâm là bổn thể của Phật tâm , tâm thể vắng lặng nên gọi là Niết Bàn , không thể độ lượng và phân biệt được nên gọi là Diệu
Hai phép này chỉ là một chớ chẳng phải hai , tỉ như NHÀ , với CỬA. NHÃN với TÂM đồng thời phối hiệp và tương ứng với nhau, không thể rời nhau được .
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Nhãn tạng là khiếu âm dương , như mặt nhật , mặt nguyệt , là chỗ thần quang phát dụng , cho nên gọi là cơ tại mục . Mà Thần Quang tức là Linh Quang của tự tánh , nó vốn ở nơi Bổn tâm . Thần quang phối hiệp với tâm , thì tâm được tự tại quang minh . Còn nếu Thần Quang do nhãn tàng vọng phát ra ngoài , rồi nhiễm trần cảnh (Dục Giới ) thì tự nhiên tâm bị vọng động hôn mê. Cho nên Cổ Đức nói:"Tâm vi nguyên , nhị vị Thiền sư là Mã Tổ và Thạch Đầu . Hai vị này đều là bực trí Huệ viên minh , diệu huyền thông đạt.. Lại có các vị Lâm Tế , Tào Động , Vân Môn ...Di Ngưỡng , Pháp Nhãn "
Những cang yếu của năm nhà sư này đều do trong cuốn Đàn Kinh mà ra
Đàn Kinh, ấy là lời dễ nghĩa trọn , lý rõ sự đủ gồm hết vô lượng pháp môn của chư Phật , cả thảy pháp môn đều đủ vô lượng diệu nghĩa , cả thảy diệu nghĩa phát huy vô lượng diệu lý của chư Phật , tức là diệu pháp chân không của đức Di lặc
Người nào đạt đươc diệu pháp này , thì đồng chứng một bực với Thiện Tài đồng tử , cũng đặng chứng quả như Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư Phật
Tiếc thay cuốn Đàn Kinh bị người sau tiết lược rất nhiều , nên chẳng thấy được cái tông chỉ đại toàn của Lục Tổ
Đức Dị này đi tìm khắp các nơi có trên 13 năm mới tìm được bổn toàn văn và đem khắc , để cống hiến các bực Thắng sỹ đồng thọ dụng . Đức Dị tôi chỉ mong khi chư vị mở kinh ra xem , liền được đại giác đại ngộ nối cái Huệ mạng của Phật Tổ Như Lai đời đời chẳng dứt

CỔ QUÂN TỲ KHEO ĐỨC DỊ soạn

PHÁP BỬU ĐÀN KINH LƯỢC TỰ
Đại sư tên là Huệ Năng , thân phụ của ngài họ Lư , húy Hạnh Thao, thân mẫu của ngài là Lý Thị
Ngài sanh vào đời nhà Đường , niên hiệu Trinh Quán , năm thứ mười hai , nhằm năm Mậu Tuất , tháng hai ngày mồng tám , giờ tí
Lúc sanh ngài có một đạo hào quang chiếu lên hư không , lại có mùi thơm xông khắp cả nhà
Trời vừa rực sáng , có hai vị tăng lạ mặt đến xin viếng và gọi thân phụ ngài mà nói rằng :"Nhơn có đứa nhỏ sanh hồi hữ đêm qua , nên chúng tôi đến đặt tên giùm . Nên đặt trên chữ HUỆ , dưới chữ NĂNG
Thân phụ ngài hỏi , " Sao gọi là Huệ Năng ?"
Một thầy tăng đáp :"HUỆ là đem pháp Huệ mà thí cho chúng sanh , Năng nghĩa là làm được việc Phật "
Nói rồi hai vị tăng liền đi ra , chẳng biết đi xứ nào
Đại sư khi lọt lòng mẹ , không bú sữa, ban đêm có thần nhơn rưới nước cam lồ cho ngài . Đến lớn hai mươi bốn tuổi ngài nhờ nghe kinh mà ngộ đạo. Ngài đến viếng đức Ngũ Tổ mà cầu ấn khả
Ngũ Tổ xem đại sư, nhận ngài có tài đức xứng đáng , nên phú chúc y pháp và dạy ngài nối ngôi tổ sư . Lúc ấy nhằm đời Đường Cao Tông , năm Tân Dậu
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Ngài qua phương nam ẩn dật mười sáu năm , đến ngày mồng tám tháng giêng năm Bính Tý, đời Đường Cao Tông ngươn niên nghi phụng gặp Ấn Tông Pháp Sư khi ấy mới hiểu rõ cái tông chỉ của Đại sư. Đến ngày rằm tháng ấy, Ấn Tông Pháp sư nhóm hết tứ chúng (tì khưu, tì khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di ) mà xuống tóc cho Đại sư, rồi qua mồng tám tháng hai, lại nhóm hết các vị danh đức mà truyền thọ Cụ Túc Giới ( 250 giới của Tì Khưu ) cho ngài
Trí Quang Luật Sư ở Tây Kinh làm Thọ Giới Sư
Huệ Tịnh Luật Sư ở Tô Châu làm yết ma
Thông Ứng Luật Sư ở Kinh Châu làm Giáo Thọ
Kỳ Đà La Luật Sư ở Trung Thiên Trước thuyết giới
Mật Đa Tam Tạng ở Tây Thiên Trước chứng giới
Nguyên cái Giới Đàn này do Sư Câu-Na-Bạt-Đà-La Tam Tạng ở triều nhà Tống , đứng ra sáng lập và có dựng bia ghi lời sấm truyền rằng :"Sau sẽ có một vị Bồ Tát xác phàm thọ giới tại chỗ này "
Đến đời Lương Võ Đế, ngươn niên Thiên Giám, lại có sư Trí Dược Tam Tạng từ Tây Thiên Trước ngồi thuyền vượt biển sang Trung Quốc , đem một gốc cây Bồ Đề ở Thiên Trước trồng nơi bờ ranh Giới Đàn ấy , và cũng có đặt bia ghi lời dự ngôn như vầy :"Sau này một trăm bảy mươi năm , sẽ có một vị Bồ Tát xác phàm khai diễn pháp Thượng Thừa ở dưới cội cây này , cứu độ vô số chúng sanh , ấy là vị Pháp Chủ truyền thọ tâm ấn của Phật".
Thật quả như lời Sấm Truyền , Đại Sư đã đến chỗ này mà thế phát và thọ giới , và chỉ bày cái Đơn Truyền Pháp Chỉ (Tâm Pháp ) cho tứ chúng vây
Qua năm sau , nhằm mùa xuân , Đại Sư từ giã đồ chúng mà về chùa Bảo Lâm . Khi ấy sư Ấn Tông cùng các vị Tăng , người Tục , có trên một ngàn người đến đưa ngài thẳng tới xứ Tào Khê
Lúc ấy có Thông Ứng Luật Sư ở Kinh Châu, cùng các vị học giả kể có một trăm người, đều theo ở với Đại Sư
Khi ngài đến chùa Bửu Lâm tại Tào Khê , thấy chùa chật hẹp không đủ dung nạp đồ chúng , thì có ý muốn mở rộng ra
Đại sư đến viếng một người trong xóm là Trần Á Tiên mà nói rằng :"Lão Tăng đến đây muốn cầu thí chủ cho một khoảnh đất vừa đủ trải tấm tọa cụ (manh vải để trải ngồi ) được chăng ?"
Trần Á Tiên nói :"Tấm tọa cụ của Hòa Thượng rộng là bao lớn ?"
Tổ Sư lấy tấm tọa cụ chỉ cho Trần Á Tiên xem , Trần Á Tiên thưa :"Được". Tổ sư liền lấy tấm tọa cụ phóng ra , bao trùm hết bốn cảnh Tào Khê , lại có bốn vị Thiên Vương hiện thân ngồi trấn bốn hướng . Nay tại cảnh chùa có núi Thiên Vương và nhơn chuyện này mà đặt ra tên núi ấy
Trần Á Tiên nói :"Tôi biết Pháp Lực của Hòa Thượng thật là quảng đại , nhưng vì phần mộ của cao tổ tôi đều nằm trong khoảnh đất này , ngày sau nếu có cất tháp , xin giữ lại các phần mộ , còn giai dư tôi hỷ cúng hết, để là ngôi Bửu phường vĩnh viễn. Lại chỗ đất này là mạch núi Sanh Long và non Bạch Tượng , vậy chỉ nên bình thiên , chẳng nên bình địa "(Chỗ thấp cất cao , chỗ cao cất thấp, chẳng nên đục đá , e hư mạch núi )
Sau chùa kinh dinh kiến trúc , nhứt nhứt đều là y theo lời thỉnh cầu của Trần Á Tiên
Mỗi lần đạo sư đi dạo trong cảnh chùa , gặp chỗ nào nước non xinh đẹp , ngài dừng ngồi nghỉ , nên mấy chỗ thành ra các nhàn tịnh cảnh cộng lại là mười ba chỗ . Nay kêu là hoa quả viện , cả thảy đều phụ thuộc về chùa Bửu Lâm
Nguyên nơi đạo tràng Bửu Lâm , khi trước cũng có Sư Trí Dược Tam Tạng ở Tây Thiên Trước , từ Nam Hải qua cửa Tào Khê , lấy tay bụm nước uống , nghe mùi thơm ngọt, thì lấy làm lạ , liền kêu môn nhơn mà bảo rằng :"Nước nơi đây không khác gì nước bên Tây Thiên Trước , trên nguồn khe chắc có chỗ thắng địa, lập nhàn tịnh cảnh được ".
Sư lần theo dòng nước lên tới nguồn khe , nhìn bốn phương non nước xây vòng , đầu non châu giụm ,xinh đẹp lạ lùng....Sư khen rằng :"Cảnh núi này rõ ràng giống như cảnh núi Bửu Lâm ở Tây Thiên Trước ."
Sư kêu dân làng Tào Hầu mà bảo rằng :"Nơi núi này nên lập một cảnh chùa , sau đây một trăm bảy mươi năm , sẽ có một vị Vô Thượng Pháp Bửu (chỉ đức Huệ Năng )diễn hóa tại chỗ này , số người đắc đạo nhiều như cây rừng , vậy nên đặt hiệu chùa là Bửu Lâm "
Thưở ấy có một vị quan Mục Chủ tỉnh Thiều Châu , tên Hầu Kỉnh Trung , lấy những lời ấy làm biểu dâng cho vua , vua nhận lời xin , lại ban cho một tấm biểu hiệu là Bửu Lâm . Thế mới thành một cảnh chùa Phật . Ấy là một ngôi chùa có trước hết ở đời nhà Lương , niên hiệu Thiên Giám, năm thứ ba
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Trước điện chùa có một sở đìa (ao), trong đó có một con rồng thường trồi lên hụp xuống , làm điêu động các cây rừng
Một ngày kia , rồng hiện hình rất lớn, làm cho sóng nổi nước trào,mây mù tối mịt. Các môn đồ đều kinh hãi
Đại Sư nạt rằng:"Ngươi có thể hiện mình lớn , mà không hiện mình nhỏ được. Nếu ngươi là Thần Long thì biến hóa được :"nhỏ biến ra lớn, lớn biến ra nhỏ"
Rồng ấy thoạt nhiên hụp xuống , giây lâu lại hiện mình nhỏ ,nhảy khỏi mặt đìa
Tổ sư mở bình bát, nói thách rằng :"Chắc ngươi không dám chung vô bình bát của lão tăng ?"
Rồng hăm hở nhảy tới trước mặt , tổ sư lấy bình bát thâu vào, rồng hết phương vùng vẫy.
Tổ sư đem bình bát về chùa , thuyết pháp cho rồng nghe, rồng liền cởi lốt mà đi mất . Bộ xương này dài đên bảy tấc , đầu đuôi, sừng cẳng, đều có đủ, để lưu truyên tại chùa . Sau Đại Sư lấy đá lấp cái đìa ấy .
Nay trước điện chùa , phía tả , có cái tháp bằng sắt dựng nơi đó ( Lời chú :Đến niên hiệu Chí Chánh, năm kỷ mão, chùa bị nạn binh hỏa, bộ xương rồng ấy thất lạc nơi nào chẳng rõ )
(Đời Nhà Đường , THÍCH PHÁP HẢI soạn )


PHẨM THỨ NHỨT
HÀNH DO
(Hành Trạng Và Do Lai Của Đời Lục Tổ)
Lúc Đại Sư đến chùa Bửu Lâm , có quan Thứ Sử họ Vi ở Thiều Châu, cùng các viên quan, chức sắc, vào núi thỉnh sư về nơi giảng đường chùa Đại Phạm tại tỉnh thành, và cầu ngài vì chúng mà khai duyên thuyết pháp. ĐẠi sư thăng tòa rồi , vị Thứ Sử cùng các viên quan, chức sắc , có trên ba mươi người, học sĩ phái nho hơn ba mươi người , cùng các vị tăng ni đạo, tục , có trên một ngàn người , đồng đến làm lễ xin nghe yếu lý về Phật pháp
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Đại Sư bảo CHúng rằng :"Tánh Bồ Đề( Giác Ngộ ) của mình xưa nay vốn trong sạch. Nếu dùng cái tâm ấy , thì chắc thành Phật "
Chư Thiện Tri Thức , hãy nghe sự ý về chỗ Hành Do cùng việc đắc pháp của Huệ Năng này. Nghiêm phụ của Huệ Năng vốn ở xứ Phạm dương , làm quan bị giáng chức đày về Lãnh Nam làm dân tại huyện Tân Châu . Thân này bất hạnh, cha lại mất sơm , còn một mẹ già cô độc , phải dời nhà qua quận Nam Hải. Nhà nghèo thiếu , cay đắng trăm bề, đến phải đem củi ra chợ mà bán. Lúc ấy có môt người khách mua củi bảo Huệ Năng đem đến tiệm.Khách thâu củi , Huệ Năng này lãnh tiền rồi , bước ra ngoài cửa , thấy một người khách tụng kinh. Huệ Năng này nghe qua , tâm liền mở mang tỏ sáng . Mới hỏi khách tụng kinh gì ?
Khách đáp :"Kinh Kim Cang "
Huệ Năng lại hỏi :" Ở đâu đến mà trì tụng kinh ấy ?"
Khách rằng :"Tôi ở chùa Đông Thiền , huyện Huỳnh Mai , xứ Kỳ Châu lại đây . Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư chủ trì giáo hóa tại đó . Môn nhơn của ngài có trên một ngàn người . Tôi đã đến chùa lễ bái nghe giảng và lãnh kinh ấy , Đại sư thường khuyên các vị tăng , người tục , nếu ai trì tụng kinh Kim Cang , thì liền thấy tánh và chắc thành Phật "
Huệ Năng này nghe nói rồi, lại bởi có nhơn duyên kiếp trước , nên nhờ một người khách giúp Huệ Năng mười lượng bạc , bảo sung vào việc y thực của lão mẫu , và dạy qua huyện Huỳnh Mai mà làm lễ Ngũ Tổ . Huệ Năng này an trí lão mẫu xong rồi , liền từ giã ra đi , chẳng đầy ba mươi ngày , tới huyện Huỳnh Mai , vào làm lễ Ngũ Tổ .
Tổ sư hỏi :"Ngươi là người ở phương nào , muốn cầu việc chi ?"
Huệ Năng nầy đáp :"Đệ tử là dân huyện Tân Châu xứ Lãnh Nam, thiệt ở phương xa đến đây lạy tổ sư , chỉ cầu thành Phật , chứ chẳng cầu chi khác".
Tổ sư nói :"Ngươi là người xứ Lãnh Nam,lại là giống dã man , thế nào thành Phật được !"
Huệ Năng này nói :"Con người tuy phân có nam , bắc , chớ thật ra tánh vốn không có nam,bắc. Cái thân dã man này đối với Hòa Thượng tuy chẳng giống nhau , chớ cái tánh Phật nào có khác !"
Ngũ Tổ còn muốn nói chuyện nữa , nhưng thấy chúng môn đồ đứng vây hai bên tả hữu , nên bảo Huệ Năng này theo chúng mà làm công việc .
Huệ Năng này nói :"Kính Bạch Hòa Thượng , tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ , chẳng lia tự tánh , tức là phước điền , chẳng hay Hòa thượng còn dạy làm công việc gì nữa ?"
Tổ sư rằng :"Cái căn tánh của người dã man này thật là sáng suốt . Ngươi chớ nói nữa, hãy đi ra nhà sau."
Huệ năng này ra đến nhà sau, thì có một hành giả sai Huệ Năng này bửa củi giã gạo (giã bằng chày đạp ).
Trải qua tám tháng dư , một ngày kia tổ sư xảy thấy Huệ Năng này , ngài nói rằng :"Ta nghĩ chỗ tri kiến của ngươi dùng được , song sợ có kẻ ác hại ngươi, nên chẳng nói chuyện với ngươi , ngươi có biết chăng ?"
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Huệ Năng này nói :"Đệ tử cũng hiểu ý tôn sư, nên chẳng dám đến trước nhà , khiến cho người ta không biết"
Một ngày kia , Ngũ Tổ bảo các môn nhơn đều tụ lại mà dạy rằng :"Ta nói cho chúng đệ tử rõ, sự sống thác của người đời là việc lớn . Các ngươi trọn ngày chỉ cầu phước điền , chớ chẳng cầu ra khỏi biển khổ sống thác . Nếu tánh mình mê muội , thì phước nào cứu được ! Các ngươi hãy lui về , mỗi người xem trí huệ của mình , lấy tánh Bát Nhã (trí huệ) của mình của bổn tâm mình mà làm một bài kệ , đem trình cho ta xem . Nếu ai hiểu rõ đại ý , ta sẽ truyền y pháp cho mà làm tổ thứ sáu . Hãy đi cho mau chẳng đặng chậm trễ. Nếu để tâm suy nghĩ độ lượng , ắt chẳng hạp dùng . Phàm người thấy tánh khi nghe pháp rồi thì phải thấy liền . Nếu được như thế thì dầu hươi đao ra trận cũng đặng thấy tánh " (Người lợi căn , dẫu gặp cảnh nguy nan gấp rút , bao giờ cũng thấy tánh mình )
Các môn nhơn khi được lệnh sắp phân rồi , đồng lui ra , lần lượt kêu nhau mà truyện rằng :"Bọn chúng ta chẳng nên lóng tâm dùng ý mà làm kệ để trình lên Hòa Thượng , vì có ích chi đâu ! Sư Thượng tọa Thần Tú hiện làm thầy giáo thọ , chắc người làm kệ được . Chúng ta đừng làm kệ tụng , mà hao tổn tâm lực rất uổng "
Chúng nhơn nghe nói yên lòng , đồng bảo từ đây sắp sau , chúng ta nương cậy sư Thần tú , cần gì làm kệ mà phải phiền lòng !
Còn sư Thần Tú suy nghĩ :"Các người ấy không trình kệ , ấy là vì nể ta là giáo thọ , thầy của bọn chúng . Ta phải làm kệ đem trình cho Hòa Thượng . Nếu không trình kệ , thì Hòa Thượng đâu biết chỗ thấu hiểu trong tâm ta sâu cạn thế nào ?Bổn ý ta trình kệ mà cầu pháp thì tốt , còn xem vào ngôi Tổ thì xấu , cũng giống như người phàm , lòng mong đoạt ngôi thánh , có khác gì đâu ! Bằng chẳng trình kệ rốt không đắc pháp . Thiệt rất khó , rất khó
Nguyên trước nhà Tổ có ba gian nhà thờ , ngài tính rước quan Cung Phụng là Lư Trân vẽ các biến tướng thuật trong Kinh Lăng Già (Quang cảnh lúc Phật thuyết pháp tại hội Lăng Già )và cái bản đồ chỉ về sự kế truyền của năm vị Tổ (Ngũ tổ huyết mạch đồ )để lưu truyền cho đời cúng dường (Năm vị Tổ là :Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma , Nhị Tổ Huệ Khả ĐẠi Sư , Tam tổ Tăng Xán Đại Sư, Tứ Tổ Đạo Tín ĐẠi Sư , Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư )
Sư Thần Tú làm kệ xong muốn đem trình mấy phen nhưng mỗi khi đến trước nhà Tổ , thì trong lòng hoảng hốt , mồ hôi ra ướt cả mình , nghĩ rằng trình kệ chẳng đặng .Sư Thần Tú nghĩ rằng chi bằng cứ biên bài kệ nơi vách nhà thờ, nếu thình lình Hòa Thượng xem thấy mà khen hay , thì ta liền ra làm lễ nói rằng :"Bài kệ ấy của Thần Tú làm "Bằng ngài nói bài kệ ấy chẳng đặng dùng , thiệt uổng công ta vào núi mấy năm , thọ sự lễ bái của người , lại còn tu hành gì nữa ?
Đêm ấy đến canh ba , Thần Tú chẳng cho ai biết , tự mình cầm đèn , biên bài kệ nơi vách nhà thờ , bày rõ chỗ thấy của tâm mình . Kệ rằng :
Thân thị Bồ Đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhá trần ai

Nghĩa là :
Thân ấy Bồ Đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Giờ giờ cần phải sạch
Chớ để vướng trần ai (bụi)

Sư Thần tú biên bài kệ rồi , bèn trở về phòng , chẳng có ai hay biết . Thần Tú lại suy nghĩ :"Nếu ngày mai Ngũ Tổ thấy bài kệ mà vui mừng tức là ta có duyên với pháp . Bằng ngài nói chẳng đặng dùng , ấy bởi tâm ta muội mê, nghiệp chướng kiếp trước còn nặng , nên chẳng hạp thời đắc pháp . Thánh ý thật khó dò !"
Ở trong phòng , Thần Tú cứ lo nghĩ mãi, suốt cả năm canh ngồi nằm chẳng yên . Ngũ Tổ đã biết trước sư Thần Tú chưa vào đặng cửa đạo , vì người chẳng thấy tự tánh
Trời sáng , Ngũ Tổ vời Lư Cung Phụng đến , bảo vẽ cảnh biến tướng và cái bản đố nói trên nơi vách nhà thờ phía nam . Xảy thấy bài kệ ấy , ngài bảo rằng
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
"Nầy quan Cung Phụng, thôi chẳng cần vẽ.Thiệt nhọc công ông ở phương xa đến đây. Kinh có nói rằng :phàm vật có hình tướng đều là giả dối. Vậy hãy để bài kệ ấy cho người trì tụng .Cứ theo y bài kệ ấy mà tu hành , thì khỏi đọa vào đường ác . Y theo bài kệ ấy mà tu hành thì có ích lợi lớn ."
Ngũ Tổ dạy các môn nhơn đốt nhang lễ kỉnh, bảo cả thảy tụng bài kệ ấy thì liền đặng thấy tánh . Các môn nhơn tụng kệ đều khen thật hay .
Đến canh ba , Ngũ Tổ kêu sư Thần Tú vào nhà, hỏi rằng:"bài kệ ấy phải ngươi làm chăng ?"
Thần Tú nói :"Thiệt Thần tú này làm , nhưng kẻ đệ tử chẳng dám vọng cầu ngôi Tổ , chỉ mong Hòa Thượng từ bi xem đệ tử có chút Trí huệ chăng ?"
Ngũ Tổ nói :"Ngươi làm bài kệ ấy , tỏ ra chưa thấy bổn tánh. Ngươi mới ngoài thềm cửa , chưa vào trong nhà. Cứ như chỗ thấy hiểu ấy mà tìm đạo Vô Thượng Bồ Đề , thì rõ ràng không thể được . Theo đạo Vô Thượng Bồ Đề , hễ khi nghe nói pháp rồi , liền phải biết bổn tâm và thấy bổn tánh của mình. Tâm mình chẳng sanh chẳng diệt , trong cả thảy thời gian , niệm niệm mình thấy tánh . Đối với muôn pháp , tâm mình suốt thông , không ngưng trệ. Một pháp , mình thấy thấu hiểu chân tướng, cathary các pháp , mình đều hiểu thấu chân tướng . Đối với muôn cảnh tâm mình như như , tâm như như tức là tâm chân thật .Thấy như thế, ấy là thấy Vô Thượng Bồ Đề của mình"
Người hãy lui ra, suy nghĩ một hai ngày , rồi làm bài kệ khác đem lại cho ta xem . Nếu bài kệ của ngươi vào đặng cửa đạo, ta sẽ truyền y pháp cho .
Sư Thần Tú làm lễ rồi lui ra . Trải qua mấy ngày , Thần tú làm kệ chẳng xong , thì trong lòng hoảng hốt, thần ý bối rối dường như mê mộng, đi ngồi chẳng yên vui
Cách hai ngày có một tên đồng tử đi ngang qua phòng giả gạo , xướng tụng bài kệ ấy , Huệ Năng này nghe qua biết bài kệ ấy chưa thấy Bổn Tánh . Tuy ta chưa được Ngũ Tổ chỉ dạy , nhưng ta đã sớm biết đại ý , mơi hỏi đồng tử rằng :" Tụng bài kệ gì vậy ?"
Đồng Tử đáp :"Người dã man này không hay biết chi hết . Đại sư nói sự sống thác của người thế gian là việc lớn .Vì muốn truyền y pháp nên ngài dạy các môn nhơn , mỗi người làm một bài kệ đem trình cho ngài xem . Nếu ai hiểu đại ý , ngài sẽ truyền y pháp cho , đặng làm Tổ thứ sáu . Sư thượng Tọa Thần Tú có biên một bài kệ Vô Tướng nơi vách nhà thờ phía nam . Đại sư dạy mỗi người phải tụng . Nếu y theo bài kệ ấy mà tu hành , thì khỏi đọa vào đường ác . Y theo bài kệ ấy mà tu hành , thì có ích lợi lớn "
Huệ Năng này nói :"Tôi cũng muốn tụng bài kệ ấy để kết nhơn duyên về đời sau , nầy thượng nhơn , tôi ở đây giã gạo đã trên tám tháng , mà chưa từng ra trước nhà Tổ , mong Thượng nhơn dẫn tôi tới trước bài kệ đặng lễ bái "
Đồng tử dẫn ta tới trước bài kệ đặng lễ bái . Ta nói :" Huệ Năng này không biết chữ , xin Thượng Nhơn đọc giùm "
Khi ấy có quan Biệt Giá ở Giang Châu , họ Trương , tên Nhật Dụng , cất tiếng đọc lớn .
Huệ Năng này nghe rồi bèn nói :" Tôi cũng có một bài kệ mong ơn quan Biệt Giá biên giùm ."
Biệt Giá nói :" Người cũng biết làm kệ nữa sao ?Việc này ít khi có "
Huệ Năng này ngó quan biệt Giá mà nói :"Muốn học đạo Vô Thượng Bồ Đề , thì chẳng nên khinh dễ hàng sơ học . Có kẻ bực dưới thấp mà thường phát sanh trí thức rất cao , có người trên bực cao mà thường chôn lấp ý trí của mình . Nếu khinh dễ người , ắt có tội vô lượng vô biên ."
Biệt Giá nói :" Ngươi hãy ngâm kệ đi , ta biên giùm cho . Nếu ngươi đắc pháp thì phải độ ta trước , chớ quên "
Huệ Năng này ngâm kệ rằng :

Bồ Đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ nhá trần ai

Nghĩa là :
Bồ Đề chẳng có thọ
Minh cảnh cũng không đài
Bổn lai không có vật
Nào chỗ vướng trần ai ?

Biên bài kệ ấy rồi , cả thảy đồ chúng đều kinh hãi, khen hay và lấy làm lạ . Mỗi người kêu nhau mà nói :"Lạ thay ! Chẳng đặng xét người bằng diện mạo . Bấy lâu chúng ta đặng sai khiến vị Bồ Tát xác phàm ấy !"
Ngũ Tổ thấy chúng nhơn kinh hãi và lấy làm lạ , e có kẻ hại ta , ngài mới lấy giầy chà hết bài kệ mà nói rằng :"Bài kệ ấy cũng chưa thấy tánh". Đồ chúng đều cho là phải
Ngày kế ,Ngũ Tổ lén đến chỗ phòng giã gạo , thấy Huệ Năng này mang đá nơi lưng mà giã gạo (Bởi mình gầy ốm nên phải mang thêm đá cho đủ nặng ,mới đạp nổi cái chày ). Ngài nói rằng:"Người cầu đạo vì pháp quên thân , phải như thế nào ?"Ngài mới hỏi :"Gạo trắng chưa ?"Huệ Năng này đáp :"Gạo trắng đã lâu , chỉ còn thiếu sàng " (Ý nói đã thấy tánh , chỉ còn đợi truyền pháp)
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Ngũ Tổ lấy gậy gõ cối ba lần , rồi bỏ đi
Huệ năng này liền hiểu ý Tổ Sư , đến canh ba vào thất . Ngũ Tổ lấy áo ca sa đắp cho ta, chẳng cho ai thấy , rồi nói kinh Kim Cang cho ta nghe, đến câu "Ưng Vô Sở trụ nhi sanh kỳ tâm "(Nên không trụ vào chỗ nào mà sanh tâm mình ( Để cái tâm trống không mà chẳng trụ vào đâu cả )

Huệ năng này nghe nói rồi liền rất tỏ sáng, biết rằng cả thảy muôn pháp chẳng lìa tánh mình , mới bạch với Tổ sư rằng :
Nào ngờ tánh mình vốn tự nhiên trong sạch rồi
Nào dè tánh mình chứa đầy đủ (muôn pháp)
Nào dè tánh mình vốn không lay động
Nào dè mình có thể sanh ra muôn pháp
" Nếu chẳng biết Bổn Tâm thì học pháp vô ích . Bằng biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh mình , tức gọi là trượng phu, là Phật , Thầy cõi Trời và cõi người vậy"
Đến canh ba , Huệ Năng này thọ pháp , chẳng có ai hay. Tổ Sư truyền phép đốn giáo và y bát cho ta mà dạy rằng
:" Ngươi làm Tổ thứ sáu . Hãy gìn giữ và nhớ lấy đạo tâm của mình. Phải quảng độ chúng hữu tình và lưu truyền cái chánh pháp cho đời sau , đừng để đoạn tuyệt. Hãy nghe bài kệ ta đây :
Hữu tình lai hạ chưởng
Nhơn địa quả hườn sanh
Vô tình diệt vô chưởng
Vô tánh diệt vô sanh

Tổ sư lại nói:"Ngày xưa Đạt Ma Đại Sư mới tới xứ này , người ta chưa tin Phật Pháp nên phải truyền cái áo ấy để làm tín thể( vật làm tin), nối truyền cho nhau từ đời này tới đời khác . Còn Pháp thì lấy tâm truyền tâm , khiến cho người tự mình tỏ sáng , tự mình hiểu biết . Từ xưa chư Phật chỉ truyền cái bổn thể ( tức là Bổn Tánh, là cội rễ của các pháp , và chỉ trao kín cái Bổn Tâm mà thôi . Áo là cái mối tranh , tới đời người đừng truyền nữa . Nếu truyền cái áo ấy , thì tánh mạng rất nguy . Hãy đi cho chóng kẻo có kẻ hại ngươi "
Huệ Năng này bạch :" Đi xứ nào ?"
Tổ sư nói :" Gặp Hoài ( huyện Hoài Tập ) thì ở lại , gặp Hội ( huyện Tứ Hội )thì ẩn nương nơi đó "
Canh ba khi Huệ Năng lãnh đặng y bát rồi bạch rằng :"Huệ Năng vốn là người ở Lãnh Nam , chẳng biết một con đường nào nơi núi này , làm sao ra đặng sông Cửu Giang ?"
Ngũ Tổ nói :" Ngươi chẳng cần lo , để ta đưa ngươi "
Tổ đưa ta thẳng tới trạm Cửu Giang , bảo ta lên ghe , rồi bảo Ngũ Tổ tự cầm chèo mà đưa .
Huệ Năng này nói :"Xin Hòa Thượng ngồi , để cho đệ tử chèo mới phải"
Ngũ Tổ nói :"Ta độ -đưa- ngươi mới phải (Chữ "độ' nghĩ là đưa , mà cũng có nghĩa là cứu độ )
Huệ Năng này nói :" Lúc mê thì Tổ Sư độ , ngộ rồi thì tự độ lấy mình . Huệ Năng này sanh tại xứ dã man , giọng nói bất chánh , nhờ Tổ Sư truyền pháp , nay đã được tỏ sáng , thì chỉ nên lấy tánh mình mà độ mình mới phải"
Tổ sư nói :"Phải vậy , phải vậy !Từ đây sắp sau , Phật Pháp sẽ do ngươi truyền bá thạnh hành . Ngươi đi rồi ba năm ta sẽ qua đời . Nay ngươi hãy đi , gắng sức qua hướng nam , nhưng chẳng nên vội thuyết Pháp, vì Phật pháp khó mở "
Huệ Năng này từ biệt Tổ sư , đi qua hướng nam , trong hai tháng tới núi Đại Du Lãnh
(Khi Ngũ Tổ trở về , cách mấy ngày chẳng ra giảng đường , các môn đồ có lòng nghi, bèn đến hỏi thăm :"Hòa Thượng có chút bệnh hay buồn chi chăng ?" Tổ nói :"Ta không có bệnh chi nhưng y pháp đã về hướng nam rồi " Đồ chúng hỏi :"Ai được truyền thọ ?"Tổ nói :" Huệ Năng được truyền thọ " Khi ấy đồ chúng mới hay)
Ở sau có mấy trăm người đuổi theo ta và muốn đoạt y bát. Co một thầy tăng họ Trần , tên Huệ Minh , ngày trước làm chức Tứ Phẩm Tướng Quân , tính tình thô bạo , chí quyết tìm ta . Thầy Tăng ấy làm đầu chúng nhơn và đuổi theo kịp Huệ Năng này . Huệ Năng ném y bát trên tảng đá mà nói rằng :" Cái áo này là vật làm tin , há dụng sức mà tranh được sao ?". Đoạn Huệ Năng này ẩn mình trong đám cỏ tranh .
Huệ Minh đến nắm áo dở lên mà không nhúc nhích, liền kêu rằng :"Hành giả , hành giả , tôi vì pháp mà đến đây chớ chẳng vì áo đâu !"
Huệ Năng này bước ra ngồi xếp bằng trên tảng đá. Huệ Minh làm lễ nói rằng :"Mong ơn hành giả nói pháp cho tôi nghe "
Huệ Năng này nói :"Ông vì pháp mà đến đây , thì khá dứt hết trần duyên , chớ sanh một niệm tưởng . Tôi sẽ nói rõ Phật Pháp cho ông nghe "
Lẳng lặng một hồi lâu , Huệ Năng này nói :"Chẳng nghĩ việc lành , không nghĩ điều dữ , chánh trong thời gian đó , CÁI ẤY ,tức là tỏ thấy cái Bổn Lai Diện Mục của bực Thượng tọa vậy."
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Huệ Minh nghe nói rồi , liền rất tỏ sáng , lại hỏi :" Ngoài các lời nói và ý chí mật nhiệm do trên truyền xuống từ xưa tới nay , còn có ý chỉ mật nhiệm nào nữa chăng ?"
Huệ Năng này nói :" Chỗ tôi nói với ông đó chẳng phải là mật nhiệm (kín). Nếu ông trở soi vào trong (hồi quang nội chiếu ) , thì thấy chỗ mật nhiệm ấy ở bên ông ."
Huệ Minh nói :"Tôi tuy ở tại Huỳnh Mai ( ở với Ngũ Tổ ) , nhưng thiệt chưa xét biết cái diện mục (Bổn Tánh) của mình. Nay nhờ hành giả chỉ dạy , tỉ như người uống nước , lạnh nóng tự mình hay . Nay hành giả tức là thầy của Huệ Minh vậy ."
Huệ Năng này nói :" Nếu như thế thì tôi cùng ông đồng thờ một thầy là đức Huỳnh Mai . Hãy gìn giữ và nhớ lấy đạo tâm của mình (hộ niệm )"
Huệ Minh lại nói :"Nay và sau Huệ Minh phải đi xứ nào ?"
Huệ Năng này nói :" Gặp Viên (Viên Châu) thì ngừng lại , gặp Mông (núi Mông sơn ) thì ở đó "
Huệ Minh làm lễ rồi giã từ .
(Huệ Minh trở lại tới chơn núi , kêu bọn chúng đuổi theo mà nói rằng :"Kiếm khắp các đường núi mà chẳng thấy dấu vết gì cả , phải đi hướng khác ". Bọn chúng đều tin vậy )
Huệ Năng này sau đến Tào Khê , lại bị bọn ác nhơn tìm theo , nên phải lánh nạn , ở chung với bọn thợ săn tại huyện Tứ Hội , trường trải mười lăm năm .Trong thời kỳ ở với bọn chúng , ta cũng tùy nghi mà thuyết pháp . Bọn thợ săn thường bảo ta giữ lưới . Mỗi khi thấy các loài sanh mạng lọt vào , ta đều thả ra hết . Mỗi khi tới buổi ăn , ta lấy rau gởi luộc trong nồi nấu thịt. Có người hỏi , thì ta trả lời rằng chỉ ăn rau luộc bên thịt mà thôi .
Một ngày kia , ta suy nghĩ đã đến thời kỳ phải hoằng pháp , chẳng nên ẩn dật hoài. Ta bèn đi tới chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu gặp Ấn Tông Pháp sư giảng kinh Niết Bàn . Lúc ấy có luồng gió thổi động lá phướng . Một thầy tăng nói gió động, một thầy tăng khác nói phướng động, hai đàng nghị luận hoài chẳng dứt.
Huệ Năng này bước tới hỏi rằng :"Chẳng phải gió động , cũng không phải phướng động , ấy là tâm của nhân giả động "
Chúng nhơn nghe nói đều kinh hãi . Ấn Tông liền mời ta ngồi chỗ trên hết , và cầu hỏi những nghĩa lý huyền ảo .
Thấy Huệ Năng này trả lời , ngôn ngữ giản dị , nghĩa lý thích đương , mà chẳng do văn tự , Ấn Tông nói rằng :"Hành giả hẳn chẳng phải là người thường . Đã lâu tôi có nghe nói y pháp của Huỳnh Mai Ngũ Tổ đã về phương nam , có phải về tay hành giả chăng ?"
Huệ Năng này nói :"Tôi đâu dám !(Lời nói khiêm nhường )
Nhơn đó Ấn Tông làm lễ , xin ta trao y bát đặng cho đại chúng xem .
Ấn Tông lại hỏi :" Đức Huỳnh Mai khi phú chúc , ngài truyền thọ như thế nào ?"Huệ Năng nầy nói :"Ngài không có truyền thọ chi , chỉ có luận môn KIẾN TÁNH. Ngài chẳng luận phép Thiền định và phép Giải thoát ."
Ấn Tông hỏi :" Sao chẳng luận phép Thiền Định và phép Giải Thoát ?"
Huệ Năng này đáp :" Vì hai phép ấy chẳng phải là Phật pháp . Phật pháp là pháp chẳng hai ."
Ấn Tông lại hỏi :"Phật Pháp là pháp chẳng hai là nghĩa sao ?"
Huệ Năng này nói :"Pháp sư giảng kinh Niết Bàn , đã hiểu rõ Phật tánh tức là pháp Chẳng Hai của Phật pháp vậy. Như Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch với Phật rằng Người phạm bốn điều trọng cấm ( là dâm dục , trộm cướp , giết người , nói bốn điều vọng ngữ lớn ) , làm năm điều tội nghịch( là giết cha , giết mẹ , hại A la hán , quấy rối chúng tăng , khởi ác ý mong hại Phật ) và chẳng tin Phật pháp ( nghiệp báo nhơn quả ), thì thiện căn và Phật tánh phải bị đoạn diệt chăng ? Phật đáp rằng :"Thiện căn có hai thứ , một là thường , hai là vô thường , còn Phật tánh chẳng phải thường , chẳng phải vô thường , cho nên không đoạn diệt , ấy gọi là pháp Chẳng Hai . Thiện căn lại có hai : một là lành , hai là chẳng lành . Phật tánh chẳng phải lành , chẳng phải chẳng lành , ấy gọi là pháp chẳng hai .
Uẩn là năm uẩn : Sắc , Thọ , Tưởng , Hành , Thức và Giới (là mười tám giới : Nhãn , nhĩ, tỹ , thiệt , thân , ý là nội giới của lục căn - Sắc , thanh, hương, vị , xúc , pháp là ngoại giới của lục trần - Nhãn thức , nhĩ thức , tỷ thức , thiệt thức , thân thức , ý thức , là trung giới của lục thức ), người phàm phu thấy có hai , chớ người trí thấu hiểu , biết tánh của nó chẳng phải hai (Uẩn và giới đồng một tánh thể mà phát ra ) .Tánh chẳng hai tức là Phật tánh vậy .
Ấn tông nghe giảng vui mừng , chấp tay thưa rằng "Sự giảng kinh của tôi tỉ như ngói gạch , chỗ luận nghĩa của nhơn giả cũng như vàng ròng ". Nhơn đó Ấn Tông xuống tóc cho ta nguyện thờ ta làm thầy .
Huệ Năng này liền ngồi dưới cội cây Bồ Đề mà khai diễn Đông Sơn pháp môn .
Ta nói :" Huệ Năng đắc pháp tại núi Đông Sơn , chịu trăm điều cay đắng , tánh mạng tợ chỉ mành , ngày nay đặng cùng sử quân , các viên quan chức sắc , các tăng ni đạo tục cùng hiệp nhau tại hội này . Nếu chẳng phải bởi duyên phần nơi lũy kiếp , thì trong đời quá khứ , các ngươi đã có cúng dường chư Phật , đồng có trồng cội lành , nên mới được nghe phép đốn giáo nói trên và nguyên nhơn đắc pháp của ta . Phép đốn giáo nguyên của các vị thánh đời trước truyền lại , chớ chẳng phải do Huệ Năng này tự hiểu . Muốn nghe giáo pháp của các vị thánh đời trước , thì mỗi người phải lóng lòng cho trong sạch . Nghe rồi phải tự bỏ các điều nghi hoặc , thì đồng chứng quả như các Thánh nhơn đời trước ."
Chúng nhơn nghe pháp đều vui mừng , đồng làm lễ lui ra .
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
PHẨM THỨ HAI
BÁT NHÃ (TRÍ HUỆ)
Qua ngày kế vị Thứ Sử lại xin Đại sư giảng nữa.
Đại Sư lên tòa giảng, bảo Đại chúng rằng:" Các ngươi phải tịnh tâm mà niệm Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa ( Maha Prajna Pa ramita) ".
Ngài lại dạy rằng:"Này chư Thiện Tri Thức , cái trí Bồ Đề Bát Nhã , người thế gian vốn tự có , nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được . Phải cầu được bậc Đại Thiện Tri Thức , chỉ dẫn cho , mới thấy tánh. Phải biết rằng dầu kẻ ngu hay người trí , cũng đồng có một cái tánh Phật giống nhau không khác . Nhưng bởi tâm mê ngộ chẳng đồng, sở dĩ mới có kẻ ngu người trí. Vì đó nên nay ta mới nói phép Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, khiến cho các ngươi mỗi người đều đặng trí huệ . Hãy chú ý mà nghe cho rõ, ta vì chúng ngươi mà nói pháp".
Chư Thiện Trí Thức , người thế gian suốt ngày miệng niệm Bát Nhã , mà chẳng biết Bát Nhã trong tánh mình, cũng như nói ăn mà chẳng no ( Nói ăn mà không ăn thì thế nào no được ! ) Miệng chỉ nói Tâm "không " mà tâm chẳng làm theo thì muôn kiếp cũng chẳng thấy Tánh đặng , rốt cuộc không ích gì .
Chư Thiện Tri Thức , Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa là tiếng Phạn , có nghĩa là Đại Trí Huệ đáo bỉ ngạn. Ấy là do nơi lòng làm , chớ chẳng phải do nơi miệng niệm. Miệng niệm mà lòng chẳng làm theo, thì như huyễn mộng , như biến hóa , như sương điển . Miệng niệm mà lòng làm theo thì lòng và miệng hiệp nhau. Cái bổn tánh là Phật , lìa Tánh thì không có Phật nào khác .

Sao gọi là Ma Ha ? Ma Ha nghĩa là lớn , tâm lượng rộng lớn cũng như khoảng trống không , không có ranh bờ , cũng chẳng phải vuông tròn lớn nhỏ , cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng , cũng không trên dưới dài vắn , cũng không giận không mừng không phải không quấy , không lành không dữ , không có đầu đuôi . Các cõi Phật thảy đều trống không . Cái Diệu tánh của người thế gian vốn là trống không , chẳng có một Pháp ( vật ) gì trong đó mà tìm đặng. Cái tự tánh chơn không cũng giống như thế .

Chư Thiện Tri Thức , chớ nghe ta nói "không " mà liền chấp KHÔNG . Nếu để tâm trống không mà ngồi yên lặng , tức là chấp cái " Vô Ký không ".
Chư Thiện Tri Thức , Thế Giới tuy là trống không , mà có thể bao hàm muôn vật . Cả thảy các sắc tướng : mặt Nhựt , mặt Nguyệt , tinh tú , núi , sông , đất bằng, nguồn , suối , khe , rãnh , cỏ cây , rừng , bụi , kẻ dữ, người lành , việc dữ , việc lành , thiên đàng , địa ngục , cả thảy biển lớn , các núi Tu Di , nhứt thiết đều ở trong chỗ "không ". Cái tánh trống không của người thế gian cũng giống như thế .
Chư Thiện Tri Thức , cái tánh mình có thể bao hàm hết muôn Pháp , ấy gọi là lớn . Muôn pháp đều ở trong tánh các ngươi . Nếu thấy cả thảy các điều dữ cùng các điều lành của ngươi , mà chẳng chấp chẳng bỏ , cũng không nhiễm vương , không dính níu , lòng như trống không , ấy gọi là lớn , cho nên kêu là Ma Ha.
Chư Thiện Tri Thức , kẻ ngu miệng nói , người trí lòng làm ( tu hạnh Bát Nhã ) . Lại có người mê để lòng trống không , ngồi yên lặng , chẳng nghĩ đến mọi việc , mà tự xưng là "lớn ". Với bọn người ấy , không thể nói gì được , vì họ bị sa vào chỗ tà kiến .
Chư Thiện Tri Thức , cái tâm lượng thiệt là rộng lớn , châu biến cả thảy Pháp giới , dùng nó liền hiểu rõ ràng (tới chỗ cùng lý tận tánh ) . Cái tâm lượng ấy khi ứng dụng ra , thì biết hết cả thảy sự vật . Cả thảy tức qui về một , một tức gồm hết cả thảy , tới lui thong thả , tâm thể suốt thông , không ngưng trệ , tức là Bát Nhã ( Trí Huệ ) vậy.
Chư Thiện Trí Thức , cả thảy trí Bát Nhã đều do trong tánh mình mà sanh , chớ chẳng phải do nơi ngoài mà vào . Chớ lầm dùng cái Ý Thức . Ấy gọi là Chơn Tánh Tự Dụng.
Mỗi sự lý phải hiểu tới tận chỗ chơn ( đạt đến thật thể chơn lý ). Tâm phải lo lường việc lớn ( tu hạnh Bát Nhã , đạt đến chỗ tri kiến Phật ) , chẳng nên đi theo con đường nhỏ ( ngồi yên lặng). Miệng đừng trọn ngày nói " không " mà trong lòng chẳng tu hạnh ấy ( hạnh Chơn không, tức là Bát nhã ). Cũng như người phàm tự xưng mình là Quốc vương , mà rốt rồi chẳng làm gì được . Hạng người ấy chẳng phải là đệ tử của ta .
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Chư Thiện Tri Thức ! Sao gọi là Bát Nhã ? Bát nhã nhà Đường gọi là trí huệ . Cả thảy các chỗ các nơi , trong cả thảy thời gian , niệm niệm chẳng ngu muội , , thường tu hạnh trí huệ, tức là hạnh Bát Nhã . Một niệm ngu muội tức là Bát Nhã tuyệt.Một niệm trí huệ tức là Bát Nhã sanh. Người thế gian ngu mê , chẳng thấy Bát nhã.Miệng nói Bát nhã , mà trong lòng thường ngu muội . Thường tự nói , ta tu hạnh Bát nhã, niệm niệm nói không mà chẳng biết tâm Chân Không,Bát Nhã không hình tướng , ấy là trí huệ tâm . Thật hiểu rõ như thế , thì mới có thể nhận trí Bát Nhã , khỏi lạc lầm
Sao gọi là Ba la mật đa ? Ấy là tiếng Tây Thiên Trúc , nhà Đường gọi là đáo bỉ ngạn ( qua tới bờ bên kia ), nghĩa là khỏi sự sanh diệt (khỏi sanh tử luân hồi ). Tâm dính cảnh , thì sự sinh diệt dấy lên , như nước nổi sóng, tức là thử ngạn( bờ bên này ) , còn tâm lìa cảnh , thì không có sự sanh diệt , như nước thường thông lưu ( trôi chảy ), tức gọi là bỉ ngạn ( bờ bên kia ). Cho nên gọi là Ba La Mật Đa.
Chư Thiện Tri Thức , người mê muội , miệng niệm Bát nhã , đương lúc niệm , tâm còn vọng động, có tưởng điều quấy . Nếu niệm niệm tâm thường hành Bát Nhã , thì mới gọi là Chơn Tánh .Biết rõ phép ấy thì hiểu phép Bát Nhã . Tu hạnh ấy tức là tu hạnh Bát Nhã . Không tu hạnh ấy tức là phàm tục . Một niệm tu hành ( tu hạnh Bát Nhã ) thì cả thân mình toàn là Phật.
Chư Thiện Tri Thức ! Phàm phu tức là Phật , phiền não tức là Bồ Đề . Niệm trước mê muội tức là phàm phu, niệm sau giác ngộ tức là Phật . Niệm trước dính cảnh tức là phiền não , niệm sau lìa cảnh tức là Bồ Đề .
Chư Thiện Tri Thức ,phép Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa rất là tôn quý , rất cao thượng , cao hơn hết các pháp , không trụ (ở ) vào chỗ nào , không qua cũng không lại, cả thảy chư Phật trong đời đều do trong phép ấy mà hiện ra .
Các ngươi phải dùng Đại Trí Huệ mà phá tan năm uẩn ( sắc , thọ , tưởng, hành , thức ) , và các sự phiền não trần lao . tu hành như thế ấy , chắc là thành Phật đạo . Phải đổi ba độc Tham , Sân, Si thành Giới , Định , Huệ .
Chư Thiện Tri Thức , pháp môn của ta đây do một phép Bát Nhã mà sanh ra tám muôn bốn ngàn trí huệ . Bởi cớ sao ? Vì người thế gian có tám muôn bốn ngàn phiền lao phiền não . Nếu không có trần lao thì trí huệ thường hiện ra và chẳng lìa tánh mình .Hiểu rõ phép này , thì không có vọng niệm ( tưởng quấy ). Lòng không nhớ , không dính cảnh , không sanh điều dối giả , dùng cảnh chân như của mình , lấy trí huệ mà xem soi (sự lý ) đối với cả thảy pháp không lấy (chấp ) không bỏ, tức là thấy tánh , là thành Phật đạo vậy .
Chư Thiện Tri Thức , muốn vào pháp giới cao thâm cùng trí Bát Nhã tam muội ( Trí Huệ chánh Định ) thì phải tu hạnh Bát Nhã . Phải trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã , tức khắc thấy tánh .Phải biét các công đức của kinh ấy thật là vô lương vô biên . Những lời khen ngợi trong kinh rất rõ ràng , không thể nói ra hết được . Cái pháp môn ấy là pháp Tối Thượng Thừa , vì người Đại Trí , vì người thượng căn mà nói . Các người tiểu căn tiểu trí nghe pháp môn ấy , lòng nghi ngờ chẳng tin là bởi cớ sao ? Tỷ như các vị thiên thần và Long thần làm mưa xuống cõi Diêm Phù Đề ( tức là cõi Nam Thiệm Bộ Châu ) thì cả thảy thành ấp làng xóm đều trôi nổi như lá táo. Còn nếu mưa xuống biển cả , thì thấy chẳng thêm chẳng bớt . Cũng như người Đại Thừa , người Tối Thượng Thừa , nghe nói kinh Kim Cang thì tâm địa mở mang tỏ hiểu . Cho nên biết rằng bổn tánh tự nó có trí Bát Nhã . Bởi Bổn tánh mình thường lấy trí huệ xem soi( sự Lý ), cho nên chẳng cần dùng văn tự . Tỷ như nước mưa chẳng phải do trời làm mà có , nguyên bởi sức Rồng dấy động mà sanh ra , khiến cho cả thảy loài "hữu tình", các loài "vô tình", tất cả đều được gội nhuần . Cả thảy sông ngòi đều chảy vào biển cả , hiệp làm một thể . Cái trí Bát Nhã của Bổn Tánh chúng sanh cũng giống như thế.
Chư Thiện Tri Thức , người tiểu căn nghe phép đốn giáo này ắt là điên đảo . Cũng như loài cỏ cây , gốc rễ nhỏ yếu , nếu bị một đám mưa to , chắc đều ngã rạp không thể lớn lên được . Nguyên người tiểu căn có trí Bát Nhã cũng như người Đại trí không có chỗ gì khác . Nhưng bởi có sao họ nghe pháp mà lòng chẳng tự mở mang tỏ sáng ? Ấy bởi cái nghiệp chương của sự tà kiến còn nặng, cái gốc rễ của sự phiền não thâm sâu . Cũng như một đám mây lớn che án mặt nhật , nếu chẳng gặp đặng luồng gió thổi thì yến sáng chẳng hiện ra được .
Cái trí Bát Nhã vốn không lớn nhõ, chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi .Lòng mê thì chỉ thấy bề ngoài , tu hành tìm Phật mà chưa tỏ sáng bổn tánh của mình , tức là người tiểu căn . Hiểu rõ pháp đốn giáo tu hành mà không chấp bề ngoài , trong tâm mình thường khởi chánh kiến (thấy biết chơn chánh ) những sự phiền não trần lao chẳng nhiễm Bổn tâm mình tức là người thấy tánh .
Chư Thiện Tri Thức , tâm mình trong ngoài chẳng trụ ở một chỗ , lui tới tự do , bỏ đặng lòng chấp trước , suốt thông không trở ngai, tu trọn các hạnh ấy , thì đối với kinh Bát Nhã vốn không có chỗ nào sai khác
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, cả thảy các kinh Tu Đà La và các thứ văn tự Đại Thừa, Tiểu Thừa, mười hai bộ kinh<SUP><B>(1)</B></SUP>, đều bởi cơ duyên của nhân loại mà bày ra, cùng do tánh trí huệ mới kiến lập được. Nếu không có người thế gian, thì cả thảy muôn pháp vốn tự nhiên không có. Cho nên biết rằng, muôn pháp vốn bởi do nhân loại mà khởi ra, cả thảy các kinh sách đều bởi nhơn loại mà nói ra, nên mới có. Trong loài người có kẻ ngu người trí: Ngu làm tiểu nhơn, trí là đại nhơn. Người ngu học hỏi với người trí, người trí nói pháp cho người ngu nghe, người ngu bỗng nhiên tỏ hiểu, tâm địa mở mang, tức nhiên giống như người trí không khác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, tâm không giác ngộ, Phật là chúng sanh. Một niệm giác ngộ, chúng sanh tức là Phật. Cho nên biết rằng muôn pháp đều ở nơi Bổn Tâm của mình. Vậy sao chẳng do trong Bổn Tâm của mình mà thấy liền cái Chơn Như Bổn Tánh? Kinh Bồ Tát Giới có nói rằng: "Cái Bổn Nguyên tự tánh của ta vốn trong sạch. Nếu biết tâm mình và thấy tánh mình, thì thành Phật đạo". Kinh Tịnh Danh có nói: "Tức thời tâm trí thông suốt, thì phục hồi đặng Bổn Tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, lúc ta ở với Hòa Thượng Hoằng Nhẫn, mỗi khi nghe nói pháp rồi, liền tỏ sáng, liền thấy Chơn Như Bổn Tánh. Bởi vậy, ta mới đem giáo pháp này mà lưu hành, khiến cho các người học đạo liền tỏ sáng tâm Bồ Đề, mỗi người tự xem Bổn Tâm của mình và tự thấy Bổn Tánh của mình. Nếu tự mình chẳng tỏ sáng, thì phải tìm bực Đại Thiện Tri Thức giảng giải pháp Tối Thượng Thừa và chỉ ngay con đường Chánh Giác cho mình. Bực Thiện tri thức ấy có cái nhơn duyên lớn là lo về việc giáo hóa và tiếp dẫn cho người đặng thấy tánh. Cả thảy các pháp lành đều do các Thiện Tri Thức mà được phát khởi. Cả thảy Chư Phật trong ba đời, mười hai bộ kinh, ở trong tánh con người tự nhiên có đủ, nhưng tự mình không thể hiểu rõ được, nên phải cầu bực Thiện Tri Thức chỉ bày cho mới thấy. Nếu tự mình hiểu rõ, thì chẳng cần cầu nơi ngoài. Bằng một mực cố chấp rằng phải cầu bực Thiện tri thức mới mong được giải thoát, thì không có lý như vậy. Bởi cớ sao? Bởi trong tâm mình có sẵn cái cơ Trí Thức Tự Ngộ<SUP><B>(2)</B></SUP>. Nếu tâm mình khởi tà mê, vọng niệm, điên đảo, thì dầu ngoài có Thiện Tri Thức truyền dạy, cũng không thể cứu được. Bằng tâm mình khởi chơn chánh, trí Bát Nhã thường xem soi, thì trong một sát na<SUP><B>(3)</B></SUP>, các vọng niệm đều dứt hết. Nếu biết Bổn Tánh của mình một niệm giác ngộ thì liền đến cõi Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, cái trí huệ thường xem soi, trong ngoài đều sáng thấu, thì biết rõ Bổn Tâm của mình. Biết rõ Bổn Tâm tức là Giải Thoát, Giải Thoát tức là Bát Nhã Tam Muội<SUP><B>(4)</B></SUP>. Bát Nhã Tam Muội tức là Vô Niệm. Sao gọi là Vô Niệm? Biết thấy cả thảy các pháp mà lòng không nhiễm vương, không dính níu, ấy là Vô Niệm<SUP><B>(5)</B></SUP>. Cái tâm khi ứng dụng liền biến khắp cả thảy khắp các nơi, mà cũng chẳng dính vướng vào các nơi ấy. Giữ Bổn Tâm mình trong sạch, khiến sáu thức ra ngoài sáu cửa, đối với sáu trần mà lòng không nhiễm vương, dính níu, không lộn xộn, lui tới tự do, thông dụng không ngăn trở, tức là Bát Nhã Tam Muội<SUP><B>(5)</B></SUP>, Tự Tại Giải Thoát, gọi là Hạnh Vô Niệm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bằng đối với mọi vật, lòng không nghĩ đến, khiến cho niệm tưởng dứt đi, đây là bị pháp ràng buộc. Ấy gọi là biên kiến<SUP><B>(6)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, hiểu rõ pháp Vô Niệm <I>không niệm</I> thì suốt thông muôn pháp. Hiểu rõ pháp Vô Niệm thì thấy cảnh giới của Chư Phật. Hiểu rõ pháp Vô Niệm thì đạt đến địa vị của Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, đời sau người nào gặp đặng pháp môn của ta, đem pháp môn Đốn Giáo này truyền cho các người đồng ý kiến, đồng tâm hành đạo, đặng phát nguyện thọ trì, thì cũng như thờ Phật. Làm như thế tới trọn đời mà không thối chí, thì chắc vào ngôi Thánh. Nhưng cách truyền thọ, phải do theo ý chỉ của các vị Tổ Sư từ đời trước tới nay, mà mặc truyền phú chúc cho rõ ràng, chẳng đặng ém dấu cái chánh pháp của các ngài. Còn các người không đồng ý kiến, không đồng tâm hành đạo, hoặc ở trong pháp môn khác, thì chẳng nên truyền thọ, vì có hại cho các người ấy, mà rốt cuộc không có ích gì. Bởi sợ e có người ngu muội chẳng hiểu, rồi đem lòng chê bai pháp môn này mà phải đoạn tuyệt hột giống Phật Tánh của họ trong muôn đời ngàn kiếp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, ta có một bài tụng Vô Tướng <I>(không tướng)</I>, các ngươi phải tụng đọc. Người tại gia hay xuất gia cũng phải y theo bài tụng này mà tu hành. Nếu tự mình chẳng tu, mà chỉ nhớ lời ta nói, thì cũng không ích gì. Hãy nghe ta tụng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tụng rằng:
<p style="padding-left: 56px;">Nói Thông, Tâm cũng Thông
Như mặt nhật trên không
Duy truyền Pháp Thấy Tánh
Xuống thế, phá tà tông.
Pháp vốn không Đốn, Tiệm
Mê Ngộ có chậm mau
Chỉ môn Thấy Tánh ấy
Kẻ muội chẳng kham vào
Nói tuy muôn việc đủ
Lý hợp một, Không Hai
Trong lòng sanh khổ não
Thường tu Huệ phát khai
Tà sanh, phiền não dấy
Chánh đến, não phiền tan
Chánh tà, đều chẳng dụng
Thanh tịnh, chứng Niết Bàn
Bồ Đề là tự tánh,
Tâm động, tức vọng mông
Tịnh tâm trong chỗ vọng,
Tâm chánh, chướng tiêu vong
Người tu theo chánh đạo
Muôn vật chớ tổn thương
Lỗi mình, hay xét lấy
Mới hiệp đạo chơn thường
Muôn loài tự có đạo
Chớ giết hại loài nào
Lìa đạo mà tìm đạo
Chung thân đạo khó vào
Bôn ba qua một kiếp,
Rốt cuộc não phiền còn
Muốn thấy nền chơn đạo
Làm chánh, ấy đạo chơn
Đạo tâm, nếu chẳng có
Mờ ám phủ đường đi
Người thật lòng hành đạo
Lỗi đời, cứ bỏ qua.
Nếu thấy người lầm lỗi
Đừng để thành lỗi mình
Người lỗi, ta không lỗi
Ta lỗi, nếu chê bai
Hãy chừa thói chê lỗi
Phiền não phá cho tan
Ghét yêu đừng để dạ
Duỗi cẵng, nghỉ thanh nhàn
Muốn toan lo độ thế
Phương tiện, phải sẵn sàng
Chớ để người nghi hoặc
Tánh họ mới Minh Quang
Phật Pháp ở trần thế
Không xa thế giới mà
Bỏ đời, tìm đạo chánh
Sừng thỏ, kiếm sao ra?
Chánh kiến là xuất thế
Tà kiến, ấy thế gian
Chánh tà đều phá hết
Phật Tánh, hiện rõ ràng
Tụng này là Đốn Giáo
Cũng kêu Đại Pháp Thuyền
Mê, nghe kinh, lũy kiếp
Ngộ, thấy Phật tâm liền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sư lại nói: "Nay tại chùa Đại Phạm, ta nói pháp Đốn Giáo này, phổ nguyện chúng sanh trong pháp giới, vừa nghe pháp rồi, đều liền thấy tánh, thành Phật".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc ấy, quan Vi Thứ Sử và các viên quan, chức sắc, cùng các người đạo, tục, nghe Đại Sư nói pháp, cả thảy đều giác ngộ, đồng làm lễ một lượt mà khen rằng: "Hay thay! Nào dè ở xứ Lãnh Nam có Phật ra đời!"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Mười hai bộ kinh:
  1. Khế kinh.
  2. Ứng tụng.
  3. Phúng tụng.
  4. Nhân duyên.
  5. Bổn sư
  6. Bổn sanh.
  7. A tỳ đạt ma.
  8. Thí dụ.
  9. Luận nghĩa.
  10. Tự thuyết.
  11. Phương quảng.
  12. Thọ ký.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Trí Thức Tự Ngộ: <I>Sự hiểu biết tự nhiên của tánh mình, tức là trí huệ hay trực giác.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Sát na: <i>Thời gian rất ngắn</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Bát Nhã Tam Muội: <I>Trí huệ chánh định.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Vô Niệm: <I>Không niệm</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Biên kiến: <I>Thấy một bên.</I>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>3. PHẨM QUYẾT NGHI</B> (Nghi Vấn)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một ngày kia, Vi Thứ Sử có thiết một tiệc chay lớn mà đãi Đại Sư. Khi mãn tiệc, Thứ Sử thỉnh Sư lên tòa giảng, rồi cùng các viên quan, chức sắc, học trò, và dân chúng đồng trang nghiêm đến làm lễ Đại Sư một lần nữa mà hỏi rằng: "Đệ tử nghe Hòa Thượng nói pháp <I>(lý nghĩa thâm diệu)</I>, thiệt không thể nghĩ suy và bàn nghị được. Nay có một chút nghi, xin Đại Từ Bi vì đệ tử mà giải rõ".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Có điều nào nghi thì hỏi, ta giải cho".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vi Thứ Sử bạch:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Đệ tử có nghe Đức Đạt Ma lúc ban sơ hóa độ Lương Võ Đế, vua hỏi rằng: "Trẫm trọn đời cất chùa, độ tăng, đãi chay làm phước, có công đức gì?" Đức Đạt Ma nói: "Thiệt không có công đức". Đệ tử chưa hiểu thấu lẽ ấy, xin Hòa Thượng giải cho.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Thiệt không có công đức. Chớ nghi lời của Thánh nhơn đời trước. Võ Đế lòng tà, không biết chánh pháp. Cất chùa độ tăng, đãi chay làm phước, ấy gọi là cầu phước, không thể lấy phước mà kể là công đức được. Công Đức ở trong Pháp Thân, chớ chẳng phải ở chỗ tu phước.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư lại nói: "Thấy tánh là công, giữ lòng bình đẳng là đức. Niệm niệm tâm không ngưng trệ, thường thấy Bổn Tánh, động tịnh tự nhiên, diệu dụng chơn thật. Ấy gọi là công đức. Bên trong, giữ lòng khiêm hạ là công, bên ngoài hành động theo lễ là đức. Tánh mình lập ra muôn pháp <I>(sự lý, muôn vật)</I> là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm trần là đức. Muốn tìm cái công đức Pháp Thân, thì phải y theo đây mà tu hành. Thế mới là thiệt có công đức. Người tu công đức, thì lòng chẳng nên khinh dễ người, mà phải thường cung kỉnh khắp cả nhơn vật <I>(mọi người, mọi vật)</I>. Nếu lòng thường khinh dễ người, thì bổn ngã của ta chẳng dứt, tức là mình không có công. Tánh mình giả dối, không chơn thật, tức là mình không có đức. Bởi bổn ngã của ta tự đại, nên thường khinh dễ cả thảy nhơn vật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, niệm niệm thấy tánh không rời là công, lòng giữ công bình chánh trực là đức. Tự dồi tánh mình là công, tự trau thân mình là đức.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, công đức phải thấy trong tánh mình, chớ chẳng phải tìm ở chỗ cúng dường và bố thí <I>(làm phước)</I>. Bởi vậy, phước đức với công đức là khác nhau. Vua Võ Đế không biết Chơn Lý, chớ chẳng phải tại Tổ Sư ta lầm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ Sử lại hỏi: "Đệ tử thường thấy các thầy tăng và người tục niệm Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về Tây Phương, xin Hòa thượng giải rõ cho biết các người ấy được vãng sanh về Tây Phương chăng? Xin Ngài phá chỗ nghi này".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Sử quân, hãy nghe cho kỹ, Huệ Năng nầy giải cho. Đức Thế Tôn lúc ở thành Xá Vệ, nói kinh về chỗ tiếp dẫn hóa độ vào cõi Tây Phương, rõ ràng cõi ấy cách đây chẳng xa. Nếu luận về hình tướng và số dặm thì có mười muôn tám ngàn, tức chỉ mười điều ác<SUP><B>(1)</B></SUP> và tám điều tà<SUP><B>(2)</B></SUP>. Thế mới là nói xa. Nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì người thượng trí. Người có hai hạng, pháp không có hai thứ. Tánh mê ngộ <I>(sáng tối)</I> khác nhau, chỗ kiến giải <I>(thấy hiểu)</I> có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu vãng sanh về cõi Tây Phương, người ngộ tự tịnh tâm mình. Sở dĩ Phật nói: Tâm mình tịnh, tức là cõi Phật tịnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sử quân, người Đông phương mà tâm tịnh, thì không có tội. Còn tuy là người Tây Phương mà tâm không tịnh thì cũng có tội. Người Đông phương tạo tội cầu vãng sanh về cõi Tây Phương, còn người Tây Phương tạo tội cầu vãng sanh về xứ nào? Người phàm mê muội chẳng tỏ tánh mình, không biết cõi Tịnh Độ trong thân, nên mới nguyện Đông nguyện Tây. Còn người giác ngộ dầu ở chỗ nào, tâm địa cũng một mực thanh tịnh tự nhiên. Sở dĩ Phật nói: Tùy cái chỗ trụ mà tâm thường được an lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sử quân, nếu tâm địa của mình trọn lành, thì cõi Tây Phương cách đây chẳng xa. Bằng mình cưu mang cái tâm chẳng lành mà niệm Phật cầu vãng sanh, thì ắt khó đến cõi ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay khuyên các Thiện tri thức, trước trừ mười điều ác, tức là đi tới mười muôn, sau dứt tám điều tà, ấy là qua khỏi tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường làm việc công bình chánh trực, thì đến cõi ấy mau như khẩy móng tay, liền thấy Phật Di Đà.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sử quân, làm mười điều thiện, thì cần gì phải nguyện vãng sanh! Còn nếu chẳng dứt lòng cưu mang mười điều ác, thì Phật nào tới rước mình! Nếu hiểu rõ pháp Vô Sanh Đốn Pháp<SUP><B>(3)</B></SUP>, thì trong một sát na ắt thấy cõi Tây Phương. Bằng chẳng hiểu rõ pháp ấy, mà cứ niệm Phật cầu vãng sanh thì đường xa vời vợi, thế nào đặng đi tới cõi ấy. Để Huệ Năng nầy dời cõi Tây Phương trong một sát na cho các vị thấy liền trước mắt, các vị muốn thấy chăng?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng nhơn đều đảnh lễ đáp rằng: "Nếu thấy cõi ấy, thì cần gì phải nguyện vãng sanh! Xin Hòa Thượng từ bi hiện cõi Tây Phương cho mọi người đặng thấy".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Đại chúng, người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành, con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm. Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỉ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh <I>(thường trong sạch)</i>,tức là Thích Ca, lòng bình trực <i>(bình đẳng chánh trực)</I> tức là Di Đà.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy <I>(tham dục)</I> là nước bển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là cá trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, thường làm mười điều thiện, thì Thiên Đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã, thì núi Tu Di sập ngay, bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn, trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm, quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt... Tu được như thế, thì các Giác Tánh Như Lai ở trong tâm địa mình phóng đại quang minh, soi sáu cửa ngoài trong sạch, có thể phá được các cõi trời Lục Dục<SUP><B>(4)</B></SUP>, lại trong soi tánh mình, làm cho ba độc <I>(tham, sân, si)</I> liền dứt, cả thảy các tội địa ngục đồng tiêu diệt một lần, trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây Phương. Nếu chẳng tu các hạnh ấy, thì thế nào đến cõi Tây Phương được".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại chúng nghe nói, thấy tánh rõ ràng. Tất cả đều làm lễ, khen thiệt hay, và xướng lên rằng: "Nguyện khắp chúng sanh trong Pháp giới nghe rồi, liền được tỏ hiểu".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Thiện tri thức, muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa. Ở nhà mà thường tu hành, thì cũng như người Đông phương có lòng lành. Ở chùa mà chẳng tu, thì cũng như người Tây Phương có lòng dữ. Nếu lòng trong sạch, thì tánh mình tức là Tây Phương vậy".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vi Thứ Sử lại hỏi: "Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại Sư chỉ dạy".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Ta nói cho đại chúng một bài kệ Không tướng <I>(vô tướng)</I>. Nếu y theo đó mà tu, thì cũng như thường ở cùng ta một chỗ không khác. Bằng chẳng tu theo đó mà thế phát xuất gia, thì đối với Đạo nào có ích gì!"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tụng rằng:
<p style="padding-left: 56px;">Lòng bình đẳng, chẳng đợi giữ giới
Làm việc ngay, chẳng đợi tu thiền
Ân song thân hiếu dưỡng cần chuyên
Nghĩa huynh đệ, dưới trên tương ái
Nhượng hòa mục, tôn ti đối đãi
Nhẫn muôn điều, ác nghiệp tất tan
Nếu bền tu, như cựa gỗ, lửa lên
Nơi bùn lấm, nở đầy sen đỏ
Đắng miệng đó thuốc trừ bệnh khổ
Nghịch tai là lời thật, chánh trung
Sửa lỗi lầm, trí huệ phát sung
Bưng dấu lỗi, ấy lòng bất thiện
Phải hàng ngày, chuyên làm việc thiện
Phật Đạo nào bạc thí đặng nên?
Tâm Bồ Đề, trong kiếm mới nên
Ngoài cầu kiếm, nhọc lao, sái Đạo
Nghe chánh pháp, cứ theo tu tập
Cảnh Tịnh liền ngay mắt thấy liền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tổ lại nói: "Chư Thiện tri thức! Cả thảy phải y theo bài kệ này mà tu hành và tự thấy tánh mình, thì chắc thành Phật Đạo. Pháp chẳng đợi chờ, các người hãy giải tán, ta về Tào Khê. Nếu có điều chi nghi ngờ, thì hãy đến đó mà hỏi".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bấy giờ, Vi Thứ Sử cùng các thiện nam tín nữ tại hội, tâm tánh đều đặng mở mang tỏ sáng. Cả thảy đồng cung kính và vâng theo lời dạy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Mười điều ác là:
  • <I>Giết hại sanh mạng.</I>
  • <I>Trộm cắp.</I>
  • <I>Tà dâm.</I>
  • <I>Nói dối.</I>
  • <I>Nói xúi dục hai đàng.</I>
  • <I>Nói hung ác.</I>
  • <I>Nói thêu dệt, tục tỉu.</I>
  • <I>Tham lam.</I>
  • <I>Giận hờn.</I>
  • <I>Si mê.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Tám điều tà là:
  • <I>Tà kiến: Thấy hiểu tà vạy.</I>
  • <I>Tà tư duy: Nghĩ ngợi điều tà vạy.</I>
  • <I>Tà ngữ: Nói tà vạy.</I>
  • <I>Tà nghiệp: Tạo nghiệp tà vạy.</I>
  • <I>Tà mạng: Nuôi dưỡng mạng sống của mình bằng các nghề tà vạy như làm thuốc độc, đánh mướn, làm võ khí, v.v...</I>
  • <I>Tà phương tiện: Làm phương tiện tà vạy.</I>
  • <I>Tà niệm: Suy gẫm tà vạy.</I>
  • <I>Tà Định: Thiền định tà vạy, không đúng chánh pháp.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Vô Sanh Đốn Pháp: <I>Là phép nhẫn tâm, không sanh vọng niệm, không tạo ác nghiệp, dứt ngay mười điều ác, tám điều tà</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Lục Dục Thiên là: <I>Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Lạc Biến Hóa Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên</I>.
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>4. PHẨM ĐỊNH HUỆ</B>
(Nói về pháp Thiền Định và Trí Huệ)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại Sư bảo chúng rằng: "Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau. Định và Huệ chỉ là một thể, chẳng phải hai. Định là cái thể của Huệ, Huệ là cái dụng của Định, tức là lúc Huệ thì Định ở trong Huệ, lúc Định thì Huệ ở trong Định. Nếu biết cái nghĩa ấy, thì Định và Huệ đều phải học.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các người học Đạo chớ nói rằng trước Định rồi mới phát Huệ, trước Huệ rồi mới sanh Định, mà phân biệt Định với Huệ là khác nhau. Nếu thấy hiểu như thế, là pháp có hai tướng. Miệng nói lời lành mà trong lòng chẳng lành, nói khống rằng có Định Huệ mà Định Huệ chẳng đồng một thể. Nếu lòng và miệng đều lành, trong ngoài như một, thì Định và Huệ tức đồng nhau. Pháp tự ngộ tu hành chẳng phải tại chỗ tranh. Nếu tranh chỗ trước sau, tức đồng với người mê. Chẳng dứt lòng phân hơn thua, thì quả nhiên làm lớn thêm lòng chấp ngã, chấp pháp, mà không lìa khỏi bốn tướng<SUP><B>(1)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, Định và Huệ giống như vật gì? Giống như cái đèn và cái ánh sáng. Có đèn tức là sáng, không đèn tức là tối. Đèn là cái thể của ánh sáng, ánh sáng là cái dụng của đèn. Tên tuy có hai, mà thể vốn có một. Pháp Định Huệ này cũng giống như thế".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư bảo chúng rằng: "Chư Thiện tri thức, chuyên ròng một hạnh Chánh Định<SUP><B>(2)</B></SUP> nghĩa là trong cả thảy chỗ đi, đứng, ngồi, nằm, thường giữ một lòng ngay thẳng. Kinh Tịnh Danh nói: "Lòng ngay thẳng là Đạo Tràng. Lòng ngay thẳng là Tịnh Độ"<SUP><B>(3)</B></SUP>. Đừng lòng tưởng điều tà vạy mà miệng nói điều ngay thẳng<SUP><B>(4)</B></SUP>. Đừng miệng nói chuyên ròng một hạnh Chánh Định, mà chẳng giữ lòng ngay thẳng. Nếu giữ lòng ngay thẳng thì đối với cả thảy các pháp, tâm đừng chấp trước<SUP><B>(5)</B></SUP>. Người mê chấp trước pháp tướng, chấp một hạnh Chánh Định, nói rằng thường ngồi chẳng động, dối rằng lòng không sanh niệm tưởng, gọi đó là một hạnh Chánh Định. Nếu hiểu như thế, tức là đồng với loài vô tình. Quả thật là cái duyên cớ cãn ngăn cái Đạo vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, Đạo phải là thông lưu, sao lại làm cho nó ngưng trệ. Tâm không trụ pháp, thì Đạo thông lưu. Còn tâm trụ pháp, ấy là mình trói lấy mình. Bằng nói rằng thường ngồi chẳng động, thì cũng như Xá Lợi Phất ngồi im lặng trong rừng mà bị Duy Ma Cật quở vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, lại có người dạy ngồi xem cái tâm, quán tưởng tâm cảnh vắng lặng, ngồi yên chẳng dậy, bảo y theo đó mà lập công phu. Người mê chẳng hiểu, cố chấp làm theo, rồi thành điên dại. Số người lầm như thế chẳng phải là ít. Truyền dạy nhau như vậy, thiệt là lầm to!"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư bảo chúng rằng: "Chư Thiện tri thức, cái chánh giáo xưa nay không có mau chậm <I>(đốn tiệm)</I>, chỉ tánh người có sáng tối mà thôi. Người tối thì tu tập lần lần <I>(từ thấp lên cao)</I>, người sáng <I>(ngộ)</I> thì thức tỉnh tức khắc, tự mình biết Bổn Tâm, tự mình thấy Bổn Tánh. Thế thì, không có chỗ gì sai khác<SUP><B>(6)</B></SUP>. Vì chỗ sáng tối chẳng đồng sở dĩ mới lập ra cái giả danh mau chậm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, pháp môn của ta đây từ trên truyền xuống, trước hết lập Không Niệm <I>(Vô Niệm)</I> làm tông, Không Tướng </I>(Vô Tướng)</I> làm thể, Không Trụ </I>(Vô Trụ)</I> làm gốc. Không niệm nghĩa là trong khi niệm, lòng không động niệm. Không tướng nghĩa là đối với sắc tướng, lòng lìa sắc tướng. Không trụ có nghĩa là đối với các điều lành dữ, tốt xấu ở thế gian, cùng với kẻ thù, người thân, đối với lúc nghe các lời xúc pham, châm chích, khinh khi, tranh đấu... Bổn tánh con người xem cả thảy như không không, chẳng nghĩ đến việc đền ơn trả oán. Trong niệm niệm lòng không nghĩ đến các cảnh mình đã gặp trước. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối tiếp nhau chẳng dứt, thì gọi là bị buộc ràng<SUP><B>(7)</B></SUP>. Đối với các pháp, niệm niệm lòng không trụ vào đâu thì khỏi bị buộc ràng. Ấy là lấy Không Trụ làm Gốc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, ngoài lìa cả thảy các sắc tướng, gọi Không Tướng. Đối với các sắc tướng mà tâm lìa được, thì cái thể của các pháp<SUP><B>(8)</B></SUP> tự nhiên thanh tịnh. Ấy là Không Tướng làm Thể.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, đối với các cảnh mà tâm chẳng nhiễm gọi là không niệm. Trong các niệm tưởng của mình, tâm thường lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh mà sanh tâm <SUP><B>(9)</B></SUP>. Bằng đối với trăm việc, tâm chẳng nghĩ đến, các niệm tưởng đều bỏ hết, và nếu một niệm dứt tuyệt, thì chết liền và phải chịu đầu sanh nơi khác. Ấy là một điều lầm to, người học Đạo khá suy nghĩ lấy đó. Nếu chẳng biết cái ý chỉ của pháp <I>(hành đạo)</I>, tự mình lầm còn khá, sợ e lại khuyên dạy người khác. Tự mình mê mà chẳng thấy, lại còn nhạo báng kinh Phật. Bởi vậy mới lập Không Niệm làm Tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, sao gọi lập Không Niệm làm tông? Chỉ vì người mê, miệng nói thấy tánh, mà đối cảnh tâm còn vọng niệm, trong chỗ vọng niệm, lại khởi tà kiến. Cho nên cả thảy các sự trần lao vọng tưởng đều do đó mà sanh ra. Bổn tánh mình vốn không có một pháp <I>(vật)</I> gì mà tìm được. Nếu có cái chỉ tìm được trong tánh mình, mà nói dối là họa phước, thì cái ấy là trần lao tà kiến. Cho nên, pháp môn này lập Không Niệm làm Tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, Không là không sự gì? Niệm là niệm vật chi? Không nghĩa là không chấp hai tướng<SUP><B>(10)</B></SUP>, không có lòng phiền não. Niệm, nghĩa là niệm cái Chơn Như Bổn Tánh. Chơn Như tức là cái Thể của niệm, niệm tức là cái dụng của Chơn Như. Tánh Chơn Như của mình khởi niệm, chớ chẳng phải con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, cái lưỡi mà niệm được. Cái Chơn Như có tánh, sở dĩ mới sanh ra niệm tưởng. Nếu như cái Chơn Như không có <I>(tồn tại)</I>, thì mắt, tai, màu, tiếng, đương lúc ấy liền hư hoại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, tánh Chơn Như của mình khởi niệm, thì sáu căn tuy có thấy nghe, biết hiểu, mà chẳng nhiễm muôn cảnh. Bởi thế nên Chơn Tánh của mình bao giờ cũng tự tại. Cho nên kinh nói: "Phân biệt đặng các pháp tướng một cách tường tận chi lý, mà cái tánh Thanh Tịnh Niết Bàn chẳng động"<SUP><B>(11)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Bốn tướng: <I>Ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Một hạnh Chánh Định: <I>Nhất hạnh Tam muội</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Lòng ngay thẳng là Đạo Tràng. Lòng ngay thẳng là Tịnh Độ: <I>Trực tâm thị đạo tràng, trực tâm thị Tịnh Độ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Điều ngay thẳng: <I>Miệng ngay lòng vạy.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Chấp trước: <I>Dính níu theo pháp tướng trần cảnh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Sai khác: <I>Không mau không chậm.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Ràng buộc: <I>Phiền não.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) Thể của các pháp: <I>Hữu vi và vô vi.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) Sanh tâm: <I>Vọng động.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) Hai tướng: <I>Yêu và ghét.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) Phân biệt đặng các pháp tướng một cách tường tận chi lý, mà cái tánh Thanh Tịnh Niết Bàn chẳng động: <I>Năng thiện phân biệt chư pháp tướng, ư đệ nhất nghĩa nhi bất động.</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>5. PHẨM TỌA THIỀN</B>
(Còn gọi là Diệu Hạnh)
(Pháp ngồi tu Thiền Định)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại Sư bảo đại chúng rằng: "Pháp môn Tọa Thiền này nguyên là chẳng trước tâm, cũng chẳng trước tịnh<SUP><B>(1)</B></SUP>, cũng chẳng phải chẳng động<SUP><B>(2)</B></SUP>. Nếu nói trước tâm, thì tâm nguyên là giả. Biết rằng cái tâm như là huyễn, cho nên không có chỗ nào mà trước được. Bằng nói trước tịnh, thì tánh người vốn tịnh. Chỉ bởi vọng niệm nên thể Chơn Như mới bị lấp che. Nếu không có vọng tưởng, thì tánh tự nhiên thanh tịnh<SUP><B>(3)</B></SUP>. Khởi tâm trước tịnh, thì sanh ra cái vọng về chỗ tịnh. Cái vọng không có xứ sở, trước ấy là vọng. Cái tịnh không có hình tướng, bởi lập ra tướng tịnh mới gọi là công phu. Sự thấy hiểu ấy làm ngăn trở Bổn Tánh mình, và cái tịnh trở thành trói buộc mình vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, tu hành mà chẳng vọng động, nghĩa là lúc thấy cả mọi người mà chẳng thấy các điều phải quấy, lành dữ, tội lỗi của người, tức là tánh mình chẳng động.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, người mê muội, thân tuy chẳng động, mà khi mở miệng ra, thì nói chỗ phải quấy hay dở, tốt xấu của người, thế là làm trái nghịch với Đạo. Bằng trước tâm chấp tịnh, tức là làm ngăn lấp cái Đạo vậy".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư bảo chúng rằng: "Chư Thiện tri thức, sao gọi là Ngồi Thiền? <I>(tọa thiền)</I> Trong pháp môn này không có chỗ nào ngăn, không có sự gì cản. Ngoài đối với cả thảy các điều lành dữ, các cảnh giới mà tâm chẳng khởi vọng niệm, gọi là Ngồi. Trong thấy, tánh mình chẳng động, gọi là Thiền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, sao gọi là Thiền Định? Ngoài lìa tướng là Thiền, trong không tán loạn là Định. Nếu ngoài trước tướng, thì trong tâm tán loạn. Bằng ngoài lìa tướng, thì trong tâm không tán loạn. Bổn tánh vốn tự định, chỉ thấy cảnh rồi nghĩ cảnh, nên mới tán loạn. Nếu thấy các cảnh giới mà tâm không tán loạn, thế mới là thiệt Định.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, ngoài lìa tướng tức là Thiền, trong không tán loạn tức là Định. Ngoài Thiền trong Định tức là Thiền Định. Kinh Bồ Tát Giới nói: Bổn Tánh của ta tự nhiên thanh tịnh"<SUP><B>(4)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, trong niệm niệm tự mình thấy Bổn tánh thanh tịnh, tự mình tu, tự mình hành, tự mình thành Phật Đạo".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Trước tịnh: <I>Dính níu theo cảnh tịnh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Tâm nguyên là giả: <I>Không thật.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Thanh tịnh: <I>Trong sạch.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Bổn Tánh của ta tự nhiên thanh tịnh: <I>Ngã bổn tánh nguyên tự thanh tịnh.</I>
<I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền trong bài này gọi là Xuất thế gian Thượng Thượng Thiền, tức là Như Lai Thiền, là pháp của Tông Phật Tâm (Phật Tâm Tông chi Thiền). Pháp Thiền này chẳng luận ngồi hay nằm, hay ở nơi nào, tâm và cảnh thường vắng lặng, tâm như cảnh, cảnh như tâm. Tâm đối cảnh mà không trứơc cảnh đối trần mà không nhiễm trần. Niệm niệm bổn tánh mình thanh tịnh, và ứng dụng tự nhiên, không ngăn trở. Ấy là môn kiến tánh thành Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền sở dĩ phân ra nhiều bậc là bởi trình độ của chúng sanh có cao thấp, sáng tối chẳng đồng. <B>Hành giả phải trải qua nhiều bậc thiền, trừ ra hàng Thượng căn mới đốn nhập Như Lai Thiền được.</B></I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>6. PHẨM SÁM HỐI</B>
(Ăn năn tội trước, chừa bỏ lỗi sau)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc kia, Đại Sư thấy các quan dân ở Quảng Châu, Thiều Châu, và bốn phương đồng kéo nhau tụ tập trong núi đặng nghe pháp, thì Ngài lên tòa giảng mà bảo chúng rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Chư Thiện tri thức, hãy lại gần đây. Việc này phải do trong tánh mình mà khởi ra. Trong cả thảy thời gian, niệm niệm mình phải lóng sạch tâm mình, mình phải trau sửa nết hạnh của mình, mình phải thấy pháp thân của mình, mình phải thấy Phật tâm của mình, mình phải độ và răn lấy mình, thì đến đây mới là hữu ích, chẳng uổng công lao. Các vị đã từ phương xa mà đến, đồng hội hiệp tại chỗ này, ấy là các vị đều có duyên với nhau. Vậy bây giờ các vị cả thảy phải quỳ xuống. Trước hết, ta truyền cho năm phần Chơn Hương của Pháp Thân Trong Bổn Tánh Mình, kế ta truyền pháp Sám Hối Không Tướng<SUP><B>(1)</B></SUP>".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cả thảy đồng quỳ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói rằng: "Một là <B>Giới Hương</B>, nghĩa là tâm mình không tưởng điều quấy, không toan việc dữ, không sanh ghen ghét, không sanh tham lam giận hờn, không mong cướp hại của người. Ấy gọi là Giới Hương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hai là <B>Định Hương</B>, nghĩa là xem thấy các cảnh tướng lành dữ mà tâm mình chẳng tán loạn. Ấy gọi là Định Hương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba là <B>Huệ Hương</B>, nghĩa là tâm mình không bị ngăn lấp<SUP><B>(2)</B></SUP>, mình thường lấy trí huệ mà quán chiếu<SUP><B>(3)</B></SUP> tánh mình và chẳng tạo các điều dữ. Tuy mình tu các hạnh lành mà tâm không chấp trước, thường kính kẻ trên, tưởng kẻ dưới, hay xót thương những kẻ côi cút nghèo nàn. Ấy gọi là Huệ Hương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bốn là <B>Giải Thoát Hương</B>, nghĩa là tâm mình không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, thong thả suốt thông<SUP><B>(4)</B></SUP>. Ấy gọi là Giải Thoát Hương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm là <B>Giải Thoát Tri Kiến Hương</B>, nghĩa là tâm mình tuy đã không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, nhưng chẳng nên trầm không thủ tịch<SUP><B>(5)</B></SUP>. Phải học rộng, nghe nhiều, phải biết Bổn Tâm của mình, phải rõ thông đạo lý của Chư Phật, phải xen lộn trong thế gian mà cứu nhơn lợi vật<SUP><B>(6)</B></SUP>, không phải nhơn ngã. Phải đạt ngay cõi Chánh Giác<SUP><B>(7)</B></SUP>, Chơn Tánh không đổi dời. Ấy gọi là Giải Thoát Tri Kiến Hương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, Chơn Hương này, mỗi phần tự có cái chất xông thơm bên trong<SUP><B>(8)</B></SUP>, đừng tìm kiếm nơi ngoài.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bây giờ ta truyền cho các vị pháp Sám Hối Không Tướng; Pháp này tiêu diệt hết các tội trong ba đời <I>(đời trước, đời nay, và đời sau)</I> khiến cho ba nghiệp <I>(Thân, khẩu, ý)</I> đều được trong sạch.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện Tri Thức, hãy đồng xướng lên một lượt và nói theo ta.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm <B>sự ngu mê</B>. Các tội do nghiệp ác ngu mê đã tạo ra từ trước đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm <B>sự ngạo dối</B>. Các tội do nghiệp ác ngạo dối đã tạo ra từ trước đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm <B>sự ganh ghét</B>. Các tội do nghiệp ganh ghét đã tạo ra từ trước đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, các lời sám hối kể trên gọi là Sám Hối Không Tướng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sao gọi là Sám? Sao gọi là Hối?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sám nghĩa là ăn năn các tội trước của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ganh ghét đã tạo ra từ trước, tất cả ăn năn, hằng chẳng gây lại nữa. Ấy gọi là Sám.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hối nghĩa là ăn năn các lỗi sau của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ganh ghét tạo ra, nay đã giác ngộ rồi, tất cả đều dứt bỏ đời đời, ngày sau chẳng gây lại nữa. Ấy gọi là hối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cho nên kêu là Sám Hối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các người phàm phu ngu muội chỉ biết ăn năn tội trước của mình, mà chẳng biết ăn năn lỗi sau. Bởi chẳng ăn năn, nên tội trước chưa dứt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng dứt, lỗi sau lại sanh, thì sao gọi là Sám Hối được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, đã sám hối rồi, bây giờ ta cho các ngươi lập Bốn Điều Thệ Nguyện<SUP><B>(9)</B></SUP> lớn. Mỗi người phải dùng tâm chơn chánh mà nghe ta dạy:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng sanh <I>(các tánh xấu)</I> không giới hạn trong tâm mình đều thề nguyền hóa độ<SUP><B>(10)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cả thảy các điều phiền não chẳng xiết kể trong tâm mình đều thề nguyền dứt bỏ<SUP><B>(11)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cả thảy các pháp môn kể không hết trong tánh mình đều thề nguyền học cả<SUP><B>(12)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đạo Phật cao hơn hết trong tánh mình thề nguyền tu đến thành công<SUP><B>(13)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, cả thảy các vị há chẳng nói: "Cả thảy chúng sanh không giới hạn <I>(trong tâm mình)</I> mà tự mình đều thề nguyền hoá độ?" Thế thì chẳng phải Sư Huệ Năng độ!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, chúng sanh trong tâm mình tức là: Lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ganh ghét, lòng ác độc. Các tâm này đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ. Sao gọi là dùng tánh mình mà tự độ lấy mình? Nghĩa là các chúng sanh <I>(tánh xấu)</I> trong là tà kiến, phiền não, ngu si, phải đem chánh kiến mà hóa độ <I>(hóa giải)</I>các tánh xấu ấy. Đã có sẵn chánh kiến<SUP><B>(14)</B></SUP> thì phải dùng trí Bát Nhã<SUP><B>(15)</B></SUP> mà đánh dẹp các chúng sanh ngu si, mê vọng. Mỗi mỗi phải tự độ lấy mình: Tà đến thì lấy chánh mà độ, mê lại dùng ngộ mà độ, ngu đến lấy trí mà độ, dữ đến dùng lành mà độ. Độ như thế mới gọi là thiệt độ. Cả thảy các điều phiền não chẳng kể xiết đều thề nguyền dứt bỏ, nghĩa là đem trí huệ Bát nhã của tánh mình mà dứt bỏ lòng nghĩ tưởng giả dối. Thế mới gọi là thiệt độ. Cả thảy phiền não chẳng xiết kể đều thề nguyền dứt bỏ, nghĩa là đem Trí Bát Nhã của tánh mình mà dứt bỏ lòng nghĩ tưởng giả dối. Thế mới gọi là thiệt học. Đạo Phật cao hơn hết thề nguyền tu đến thành công, nghĩa là đã thường hạ cái tâm<SUP><B>(16)</B></SUP>, làm việc chơn thành, lìa mê lìa giác, thường sanh Bát Nhã, bỏ chơn trừ vọng, tức khắc thấy tánh Phật. Ấy là nghe nói pháp rồi, liền thành Phật đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thường thường tưởng đến việc tu hành là cái chánh pháp tạo nên sức thề nguyện <I>(nguyện lực)</I>vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, nay đã phát Bốn Điều Thề Nguyền Lớn rồi, ta lại truyền cho các vị Lời Răn Dạy Về Pháp Quy Y Không Tướng<SUP><B>(17)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, phải quy y ba pháp này:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. Hãy quy y <I>(nương theo)</I> các Diệu Giác của tánh mình là pháp tôn quý gồm đủ cả hai công đức<SUP><B>(18)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. Hãy quy y <I>(nương theo)</i> cái Chánh Pháp của tánh mình là pháp tôn quý lìa bỏ các điều tà dục<SUP><B>(19)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. Hãy quy y <I>(nương theo)</I> cái Thể Thanh Tịnh của tánh mình là pháp tôn quý nhất trong các hạnh<SUP><B>(20)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ đây sắp sau, hãy xưng Giác<SUP><B>(21)</B></SUP> là Thầy, chẳng nên quy y theo tà ma ngoại đạo. Hãy lấy ba pháp báu của tánh mình mà tự thường chứng tỏ các công đức của mình. Ta khuyên Chư Thiện tri thức phải quy y theo ba pháp báu của tánh mình là:
<p style="padding-left: 56px;">a. Phật nghĩa là Giác.
b. Pháp nghĩa là Chánh <I>(Tánh chơn chánh)</I>.
c. Tăng nghĩa là Tịnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tâm mình quy y theo tánh Giác, thì tà mê chẳng sanh. Lại ít có sự ham muốn, thường biết đủ dùng<SUP><B>(22)</B></SUP>, lìa được của tiền và sắc dục, gọi là <I>pháp tôn quý gồm cả hai công đức</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tâm mình quy y tánh Chánh, thì niệm niệm không sanh tà kiến. Bởi không tà kiến, nên không có lòng nhơn ngã cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là <I>pháp tôn quý lìa bỏ các điều tà dục</i>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tâm mình quy y theo tánh Tịnh, thì cả thảy các cảnh giới trần lao, ái dục, tâm mình chẳng nhiễm chẳng vương, gọi là <I>pháp tôn quý nhất trong các hạnh</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tu các hạnh này, ấy là mình quy y Bổn Tánh của mình. Các người phàm phu từ ngày tới đêm nói rằng chịu tu theo ba Quy Giới, mà chẳng hiểu lý quy y. Nếu nói quy y Phật, thì Phật ở xứ nào? Bằng không thấy Phật, thì quy y chỗ nào? Nói thế thành ra giả dối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, mỗi người hãy tự xem xét, chớ lầm dùng tâm ý. <B>Kinh văn nói rõ quy y Phật ở tánh mình, chớ chẳng nói quy y Phật nơi nào khác</B>. Phật ở tánh mình mà chẳng quy y, thì không có chỗ nào mà quy y vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay các vị đã tự ngộ, thì mỗi người phải quy y ba pháp báu ở tâm mình. Trong phải điều tâm tánh, ngoài phải kính mọi người, tức là mình quy y tâm mình vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, đã quy y ba pháp báu ở tánh mình rồi, các vị hãy chí tâm, ta nói cho mà rõ cái pháp <B>Phật Một Thể Ba Thân</B> trong Tánh Mình, khiến cho các vị thấy ba thân rõ ràng, tự tánh mình tỏ sáng tánh mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cả thảy hãy đồng nói theo ta:
<p style="padding-left: 56px;">Tự sắc thân mình quy y <I>(nương theo)</I> Thanh Tịnh Pháp Thân Phật.
Tự sắc thân mình quy y <I>(nương theo)</I> Viên Mãn Báo Thân Phật.
Tự sắc thân mình quy y <I>(nương theo)</I> Thiên Bá Ức Hóa Thân Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, sắc thân là quán xá, không thể nói quy y được. Phải dòm ngó Phật Ba Thân trong tánh mình. Người thế gian đều có Phật Ba Thân. Bởi tâm mình mê muội, nên không thấy thể sáng suốt trong tánh mình. Người ta cứ tìm Phật Ba Thân ở ngoài, mà chẳng thấy Phật Ba Thân ở trong thân của mình. Các vị nghe ta nói, khiến các vị ngó trong thân mình và thấy Bổn Tánh mình có Phật Ba Thân. Phật Ba Thân này do nơi tánh mình mà sanh, chớ chẳng phải do nơi ngoài mà tìm đặng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sao gọi là <B>Thanh Tịnh Pháp Thân Phật</B>? Bổn tánh của người thế gian vốn trong sạch. Muôn pháp đều do nơi bổn tánh mình mà sanh: Nghĩ tính các điều dữ, liền sanh hạnh dữ. Nghĩ tính các hạnh lành, liền sanh hạnh lành. Thế thì, các pháp trong tánh mình, ví cũng như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, nhưng vì bị mây che nên trên sáng dưới tối. Thình lình gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, thì muôn hình ngàn tượng đều hiện ra. Tánh của người thế gian thường hay châu lưu<SUP><B>(23)</B></SUP> cũng như mây trên trời kia vậy
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, Trí như mặt trời, Huệ như mặt trăng. Trí Huệ thường sáng, nhưng bởi tâm dính níu cảnh vật ở bên ngoài, rồi bị mây vọng niệm của mình che án tánh mình, nên Trí Huệ chẳng đặng tỏ sáng. Nếu gặp bạn Thiện tri thức, nghe người giảng chánh pháp, rồi tự mình dứt các điều mê hoặc, trong ngoài sáng thấu, thì trong tánh, muôn pháp đều hiện ra rõ ràng. Người thấy tánh cũng giống như thế. Ấy gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, tâm mình quy y tánh mình. Ấy là quy y Chơn Phật. Tự mình quy y, nghĩa là dứt trừ hết các tật xấu trong tâm mình là: Lòng chẳng lành, lòng ganh ghét, lòng tà vạy, lòng vị ngã, lòng giả dối, lòng khi người, lòng nhạo người, lòng tà kiến, lòng cống cao, cùng các hạnh bất thiện trong cả thảy thời gian, lại thường thấy lỗi mình, chẳng nói việc tốt xấu của người. Ấy là tự mình quy y tánh mình vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thường hạ tâm mình <I>(ở bậc thấp)</I>, cung kính mọi người, thấy tánh sáng suốt, không ngưng trệ. Ấy là tự mình quy y tánh mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sao gọi là <B>Viên Mãn Báo Thân Phật?</B> Tỷ như một cái đèn có thể trừ được chỗ tối đã có từ ngàn năm, một cái trí có thể diệt được sự ngu đã nhiễm từ muôn thuở. Đừng nghĩ đến việc trước, chẳng đặng nghĩ đến việc đã qua rồi, thường nghĩ đến việc về sau. Niệm niệm hoàn toàn sáng suốt và tự mình thấy Bổn tánh mình. Điều lành điều dữ tuy là khác nhau, chớ cái Bổn tánh không hai <I>(chỉ là một)</I>. Cái tánh không hai gọi là Thật Tánh <I>(chơn như)</I>. Trong cái Thật Tánh chẳng nhiễm điều lành điều dữ, ấy gọi là Viên Mãn Báo Thân Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tánh mình khởi một niệm dữ, thì tiêu hết muôn kiếp hột giống lành. Tánh mình sanh một niệm lành, thì hằng hà sa <I>(nhiều như cát sông Hằng)</I> tội dữ đều diệt hết và chứng ngay quả Vô Thượng Bồ Đề. Niệm niệm mình thấy tánh mình, chẳng sai bổn niệm. Ấy gọi là Báo Thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sao gọi là <B>Thiên Bá Ức Hóa Thân Phật?</B> Nếu chẳng nghĩ đến muôn pháp, thì tánh vốn như trống không. Một niệm nghĩ tính, gọi là biến hóa: Nghĩ tính điều dữ, hóa làm Địa Ngục. Nghĩ tính việc lành, hóa làm Thiên Đường. Lòng độc hại hóa ra rồng rắn. Lòng từ bi hóa ra Bồ Tát. Lòng Trí Huệ hóa làm Thượng Giới, lòng ngu si hóa làm Hạ Phưong. Cái tánh của mình biến hóa rất nhiều. Người mê, không tỉnh giác được, nên niệm niệm gây ra việc dữ, thường thường theo đường dữ. Nếu trở lại khởi một niệm lành, thì Trí Huệ thường sanh. Ấy gọi là Tự Tánh Hóa Thân Phật<SUP><B>(24)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Thiện tri thức, cái Pháp thân vốn là đầy đủ. Niệm niệm tánh mình tự nhiên hiện ra tỏ sáng, tức là Báo Thân Phật Do cái Báo Thân nghĩ tính <I>(phát ra trí huệ)</I> tức là Hóa Thân Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mình tự ngộ tự tu các công đức trong tánh mình, mới thiệt là quy y. Chứ da thịt là sắc thân, sắc thân là nhà trọ tạm bợ, không thể nói là quy y được. Nếu mình hiểu rõ Ba Thân trong Tánh mình, tức là mình biết Phật trong tánh mình vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ta có một bài tụng Không tướng <I>(Vô tướng)</I>. Nếu năng trì tụng, thì khi dứt lời, các tội ngu mê của các vị chất chứa trong muôn kiếp trước đồng tiêu diệt hết một lần
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tụng rằng:
<p style="padding-left: 56px;">Người mê muội phước cầu đạo phế
Tu phước điền dối kể đạo mầu
Thí cúng nhiều phước được trùng thâu
Nương ba ác<SUP><B>(25)</B></SUP> tâm đầu sanh mãi
Tưởng tu phước, tội trừ ác cải
Sau phước dành tội lại còn sanh
Ngó trong tâm gốc lỗi trừ nhanh
Tự tánh phải chơn thành sám hối
Phép sám hối Đại thừa lãnh hội<SUP><B>(26)</B></SUP>
Cải tà quy chánh tội không sanh
Học đạo thường xem tánh tịnh thanh
Tức cùng Phật cũng thành nhất loại
Phép đốn giáo tổ truyền ta dạy
Nguyện chúng đồng đặng thấy tâm nguyên<SUP><B>(27)</B></SUP>
Pháp thân nay mong đặng thấy liền
Lìa pháp tướng tâm điền trong lặng
Gắng thấy tánh lòng đừng xao lãng
Niệm sau lìa đời hẳn phế vong
Hiểu Đại thừa thấy đặng tánh thông
Phải cung kính hết lòng cầu học.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Chư Thiện tri thức, cả thảy phải tụng bài kệ này, và y theo lời dạy trong đó mà tu hành. Tụng rồi phải liền thấy tánh. Được như thế, tuy cách ta ngàn dặm, cũng như thường ở bên ta. Còn tụng rồi mà tâm không giác ngộ, thì dầu ở trước mặt ta, cũng như cách xa ngàn dặm. Há cần từ phương xa mà đến đây! Khá trân trọng và giữ lấy.”
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại chúng nghe pháp, tâm tánh đều mở mang tỏ sáng. Cả thảy đồng vui vẻ vâng làm theo lời dạy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Sám Hối Không Tướng: <I>Vô Tướng Sám Hối.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Ngăn lấp: <I>Suốt thông.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Quán chiếu: <I>Xem soi,</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Thong thả suốt thông: <I>Tư tại vô ngại.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Trầm không thủ tịch: <I>Đắm vào cảnh không, giữ lòng vắng lặng như loại Vô Ký Không mà trong phẩm Bát Nhã đã có nói.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Cứu nhơn lợi vật: <I>Hòa quang tiếp vật.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Cõi Chánh Giác: <I>Bồ đề.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) Tự có cái chất xông thơm bên trong: <I>Bổn giác chơn như ở trong tâm mình.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) Bốn Điều Thệ Nguyện Lớn: <I>Tứ hoằng thệ nguyện</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) : <I>Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) : <I>Tự tâm phiền não vô số thề nguyện đoạn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) : <I>Tự tánh pháp môn vô tận thệ nguyện học.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(13) : <I>Tự tánh vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(14) Chánh kiến: <I>Sự thấy hiểu chơn chánh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(15) Trí Bát Nhã: <I>Trí tuệ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(16) Thường hạ cái tâm: <I>Giữ hạnh khiêm tốn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(17) Lời Răn Dạy Về Pháp Quy Y Không Tướng: <I>Vô tướng Tam quy y giới.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(18) Pháp tôn quý gồm đủ cả hai công đức: <I>Quy y Giác lưỡng túc tôn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(19) Pháp tôn quý lìa bỏ các điều tà dục: <I>Quy y Chánh ly dục tôn</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(20) Pháp tôn quý nhất trong các hạnh: <I>Quy y Tịnh chúng trung tôn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(21) Giác: <I>Bổn tánh giác ngộ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(22) Ít có sự ham muốn, thường biết đủ dùng: <I>thiểu dục tri túc</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(23) Châu lưu: <I>dời đổi.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(24) Tự Tánh Hóa Thân Phật: <I>Là Phật Hóa thân trong tánh mình.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(25) Ba ác: <I>Là lòng tham lam, giận hờn, si mê.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(26) Lãnh hộ: <I>Tâm hiểu thông suốt.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(27) Tâm nguyên: <I>Tánh Như Lai.</I></P></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>7. PHẨM CƠ DUYÊN</B>
(Nói về căn cơ và duyên phần của các đệ tử)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại Sư từ khi đắc pháp tại Huỳnh Mai đến lúc trở về làng Tào Hầu thuộc Thiều Châu, thì chẳng có ai hay biết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một khi kia có người học Nho tên là Lưu Chí Lược lấy lễ mà đãi ngài rất hậu. Chí Lược có một người cô làm Tỳ khưu ni <I>(cô vãi)</I>, tên Vô Tận Tạng, thường tụng kinh Đại Niết Bàn. Sư nghe qua, liền hiểu chỗ diệu nghĩa, mới giải cho Ni cô nghe. Ni cô cầm quyển kinh lại hỏi chữ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Chữ thì ta không biết, vậy xin hỏi nghĩa".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ni cô nói: "Chữ còn chẳng biết, đâu hiểu nghĩa".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Cái diệu lý của chư Phật chẳng có quan thiết gì với văn tự".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ni cô hãi kinh và lấy làm lạ. Ni cô bèn rao khắp cho các bực kỳ đức<SUP><B>(1)</B></SUP> trong xóm hay rằng Đại Sư là bậc đạo đức, nên thỉnh về mà cúng dường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi ấy có huyền tôn<SUP><B>(2)</B></SUP> của Ngụy Võ Hầu tên là Tào Thúc Lương cùng các người cư dân tranh nhau đến làm lễ Đại Sư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc bấy giờ, chùa cũ Bửu Lâm đã bị bỏ hư, vì bị nạn binh hỏa từ cuối đời nhà Tùy. Nơi chỗ nền cũ, các thiện tín hiệp nhau cất cảnh chùa lại, rồi rước Đại Sư về ở, chẳng bao lâu thành một ngôi Bửu phường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư ở chùa này hơn chín tháng, lại bị bọn ác nhơn tìm theo. Sư bèn lánh mình ẩn trong phía núi trước chùa, thì bị bọn ấy phóng hỏa đốt rụi cỏ cây. Sư ráng sức chun vào kẹt đá, nên mới thoát nạn. Nơi tảng đá nay còn dấu đầu gối Ngài ngồi kiết già và lằn vải áo. Nhơn đó mới gọi là "Tảng đá lánh nạn"<SUP><B>(3)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nhớ lại lời Ngũ Tổ dặn nơi Hoài Tập và Huyện Tứ Hội, ngài mới đi ẩn hai xứ ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Bực kỳ đức: <I>Người tuổi cao đức trọng.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Huyền tôn: <I>Cháu bốn đời.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Tảng đá lánh nạn: <I>Tị nạn thạch.</I>
<CENTER><B>Thầy Tăng tên Pháp Hải</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thầy tăng tên Pháp Hải, người ở Khúc Giang, thuộc tỉnh Thiều Châu, ban sơ đến viếng Tổ Sư và hỏi rằng: "Tức Tâm Tức Phật là nghĩa sao? Xin Đại Sư chỉ dạy".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư dạy: "Niệm trước chẳng sanh là tức tâm. Niệm sau chẳng diệt <I>(tắt dứt)</I> là tức Phật<SUP><B>(4)</B></SUP>. Tạo nên cả thảy các tướng là tức tâm, lìa đứt cả thảy các tướng là tức Phật. Nếu ta nói cho đủ điều, thì cùng kiếp nói cũng chẳng hết. Hãy nghe ta kệ:
<p style="padding-left: 56px;">Tức Tâm ấy Huệ
Tức Phật là Định
Định Huệ gồm tu
Ý Tâm phải tịnh
Hiểu pháp môn này
Tự ngươi tập tánh
Dụng vốn không sanh<SUP><B>(5)</B></SUP>
Song tu mới chánh<SUP><B>(6)</B></SUP>".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Hải nghe kệ rồi, liền đại ngộ, làm kệ khen rằng:
<p style="padding-left: 56px;">Tức Tâm là Chánh Phật
Chẳng hiểu, tự khinh xuất
Định Huệ, biết nguyên nhơn
Song tu, lìa các vật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(4): <I>Niệm trước chẳng sanh nghĩa là không sanh các điều dục vọng tà mê, không khởi vô minh hoặc nghiệp, niệm niệm không lìa thể chơn như. Niệm sau chẳng diệt, nghĩa là niệm trước đã không lìa thể chơn như thì bổn tánh tự tại, định huệ viên dung, diệu dụng hoạt bát, chơn niệm còn hoài. Trong cả thảy thời gian chơn tánh ứng hiện viên dung , khắp thông phápgiới mà chẳng dời đổi, cho nên gọi là niệm sau chẳng diệt. Đây ý nói niệm trước, niệm sau, niệm niện tánh mình Bát nhã (Trí huệ), không lìa thể chơn như. Thế thì niệm trước niêm sau đều như như (chơn không) có gì gọi là sanh diệt. Tâm với Phật chẳng phải là hai. Tâm là chơn động, là diệu hữu, là chơn huệ ứng hiện muôn vàn trạng thái mà bao giờ cũng thanh tịnh, không lìa thể chơn tri chơn giác của tự tánh, cho nên nói: Tâm tức Phật. Phật ấy là tự tánh giác ngộ vốn thanh tịnh và gồm chứa cả thảy vạn pháp trong cảnh đại định, tức là tự tánh đại định. Do nơi tánh này mà phát ra chơn huệ tức là tri giác, biết hết mọi sự lý, cho nên nói Phật tức Tâm</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Dụng vốn không sanh: <I>Nghĩa là cái thể của định khởi ra dụng gọi là huệ. Huệ vắng lặng mà thường soi. Định soi mà thường vắng lặng, vắng lặng nên không sanh không diệt. Cái diệu dụng của chơn tánh do định huệ phát ra, thế mới nói là không sanh</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Song tu mới chánh: <I>Nghĩa là định huệ gồm tu, mới là chánh pháp. Tâm không loạn thì tánh mình định, tâm không si mê thì tánh mình huệ</I>.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>Thầy Tăng tên Pháp Đạt</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thầy tăng tên Pháp Đạt, người ở tỉnh Hồng Châu, xuất gia hồi bảy tuổi và thường tụng kinh Pháp Hoa. Một khi đến làm lễ Tổ Sư, Pháp Đạt cúi đầu không sát đất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tổ Sư quở rằng: "Lạy mà cúi đầu không sát đất, sao bằng chẳng lạy. Trong lòng ngươi chắc có một vật, ngươi chất chứa việc chi vậy?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Đạt nói: "Tôi đã niệm Kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ rồi".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tổ nói: "Nếu ngươi niệm đến một muôn bộ, hiểu đặng ý kinh mà chẳng lấy đó gọi là hơn người, thì mới cùng ta đi một con đường. Ngươi nay cậy lấy sự nghiệp ấy, mà chẳng biết lỗi mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hãy nghe ta kệ:
<p style="padding-left: 56px;">Lạy, vốn phá màn kiêu
Đầu sao không sát đất
Hữu Ngã, tội liền sanh
Quên công phước lớn thật<SUP><B>(1)</B></SUP>".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư lại hỏi: "Ngươi tên gì?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: "Pháp Đạt".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Ngươi tên là Pháp Đạt, nào có đạt pháp!" <I>(hiểu thấu)</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư lại nói kệ rằng:
<p style="padding-left: 56px;">Ngươi tên là Pháp Đạt
Siêng tụng hoài, không dứt
Tụng khống theo âm thinh
Minh tâm mới gọi Phật
Ngươi nay bởi có duyên
Ta mới nói chơn pháp
Tin chắc, Phật không lời<SUP><B>(2)</B></SUP>
Liên Hoa do miệng phát<SUP><B>(3)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Đạt nghe kệ rồi, liền ăn năn xin lỗi, thưa rằng: "Từ nay sắp sau, tôi giữ hạnh khiêm tốn và cung kính mọi người. Đệ tử tụng kinh Pháp Hoa mà chưa hiểu nghĩa, tâm thường có chỗ nghi. Hòa Thượng có trí huệ quảng đại, xin Ngài lược giải nghĩa lý trong kinh".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Pháp Đạt, Pháp rất thấu suốt, tại lòng ngươi không thấu suốt. Kinh vốn không có chỗ nghi, tại lòng ngươi tự nghi. Ngươi niệm kinh ấy, lấy gì làm tông<SUP><B>(4)</B></SUP>?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Đạt nói: "Kẻ học này căn tánh ám độn, bấy lâu chỉ y theo chữ mà tụng niệm, há biết cái thú<SUP><B>(5)</B></SUP> là gì!"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Ta không biết chữ, ngươi thử lấy kinh tụng một biến, ta giải nghĩa cho ngươi rõ".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Đạt liền cất tiếng tụng lớn, đến phẩm Tỉ Dụ, sư bảo thôi và nói rằng: "Bộ kinh này nguyên lấy cái <I>Nhơn Duyên Xuất Thế làm Tông</I>, dẫu có nói bao nhiêu Tỉ Dụ, cũng không vượt ngoài chỗ ấy. <I>Nhơn duyên nào?</I> Kinh nói chư Phật Thế Tôn chỉ do cái Nhân Duyên về một việc lớn mà xuất hiện nơi thế gian. Việc lớn ấy là cái Tri Kiến Phật<SUP><B>(6)</B></SUP> vậy. Người thế gian, ngoài mê thì dính tướng, trong mê thì dính không. Nếu đối với tướng mà lìa tướng, đối với không mà lìa không, thì trong ngoài chẳng mê".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại Sư nói: "Nếu hiểu rõ phép này, một niệm tâm mở sáng, ấy là mở cái Tri Kiến Phật. Phật đây, nghĩa là Giác Ngộ, chia ra làm bốn môn:
<p style="padding-left: 56px;">- Mở cái tánh thấy biết Giác Ngộ<SUP><B>(7)</B></SUP>.
- Chỉ cái tánh thấy biết Giác Ngộ<SUP><B>(8)</B></SUP>.
- Tỏ cái tánh thấy biết Giác Ngộ<SUP><B>(9)</B></SUP>.
- Vào cái tánh thấy biết Giác Ngộ<SUP><B>(10)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu nghe người giảng thuyết, Mở Chỉ tánh lý cho, mới có thể Tỏ mà Vào<SUP><B>(11)</B></SUP>. Cái tánh Thấy Biết Giác Ngộ vốn phải do nơi Chơn Tánh, mới phái hiện ra được. Ngươi khá cẩn thận, chớ lầm hiểu ý kinh, thấy người ta nói Mở, Chỉ, Tỏ, Vào <I>Vào tri kiến Phật</I>, mà cho đó là cái Biết Thấy <I>(tri kiến)</I> của Phật, chớ chúng ta không có duyên phần đạt sự Biết Thấy ấy. Nếu hiểu như thế, tức là chê kinh nhạo Phật. Ngài kia đã là Phật, có đủ sự biết thấy, cần gì phải mở! Ngươi nay phải tin rằng cái Biết Thấy Giác Ngộ<SUP><B>(12)</B></SUP> chỉ do nơi tự tâm của ngươi, chớ chẳng phải do Phật nào khác. Cả thảy chúng sanh vì tự che lấp tánh quang minh của mình, ham mến trần cảnh, ngoài bị dính vương, trong bị rối rắm, nên đành phải chịu sự phiền não cuốn lôi. Bởi vậy mới nhọc lòng Đức Thế Tôn, Ngài phải xuất Chánh Định, dùng biết bao nhiêu lời lẽ mà khuyên chúng sanh dứt bỏ lòng ham mến, phải do tâm mình mà mở cái <B>Biết Thấy Giác Ngộ</B>, đừng do bề ngoài mà tìm, thì cũng đồng chứng quả như Phật. Thế cho nên gọi là <B>Mở cái biết thấy giác ngộ</B><SUP><B>(13)</B></SUP>. Ta cũng khuyên cả thảy các chúng nhơn do trong tâm mình mà thường <B>Mở cái tánh biết thấy giác ngộ</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người thế gian vì lòng tà vạy, ngu mê, tạo ra các tội lỗi, miệng lành, lòng dữ, ham giận, ghét ghen, siễm nịnh, kiêu căng, lấn người, hại vật. Ấy là tự mình <B>Mở cái tánh biết thấy chúng sanh</B><SUP><B>(14)</B></SUP>. Nếu giữ được lòng chơn chánh, thường sanh trí huệ, xem xét tâm mình, làm lành lánh dữ, thì mình tự <B>Mở cái tánh biết thấy giác ngộ</B> vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy thì niệm niệm ngươi phải Mở cái tánh biết thấy Phật, đừng Mở cái tánh thấy biết chúng sanh. Mở cái tánh biết thấy Phật tức là ra khỏi thế gian; Mở cái tánh biết thấy chúng sanh tức là thế gian vậy. Còn nếu ông cứ nhọc công cố chấp tụng niệm, mà lấy làm công khóa, thì khác nào con mao ngưu<SUP><B>(15)</B></SUP> yêu lông đuôi dài của nó!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phát Đạt nói: "Nếu vậy, hiểu đặng nghĩa, thì chẳng cần tụng kinh?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Kinh có lỗi gì, há lại ngăn cấm ngươi tụng? Vã lại, mê ngộ là tại nơi người, lợi hại cũng tại nơi người. Miệng tụng mà tâm làm theo nghĩa kinh, tức là mình chuyển kinh. Miệng tụng mà tâm chẳng làm theo nghĩa kinh, tức là mình bị kinh chuyển.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hãy nghe ta kệ:
<p style="padding-left: 56px;">Tâm mê, Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ, chuyển Pháp Hoa
Tụng kinh không rõ ý
Kinh nghĩa ấy thù ta
Không niệm, niệm mới chánh
Có niệm, niệm thành tà
Có, không đều chẳng kể
Chứng Phật đạo xâu xa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Đạt nghe kệ, buồn bực khóc mùi. Khi Sư nói dứt lời liền được đại ngộ, và bạch rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Pháp Đạt từ xưa đến nay, thật chưa từng chuyển Pháp Hoa, mà bị Pháp Hoa chuyển".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại bạch rằng: "Kinh nói các Đại Thanh Văn cho đến Bồ Tát đều suy nghĩ và độ lượng tột cùng, mà chẳng lường đặng cái trí Phật. Nay bảo kẻ phàm phu tỏ sáng tâm mình, mới gọi là tri kiến Phật. Nhưng tự họ chẳng phải là bậc thượng căn, ắt không khỏi sanh ra ngờ vực và nhạo cười.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Đạt nói tiếp: "Kinh lại nói ba xe: Xe dê, xê nai, xe trâu, và xe trâu trắng<SUP><B>(16)</B></SUP>. Ba xe này khác nhau thế nào, xin Hòa Thượng chỉ dạy cho".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư rằng: "Ý kinh thật rõ ràng, tự người làm cho mờ ám và trái ngược. Các người trong ba thừa chẳng lường được trí Phật, cái hại ấy là do chỗ độ lượng. Hễ họ càng cùng suy cạn nghĩ, thì càng làm chuyển biến và xa trí Phật. Đức Phật vốn vì kẻ phàm phu mà nói kinh, chớ chẳng phải vì Phật mà nói. Cái lý ấy, nếu chẳng chịu tin thì tự ý họ thối tịch<SUP><B>(17)</B></SUP>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sao chẳng biết mình đã ngồi trên xe trâu trắng<SUP><B>(18)</B></SUP> mà lại đi tìm ba xe ở ngoài cửa?<SUP><B>(19)</B></SUP> Huống chi kinh văn đã nói rõ cho người biết duy có một Phật Thừa, chớ không có thừa nào khác. Bằng kinh nói hai nói ba, cho đến vô số phương tiện, muôn vàn nhơn duyên, tỉ dụ, ngôn từ, thì các pháp ấy cũng đều chỉ một Phật Thừa mà thôi. Sao ông chẳng xét rằng thừa là giả, là nói vì lúc xưa <I>(ví thật mà dụng quyền)</I>, còn một thừa là thật, là nói vì ngày nay <I>(mở quyền mà chỉ thật)</I>. Ấy gọi là chỉ dạy người bỏ giả về thật mà thôi. Sau khi về thật rồi, thì cái thật cũng không còn có cái tên nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phải biết rằng của quý báu sở hữu <I>(tri kiến Phật)</I> đều thuộc về của người thọ dụng; lại cũng chẳng nên tưởng đó là của cha <I>(như của Phật)</I>, cũng chẳng nên tưởng đó là của con <I>(như của chúng sanh)</I>, cũng chẳng nên tưởng đến chỗ thọ dụng<SUP><B>(20)</B></SUP> của ấy. Thế mới gọi là Trì Kinh Pháp Hoa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ kiếp này qua kiếp nọ, tay chẳng mở cuốn kinh, nhưng từ ngày tới đêm, không có lúc nào mà chẳng niệm vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Đạt nhờ Sư mở trí, khôn xiết vui mừng, bèn làm kệ khen rằng:
<p style="padding-left: 56px;">Công tụng ba ngàn bộ
Thầy giảng chút, quên công
Ý lìa đời chẳng rõ.
Nào biết chỗ lòng vòng!
Tạm lập tam thừa giáo
Tùy duyên, diễn khai tâm
Ai tưởng trong nhà lửa
Pháp Vương, hiện thậm thâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Từ đây sắp về sau, ông mới có thể gọi là thầy tăng niệm kinh vậy".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Đạt từ khi lãnh hội được cái ý chỉ diệu huyền của Đại Sư, thì cũng giữ việc tụng kinh hoài chẳng bỏ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Quên công phước lớn thật: <I>Tụng kinh nhiều như Pháp Đạt mà kể công thì phước đức còn thuộc về hữu vi, hữu lậu. Nếu tụng mà thấy tánh và chẳng chấp công thì phước dức thuộc về vô vi. Thế mới thiệt là phước đức lớn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Tin chắc, Phật không lời: <I>Nghĩa là người hành đạo khi đã đạt tánh Phật rồi thì không còn cần dùng ngôn ngữ giáo thuyết nữa, vì đó không phải là đạo. Đạo là vô vi do nơi tâm mà ngộ, chứ không phải do nơi ngôn ngữ âm thanh. Nếu tụng kinh mà có chấp âm thanh, không thấy tự tánh , thì trái với đạo. Bởi tánh chúng sanh tự ngộ, tự giác, nên Phật nói rằng không có nói pháp.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Liên Hoa do miệng phát: <I>Nếu Pháp Đạt quả tin rằng Phật chưa từng nói pháp, mà lìa cái tướng ngôn thuyết, quên công tụng kinh, mới gọi là biết tụng Diệu Pháp Liên Hoa. Do chơn như là diệu pháp, là liên hoa. Trái lại tụng kinh mà không hiểu nghĩa lý và không thấy tánh, là tụng khống theo âm thanh, hao hơi tổn sức mà không bổ ích gì! Đó là Liên hoa do miệng, đâu phải thật Liên hoa.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Làm tông: căn bổn <I>Căn bổn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Cái thú: <I>Chỗ căn bổn của tông.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Tri Kiến Phật: <I> Là sự thấy biết sáng suốt, hiểu thấu nguyên nhân sanh tử luân hồi, thấy rõ chơn như bổn tánh. Ấy là trí huệ hiểu biết tất cả sự lý. Kinh gọi là Nhất thiết chủng trí, tức là tánh linh tịch chiếu. Chư Phật và Bồ tát thương xót chúng sanh nên xuất hiện ở thế gian, ấy là vì mục đích khai sáng cho chúng sanh để đạt cái tri kiến nấy.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Mở cái tánh thấy biết Giác Ngộ: <I>Khai giác tri kiến.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) Chỉ cái tánh thấy biết Giác Ngộ: <I>Thị giác tri kiến.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) Tỏ cái tánh thấy biết Giác Ngộ: <I>Ngộ giác tri kiến.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) Vào cái tánh thấy biết Giác Ngộ: <I>Nhập giác tri kiến.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) Tỏ mà Vào: <I>Nơi tánh chơn như của mình.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) Biết Thấy Giác Ngộ: <I>Phật tri kiến.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(13) Mở cái biết thấy giác ngộ: <I>Khai Phật tri kiến.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(14) Mở cái tánh biết thấy chúng sanh: <I>Sự thấy biết phàm tục mê muội.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(15) Mao ngưu: <I>Loài trâu đen có lông dài.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(16) Xe trâu trắng: <I>Xe dê ví dụ Thanh văn, xe nai Duyên giác, xe trâu Bồ tát, xe trâu trắng Phật thừa.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(17) Thối tịch: <I>Không tin lời Phật giảng, bỏ chỗ ngồi mà đi.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(18) Mình đã ngồi trên xe trâu trắng: <I>Đã có sẵn Phật tánh trong tâm.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(19) Tìm ba xe ở ngoài cửa: <I>Tìm cái tri kiến thấp thỏi của hành Thanh văn, Duyên giác...</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(20) Chẳng nên tưởng đến chỗ thọ dụng: <I>Ý nói mình dùng Tri kiến Phật mà không tưởng đến chỗ mình dùng.</I>
<CENTER><B>Thầy Tăng tên Trí Thông</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thầy tăng tên Trí Thông, người ở huyện An Phong, xứ Thọ Châu, buổi đầu xem kinh Lăng Già ước đặng một ngàn biến, mà không hiểu nghĩa ba thân <I>(tam thân)</I>, bốn trí <I>(tứ trí)</I>. Người đến lạy Đại Sư mà cầu giải nghĩa kinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba thân là:
<p style="padding-left: 56px;">1. Thanh Tịnh Pháp Thân là cái Tánh của ngươi.
2. Viên Mãn Báo Thân là cái Trí của ngươi.
3. Thiên Bá Ức Hóa Thân là cái Hạnh của ngươi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu lìa cái Bổn Tánh mà nói riêng ba thân, tức gọi là có thân không trí. Bằng hiểu ba thân không có tự tánh riêng<SUP><B>(1)</B></SUP>, tức gọi là Bốn Trí Bồ Đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hãy nghe ta kệ:
<p style="padding-left: 56px;">Tự tánh đủ ba thân
Phát minh thành bốn trí
Chớ lìa chỗ thấy nghe
Siêu nhiên đăng Phật vị
Ta nói rõ ngươi nghe
Xét tin, mau khỏi lụy
Chớ theo kẻ cầu ngoài
Bồ Đề trong tâm ý.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trí Thông lại bạch rằng: "Cái nghĩa Bốn Trí có thể được nghe chăng?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Đã hiểu ba thân thì rõ bốn trí, sao lại hỏi nữa? Nếu lìa ba thân mà nói riêng bốn trí, ấy gọi là có trí không thân, tức là có trí trở lại thành không trí".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư lại nói kệ rằng: (bản dịch của Hòa Thượng Thích Từ Quang).
<p style="padding-left: 56px;">Đại Viên Cảnh Trí, Tánh thanh tịnh.
Bình Đẳng Tánh Trí, Tâm vô bịnh
Diệu Quan Sát Trí, kiến phi công
Thành Sở Tác Trí, đồng viên cảnh
Ngũ, bát, lục, thất, quả nhơn chuyển
Đáng dụng danh ngôn, không thiệt tánh
Nhược ư chuyển xứ, bất lưu tình
Phiền hưng vĩnh xứ, vẫn trụ Na Dà<SUP><B>(2)</B></SUP> định.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trên đây là nói chuyển tám thức làm bốn trí. Kinh giáo có nói:
<p style="padding-left: 56px;">Chuyển năm thức trước, làm Trí Thành Sở Tác.
Chuyển thức thứ sáu làm Trí Diệu Quán Sát.
Chuyển thức thứ bảy làm Trí Bình Đẳng Tánh.
Chuyển thức thứ tám làm Trí Đại Viên Cảnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thức thứ sáu và thức thứ bảy chuyển ở nhân; Năm thức và thức thứ tám chuyển ở quả, nhưng chỉ chuyển danh chứ không chuyển thể.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trí Thông nghe rồi, tánh trí liền tỏ sáng, mới trình kệ rằng:
<p style="padding-left: 56px;">Ba thân vốn thiệt tại thân ta
Bốn trí là tâm sáng hiện ra
Thân, trí, thung dung, không trở ngại
Vật hình, ứng hiện mặc dầu ta
Khởi tâm tu trị, thành mê động
Giữ ý trụ an, dấy ngụy tà
Nhờ Tổ giải minh thông ý diệu
Trược Nhơ nào có, tiếng bày ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Ba thân không có tự tánh riêng: <I>Ba thân đồng một tánh mà sảnha, chứ chẳng phải riêng mỗi thân có tự tánh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Na Dà: <I>Bổn tánh thanh tịnh.</I></P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên