Kinh pháp bảo đàn

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
<TABLE border=0 cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%"><TBODY><TR><TD style="BORDER-BOTTOM: #0066cc 2px solid; PADDING-BOTTOM: 2px; WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top; CURSOR: pointer"><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 178px; DISPLAY: none; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" id=table01_on cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top"><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 100%; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="HEIGHT: 20px"></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1>Trang Chủ</TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="HEIGHT: 50px">
spacer.gif
</TD></TR></TBODY></TABLE></TD></TR></TBODY></TABLE></TD><TD style="WIDTH: 2px"></TD><TD style="BORDER-BOTTOM: #0066cc 2px solid; PADDING-BOTTOM: 2px; WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top; CURSOR: pointer"><TABLE style="WIDTH: 100%" id=table1_off cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top">
banner2.jpg
</TD></TR></TBODY></TABLE><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 178px; DISPLAY: none; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" id=table1_on cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top"><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 100%; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="HEIGHT: 20px"></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1>Tin Tức</TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="HEIGHT: 50px">
spacer.gif
</TD></TR></TBODY></TABLE></TD></TR></TBODY></TABLE></TD><TD style="WIDTH: 2px"></TD><TD style="BORDER-BOTTOM: #99ff00 2px solid; PADDING-BOTTOM: 2px; WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top; CURSOR: pointer"><TABLE style="WIDTH: 100%" id=table2_off cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top">
banner3.jpg
</TD></TR></TBODY></TABLE><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 178px; DISPLAY: none; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" id=table2_on cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top"><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 100%; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1>Thư Viện Sách Online</TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1></TD></TR><TR><TD style="HEIGHT: 50px">
spacer.gif
</TD></TR></TBODY></TABLE></TD></TR></TBODY></TABLE></TD><TD style="WIDTH: 1px"></TD><TD style="BORDER-BOTTOM: #0066cc 2px solid; PADDING-BOTTOM: 2px; WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top; CURSOR: pointer"><TABLE style="WIDTH: 178px" id=table3_off cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top">
banner4.jpg
</TD></TR></TBODY></TABLE><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 178px; DISPLAY: none; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" id=table3_on cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top"><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 100%; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="HEIGHT: 20px"></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1>Nhạc</TD></TR><TR><TD style="HEIGHT: 50px">
spacer.gif
</TD></TR></TBODY></TABLE></TD></TR></TBODY></TABLE></TD><TD style="WIDTH: 1px"></TD><TD style="BORDER-BOTTOM: #0066cc 2px solid; PADDING-BOTTOM: 2px; WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top; CURSOR: pointer"><TABLE style="WIDTH: 178px" id=table5_off cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top">
banner5.jpg
</TD></TR></TBODY></TABLE><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 178px; DISPLAY: none; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" id=table5_on cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="WIDTH: 178px; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top"><TABLE style="BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px; WIDTH: 100%; BORDER-TOP-WIDTH: 0px; BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; BORDER-LEFT-WIDTH: 0px" cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD style="HEIGHT: 20px"></TD></TR><TR><TD style="PADDING-BOTTOM: 2px; PADDING-LEFT: 15px; PADDING-RIGHT: 0px; PADDING-TOP: 3px" class=xanh1>Liên Hệ</TD></TR><TR><TD style="HEIGHT: 50px">
spacer.gif
</TD></TR></TBODY></TABLE></TD></TR></TBODY></TABLE></TD></TR></TBODY></TABLE>
<TABLE style="BORDER-LEFT: rgb(202,202,202) 1px solid; HEIGHT: 250px; VERTICAL-ALIGN: top; BORDER-RIGHT: rgb(202,202,202) 1px solid" border=0 cellSpacing=0 cellPadding=0 width=903 height=100><!--DWLayoutTable--><TBODY><TR><TD height=250 vAlign=top width=15><!--DWLayoutEmptyCell--></TD><TD vAlign=top width=869><TABLE border=0 cellSpacing=0 cellPadding=0 width=869><!--DWLayoutTable--><TBODY><TR><TD style="PADDING-TOP: 15px" height=267 vAlign=top width=566><TABLE border=0 cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%"><TBODY></TBODY></TABLE>
<TABLE style="BORDER-BOTTOM-COLOR: #cccccc; BORDER-TOP-COLOR: #cccccc; BORDER-COLLAPSE: collapse; BORDER-RIGHT-COLOR: #cccccc; BORDER-LEFT-COLOR: #cccccc" border=1 cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%"><TBODY><TR><TD class=blue1 height=25 vAlign=center>
Kinh Pháp Bảo Đàn

</TD></TR><TR class=detail><TD style="PADDING-BOTTOM: 10px; PADDING-LEFT: 10px; PADDING-RIGHT: 10px; PADDING-TOP: 10px" class=den0 vAlign=center width=380>Bìa

</TD></TR><TR class=detail><TD style="PADDING-BOTTOM: 10px; PADDING-LEFT: 10px; PADDING-RIGHT: 10px; PADDING-TOP: 10px" class=den0 vAlign=center width=380>Đàn Kinh

</TD></TR></TBODY></TABLE>​
http://anphat.org/?path=omi/html&open=book&catalog=80&lang=vn

</TD></TR></TBODY></TABLE>
</TD></TR></TBODY></TABLE>​
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
KinhPhapBaoDan-1.jpg

KINH PHÁP-BẢO-ĐÀN Diễn-nghĩa và Lược-chú
ĐÔNG-ĐỘ THIỀN-TÔNG<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
Lục-Tổ Huệ-Năng Đại-sư nói
Môn-nhơn Pháp-Hải chép lại
<O:p></O:p>
PBD-1scan%20sau.jpg
HỘI LINH SƠN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC

<O:p>Văn Khố Từ Bi-Âm </O:p><O:p></O:p>
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Tiểu-tựa<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>

Kinh Pháp-Bảo-Đàn nầy là một quyển kinh Đốn-giáo, nghĩa lý cao siêu, phần đông người thì tưởng kinh ấy để cho bực thượng-căn thượng-trí tu học mà thôi ; chớ hạng hạ-căn hạ-trí không phải gắm-ghé tới địa-vị đó được.<O:p></O:p>
Nhưng xét cho kỹ, thì hai hạng người ấy cũng đồng một tâm tánh, mà bởi vì phiền-não trần lao bị rễ bám có cạn sâu, nên mới thành ra có thượng có hạ.<O:p></O:p>
Nếu người hạ-căn hạ-trí thấy nghe được lời của Tổ nói trong kinh nầy mà tâm thoạt nhiên tỏ ngộ, thì đối với người thượng-căn thượng-trí kia không khác gì.<O:p></O:p>
Kinh Pháp-Bảo-Đàn nầy đã có các ngài giúp việc trong Tòa-soạn Từ Bi-Âm do theo bổn chữ Hán trong bộ Tục-tạng, kinh trữ nơi chùa Linh-Sơn, là Hội-quán của Hội Nam-kỳ Nghiên-cứu Phật-học, ở số 149 đường Cô-Giang Saigon, mà diễn dịch ra quốc văn, đăng trong 16 số Phật-học tạp chí ấy hồi năm 1943 và có phụ thêm lời “lược-chú” cho dễ hiểu hơn nữa.<O:p></O:p>
Nay bổn hội hiệp 16 số ấy lại mà in thành một quyển kinh nầy, đặng cho dễ xem và dễ hiểu.<O:p></O:p>

Hội Nam-Kỳ Nghiên-Cứu Phật-Học<O:p></O:p>


<?XML:NAMESPACE PREFIX = V /><V:LINE style="Z-INDEX: 1; POSITION: absolute" id=_x0000_s1028 from="268.1pt,161.7pt" to="466.1pt,161.7pt" coordsize="21600,21600"></V:LINE><V:LINE style="Z-INDEX: 1; POSITION: absolute" id=_x0000_s1028 from="268.1pt,161.7pt" to="466.1pt,161.7pt" coordsize="21600,21600"></V:LINE><V:LINE style="Z-INDEX: 1; POSITION: absolute" id=_x0000_s1031 from="268.1pt,161.7pt" to="466.1pt,161.7pt" coordsize="21600,21600"></V:LINE>


<HR style="WIDTH: 223px" SIZE=2>

THANH-TUONG%20DUC_LUC-TO-HUE-NANG.jpg

TỔ BA MƯƠI BA THIỀN TÔNG
Đức Lục-Tổ Thiền-Tông Trung-Hoa
Ảnh do Người post bài tìm bởi Google Search
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
<TABLE width="100%"><TBODY><TR><TD style="PADDING-RIGHT: 10px" height=20 align=right>[Trở về]</TD></TR></TBODY></TABLE>
IconL.gif
Lượt thuật Sự-tích Lục-Tổ Đại-Sư


1.– Lục-Tổ Đại-sư tên Huệ-Năng, cha Ngài họ Lư tên húy là Hành-Thao, mẹ Lý-Thị. – Đương lúc đời Đường, niên-hiệu Võ-Đức, năm thứ ba, tháng chín, thân-phụ ngài bị giáng chức quan ra ở Tân-Châu ; mẹ ngài Lý-Thị trước khi có nghén, nằm chiêm-bao thấy trước sân hoa trắng đua nhau nở, hạc trắng bay cả đôi và trong nhà mùi hoa thơm lạ, khi thức dậy bà bèn thọ thai.<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
2.– Từ ấy bà tinh khiết kính thành ăn chay giữ giới, có mang đến sáu năm mới sanh ra Ngài. Chính là lúc giờ Tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu-Tuất thuộc về niên hiệu Trinh-Quán, thứ mười hai đời nhà Đường.<O:p></O:p>
3.– Khi sanh Ngài ra, ánh sáng hừng trời, mùi thơm ngạt mũi, vừa rựng đông có hai vị sư-tăng(1) đến ra mắt và nói với thân-phụ ngài rằng : “Con ông mới sanh bữa hôm, nên đặt tên : trên là chữ Huệ, dưới là chữ Năng.”<O:p></O:p>
4.– Thân-phụ ngài hỏi : Vì sao để tên là Huệ-Năng ?<O:p></O:p>
5.– Tăng nói : “Huệ” là lấy ơn Pháp giúp cho chúng-sanh, “Năng” là làm nên việc Phật. – Nói rồi kiếu lui, chẳng biết đi nơi nào.<O:p></O:p>
6.– Ngài không bú sữa mẹ(2) mỗi đêm có Thần nhơn cho uống nước cam-lộ(3) mà thôi.<O:p></O:p>
7.– Khi ngài được ba tuổi thì thân-phụ từ trần, táng ở bên cạnh vườn.<O:p></O:p>
8.– Mẫu-thân thủ tiết nuôi ngài, sau khi lớn lên, ngài hằng bán củi đổi gạo mà nuôi mẹ. – Đến năm hai mươi bốn tuổi thì ngài nghe kinh có chỗ xét tỏ, bèn tìm đến chùa Huỳnh-Mai đảnh lễ Đức Ngũ-Tổ. – Ngũ-Tổ biết rằng người có đạo khí, bèn truyền y-pháp, khiến nối ngôi Tổ sư ; lúc ấy chính là năm Tân-Dậu, thuộc về năm đầu, niên hiệu Long-Sóc.<O:p></O:p>
9.– Từ đó ngài quay về phương <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on">Nam</ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION> lánh ẩn. – Đến năm Bính-Tý là lúc niên hiệu Nghi-Phụng năm đầu tháng giêng ngày mùng tám, gặp thầy Ấn-Tông pháp-sư, gạn nói chỗ mầu-nhiệm, thầy Ấn-Tông tỏ hợp được ý-chỉ ngài. – Qua ngay rằm tháng đó, Ấn-Tông nhóm cả hàng tứ-chúng mà xuống tóc cho ngài.<O:p></O:p>
10.– Kế ngày mùng tám tháng hai. Ấn-Tông pháp-sư lại vân tập các vị danh đức truyền Thọ-giới cụ-túc thì thầy Trí-Quang luật-sư ở Tây-Kinh làm Thọ-giới sư ; thầy Huệ-Tịnh luật-sư ở Tổ-Châu làm Yết ma ; thầy Thông-Ứng luật-sư ở Kinh-Châu làm Giáo-thọ ; thầy Kỳ-Đa-La luật-sư ở Trung-Thiên-Trúc làm Thuyết-giới ; thầy Mật-Đa Tam-tạng làm Chứng-giới.<O:p></O:p>
11.– Giới đàn nầy gốc nơi ngài Cầu-Na-Bạt-Đà-La Tam-tạng ở đời nhà Tống sáng lập, ngài có dựng bia khắc chữ rằng : “Sau sẽ có vị nhục-thân Bồ-tát thọ-giới tại đây.”<O:p></O:p>
12.– Lại thuộc về đời Lương, trong lúc niên hiệu Thiên-Giám năm đầu, có ngài Trí-Dược Tam-tạng ở nước Tây-Trúc do đường biển đi đến có đem một cây bên nước ấy sang trồng bên cạnh giới-đàn nầy, cũng có ghi lời tiên tri rằng : “Sau một trăm bảy mươi năm sẽ có vị Bồ-tát xác phàm ngồi dưới gốc cây ấy mà diễn thuyết pháp thượng-thừa, độ chúng-sanh nhiều lắm : thiệt là một ngôi pháp chủ truyền Tâm-ấn(4) của Phật.”<O:p></O:p>
13.– Đến đây Lục-tổ Đại-sư xuống tóc thọ giới rồi, bèn mở bày cái tông-chỉ đơn truyền cho tứ-chúng nghe, đều y như lời hai bài sấm trước. (Tra : từ đời Lương, Đường, niên hiệu Nghi-Phụng Bính-Tý năm đầu kể đặng một trăm bảy mươi lăm năm.)<O:p></O:p>
14.– Mùa xuân năm sau, Tổ từ giã tứ-chúng mà về chùa Bửu-Lâm, thì thầy Ấn-Tông cùng kẻ tri người bạch, trót hơn ngàn người, đưa Tổ đi thẳng đến Tào-Khê.<O:p></O:p>
15.– Thuở ấy, thầy Thông-Ứng luật-sư ở Kinh-Châu cùng học-giả cả vài trăm người đều nương ở với Tổ. Khi Tổ đến Tào-Khê vào chùa Bửu-Lâm, xem lại bề thế chật hẹp, chẳng đủ dung nạp tăng chúng, nên muốn mở rộng thêm ra, bèn đến yết-kiến người chủ đất trong làng là Trần-Á-Tiên mà rằng : “Hôm nay Lão tăng đến nhà thí chủ muốn cầu một chỗ đất vừa cái tọa-cụ đặng chăng ?”<O:p></O:p>
16.– Á-Tiên nói : “Tọa-cụ của Hòa-thượng rộng ước bao nhiêu ?”<O:p></O:p>
17.– Tổ đưa cái tọa-cụ ra coi, thì Á-Tiên vâng chịu.<O:p></O:p>
18.– Đoạn rồi Tổ lấy cái tọa-cụ bung ra, thì trùm cả bốn phía đất Tào-Khê, lại có bốn vị Thiên-Vương hiện thân ngồi trấn bốn hướng. – Đến nay tại cảnh chùa ấy có núi Thiên-Vương, là nhơn đó mà đặt tên vậy.<O:p></O:p>
19.– Á Tiên thấy vậy nói rằng : “Tôi cũng biết Hòa-thượng pháp lực rộng lớn, nhưng vì phần mộ của ông bà tôi đều nằm trong đất nầy ; vậy ngày sau có tạo tháp, xin chừa lại ngôi mộ ấy, còn bao nhiêu thì tôi tình nguyện cúng hết, để vĩnh-viễn làm nơi Bửu-phường.”<O:p></O:p>
20.– Nhưng chỗ đất nầy vẫn là chỗ sanh long bạch tượng đến kết mạch, chỉ nên bình-thiên không nên bình-địa. – Đến sau chùa kiến-trúc đều y theo lời nói cả.<O:p></O:p>
21.– Mỗi khi Tổ dạo chơi trong cảnh ấy, gặp chỗ nào non nước tốt đẹp, thì ngài dừng chơn ở nghỉ rồi sau mấy chỗ đó đều thành nơi Lan-nhã, tính có mười ba sở, nay gọi là “Hoa-quả-viện”, đều nhập tịch về của chùa.<O:p></O:p>
22.– Còn chùa Bửu-Lâm cũng gốc hồi trước ngài Trí-Dược Tam-tạng ở Tây-vức, từ Nam-Hải sang qua cửa Tào-Khê, múc nước mà uống, thấy thơm ngon lạ thường, mới nói với kẻ đồ đệ rằng : “Khí vị nước nầy không khác gì với nước bên Tây-Thiên, thì trên dòng khe nầy chắc có chỗ tốt, đáng làm một cảnh Lan-nhã.” – Nói rồi ngài liền đi theo dòng nước, tìm tận đến nguồn, xem thấy bốn phía, non nước bao la, núi cao xinh đẹp, bèn khen rằng : “Cảnh nầy mường tượng như núi Bửu-Lâm bên Tây-Thiên.”<O:p></O:p>
23.– Ngài lại nói với dân cư trong làng Tào-Hầu rằng : “Núi nầy nên dựng một cảnh chùa, cách sau một trăm bảy mươi năm sẽ có vô thượng pháp-bửu diễn hóa ở nơi đó kẻ đắc đạo nhiều như rừng rậm, nên để hiệu chùa Bửu-Lâm.”<O:p></O:p>
24.– Thuở ấy có quan Mục nơi Thiều-Châu là Hầu-Kính-Trung, theo mấy lời tiên tri đó, dâng biểu tâu vua. – Vua y lời tấu thỉnh, sắc tứ biển-ngạch là “Bửu-Lâm”, rồi thành một chỗ điện Phật đầu hết ; lúc ấy thuộc về niên hiệu Thiên-Giám, năm thứ ba, đời nhà Lương.<O:p></O:p>
25.– Trước đền chùa có một sở đầm, rồng khi lặn mọc trong đó, rúng động cả rừng cây. – Một bữa nọ rồng hiện hình lên rất lớn, sóng nổi sôi trào, mây mù tối mịt, các đồ chúng thảy đều sợ hãi. – Tổ nạt rồng và rằng : “Nhà ngươi chỉ hiện được hình lớn, chớ không hiện được nhỏ. – Nếu quả là thần-long, thì nhỏ hiện ra lớn, lớn hiện lại nhỏ, đều có thể biến hóa được cả.” – Tổ nói dứt lời, thì rồng thoạt nhiên lặn mất trong giây phút, rồi hiện lại hình nhỏ nổi lên mặt đầm.<O:p></O:p>
26.– Tổ dở cái bát thử rồng và nói : “Nhà ngươi chắc không dám chun vào cái bát của Lão-tăng nầy.” – Nói vừa rồi, thì rồng hớn hở bơi đến trước mặt Tổ. – Tổ lấy cái bát hứng rồng ; rồng không thể vùng vẫy được nữa. – Tổ bưng bát về chùa thuyết-pháp cho rồng nghe rồng liền cởi xác mà thăng mất. – Bộ xương dài cỡ bảy tấc, đầu đuôi sừng cẳng đủ cả, còn lưu truyền lại trong chùa. – Sau Tổ lấy đất và đá lấp cái đầm ấy, hiện nay ở trước mặt điện về phía bên tả có cái tháp bằng sắt để tọa trấn tại đó, tức là chỗ đầm rồng ngày trước. (Bộ xương rồng ấy, qua niên hiệu Chi-Chánh, năm Kỷ-Mão, chùa mắc phải nạn binh hỏa, không biết thất lạc về đâu.)<O:p></O:p>
27.– Tổ có một viên đá trụy yêu, chạm tám chữ : “Long-Sóc nguyên niên Lư cư-sĩ chí.” – Đá ấy trước để tại viện Đông-Thiền, huyện Huỳnh-Mai. Đến đời Minh niên hiệu Gia-Tịnh, có người sĩ hoạn ở Việt-Trung tới Huỳnh-Mai thỉnh đem về Tào-Khê nay hãy còn.<O:p></O:p>
28.– Lại quan Hữu-thừa là Vương-Duy ở đời Đường có đại bút cho thầy Thần-Hội mà làm bài ký Tổ-sư rằng : “Đại-sư chung lộn với bọn lao động đến mười sáu năm, sau gặp thầy Ấn-Tông giảng kinh, nhơn đó mới xuống tóc.”<O:p></O:p>
29.– Lại quan Thái-sử Liễu-Tông-Nguyên làm bài bia thụy hiệu Tổ-sư có nói rằng : ”Tổ vưng chịu tín y rồi lánh mình ở ẩn trên mé Nam-Hải trọn mười sáu năm, tính lúc nên ra hành đạo, mới về ở Tào-Khê làm thầy người mà truyền pháp-Phật.”<O:p></O:p>
30.– Lại quan Thừa-tướng là Trương-Thương-Anh làm bài ký-Ngũ-Tổ có nói rằng : “Ngũ-Tổ diễn dạy nơi viện Đông-Thiền, thuộc về huyện Huỳnh-Mai ; vì muốn tiện bề phụng dưỡng mẹ già, nên trong niên hiệu Long-Sóc năm Dần, truyền y-pháp lại cho Lục-Tổ, rồi giải tán đồ chúng mà vào cất am ở núi Đông-Sơn có kẻ cư dân là Phùng-Mậu tình nguyện hiến núi cho Ngũ-Tổ làm nơi đạo tràng.”<O:p></O:p>
31.– Do đó mà xét, thì trong lúc Lục-Tổ đến Huỳnh-Mai, thừa thọ y-pháp của Ngũ-Tổ, chính là lúc niên hiệu Long-Sóc Tân-Dậu năm đầu, qua đến niên hiệu Nghi-Phụng năm Bính-Tý, thì tính đúng mười sáu năm, Tổ mới đến chùa Pháp-Tánh xuống tóc ; chí như bổn khác nói là Tổ đến chùa Huỳnh-Mai trong năm niên hiệu Hàm-Hanh, e không nhằm.<O:p></O:p>



<HR align=left SIZE=1 width="33%">(1)Hai vị sư-tăng : Có lẽ là ngài Cầu-Na-Bạt-Đà-La và ngài Trí-Dược Tam-tạng hiện thân báo điềm, vì hai ngài nầy đã có lời huyền ký trước.<O:p></O:p>

(2) Không bú sữa mẹ : Vì sữa mẹ là chất tinh-huyết chẳng sạch cho nên không bú. Đó là biểu lộ cái tánh cách siêu phàm từ lúc bé, thì đủ rõ rằng : những bực chuyển thân hóa đạo khác hẳn với đám tùy nghiệp thọ báo kia.<O:p></O:p>

(3) Nước cam-lộ : Là món ăn của Thiên nhơn, vị ngọt như mật.<O:p></O:p>

(4) Tâm ấn : “Tâm” là tâm Phật, “ấn” là cái ấn ; nhưng lấy ấn mà ịn vào khoảng trống thì ấn chẳng thành chữ, còn ịn vào vật gì thì ấn chẳng thành pháp, cho nên lấy tâm ịn tâm thì tâm tâm ịn nhau. Bởi vì bổn-ý của Thiền-tông chẳng lập ra văn tự và cũng chẳng nương theo lời nói, chỉ chẳng lấy tâm làm ấn, cho nên gọi là “tâm-ấn”.<O:p></O:p>
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
ĐÀN KINH<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>

Đông-Độ Thiền-Tông


Lục-Tổ Huệ-Năng Đại-Sư Nói

Môn-Nhơn Pháp-Hải chép lại .
Phẩm Tự -Tự
Thứ Nhứt


1.– Thuở ấy Tổ đến chùa Bửu-Lâm, có quan Thứ-sử Thiều-Châu họ Vi tên Cừ cùng các quan-liêu vào chùa thỉnh Tổ ra tại giảng-đường chùa Đại-Phạm ở trong thành mà mở duyên thuyết pháp cho chúng nghe.<O:p></O:p>


2.– Tổ lên pháp-tọa thì quan Thứ-sử cùng các quan-liêu trên ba mươi người, nho tông học-sĩ cũng trên ba mươi người, và tăng ni đạo tục trên ngàn người, đồng làm lễ cầu nghe những lời pháp-yếu.<O:p></O:p>
3.– Tổ nói với chúng-nhơn rằng : Nầy các thiện-tri-thức ! – Bồ-đề tự tánh, gốc vẫn thanh-tịnh chỉ dùng tâm ấy hẳn thành Phật ngay.<O:p></O:p>
4.– Các thiện-tri-thức ! – Hãy nghe hành do và sự ý đắc pháp của Huệ-Năng nầy.<O:p></O:p>
5.– Nguyên nghiêm-phụ của Huệ-Năng nầy, bổn quán ở đất Phạm-Dương, sau bị lưu về xứ Lãnh-Nam ở tại Tân-Châu làm người bá-tánh.<O:p></O:p>
6.– Xuất thân đã chẳng may, cha lại mất sớm, còn một mẹ già, dời qua Nam-Hải, khổ cực nghèo thiếu ta hằng bán củi ở nơi chợ.
7.– Thuở ấy có một người khách mua củi, bảo ta đem củi đến tiệm ; khách thâu nhận rồi, Huệ-Năng nầy lãnh được một số tiền bèn bước ra ngoài cửa, vừa nghe một người khách kia tụng kinh.<O:p></O:p>
8.– Huệ-Năng vừa nghe được lời kinh, tâm liền tỏ ngộ, mới hỏi khách tụng kinh chi ?<O:p></O:p>
9.– Khách đáp : “Tụng kinh Kim-Cang.”<O:p></O:p>
10.– Ta lại hỏi : “Ngươi ở đâu đến đây trì tụng kinh ấy ?”<O:p></O:p>
11.– Khách đáp : “Ta từ Kỳ-Châu, huyện Huỳnh-Mai, chùa Đông-Thiền đến đây. Chùa ấy là Ngũ-Tổ Hoằng-Nhẫn Đại-Sư hiện làm pháp chủ giáo hóa tại đó, môn nhơn của ngài hơn ngàn người.<O:p></O:p>
12.– “Ta đến đó lễ bái nghe giảng mà vâng tụng kinh nầy, vì Hoằng-Nhẫn Đại-Sư thường khuyên kẻ tăng người tục đều phải thọ trì kinh Kim-Cang, tức là mình tự thấy tánh, hẳn thành Phật ngay.”<O:p></O:p>
13.– Huệ-Năng nầy nghe nói mới biết thuở trước có duyên, lại mông ơn một người khách kia lấy bạc mười lượng cho ta, để sung về việc ăn mặc cho lão mẫu và dạy ta tìm qua Huỳnh-Mai ra mắt Ngũ-Tổ.<O:p></O:p>
14.– Huệ-Năng nầy sắp đặt việc mẹ rồi, tức thời từ giã, trải qua ba mươi dư, ngài mới đi đến Huỳnh-Mai đảnh lễ Ngũ-Tổ.<O:p></O:p>
15.– Tổ hỏi rằng : “Ngươi ở phương nào ? – Muốn cầu việc chi ?”<O:p></O:p>
16.– Huệ-Năng nầy thưa : “Đệ-tử là người bá tánh ở Tân-Châu, thuộc về xứ Lãnh-Nam, từ phương xa đến lễ thầy, chỉ cầu làm Phật, chớ chẳng cầu việc chi khác cả.”<O:p></O:p>
17.– Tổ nói : “Ngươi là người Lãnh-Nam lại là dòng mọi-rợ, há kham làm Phật được sao ?”<O:p></O:p>
18.– Huệ-Năng nầy thưa : “Người tuy có Nam Bắc, Phật tánh vốn không Nam Bắc ; cái thân mọi-rợ nầy đối với Hòa-thượng chẳng đồng, nhưng Phật-tánh có chi sai khác.”<O:p></O:p>
19.– Ngũ-Tổ còn muốn cùng ta nói nữa, song thấy đồ chúng nhóm lại hai bên tả hữu, nên khiến ta theo chúng mà làm việc.<O:p></O:p>
20.– Huệ-Năng nầy thưa lại rằng : “Huệ-Năng nầy xin bạch Hòa-thượng, tử tâm của đệ tử hằng sanh trí-huệ chẳng lìa tự tánh, tức là phước-điền ; vậy chưa rõ Hòa-thượng dạy làm việc chi ?”<O:p></O:p>
21.– Tổ nói : “Kẻ mọi-rợ kia ! – Căn tánh rất lợi, ngươi chớ nói nữa, hãy đi ra chỗ tào xưởng đường sau.”<O:p></O:p>
22.– Huệ-Năng nầy lui gót đến hậu viện, có một người hành giả sai Huệ-Năng nầy bửa củi và đạp chày giã gạo trót hơn tám tháng.<O:p></O:p>
23.– Một ngày nọ, Tổ chợt thấy Huệ-Năng nầy bèn nói : “Ta nghĩ chỗ thấy của ngươi khá dùng, song sợ có kẻ ác hại ngươi, nên chẳng cùng ngươi nói chuyện ; ngươi có biết chăng ?”<O:p></O:p>
24.– Huệ-Năng nầy thưa : “Đệ tử cũng rõ ý thầy nên không dám ra đến trước giảng-đường, khiến cho người đừng biết.”<O:p></O:p>
25.– Lại một ngày nọ, Tổ đòi cả môn nhơn nhóm lại bảo rằng : “Ta vì bọn ngươi mà nói : người đời sống thác là việc lớn mà bọn ngươi trọn ngày chỉ cầu ruộng phước, chớ chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử, tánh mình nếu mê, phước nào cứu được ? – Bọn ngươi đều đi ra, tự xét lấy trí huệ rồi dùng tánh bát-nhã của bổn tâm mình, mỗi người đều làm một bài kệ trình cho ta xem nếu tỏ ngộ được đại ý thì ta phú giáo y pháp cho làm Tổ đời thứ sáu. – Vậy hối hả mau đi, chẳng được chậm trễ, bằng để nghĩ lường, ắt không trúng dụng.<O:p></O:p>
26.– “Những người thấy tánh, nói ra thì thấy, nếu được như vậy, thì dầu lúc múa đao lên trận (là sự gấp-rút) cũng thấy được ngay.”<O:p></O:p>
27.– Đồng chúng được lời thầy phân, mới lui ra nói với nhau rằng : “Chúng ta đây chẳng cần phải lóng lòng, dụng ý mà làm kệ đem trình Hòa-thượng không ích gì, vì hiện nay Thần-Tú là bực Thượng-tọa đương làm thầy Giáo-thọ, ông là chắc đặng, chớ chúng ta dầu có chạ làm kệ-tụng cũng uổng mệt tâm lực mà thôi.”<O:p></O:p>
28.– Mấy người nghe lời nói ấy, ai cũng yên lòng và đều nói rằng : “Bọn ta sau nầy thảy nương theo thầy Thần-Tú, chớ làm kệ chi cho phiền.”<O:p></O:p>
29.– Phần thầy Thần-Tú thì suy gẫm rằng : “Các người kia mà chẳng trình kệ, là vì nghĩ ta cùng kia làm thầy Giáo-thọ, còn như ta phải làm kệ đem trình Hòa-thượng. – Bằng không trình kệ, thì Hòa-thượng do đâu biết được chỗ kiến-giải cạn sâu trong tâm ta.<O:p></O:p>
30.– “Vậy thì ý kệ của ta sắp trình đây, hễ trình được pháp tức là thiện, mà cầu làm Tổ tức là ác, ấy chẳng khác nào lòng phàm muốn đạt ngôi Thánh ; bằng như chẳng trình kệ thì trọn đời chẳng đặng pháp. – Thật khó ! – Thật khó !”<O:p></O:p>
31.– Phía trước mặt chùa của Ngũ-Tổ có dãy nhà ba gian. – Ngài tính rước quan Cung-Phụng là Lư-Trân vẽ bức đồ Lăng-Già biến tướng và Ngũ-Tổ huyết mạch, để lưu truyền cúng dường.<O:p></O:p>
32.– Sau khi Thần-Tú làm kệ xong, đã mấy phen muốn đem trình mà đi vừa đến trước nhà Tổ thì trong lòng hoảng hốt, mồ hôi đổ ướt cả mình, tình thế trình kệ chẳng đặng. – Trước sau trót đã bốn ngày, mười ba phen như vậy mà trình kệ cũng chẳng đặng. – Thần-Tú mới nghĩ lại : chi bằng ta tới trước chái nhà cầu chép bậy vào đấy, để tùy nơi Hòa-thượng đi đến gặp xem, giả như Hòa-thượng khen hay thì ta liền ra mắt lễ bái mà thưa rằng : kệ ấy thiệt Tú làm ; bằng như Ngài nói chẳng được, thì uổng cho ta ở chùa mấy năm, thọ người lễ bái mà tu theo đạo gì !”<O:p></O:p>
33.– Trong đêm ấy, chừng lối canh ba Thần-Tú chẳng cho người biết, tự mình cầm đèn, chép kệ trên vách, nơi chái nhà phía Nam mà bày tỏ chỗ thấy của tâm mình.<O:p></O:p>
34.– Kệ rằng :<O:p></O:p>
Thân là cây Bồ-Đề.<O:p></O:p>
Tâm như đài minh cảnh,<O:p></O:p>
Lúc nào cũng lau chùi,<O:p></O:p>
&shy;Chớ để nhơ bụi dính.(1)<O:p></O:p>
35.– Tú chép kệ rồi trở về phòng, chẳng ai biết cả. Tú lại suy nghĩ : nếu Ngũ-Tổ rạng ngày thấy kệ mà hoan hỷ, thời tức là ta với pháp có duyên ; bằng ngài nói chẳng kham, thì thiệt tự ta còn mê, nghiệp chướng đời trước quá nặng, không thể đắc pháp, thật là ý Thánh khó lường ! – Tú cứ lo nghĩ ở luôn trong phòng, mà nằm ngồi chẳng yên, suốt đêm năm canh như vậy.<O:p></O:p>
36.– Tổ vẫn biết Thần-Tú chưa vào được cửa đạo, nên chẳng thấy tự tánh.<O:p></O:p>
37.– Sáng ngày Tổ đòi Lư-Cung-Phụng đến chái nhà phía <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on"></ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on">Nam</ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION>, để vẽ đồ tường vào vách, chợt thấy bài kệ rồi ngài nói : “Thôi ! Cung-Phụng chẳng cần vẽ nữa ; thiệt làm nhọc lòng nhà ngươi từ phương xa đến.”<O:p></O:p>
38.– Bởi vì trong kinh (Kim-Cang) nói : “Phàm những cái có sắc tướng đều là giả dối cả.” (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.) – Nhưng chỉ lưu lại kệ nầy cho người trì tụng, y theo lời kệ nầy tu, có sự lợi ích lớn ; nhơn bảo trong hàng môn nhơn thắp hương lễ kính, đều tụng kệ nầy ngỏ đặng thấy tánh. – Môn nhơn tụng kệ, ai cũng đều khen : Thiệt hay !<O:p></O:p>
39.– Canh ba Tổ đòi Thần-Tú vào hỏi : “Kệ ấy phải người làm chăng ?”<O:p></O:p>
40.– Tú thưa : “Thiệt của Tú làm, song không dám vọng cầu Tổ vị, chỉ mong Hòa-thượng từ bi, coi thử đệ-tử có chút trí-huệ gì không ?”<O:p></O:p>
41.– Tổ nói : “Ngươi làm kệ nầy chưa thấy được bổn-tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào được trong ; kiến-giải như vậy, mà cầu Vô-thượng Bồ-đề trót không thể đặng.<O:p></O:p>
42.– “Vô-thượng Bồ-đề cần phải ở dưới câu nói mà biết được bổn tâm, thấy được bổn-tánh, gốc nó chẳng sanh, chẳng diệt, hết thảy trong lúc nào cũng niệm-niệm tự thấy, muôn pháp vốn không trở trệ. – Một cái chơn thì tất cả đều chơn, muôn cảnh vẫn tự như-như, cái tâm như-như tức là chơn thiệt. – Chỗ thấy được như thế, tức là cái tự-tánh Vô-thượng Bồ-đề.<O:p></O:p>
43.– “Vậy ngươi hãy lui ra suy nghĩ trong một đôi ngày, làm lại kệ khác đem cho ta xem ; nếu kệ của ngươi được vào cửa đạo, thì ta sẽ phó y-pháp cho ngươi.”<O:p></O:p>
44.– Thần-Tú lễ Tổ bước ra, trải qua mấy ngày mà làm chẳng thành kệ, trong lòng hoảng hốt, Thần-Tú chẳng yên, dường như giấc mộng, đi ngồi không vui.<O:p></O:p>
45.– Cách hai ngày sau, có tên đồng-tử đi ngang qua chỗ đối-phường (chỗ giã gạo) rao tụng kệ ấy, – Huệ-Năng nầy vừa nghe, biết rằng kệ ấy chưa thấy được bổn-tánh. – Tuy chưa mông ơn chỉ dạy, nhưng đã biết được đại ý, mới hỏi đồng-tử rằng : “Tụng kệ chi đó vậy ?”<O:p></O:p>
46.– Đồng-tử nói : “Ngươi thiệt người lạp-lão, chẳng biết chi ! – Đại-sư có nói : người đời sanh-tử là việc lớn muốn được truyền phó y-pháp, nên ngài dạy trong môn nhơn làm kệ trình xem ; bằng ai ngộ được đại-ý, thì ngài phó y-pháp cho mà nối ngôi Tổ thứ sáu.<O:p></O:p>
47.– “Thần-Tú là bực Thượng-tọa, có chép bài kệ “Vô tướng” trên vách Nam-lang, Đại-sư dạy ai cũng đều tụng, y theo lời kệ ấy tu thì khỏi sa vào ác đạo ; y theo lời kệ ấy tu thì có sự lợi ích lớn.”<O:p></O:p>
48.– Huệ-Năng nầy nói : “Nầy thượng-nhơn ! – Ta dây đạp chày trót tám tháng chưa từng đi đến pháp-đường ; vậy nhờ thượng-nhơn dẫn ta đến trước bài kệ mà lễ bái.”<O:p></O:p>
49.– Đồng-tử mới dẫn ta đi đến.<O:p></O:p>
50.– Huệ-Năng nói : “Huệ-Năng nầy vốn chẳng biết chữ, vậy xin thượng-nhơn đọc giùm.”<O:p></O:p>
51.– Khi đó có quan Biệt-giá Giang-Châu, họ Trương tên Nhựt-Dụng bèn cất tiếng đọc lớn. – Huệ-Năng nầy nghe rồi và nói : “Tôi cũng có một bài kệ, xin quan Biệt-giá biên giùm cho.”<O:p></O:p>
52.– Quan Biệt-giá nói : “Ngươi cũng biết làm kệ nữa sao ? – Thiệt là việc ít có !”<O:p></O:p>
53.– Huệ-Năng nầy nói với quan Biệt-giá rằng : “Muốn học đạo Vô-thượng Bồ-đề, chẳng nên khinh người sơ học, người ở về bực hạ hạ mà có trí bực thượng-thượng ; còn về người bực thượng-thượng cũng có khi không có ý trí chi.”<O:p></O:p>
54.– Quan Biệt-giá nói : ”Ngươi hãy đọc kệ, ta sẽ chép giùm cho ; ngươi nếu đắc pháp, phải độ ta trước, chớ nên quên lời.”<O:p></O:p>
55.– Huệ-Năng đọc kệ rằng :<O:p></O:p>
Bồ-đề đâu phải thọ.<O:p></O:p>
Minh-cảnh có chi đài,<O:p></O:p>
Xưa nay&shy; không một vật,<O:p></O:p>
Ch&shy;ỗ nào vướng trần ai.(2)
56.– Kệ biên rồi, đồ chúng thảy đều thất-kinh, ai cũng khen ngợi và nói với nhau rằng : “Lạ thay ! – Thiệt chẳng nên lấy hình-dạng bề ngoài mà coi người ; nếu biết thì lẽ nào lâu nay sai khiến vị nhục thân Bồ-tát.”<O:p></O:p>
57.– Ngũ-Tổ thấy chúng-nhơn kinh quái sợ người mưu hại, bèn lấy chiếc giày chà hết bài kệ rồi nói : “Kệ nầy cũng chưa thấy tánh.”<O:p></O:p>
Chúng-nhơn nghe nói đều lấy làm phải.<O:p></O:p>
58.– Qua ngày sau, Tổ lén đến chỗ đối-phường, thấy Huệ-Năng nầy đương giã gạo, mới nói rằng : “Người cầu đạo phải như vậy sao !” – Rồi hỏi : ”Gạo đã trắng chưa ?”<O:p></O:p>
59.– Huệ-Năng nầy thưa : “Gạo trắng đã lâu, nhưng còn thiếu cái giừng.”<O:p></O:p>
60.– Tổ lấy gậy gõ nơi cối ba lần rồi bỏ đi.<O:p></O:p>
61.– Huệ-Năng nầy liền lãnh hội được ý Tổ, đến khi trống trở canh ba thì vào thất.<O:p></O:p>
62.– Tổ lấy áo ca-sa choàng đắp lên mình Huệ-Năng nầy, không có người thấy, rồi nói kinh Kim-Cang cho Huệ-Năng nghe tới câu : “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm“, thì Huệ-Năng nghe liền tỏ ngộ hết thảy muôn pháp chẳng lìa tánh mình, nên bạch Tổ rằng :<O:p></O:p>
Chẳng dè tự-tánh gốc vẫn thanh-tịnh,<O:p></O:p>
Chẳng dè tự-tánh gốc chẳng sanh diệt,<O:p></O:p>
Chẳng dè tự-tánh gốc sẵn đầy đủ,<O:p></O:p>
Chẳng dè tự-tánh gốc không động lay,<O:p></O:p>
Chẳng dè tự-tánh sanh được muôn pháp.<O:p></O:p>
63.– Tổ biết Huệ-Năng ngộ được bổn-tánh, mới dạy rằng : “Chẳng biết bổn-tâm, học pháp không ích ; bằng biết được bổn-tâm, thấy được bổn-tánh, mới gọi là Đại trượng phu, là Thiên-nhơn-sư là Phật.”<O:p></O:p>
64.– Canh ba thọ pháp người đều chẳng hay, Tổ lại truyền pháp đốn-giáo và y-bát mà rằng : “Ngươi làm Tổ đời thứ sáu, tự mình phải khéo hộ niệm, rộng độ các chúng hữu-tình, lưu bố đời sau, chớ để đứt dứt.”<O:p></O:p>
65.– Hãy nghe kệ ta đây :<O:p></O:p>
Có tình gieo giống xuống,<O:p></O:p>
Nhơn đất quả bèn sanh,<O:p></O:p>
Không tình cũng không giống,<O:p></O:p>
Không tánh cũng không sanh.(3)
66.– Tổ lại bảo rằng : “Xưa Đức Đạt-Ma đại-sư mới qua xứ nầy, người chưa biết đâu là tin, nên truyền cái y nầy để làm tin-thể, đời-đời vưng theo phép tắc, lấy tâm truyền tâm, để cho ai nấy đều tự tỏ ngộ và tự hiểu biết.<O:p></O:p>
67.– “Từ xưa Phật-Phật chỉ truyền bổn-thể, Sư-Sư mật phú bổn-tâm, y nầy là mối tranh nhau, tới đời ngươi chớ nên truyền nữa ; vì nếu truyền y nầy nữa, thì thân mạng nguy-hiểm như sợi tơ treo, ngươi phải kíp đi, kẻo sợ có người mưu hại.”<O:p></O:p>
68.– Huệ-Năng bạch rằng : “Nên đi xứ nào ?”<O:p></O:p>
69.– Tổ nói : “Gặp ấp Hoài thì ở, gặp ấp Hội thì ẩn.”<O:p></O:p>
70.– Trong lúc canh ba, lãnh được y-bát rồi, Ngũ-Tổ đưa ta đến trạm Cửu-Giang ; Tổ bảo Huệ-Năng nầy lên thuyền, thì Huệ-Năng liền nắm cái chèo.<O:p></O:p>
71.– Tổ nói : ”Đáng nên ta độ ngươi.“<O:p></O:p>
72.– Huệ-Năng nầy thưa : “Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi thì tự mình độ lấy mình ; tiếng “độ” tuy có một mà chỗ dùng khác nhau.<O:p></O:p>
73.– “Huệ-Năng nầy sanh ở bên phương, tiếng nói không chánh, nhờ thầy phú pháp, nay ngộ được rồi, thì phải lấy tự-tánh tự-độ.”<O:p></O:p>
74.– Tổ nói : “Như vậy ! – Như vậy ! Phật pháp sau nầy do ngươi mở rộng, ngươi nay khá đi gắng sức qua hướng <ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on"></ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on">Nam</ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION>, song chớ nên vội nói, là sợ cái nạn Phật pháp nổi lên.”<O:p></O:p>
75.– Huệ-Năng từ giã Tổ rồi, cất bước qua hướng <ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on"></ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on">Nam</ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on"></ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION>, trọn hai tháng mới tới non Đại-Dủ.<O:p></O:p>
76.– Khi Ngũ-Tổ trở về, trọn mấy ngày chẳng ra giảng đường, đồ-chúng nghi vào hỏi : “Hòa-thượng có chút bịnh, chút buồn chi không ?”<O:p></O:p>
77.– Tổ nói : “Bịnh vẫn không mà y-pháp đã về hướng <ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on"></ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on">Nam</ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION> rồi.”<O:p></O:p>
78.– Đồ chúng hỏi : “Ai là người được truyền thọ ?”<O:p></O:p>
79.– Tổ nói : “Năng ấy được.”<O:p></O:p>
80.– Chúng mới rõ biết.<O:p></O:p>
81.– Những kẻ muốn đạt y bát đuổi theo có hơn vài trăm người, mà trong bọn ấy có một ông tăng họ Trần, tên Huệ-Minh trước kia là tứ-phẩm tướng-quân, tánh hạnh nóng nảy, cố lòng theo kiếm, làm đầu cho mọi người mà đuổi theo kịp Huệ-Năng.<O:p></O:p>
82.– Huệ-Năng nầy liệng y bát trên hòn đá và rằng : “Y nầy là vật biểu tín (làm tin), há lấy sức người mà giành đặng sao !” Nói rồi, liền ẩn mình trong đám cỏ rậm.<O:p></O:p>
83.– Huệ-Minh đi đến, xách y dở lên mà chẳng nhúc-nhích, mới lên tiếng kêu rằng : “Hành-giả ! – Hành-giả ! – Tôi đây vì pháp mà đến, chớ chẳng phải vì y mà đến.”<O:p></O:p>
84.– Huệ-Năng bước ra ngồi, trên bàn thạch.<O:p></O:p>
85.– Huệ-Minh đảnh lễ và thưa : “Xin hành-giả thuyết pháp cho tôi nghe.”<O:p></O:p>
86.– Huệ-Năng nói : “Ngươi đã vì pháp đến đây, thì phải dẹp hết các duyên, chớ sanh một niệm, thì ta nói cho ngươi nghe.” – Huệ-Minh tịnh tâm giây lâu, Huệ-Năng nói tiếp : “Đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác, chánh trong lúc ấy, cái đó là cái “Diện-mục bổn-lai” (4) của Minh thượng-tọa.”<O:p></O:p>
87.– Huệ-Minh nghe nói ngộ liền, lại hỏi : “Ngoài lời nói kín và ý kín nãy giờ đây, còn có ý kín gì nữa không ?”<O:p></O:p>
88.– Huệ-Năng nói : “Những cái ta cùng ngươi nói đó, tức không phải kín ; nếu ngươi biết tự soi lại, thì cái kín ấy ở bên ngươi.”<O:p></O:p>
89.– Minh thưa : “Huệ-Minh nầy tuy ở Huỳnh-Mai đã lâu mà thiệt chưa tự rõ được diện-mục của mình ; nay nhờ ơn chỉ dạy, cũng ví như người uống nước nóng nguội, thì mình tự biết. – Vậy thì hành giả ngày nay chính là thầy của Huệ-Minh nầy vậy.”<O:p></O:p>
90.– Huệ-Năng nói : “Ngươi đã như thế, thì ta cùng ngươi đồng thờ một thầy Huỳnh-Mai, tự mình phải hộ trì cho khéo.”<O:p></O:p>
91.– Minh lại hỏi : “Huệ-Minh sau nầy nên tới xứ nào ?”<O:p></O:p>
92.– Huệ-Năng đáp : “Gặp Viên thì dừng, gặp Minh thì ở.”<O:p></O:p>
93.– Minh đảnh lễ từ biệt.<O:p></O:p>
94.– Minh khi về đến chơn núi, kêu bọn đuổi đó mà nói rằng : “Ta đây đã theo tới chỗ cao vọi kia mà không thấy dấu-tích đâu cả, vậy bọn ngươi phải do đàng khác mà theo kiếm.” – Chúng kia đều tưởng là thiệt.<O:p></O:p>
95.– Sau Huệ-Minh đổi tên là Đạo-Minh, vì tránh chữ Huệ là chữ đầu tên của thầy.<O:p></O:p>
96.– Huệ-Năng sau về đến Tào-Khê lại bị quân dữ theo đuổi, bèn lánh nạn ở trong bọn thợ săn nơi Tứ-hội, trường trải mười lăm năm, hằng khi cùng bọn thợ săn tùy tiện mà thuyết pháp.<O:p></O:p>
97.– Bọn thợ săn thường bảo Huệ-Năng giữ coi miệng lưới, mỗi lần thấy loài thú mắc vào, thì đều mở lưới thả hết. – Mỗi khi đến giờ ăn, thì lấy rau nấu kèm theo nồi luộc thịt để dùng qua bữa, hoặc có ai thấy lạ mà hỏi, thì ta nói : “Ta chỉ ăn thứ rau nấu bên thịt thôi !”<O:p></O:p>
98.– Một ngày kia suy nghĩ, đã tới thời kỳ nên ra hoằng pháp, không thể trốn ở đây trọn đời.<O:p></O:p>
99.– Nghĩ như vậy rồi, mới tìm đến chùa Pháp-Tánh ở Quảng-Châu, vừa gặp Ấn-Tông pháp-sư đương giảng kinh Niết-Bàn, nhơn có hai sư tăng tranh luận nhau về nghĩa phong phang (gió và phướng), người thì nói : ”gió động”, người thì nói : ”phướng động”, cãi mãi không thôi.<O:p></O:p>
100.– Huệ-Năng bước tới mà rằng : “Chẳng phải gió động, cũng chẳng phải phướng động, chính là tâm của hai nhơn-giả động.”<O:p></O:p>
101.– Chúng đều kinh hãi.<O:p></O:p>
102.– Ấn-Tông mời ta ngồi trên, rồi gạn hỏi những nghĩa kín-nhiệm, thì thấy Huệ-Năng nầy lời nói giản dị, nghĩa lý xác đáng mà chẳng do theo văn-tự.<O:p></O:p>
103.– Ấn-Tông mới thưa : “Hành-giả quyết định không phải là người thường, lâu nay tôi cũng nghe y-pháp của Tổ Huỳnh-Mai đã về hướng <ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on"></ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on">Nam</ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION>, có lẽ về hành-giả chăng ?”<O:p></O:p>
104.– Huệ-Năng đáp : “Ta đâu dám !”<O:p></O:p>
105.– Tông khi ấy đảnh lễ, rồi xin đem y-bát của Tổ truyền lại đó cho đại chúng xem.<O:p></O:p>
106.– Tông lại hỏi : “Lời phú-chúc của Tổ Huỳnh-Mai chỉ trao bằng cách nào ?”<O:p></O:p>
107.– Huệ-Năng nầy đáp : “Chỉ trao vốn không, mà chỉ luận về kiến-tánh, chớ chẳng luận đến thiền-định và giải-thoát.”<O:p></O:p>
108.– Tông hỏi : “Vì sao chẳng luận đến thiền-định và giải-thoát ?”<O:p></O:p>
109.– Huệ-Năng nầy đáp : “Vì hai pháp ấy chẳng phải Phật-pháp ; Phật-pháp chính là pháp “chẳng hai”.”<O:p></O:p>
110.– Tông hỏi tiếp : “Thế nào gọi là pháp ”chẳng hai” của Phật-pháp ?”<O:p></O:p>
111.– Huệ-Năng đáp : “Pháp-sư giảng kinh Niết-Bàn, rõ được Phật-tánh, ấy là pháp “chẳng hai” của Phật-pháp.<O:p></O:p>
112.– “Như ông Cao-Quý-Đức-Vương-Bồ-tát bạch Phật rằng : ”Những người phạm giới tứ-trọng, (5) tạo tội ngũ-nghịch(6) cùng những người nhứt-xiển-đề (7) thì dứt mất thiện-căn Phật-tánh phải chăng ?”<O:p></O:p>
113.– “Phật nói : Thiện-căn có hai : một là thường, hai là vô thường ; mà Phật-tánh chẳng phải thường và chẳng phải vô-thường, vậy nên chẳng dứt, ấy gọi là “chẳng hai”. – Lại một là thiện, hai là chẳng thiện, mà Phật-tánh chẳng phải thiện và chẳng phải chẳng thiện, ấy gọi là : pháp “chẳng hai”.<O:p></O:p>
114.– “Năm uẩn (8) với mười tám giới (9) từ nơi phàm phu mà thấy thành hai, mà người trí-giả thì rõ suốt, tánh nó “không hai”, cái tánh “không hai” ấy, tức là Phật-tánh.<O:p></O:p>
115.– “Ấn-Tông nghe ta nói, chấp tay vui mừng rồi nói : Tôi đây giảng kinh dường như ngói gạch, nhân giả luận nghĩa chẳng khác vàng ròng !”<O:p></O:p>
116.– Huệ-Năng mới mở ra pháp-môn Đông-Sơn ở dưới gốc Bồ-đề. – Huệ-Năng nầy trước xa do nơi Đông-Sơn đắc pháp, chịu biết bao nhiêu cay đắng sanh mạng nguy hiểm như sợi tơ treo. – Ngày nay được cùng Sử-quân, quan liêu, và các tăng ni đạo tục, cùng nhau, nhóm hiệp nơi đây, nếu chẳng phải tiền duyên lụy kiếp thì cũng là trong đời quá-khứ cúng dường các Phật đồng cấy căn lành, nên mới được nghe pháp Đốn-giáo và cái nguyên-nhơn đắc pháp như trên.<O:p></O:p>
117.– Đốn-giáo ấy là Tiên-thánh truyền lại, chẳng phải tự trí của Huệ-Năng nầy. – Muốn nghe pháp Đốn-giáo của Tiên-Thánh đều phải tịnh tâm, nghe rồi mà ai ai cũng tự dứt bỏ những điều nghi-hoặc, thì đối với Thánh nhơn đời trước không khác gì.<O:p></O:p>
118.– Cả chúng nghe pháp vui mừng, rồi đảnh lễ xin lui.







<HR align=left SIZE=1 width="33%">
(1)Hiện nay phần nhiều người nghiên cứu Đàn-kinh thường hay hủy báng bài kệ của ngài Thần-Tú trên đây, mà không rõ vì ý kệ ấy chưa thấy được bản tánh, cho nên Ngũ-Tổ không truyền phú y-bát cho ngài. Nhưng Tổ cũng có nói : Lưu truyền bài kệ ấy lại cho người tụng trì nếu y theo kệ ấy mà tu thì khỏi đọa vào ác đạo và được sự lợi ích lớn ; nói rồi Tổ bảo trong môn nhơn đều phải thắp hương lễ bái mà tụng bài kệ ấy cả.<O:p></O:p>
Thế thì biết những hạng người không được bực thượng căn lợi khí như ngài Huệ-Năng mà nếu chẳng y theo kệ ấy làm chỗ hạ thủ công phu thì không khỏi lạc vào cuồng thiền mà có khi phải đọa nặng.<O:p></O:p>

(2) Vì bài kệ của thầy Thần-Tú trên kia đã nói : “Thân Bồ-đề, tâm như minh cảnh”, mà Bồ-đề còn có cây tức là chưa lìa khỏi thân tướng, minh cảnh còn có đài, tức là chưa lìa khỏi tâm tướng ; tướng chưa lìa thì tánh chưa thấy được. Cho nên bài kệ nầy ngài nói : “Bồ-đề đâu phải thọ, minh cảnh có chi đài”, ấy là lìa hết thân tướng và tâm tướng rồi, thì còn có cái gì mà sợ trần ai ô nhiễm.<O:p></O:p>
Vả lại tướng thân và tướng tâm ấy, là do nơi chúng-sanh từ vô thỉ nhẫn nại mê chơn theo vọng rồi nhận lầm bốn đại (đất, nước, gió, lửa) giả hiệp làm nên tướng tự thân và chấp bậy cái bóng vọng duyên của sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) làm tướng tự-tâm mà cho rằng có đó thôi ; nhưng xét kỹ ra, gốc nó đã giả hiệp, thì đâu phải thiệt thân và gốc nó đã là cái bóng vọng duyên, thì đâu phải là thiệt tâm ; cho nên nói : Xưa nay không môt vật”.<O:p></O:p>

<SUP>(3)</SUP> Bốn câu kệ nầy, thì hai câu trên là nói : đem hạt giống Phật gieo vào cõi đất lòng của loài hữu tình thì sau chắc sanh được bồ-đề diệu quả, tức là ý nói : Ngài đem cái tâm-ấn của “Phật-Phật tương truyền” mà truyền lại cho Lục-Tổ là người có đại-thừa căn trí, thì Lục-Tổ ngày sau chính là người kế thừa Phật vị vậy.<O:p></O:p>
Còn hai câu dưới là nói : Những loài vô tình như cây đá, ngói gạch, thì không có giống Phật đã đành ; bằng loài hữu tình mà nếu không phải đại-thừa chủng-tánh, thì bồ-đề diệu quả cũng không do đâu sanh được. – Vậy nên tâm-ấn của Phật không phải vọng truyền.<O:p></O:p>

(4) Câu : “diện-mục bổn-lai” nầy chính là câu nói tột bực về đạo pháp của bên Thiền môn.<O:p></O:p>
Nghĩa “bổn-lai” cũng như nghĩa ”vô-thỉ dĩ lai”, tức là cái thanh thanh tịnh tịnh trước khi chưa có hư không thế giới, chưa có chư-Phật chúng-sanh, mà cứ suy tính mãi lên cho đến hằng sa kiếp số về trước, cũng không biết đâu làm cho cùng giáp của nó ; cho nên “diện-mục” không dễ thấy được. Nhưng cái không thể ấy, không phải là nó ở đâu xa cách, hay ở đâu quá kín mà khó thấy ; thiệt ra chỉ vì chúng-sanh đời đời kiếp kiếp mãi ở trong vòng phân biệt tư-duy của vọng thức mà mê quên nó đi nên lúc nào cũng chỉ thấy cái mày mặt của cha mẹ vô-minh sở sanh mà không thấy được cái chơn tướng của nó đó thôi.<O:p></O:p>
Nếu như ai cũng tự mình hồi quang phản chiếu, dứt hết các duyên, dừng khởi một niệm gì hoặc thiện hoặc ác, thì lúc ấy chơn tướng nó hiện bày ra một cách chói trời lòa đất, không giống với một vật gì trong vũ trụ vạn hữu là chẳng phải có.<O:p></O:p>

(5) “Tứ-trọng” là bốn thứ tội nặng : 1. tội sát sanh ; 2. tội trộm cướp ; 3. tội dâm dục ; 4. tội nói dối.<O:p></O:p>

(6) “Ngũ-nghịch” là năm thứ tội ác rất trái nghịch với lý : 1. giết cha ; 2. giết mẹ ; 3. giết bực A-La-Hán ; 4. phá sự hòa hiệp của tăng chúng ; 5. dùng tâm ác làm cho thân Phật ra máu.<O:p></O:p>
Trong năm tội ấy thì hai tội trên là trái ơn sanh dưỡng, còn ba tội dưới là phá hư ruộng phước điền, cho nên kêu là : nghịch.<O:p></O:p>

(7) “Nhứt-xiển-đề” là tiếng Phạm, Tàu dịch : Bất tín (chẳng tín) nghĩa là : chẳng tin luật nhơn quả và chẳng tin lý nghiệp báo, chính là người không có tánh thành Phật.<O:p></O:p>
Trong kinh Lăng-Già nói : Nhứt xiển đề-đề có hai thứ : một là những người cực ác dứt mất hết căn lành mà không được thành Phật ; hai là những bực Đại bi Bồ-tát, vì muốn cứu độ cho hết thảy chúng-sanh mà không chịu thành Phật.<O:p></O:p>
Những thầy Tỳ-khưu phạm tội tứ-trọng, thì theo luật phải tẩn xích ra ngoài biển Phật-pháp, không được ở chung với trong hàng tăng chúng. Còn những người phạm tội ngũ-nghịch, thì đọa vào Địa ngục Vô gián, chịu sự thống khổ kiếp kiếp đời đời.<O:p></O:p>
Nhưng xứng tánh mà nói thì tứ trọng, ngũ nghịch và nhứt xiển đề là tội tánh, thiện căn là Phật tánh ; mà tội tánh với Phật tánh không phải hai vật, tội tánh như sóng, Phật tánh như nước, khi bị gió thổi động thì toàn thể nước thành ra sóng, đến lúc dứt hết gió rồi thì toàn thể sóng tức là nước.<O:p></O:p>
Cái lý Phật tánh với tội tánh cũng như vậy. Trong khi chơn như Phật tánh tùy theo nhiễm duyên của sáu trần, tạo nghiệp thọ báo mà thành ra tội tánh, đến lúc nghiệp dứt báo không, thì tội tánh ấy tức là chơn như Phật tánh, chớ không phải cái gì khác.<O:p></O:p>
Cho nên trong kinh Duy-Ma-Cật nói : Có hai người Tỳ-khưu một người phạm tội dâm và một người phạm tội sát, tự lấy làm hổ thẹn, không dám đến bạch Phật, mới cùng nhau tới ngài Ưu-Ba-Ly cầu xin giải chỗ nghi hối cho đặng khỏi lỗi, thì ngài Ưu-Ba-Ly cứ theo luật pháp mà kết. Khi ấy có ngài Duy-Ma-Cật đi đến nói với Ưu-Ba-Ly rằng : Ông đừng thêm tội cho hai người Tỳ-khưu, cứ trừ dứt thẳng chớ làm rối tâm người ; vì tội tánh kia chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và chẳng ở giữa, như lời Phật nói : Vì tâm nhơ, nên chúng-sanh nhơ ; Vì tâm sạch nên chúng-sanh sạch ; tâm cũng chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và chẳng ở giữa, tâm đã như vậy, thì tội cấu cũng vậy ; cho đến các pháp cũng vậy, chẳng cái gì ra ngoài lý như hoạn. Nếu biết các pháp đều sanh diệt chẳng trụ, như đồ mỵ thuật, như chớp điện nhoáng, và nếu biết các pháp đều thấy một cách giả dối, như trăng trong nước, như tượng trong gương, đều do nơi vọng tưởng sanh ra cả ; biết được vậy mới gọi là : phụng luật, và mới gọi là thiện giải.<O:p></O:p>
Sau khi ngài Duy-Ma nói thế, rồi thì hai người Tỳ-khưu dứt sự nghi hối (nghi ngờ và ăn năn) và phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác liền.<O:p></O:p>
Lại trong kinh Pháp Hoa nói : Đề-Bà-Đạt-Đa tuy phạm ba tội nghịch : 1. lừa dối năm trăm thầy Tỳ-khưu mà phá chúng hòa hiệp ; 2. liệng viên đá lớn mà thân Phật chảy máu và bảo vua A-Xà Thế-Vương cho voi uống rượu say rồi thả ra đạp Phật với để thuốc độc trong mười móng ngón tay, đặng thừa thi lễ dưới chơn Phật mà hại Phật, (ba tội nầy hiệp lại làm một) ; – và 3. tay cầm cú mà đánh giết bà Ba-Sắc Tỳ-khưu-ni đương sống mà đọa vào Địa ngục Vô gián ; nhưng Phật thọ ký cho ông sau sẽ thành Phật, hiệu là : Thiên-Vương Như-Lai.<O:p></O:p>
Lại ngài Trúc-Đạo-Sanh ở đời nhà Tấn, trong khi truyền bá cái thuyết ”Xiển-đề thành Phật”, thì lúc ấy kinh Đại-Niết-Bàn chưa truyền sang Tàu, các nhà cựu học đều cho thuyết của ngài nói là tà thuyết, cùng nhau tẩn xích ngài. – Sau ngài vào núi Hổ-Khưu dụng đá làm thính đồ, còn ngài thì ngồi giữa giảng kinh Niết-Bàn ; khi ngài giảng đến chỗ “Xiển-đề có Phật tánh”, thì ngài hỏi chúng đáp rằng : “Theo lời ta nói đó có hiệp với tâm Phật không ?” – Hỏi rồi chúng đá đều gặc đầu mà tỏ dấu thừa nhận cả thảy.<O:p></O:p>
Xem thế thì biết Phật-Phật Tổ-Tổ, tuy thời kỳ ứng hóa có trước có sau, mà chỗ thuyết pháp độ sanh như đồng một khuôn mẫu.<O:p></O:p>

(8) Năm uẩn cũng gọi là : năm ấm, tức là : sắc, thọ, tưởng, hành, thức ; vì nó chứa nhóm sự tội lỗi, nên gọi là : “uẩn”, và cũng vì nó che lấp chơn tánh, nên gọi là “ấm”.<O:p></O:p>

(9) Mười tám giới là : sáu căn (nhãn-căn, nhĩ-căn, tỷ-căn, thiệt-căn, thân-căn, ý-căn), sáu trần (sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần, pháp-trần) và sáu thức (nhãn-thức, nhĩ thức, tỷ-thức, thiệt-thức, thân-thức, ý-thức).<O:p></O:p>
&shy;“Uẩn“ và ”giới” cũng chẳng ngoài “sắc” và ”tâm” hai pháp cho nên tự nơi cái thấy phân biệt của phàm phu thì thấy có hai mà tự nơi cái thấy viên dung của người trí giả thì biết hết thảy tâm phần của thức A-lại-da biến hiện ; mà thức A-lại-da lại là do mê tâm chơn như mà thành ra, cho nên nói : Tánh nó không hai, và cái tánh không hai ấy tức là chơn như Phật-tánh.<O:p></O:p>
Nhưng phải biết cái pháp “không hai” nói đây, chẳng được hiểu lầm rằng : Không hai tức là có một, vì đã lìa cả tâm pháp và sắc pháp, thì kiến phần và tướng phần đã không có ; – mà kiến phần và tướng phần đã không có chi gọi là : A-lại-da ; – mà A-lại-da đã không có, thì cũng chẳng có chi gọi là : chơn như nữa.<O:p></O:p>
Cho nên trong kinh Duy-Ma-Cật nói : Ngài Văn-Thù hỏi : “Thế nào là Bồ-tát vào được pháp môn chẳng hai ?” – Ngài Duy-Ma-Cật nín thinh. – Ngài Văn-Thù khen rằng : “Hay rằng : Hay thật ! – Hay thật !”<O:p></O:p>
Nhẫn đến văn-tự và ngữ-ngôn cũng không có, vậy mới thiệt vào được pháp-môn chẳng hai. – Thế là văn-tự ngữ-ngôn còn không có, thì còn cái gì là uẩn, là giới, là sắc, là tâm, là kiến, là tướng, là A-lại-da, là chơn như nữa.<O:p></O:p>
Duy có một điều khác nhau là : đồng hỏi một “pháp-môn chẳng hai” mà ngài Duy-Ma-Cật thì nín thinh, còn ngài Lục-Tổ đây thì lại giải nói, không khỏi để một nghi-án cho người học Phật đời sau ; nhưng thiệt ra thì chỗ “nói với nín, nín với nói“ của hai ngài tưởng không khác, mà vì một bên thì đối với ngài Văn-Thù là bực đại trí Bồ-tát và một bên thì đối với ngài Ấn-Tông là người còn ở trong học-địa, cho nên ngài Duy-Ma nín thinh mà ngài Lục-Tổ giải nói là vậy.<O:p></O:p>

 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113

<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
<O:p></O:p>

Phẩm Bát-Nhã<O:p></O:p>

THỨ HAI

<O:p>1.– Qua ngày sau Vi Sử-Quân xin Lục-Tổ Đại-sư giảng dạy thêm. – Tổ bèn lên tòa nói cùng đại chúng rằng : “Các ngươi đều phải tịnh tâm niệm Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La Mật-Đa.” </O:p>
<O:p>2.– Lại nói : “Nầy thiện-tri-thức ! – Trí Bồ-đề bát-nhã, người đời ai cũng tự có, chỉ vì tâm mê muội, nên tự mình chẳng tỏ ngộ được ; vậy phải nhờ bực đại-tri-thức chỉ dẫn cho, thì thấy rõ tự tánh. – Phải biết rằng : người ngu kẻ trí, tánh Phật vẫn in nhau ; chỉ nhơn mê với ngộ chẳng đồng, mà thành có ngu có trí. – Nay ta và các ngươi nói pháp “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật” là khiến cho các ngươi đều được trí-huệ ; vậy phải chí tâm xét nghe những lời ta nói.
3.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Người đời trọn ngày miệng niệm câu Bát-nhã mà chẳng biết tự tánh Bát-nhã ; ví như nói ăn mà chẳng ăn, thì sao no đặng ; miệng chỉ nói không, thì muôn kiếp chẳng thấy tánh được, trọn không ích gì.
4.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạm, – Tàu dịch là : đại-trí-huệ đáo bỉ ngạn, nghĩa là : cái trí lớn đến tận bờ bên kia ; vậy nên phải làm ở nơi tâm, chớ chẳng phải niệm ở nơi miệng ; nếu miệng niệm mà tâm chẳng làm, thì chẳng khác như đồ mỵ-thuật, như thứ biến-hóa, như sương-mù, như chớp điện. – Còn miệng niệm và tâm làm, thì tâm với miệng tương ứng lẫn nhau, bổn-tánh là Phật, lìa tánh ra không có Phật nào khác.
5.– “Sao gọi là : Ma-ha ? “Ma-ha”, nghĩa là : lớn, – là nói : tâm-lượng rộng lớn như hư-không, không có giới-hạn, cũng không vuông, tròn, lớn, nhỏ ; cũng không xanh, vàng, đỏ, trắng ; cũng không trên, dưới, vắn, dài ; cũng không giận, không mừng, không phải, không quấy, không lành, không dữ, không có đầu-đuôi ; quốc-độ của chư-Phật đồng như hư-không mà diệu-tánh của người đời gốc là rỗng-trống, không có một pháp gì khá đặng ; tự-tánh chơn-không cũng như vậy.
<O:p>6.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Đừng nghe ta nói không mà trở lại chấp Không. – Thứ nhứt chớ nên chấp Không ; nếu Không-Tâm mà ngồi yên lặng, tức là mắc vào cái không “vô ký”.<O:p></O:p>
7.– “Nầy thiện-tri-thức ! Thế-giới hư-không, bao hàm cả sắc tượng muôn vật : nào mặt-nhựt, mặt-nguyệt, các ngôi tinh-tú núi sông, đất liền, suối nguồn, khe rạch, cỏ cây, rừng rú, người dữ, người lành, người ác, pháp thiện, thiên-đường, địa-ngục, cho đến hết thảy các biển lớn và các núi Tu-Di đều ở trong hư-không đó cả. – Người đời tánh-không cũng như vậy.<O:p></O:p>
8.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Tự-tánh bao hàm cả muôn pháp là lớn. – Muôn pháp đều ở trong tự-tánh của các người ; nếu thấy hết thảy những người dữ, người lành, mà đều chẳng chấp-lấy và chẳng phóng xả, cũng mắc dính đến, tâm như hư-không, ấy gọi là lớn ; cho nên nói rằng : Ma-ha.<O:p></O:p>
9.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Người Mê ở nơi miệng kẻ Trí làm ở nơi tâm. – Lại cũng có hạng người Mê cứ không-tâm ngồi yên-lặng, trăm việc đều không nghĩ tới, rồi tự cho vậy là lớn ; những hạng người ấy không nên nói với họ, vì họ chấp theo tà-kiến.<O:p></O:p>
10.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Tâm-lượng rộng lớn khắp cả pháp-giới, dùng ra thì lảu-lảu phân minh – khi ứng dụng thì biết hết thảy, hết thảy tức là một, một tức là hết thảy, lui tới tự-do, tâm thể vốn không trở-trệ, ấy tức là : Bát-nhã.<O:p></O:p>
11.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Hết thảy trí Bát-nhã đều do tự-tánh sanh ra, chẳng phải ở ngoài vào, chớ dụng ý lầm, mới gọi là mình dùng theo chơn-tánh. – Hễ một cái chơn thì hết thảy đều chơn. – Tâm-lượng rộng lớn, chớ làm theo đạo nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói không, mà trong tâm chẳng tu theo hạnh Bát-nhã, thì cũng giống như kẻ phàm-phu tự xưng mình là vị Quốc-vương, trót không thể được, ấy chẳng phải là đệ-tử của ta.<O:p></O:p>
12.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Sao gọi là : Bát-nhã ? “Bát-nhã” tiếng Tàu gọi là : trí huệ. – Hết thảy trong xứ-sở nào và trong thời khắc nào, niệm-niệm chẳng mê, hằng làm theo trí huệ, tức là : hạnh Bát-nhã.
<O:p></O:p>
13.– “Một niệm ngu, tức là bát-nhã tuyệt ; một niệm trí, tức là Bát-nhã sanh. – Người đời vì ngu mê nên chẳng thấy trí Bát-nhã ; miệng nói Bát-nhã mà trong tâm hằng ngu, cứ tự xưng rằng ta tu Bát-nhã mà trong tâm “không” mà chẳng biết sao là : “chơn không” ; Bát-nhã không hình tướng, tâm trí-huệ của mình tức là Bát-nhã. – Nếu hiểu biết như thế, tức gọi là : trí Bát-nhã.

14.– “Sao gọi là : Ba-la-mật ? “Ba-la-mật” là tiếng nói bên Tây-quốc, Tàu gọi là : Đáo bỉ ngạn, nghĩa là : đến tận bờ bên kia. – Giải nghĩa là lìa sanh diệt ; đắm cảnh sanh diệt dấy, như nước có nổi sóng, tức là bờ bên nầy ; lìa các cảnh không sanh diệt, như nước thường thông lưu, tức là bờ bên kia nên gọi rằng Ba-la-mật.

15.– “Nầy thiện-tri-thức ! Người mê chỉ miệng niệm, thì đang lúc niệm, có dối, có quấy ; bàng niệm niệm làm theo, ấy mới gọi rằng : chơn tánh. – Ngộ được pháp ấy tức là : pháp Bát-nhã ; tu được hạnh ấy tức là : hạnh Bát-nhã chẳng tu tức là phàm, một niệm tu hành, thân mình sánh bằng Phật.<O:p></O:p>
16.– “Nầy thiện-tri-thức ! Phàm phu tức là : Phật ; phiền não tức là : Bồ-đề ; niệm trước mê tức là : phàm phu, niệm sau ngộ tức là : Phật ; niệm trước đắm cảnh tức là : phiền não ; niệm sau lìa cảnh tức là : Bồ-đề.<O:p></O:p>
17.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật rất lớn, rất cao tột bực nhứt ; không ở, không đi, cũng không tới ; các Phật ba đời do đó ra. – Vậy phải dùng trí-huệ đánh tan ngũ-uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), phiền não, trần-lao ; tu hành như thế, chắc thành Phật-đạo. – Đổi ba độc (tham, sân, si) mà làm Giới-Định-Huệ.<O:p></O:p>
18.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Pháp môn ta đây do một Bát-nhã mà sanh ra tám vạn bốn ngàn trí-huệ. – Bởi cớ sao ? – Vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần-lao ; bằng không trần-lao, thì trí-huệ thường hiển hiện, chẳng lìa tánh mình.<O:p></O:p>
“Ngộ được pháp ấy, tức là không nghĩ, không nhớ, không đắm, chẳng khởi lòng dối quấy. – Dùng tánh chơn-như của mình, lấy trí-huệ quán chiếu, đối với hết thảy các pháp, chẳng lấy, chẳng bỏ, tức là thấy tánh thành Phật.
<O:p></O:p>
19.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Nếu muốn vào đến pháp-giới rất sâu và Bát-nhã tam muội, thì phải tu hạnh Bát-nhã và trì tụng kinh Kim-Cang bát nhã, tức là đặng thấy tánh. – Vậy biết công-đức kinh ấy vô lượng vô biên, trong kinh rõ ràng khen ngợi, không thể nói. – Pháp-môn đó là Tối-thượng-thừa, để nói cho bực người đại-trí thượng-căn nghe.

20.– “Bằng kẻ tiểu-căn tiểu-trí nghe, thì sanh lòng chẳng tin. – Bởi tại sao ? – Ví như con rồng lớn rót xuống một trận mưa to ở cõi Diêm-Phù-Đề, thì thành ấp xóm làng đều trôi hết cả, cũng như nước trôi lá táo ; còn nếu mưa xuống nơi biển lớn kia, thì chẳng thấy nước thêm bớt chút nào.

21.– “Hoặc bực người Đại-thừa hay bực người Tối-thượng-thừa nghe nói kinh Kim-Cang, thì tâm mở mang tỏ-ngộ ; nên biết bổn-tánh mình vẫn có trí Bát-nhã, tự dùng trí-huệ mình quán chiếu luôn luôn, chớ chẳng cần mượn tới văn-tự ; ví như nước mưa chẳng phải do trời mà có, gốc thiệt là năng-lực của rồng làm thành, khiến cho tất cả chúng-sanh và tất cả cây cỏ, nào là loài hữu-tình, loài vô-tình, thảy đều nhờ ơn nhuần-thấm ; trăm sông ngàn dòng đều chảy vào biển lớn, hiệp làm một thể ; trí Bát-nhã ở nơi bổn tánh của chúng-sanh cũng như vậy.<O:p></O:p>
22.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Những người tiểu-căn nghe pháp Đốn-giáo cũng như loài cỏ cây căn-tánh nhỏ, mà gặp trận mưa to thảy đều ngã rạp, không thể thêm được sức lớn ; những người tiểu-căn nghe Đốn-giáo cũng như vậy.<O:p></O:p>
23.– “Cái trí Bát-nhã sẵn có ấy với người đại-trí kia vốn không riêng khác, mà vì sao nghe pháp chẳng tỏ ngộ ? – Đó là bởi tà kiến che lấp quá nặng, phiền-não rễ bấm quá sâu ; ví như đám mây lớn che án mặt-nhựt chẳng hiện rõ được. – Trí Bát-nhã cũng không lớn nhỏ, nhưng vì tự tâm của tất cả chúng-sanh có mê có ngộ chẳng đồng, nên mê chấp cái thấy ở ngoài tâm tu hành tìm Phật mà chưa tỏ ngộ được tự tánh, tức là : tiểu-căn.<O:p></O:p>
24.– “Còn như tỏ ngộ được Đốn-giáo, không chấp sự tu ở bề ngoài, chỉ do nơi tâm mình hằng phát khởi cái thấy chơn chánh, những thứ phiền-não trần-lao thường không nhiễm được, tức là : kiến tánh.<O:p></O:p>
25.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Trong ngoài chẳng lưu trụ, lui tới hằng tụ-do, trừ dứt cái tâm chấp trước, thông suốt không ngăn ngại ; tu được hạnh ấy, thì đối với kinh Bát-nhã vốn không riêng khác.
<O:p></O:p>
26.– “Thiện-tri-thức ! – Phải biết rằng : hết thảy các kinh-điển cùng các văn-tự, đại-thừa, tiểu-thừa, mười hai bộ kinh, đều do nơi người đặt ra, vì người có tánh trí huệ mới gầy dựng được ; nếu không người đời, thì hết thảy muôn pháp vốn thiệt chẳng có, cho nên biết muôn pháp gốc tự nơi người dấy tạo, hết thảy kinh sách cũng do nơi người thuyết ra.

27.– “Nhưng bởi trong loài người, có kẻ ngu, có người trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại nhơn. – Kẻ ngu thì hỏi người trí, người trí thì thuyết-pháp cho kẻ ngu nghe ; nếu kẻ ngu nào tâm thoạt tỏ ngộ, thì đối với người trí vốn không khác gì.

28.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Nếu chẳng ngộ thì Phật là chúng-sanh ; còn trong lúc một niệm ngộ rồi, thì chúng-sanh là Phật. – Vậy nên biết muôn Pháp đều ở nơi tự tâm, sao lại chẳng do trong tự-tâm mà tỏ ngộ liền cái bổn tánh chơn như ?<O:p></O:p>
29.– “Kinh Bồ-Tát-Giới nói : “Tự-tánh bổn nguyên của ta vẫn thanh-tịnh ; Nếu biết được tự-tâm, thấy được tự-tánh, thì đều thành Phật đạo.” – Kinh Tịnh-Danh nói : “Tức thời rỗng-rang hoàn được cái bổn-tâm trở lại.” – Nầy thiện-tri-thức ! – Ta hồi ở nơi bổn-sư Nhẫn Hòa-thượng, vừa nghe qua lời nói thì tỏ ngộ, thấy liền cái bổn-tánh chơn-như, nên ta đem giáo-pháp ấy truyền-bá ra, khiến cho những kẻ học đạo chứng tỏ đạo Bồ-đề mà đều tự soi lấy tâm, tự thấy lấy tánh.<O:p></O:p>
30.– “Nếu tự mình chẳng tỏ ngộ, thì phải bực Đại-thiện-tri-thức là người hiểu rõ phép Tối-thượng-thừa, chỉ bảo con đường chơn-chánh. – Thiện-tri-thức ấy có cái nhơn-duyên lớn, nghĩa là giáo-hóa cho người được thấy tánh, hết thảy pháp lành đều nhờ nơi người thiện-tri-thức ấy phát khởi ra vậy.

<O:p></O:p>31.– “Các Phật ba đời<SUP>(1)</SUP> mười hai bộ kinh <SUP>(2)</SUP> ở trong tánh người vốn sẵn có đủ. – Nếu mình chẳng ngộ được, thì phải cầu người thiện-tri-thức chỉ bảo cho mới thấy. – Bằng mình ngộ được thì chẳng đợi cầu ai.<SUP>(3)</SUP> – Nếu cứ chấp rằng : cần phải có người thiện-tri-thức kia, để trong cậy người làm cho mình được giải thoát thì không có lẽ.

32.– “Bởi cớ sao ? – Bởi trong tâm mình có sẵn tri-thức tự tỏ ngộ rồi. – Bằng khởi tâm tà-mê vọng niệm điên-đảo, thì người thiện-tri-thức ở ngoài, dầu có chỉ dạy cũng không thể cứu được.
33.– “Còn như phát khởi cái trí Bát-nhã quán-chiếu chơn-chánh, trong một sát-na, vọng niệm đều tiêu diệt cả ; cho nên nếu biết được tự-tánh thì một phen tỏ ngộ, tức là đến địa vị Phật.<O:p></O:p>
34.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Trí huệ quán chiếu trong ngoài sáng suốt, biết rõ bổn tâm ; mà biết rõ bổn tâm, tức là gốc giải thoát ; bằng được giải thoát, tức Bát-nhã tam-muội ; mà Bát-nhã tam-muội tức là vô niệm.
<O:p></O:p>
35.– “Sao gọi là : vô-niệm ? Nếu thấy hết thảy các pháp mà tâm chẳng nhiễm tới, ấy là : vô-niệm, dùng ra thì khắp cả mọi chỗ, mà cũng chẳng chấp trước một chỗ nào, chỉ thanh tịnh lấy bổn tâm, khiến cho sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không ô-nhiễm, không xen-tạp, đi tới tự do, thông dụng không trệ, tức là : Bát-nhã tam-muội ; tự tại giải-thoát, ấy gọi là : hạnh vô-niệm. – Bằng như trăm việc chẳng nghĩ đến, làm cho cái niệm phải dứt, tức là pháp-phược (pháp trói) và cũng là : biên-kiến (thấy một bên).

36.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Ngộ được pháp vô-niệm thì muôn pháp đều thông ; ngộ được pháp vô-niệm thì thấy cảnh-giới của chư Phật ; ngộ được pháp vô-niệm, thì đến địa-vị Phật.<O:p></O:p>
37.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Đời sau những người được pháp của ta mà đem môn Đốn-giáo nầy đối với những kẻ đồng thấy đồng làm phát nguyện thọ trì, như thể thờ Phật, trọn đời chẳng sụt lui, muốn vào cho được Thánh-vị, thì phải truyền trao cho họ những cái “truyền ngầm dặn kỹ” từ xưa đến nay, chớ chẳng được dấu riêng chánh pháp.<O:p></O:p>
38.– “Bằng những người chẳng đồng thấy đồng làm, tu theo pháp khác, thì chẳng nên truyền phú, mà làm tổn đến người trước, trọn không ích gì, là sợ kẻ ngu chẳng rõ, trở lại dèm chê pháp-môn nầy, rồi trăm kiếp ngàn đời dứt mất chủng tánh Phật.<O:p></O:p>
39.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Ta có một bài tụng vô-tướng, mỗi người đều phải tụng lấy, kẻ tại gia và người xuất gia cứ tu theo đây ; nếu mình chẳng tự tu mà chỉ ghi nhớ lời ta, thì cũng vô ích !<O:p></O:p>
40.– “Vậy phải nghe bài tụng ta đây :
<O:p></O:p>
Thuyết thông<SUP>(4)</SUP> và tâm thông,<SUP>(5)</SUP><O:p></O:p>
Như nhựt ở trên không,<SUP>(6)</SUP><O:p></O:p>
Chỉ truyền pháp kiến-tánh,<SUP>(7)</SUP><O:p></O:p>
Ra đời dẹp tà-tông.<SUP>(8)</SUP><O:p></O:p>
Pháp vốn không đốn tiệm,<O:p></O:p>
Mê ngộ có chậm mau,<SUP>(9)</SUP><O:p></O:p>
Chỉ môn kiến-tánh ấy,<O:p></O:p>
Người ngu dễ thấu đâu.<SUP>(10)</SUP><O:p></O:p>
Nói tuy có nhiều cách,<O:p></O:p>
Rút về một lý thôi,<SUP>(11)</SUP><O:p></O:p>
Trong nhà phiền não tối,<O:p></O:p>
Ánh huệ phải hằng soi.<SUP>(12)</SUP><O:p></O:p>
Tà đến phiền não đến,<O:p></O:p>
Chánh về phiền não trừ,<SUP>(13)</SUP><O:p></O:p>
Chánh tà đều chẳng dụng,<O:p></O:p>
Thanh tịnh vốn vô dư.<SUP>(14)</SUP><O:p></O:p>
Bồ-đề gốc tự tánh,<O:p></O:p>
Khởi tâm tức là vọng,<SUP>(15)</SUP><O:p></O:p>
Tịnh tâm ở trong vọng,<O:p></O:p>
Vẫn chánh không ba chướng.<SUP>(16)</SUP><O:p></O:p>
Người đời nếu tu đạo,<O:p></O:p>
Chẳng hại gì hết thảy,<O:p></O:p>
Thường xét thấy lỗi mình,<O:p></O:p>
Cùng đạo in nhau vậy.<SUP>(17)</SUP><O:p></O:p>
Sắc loại sẵn có đạo,<O:p></O:p>
Đều chẳng phòng não nhau,<O:p></O:p>
Lìa đạo mà tìm đạo,<O:p></O:p>
Trọn đời thấy đạo đâu.<SUP>(18)</SUP><O:p></O:p>
Lao xao trót cả đời,<O:p></O:p>
Rốt cuộc rồi áo-não,<O:p></O:p>
Muốn được thấy đạo chơn,<O:p></O:p>
Làm chánh tức là đạo.<SUP>(19)</SUP><O:p></O:p>
Mình nếu không tâm đạo,<O:p></O:p>
Đi tới chẳng thấy đàng,<O:p></O:p>
Bằng thiệt người tu đạo,<O:p></O:p>
Không thấy lỗi thế gian.<SUP>(20)</SUP><O:p></O:p>
Nếu thấy sự quấy người,<O:p></O:p>
Mình chê tức là dở,<O:p></O:p>
Người quấy mình đừng chê,<O:p></O:p>
Mình chê mình có lỗi.<SUP>(21)</SUP><O:p></O:p>
Dẹp bỏ tâm chê bai,<O:p></O:p>
Đánh tan phiền não thảy,<O:p></O:p>
Ghét thương chẳng bận lòng,<O:p></O:p>
Nằm giũi hai chân nghỉ.<SUP>(22)</SUP><O:p></O:p>
Nghĩ muốn độ người kia,<O:p></O:p>
Mình phải có phương tiện,<O:p></O:p>
Đừng để kia nghi lầm,<O:p></O:p>
Tức là tự tánh hiện.<SUP>(23)</SUP><O:p></O:p>
Phật-pháp ở trong đời,<O:p></O:p>
Chẳng lìa đời mà có,<O:p></O:p>
Lìa đời tìm Bồ-đề,<O:p></O:p>
Nào khác cầu sừng thỏ.<SUP>(24)</SUP><O:p></O:p>
Thấy chánh kêu xuất-thế,<O:p></O:p>
Thấy tà gọi thế-gian,<O:p></O:p>
Chánh tà đều đánh dẹp,<O:p></O:p>
Tánh Bồ-đề rõ ràng.<SUP>(25)</SUP><O:p></O:p>
Tụng nầy là Đốn-giáo,<O:p></O:p>
Cũng kêu Đại-pháp thuyền,<O:p></O:p>
Mê, nghe trải nhiều kiếp,<O:p></O:p>
Ngộ, trong sát-na liền.<SUP>(26)</SUP>
<SUP></SUP><O:p></O:p>
41.– Tổ lại nói : “Nay ta ở nơi chùa Đại-phạm nói pháp Đốn-giáo nầy, khắp nguyện cho chúng-sanh trong cõi Pháp-giới nghe rồi liền thấy tánh thành Phật.”
<O:p></O:p>
42.– Khi ấy Vi-Sử-Quân cùng các quan-liêu, kẻ đạo người tục, nghe lời Tổ giảng dạy, không ai chẳng tỉnh ngộ, rồi cùng nhau làm lễ, đều khen thật hay ! Nào dè xứ Lãnh-Nam có Phật xuất thế.


</O:p>


<HR align=left SIZE=1 width="33%">
(1) Các Phật ba đời là nói : Một ngàn đức Phật trong kiếp Trang-Nghiêm về đời quá khứ và một ngàn đức Phật trong kiếp Hiền về đời hiện tại, với một ngàn đức Phật trong kiếp Tinh-Tú về đời vị lai.<O:p></O:p>
</O:p>

Nếu nói rộng ra thì chẳng những ba ngàn đức Phật ấy thôi, lại trước kiếp Trang-Nghiêm còn có đời quá khứ nữa và sau kiếp Tinh-Tú có đời vị lai nữa, trước trước không cùng, sau sau chẳng tột, đời kiếp đã trùng trùng vô tận như vậy, thì chư-Phật cũng vô lượng vô biên.
<O:p></O:p>
(2) Mười hai bộ kinh : 1. “Tu-đa-la” – Tàu dịch : Khế kinh – là những văn trường hàng nói thẳng trong các kinh ; 2. “Kỳ-dạ“ – Tàu dịch : Trùng-tụng – là trùng tuyên lại những nghĩa trong văn trường hàng kinh đã nói ; 3. “Dà-đà” – Tàu dịch : Phúng-tụng – là những lời kệ tụng trong các kinh, chẳng do theo văn trường hàng ; 4. “Ni-đà-na” – Tàu dịch : Nhơn-duyên – là những chỗ trong kinh nói về cái nhơn-duyên thấy Phật, nghe Pháp và Phật và nói Pháp giáo-hóa ; 5. “Y-đế-mục-đa” – Tàu dịch : Bản-sự – là những kinh Phật tự nói việc đời trước của đệ tử ; 6. “Xà-đa-dà” – Tàu dịch : Bản sanh – Những kinh Phật tự nói việc đời trước của Phật ; 7. “A-tỳ-đạt-ma” – Tàu dịch : Vị tằng hữu – là những kinh nói về việc thần lực của Phật hiện ra chưa từng có ; 8. “A-ba-đà-na” – Tàu dịch : Thí dụ – những chỗ nói ví dụ trong kinh ; 9. “Ưu-bà-đề-xá” – Tàu dịch : Luận nghĩa – là những kinh lấy pháp- mà luận nghĩa vấn đáp ; 10. “Ưu-đà-na” – Tàu dịch : Tự thuyết – là những kinh không ai hỏi mà Phật tự nói ; 11. “Tỳ-Phật-lược” – Tàu dịch : Phương-quảng – là những kinh Đại-thừa nói về chơn-lý chánh đáng rộng lớn ; 12. “Hòa-đa-la” – Tàu dịch : Thọ-ký – là những kinh mà Phật thọ ký cho đệ tử làm Phật.<O:p></O:p>
Cũng bởi chúng-sanh có nhiều nghiệp bịnh mà Phật nói ra thuốc pháp có nhiều phương, nên theo từng bộ loại mà khai làm mười hai phần, gọi là mười hai bộ. – Nhưng chư-Phật tuy nhiều mà cũng đồng một bản thể sáng suốt.<O:p></O:p>
Mười hai bộ kinh tuy đối cơ thi giáo, mỗi khác nhau mà đồng một phương pháp, chuyển mê khai ngộ, để hoàn về nơi bản thể sáng suốt mà cái bản thể sáng suốt ấy chính là cái sẵn có đủ ở trong tự tánh của mọi người, cho nên đây nơi “Các Phật ba đời, mười hai bộ kinh, ở trong tánh người vốn sẵn có đủ” là nghĩa như vậy.
<O:p></O:p>
(3) Nếu mình chẳng ngộ được thì phải cầu người thiện-tri-thức chỉ bảo cho mới thấy ; bằng mình ngộ được thì chẳng cầu đợi ai. Câu nói nầy cũng như câu nói “Khi mê thì thầy độ, lúc ngộ thì mình độ lấy mình” ở trước ; vì nghĩa chẳng “ngộ” tức là ”mê”, – nghĩa “thiện tri thức” tức là ”thầy”, – nghĩa “chỉ bảo” tức là ”độ” ; – nghĩa ”chẳng đợi cầu ai” tức là ”mình độ lấy mình”.<O:p></O:p>
Lại ý nghĩa câu nói nầy cũng như ý nghĩa câu chuyện lược thuật sau đây : Khi ngài Huy-Sơn Đại-Viên thiền sư qua tỉnh Giang-Tây tham với Tổ Bá-Trượng, Tổ vừa thấy liền cho vào bực nhập thất (là học đã tới chỗ sâu kín, cũng như đã vào được nhà trong) làm đầu trong các chúng tham học.<O:p></O:p>
Một hôm nọ, ngài Huy-Sơn đứng hầu, Tổ bảo bươi lò lấy lửa, Sơn bươi rồi nói : “Không lửa.”<O:p></O:p>
Tổ đứng dậy tự bươi sâu vào trong, gắp được chút lửa, giơ lên cho Sơn coi và nói rằng : “Ngươi nói không, chớ cái gì đây ?”<O:p></O:p>
Sơn nhơn đó mà tỏ ngộ, mới lạy tạ và bày chỗ tỏ-ngộ cho Tổ nghe.<O:p></O:p>
Tổ nói : “Đó chẳng qua con đường trẽ trong tạm-thời đó thôi, thiệt ra kinh có nói rằng : “Muốn biết nghĩa Phật-tánh, phải coi thời tiết nhơn-duyên ; thời tiết đến rồi, cũng như người mê thoạt tỉnh, người quên thoạt nhớ, mới biết là vật của mình, không phải do đâu mà đặng.”<O:p></O:p>
Trong câu chuyện nầy nói : ngài Huy-Sơn bươi lửa không có, tức là nghĩa : “mình chẳng ngộ được” ; – nói : Tổ gắp được chút lửa giơ cho ngài Huy-Sơn coi, tức là nghĩa : “thiện-tri-thức chỉ bảo cho mới thấy” ; – còn nói : mới biết là vật của mình, không phải do đâu mà đặng, tức là nghĩa : “bằng mình ngộ được, thì chẳng đợi cầu ai”.<O:p></O:p>

(4)Thuyết thông : là thuyết pháp được thông suốt, gồm đủ bốn thứ biện-giải không ngăn ngại : 1. Đối với văn-cú của giáo pháp đều rành-rẽ, tức là : “Pháp không ngăn ngại” ; 2. Đối với nghĩa lý của giáo-pháp đều biết rõ, tức là : “nghĩa không ngăn-ngại” ; 3. Đối với tiếng nói của mỗi xứ đều thông hiểu, tức là : “lời không ngăn-ngại” ; 4. Đối với chúng-sanh thì thường dùng ba thứ trí không ngăn-ngại ấy mà vui-vẻ biện-giải tức là : “biện nói không ngăn-ngại”.
<O:p></O:p>
(5) Tâm thông : là tâm đã lìa hết ngã-chấp, không còn phiền-não chướng, dù lại lìa hết pháp-chấp, không còn sở-tri-chướng, nên tâm được thông-suốt, gọi là : “tâm thông”.<O:p></O:p>


(6) Như nhựt ở trên không là nói : tâm thông thuyết thông, tức là : Bát-nhã-trí hiện tiền, bày rõ cái diệu-dụng quán-chiếu, cũng như mặt-nhựt ở giữa hư-không, soi khắp bầu trời, không chỗ nào che ngăn khuất lấp.<O:p></O:p>
(7) Chỉ truyền pháp kiến tánh : Cũng gọi là : pháp trực chỉ, tức là chỉ thẳng nơi tâm người, thấy tánh thành Phật vậy.<O:p></O:p>
(8) Ra đời dẹp tà tông : Tức là chín mươi sáu thứ ngoại đạo tu theo tông chỉ tà vọng, không đúng với chơn-lý.<O:p></O:p>
(9) Pháp vốn không đốn tiệm, mê ngộ có chậm mau : Pháp Phật vẫn bình đẳng (thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ), và tiếng Phật nói ra vẫn viên dung (Phật dỉ viên âm diễn thuyết pháp), thì có chi là đốn tiệm ; nhưng vì căn tánh của chúng-sanh có lợi độn (bén lụt) khác nhau mà thành chỗ nghe pháp có kẻ chóng tỏ và có người chậm tỏ.<O:p></O:p>
“Chóng tỏ” gọi là : đốn ; “chậm tỏ” gọi là : tiệm.<O:p></O:p>
(10) Chỉ môn kiến-tánh ấy, người ngu dễ thấu đâu : Pháp môn kiến tánh tức là pháp “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”, chớ không theo giai-cấp tu chứng mà lên lần, cũng gọi là pháp Đốn-giáo.<O:p></O:p>
Còn “người ngu” là thông chỉ cả phàm phu, ngoại đạo và nhị thừa ; vì phàm phu thì còn mê ở trong lồng bát-thức mà vọng chấp cái thân “ngũ uẩn giả hiệp” làm ta ; ngoại đạo thì tuy thông minh mà cũng không khỏi bị bát-thức làm mê, rồi nể-chấp trong thân người thiệt có cái “thần ngã” ; cho đến bực nhị thừa mà cũng chưa phá được tạng thức. – Thế thì biết nếu chưa thoát ra ngoài phạm vi bát-thức, thì không làm sao thấy được tự tánh ; vậy nên gọi là : ngu.<O:p></O:p>
(11) Nói tuy có nhiều cách, rút về một lý thôi : “Nhiều cách”, là những pháp nói ra tuy có tam-thừa ; ngũ-giáo, phương-tiện nhiều môn, mà rốt lại cũng hiển rõ cái lý nhứt-thừa thiệt-tướng.<O:p></O:p>
(12) Trong nhà phiền não tối, ánh huệ phải hằng soi : “Nhà phiền não tối” nói đây có hai nghĩa thích :<O:p></O:p>
1. Nói về phần cá-kỷ của một chúng-sanh, thì nhà phiền-não ấy tức là nhà Ngũ-uẩn ;<O:p></O:p>
2. Nói về toàn-thể của hết thảy chúng-sanh, thì nhà phiền-não ấy tức là nhà Tam-giới.<O:p></O:p>
Vì nhà Ngũ uẩn và nhà Tam-giới cũng đều do nơi vô-minh pháp nghiệp mà tạo thành ra, mà vô minh chính cái tâm-thể si-ám, không có huệ sáng-suốt, nó làm căn-bản cho hết thảy các thứ phiền-não, vậy nên gọi là : nhà phiền-não tối.<O:p></O:p>
Còn “ánh huệ” là nói : quán-chiếu bát-nhã. – Quán-chiếu bát-nhã có năng lực diệt trừ hết cái si-mê hôn-ám của căn-bản phiền não (tham, sân, si) mà hoàn cái tánh bản minh trở lại ; cũng như ánh sáng mặt trời có năng lực phá tan hết cái tối tăm trong thế gian trở nên sáng láng. – Cho nên người tu cần phải thường dùng nó, để chiếu phá cái tối phiền não.<O:p></O:p>
(13) Tà đến phiền não đến, chánh về phiền não trừ : “Tà” là tà kiến, tức là cái thấy sai lầm, cho rằng không có nhơn quả, nên đối với sự ác không đủ sợ, đối với sự lành không đủ mừng. – Cái thấy tà ấy chính là một cái trong năm cái thấy (thân-kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiến-thủ-kiến, giới-cấm-thủ-kiến), nó thuộc về chi mạt phiền não ; mà chi mạt phiền não chính do nơi căn bản phiền não sanh ra, cho nên nói : “tà đến phiền não đến”.<O:p></O:p>
Còn “chánh” là chánh trí, tức là trí bát-nhã ; mà trí bát-nhã là do nơi giác (bồ-đề) sanh ra, phiền não là do nơi mê (vô-minh) mà có, nếu người đem cái giác trở về, thì lẽ tất nhiên cái mê phải hết ; cũng ví như người trong khi đã thức giấc, thì đâu còn chiêm bao nữa ; cho nên nói : ”chánh về phiền não trừ”.<O:p></O:p>
(14) Chánh tà đều chẳng dụng, thanh tịnh đến vô dư : “Vô-dư” là vô-dư niết-bàn.<O:p></O:p>
Niết-bàn là tiếng Phạm, – Tàu dịch : Diệt-độ nghĩa là : Dứt hết cái nhơn quả sanh tử và qua khỏi cái biển lớn sanh tử, không còn hai thứ sanh tử “phân đoạn và biến dịch” làm khổ hoạn nữa nên gọi là : Vô-dư niết-bàn.<O:p></O:p>
Trong khi còn tại mê, thì còn phân biệt nói tà nói chánh, để lấy chánh trị tà cho tà hườn lại chánh ; chớ khi đã giác ngộ tự tánh rồi, thì chẳng những tà kiến là thứ sanh phiền não, không còn dùng nó vẫn đành, mà đến như chánh trí là món diệt trừ phiền não cũng không dùng đến nó nữa ; ví như người qua biển mà đã đi đến bờ biển bên kia rồi thì phải bỏ thuyền, vậy mới gọi là : thanh tịnh đi đến cảnh giới vô-dư niết-bàn.<O:p></O:p>
Bằng như đã bỏ hết tà rồi mà còn giữ lấy cái chánh, tức là tâm còn chấp pháp, còn bị pháp làm chướng ngại, thì không sao thanh tịnh được, ấy chẳng khác nào những kẻ đã qua tới bờ biển bên kia mà còn vác cái thuyền đi theo bên mình, thì chẳng bao giờ có phần tự tại.<O:p></O:p>
Huống chi cái bản thể của tự tánh gốc vẫn thanh tịnh, mà nếu còn khởi tâm phân biệt tà chánh, dứt bỏ cái nầy chấp lấy cái khác, tức là trái hẳn với bản thể thanh tịnh rồi, thì làm sao vào được vô-dư niết-bàn.<O:p></O:p>
(15) Bồ-đề gốc tự tánh, khởi tâm tức là vọng : “Bồ-đề” là tiếng Phạm, – Tàu dịch : giác, là nghĩa thức tỉnh, sáng suốt là chẳng tối, tự tánh giác ấy lúc nào vẫn cũng thanh tịnh luôn. – Nếu khởi tâm động niệm tức là trái với cái tự tánh giác ; mà đã trái với giác tức là mê là tối, thì thuộc về vọng, chớ không phải chơn.<O:p></O:p>
Nhưng phải biết : câu “khởi tâm tức là vọng” nói đây, không phải chỉ nói khởi tâm : tham, sân, si, mạn, vân vân… mà gọi là “vọng” thôi, nhẫn đến khởi tâm : học thiền, học đạo, cầu ngộ, cầu chứng, ấy cũng gọi là “vọng” nữa. – Vì tự tánh giác bản lai chẳng loạn động tức là thiền, – bản lai hằng chơn chánh tức là đạo, – bản lai không mê tức là ngộ, – bản lai làm Phật tức là chứng – còn có gì mà học mà cầu ; thế nên cái khởi tâm ấy cũng tức là vọng.<O:p></O:p>
Ví như cái biển trong trẻo đứng lặng, mà thoạt nhiên cảm gió thành sóng, thì bao nhiêu làn sóng kia dầu đục dầu trong dầu nhơ dầu sạch gì, cũng đều là thứ sóng, làm cho biển nước lay động cả – tâm phàm tâm thánh gì, cũng đều là thứ tâm làm cho tự tánh giác mất thể thanh tịnh, cho nên nói : “Khởi tâm tức vọng” là thế.<O:p></O:p>
(16) Tịnh tâm ở trong vọng vẫn chánh không ba chướng : “Tịnh tâm” là tâm chơn như gốc vẫn thanh tịnh. – “Ở trong vọng”, là ở xen lộn trong vọng thức. “Ba chướng”, là : phiền não chướng, nghiệp chướng, và báo chướng.<O:p></O:p>
Chơn tâm tuy ở xen lộn trong vọng thức mà lúc nào nó cũng thanh tịnh luôn, nó không khởi ra những hoặc : tham, sân, si… cho nên không có phiền não chướng – nó không tạo những nghiệp : ngũ nghịch, thập ác, cho nên không có nghiệp chướng ; nó đã không khởi hoặc, tạo nghiệp, thì không thọ những cái khổ báo : địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ; cho nên không có báo chướng.<O:p></O:p>
(17) Người đời nếu tu đạo, chẳng hại gì hết thảy, thường xét lấy lỗi mình, cùng đạo in nhau vậy : “Đạo” là nghĩa : “hay thông”, vì có năng lực thông cái nhơn đi đến cái quả và thông cái quả trả lại cái nhơn, nên gọi là : đạo. – Đại khái có ba :<O:p></O:p>
1. “Hữu lậu đạo”, là nói : Những thiện nghiệp hay thông cho người đi đến đường phước thiện, như đường Trời Tiên và Người, vân vân…, lại những ác nghiệp hay thông cho người đi đến đường tội báo, như đường địa ngục, ngạ quỷ, và súc-sanh, vân vân…<O:p></O:p>
2. “Vô-lậu-đạo” là nói : Những pháp thất giác (trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, định, niệm), bát chánh (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh ngiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định) hay thông cho người đi đến Niết bàn.<O:p></O:p>
3. “Cái thể niết bàn”, cái thể ấy bài trừ hết thảy các thứ chướng ngại, nó vẫn rỗng trống, vắng lặng mầu nhiệm, dung-thông, nên gọi là : Đạo.<O:p></O:p>
Mà nghĩa “Đạo” nói trên đây, chính là nói nghĩa “Đạo” thứ ba ấy. – Đại ý nói : Nếu người đời biết được nghĩa “Đạo” tức là cái thể Niết-bàn ; cái thể Niết-bàn tức là Đạo ; mà Đạo hay là thể Niết-bàn với cái tâm chân như thanh tịnh của ta đương xen lộn ở trong vọng thức ngày nay đây, nó vẫn không hai không khác, biết được như vậy mà dùng cái tâm ấy thiệt hành cái Đạo, thì không có chi phòng ngại tất cả.<O:p></O:p>
Nhưng thiệt hành (tu) bằng cách nào ? – Nghĩa là phải thường thường tự thấy lỗi mình là cái lỗi khởi tâm động niệm vì khởi tâm tức là sai, động niệm tức là trái, tức là sai hẳn trái với bản thể rỗng trống vắng lặng của Đạo ; cho nên tự mình thường thấy cái lỗi ấy, mà đừng khởi đừng động, thì tự nhiên khế hiệp với đạo ngay.<O:p></O:p>
(18) Sắc loại sẵn có đạo, đều chẳng phòng não nhau, lìa đạo mà tìm đạo, trọn đời thấy đạo đâu : “Sắc loại” là những vật tượng có hình sắc chất ngại như : xanh, vàng, đỏ, trắng, núi, sông, cây, đá, vân vân… Đây nói : “sắc loại sẵn có đạo” cũng như trong kinh Lăng Nghiêm nói : “Từ nơi sắc thân nhẫn đến ngoài, thì núi, sông, hư không, đất liền, đều là vật ở trong diệu minh chơn tâm.<O:p></O:p>
Lại trong luận Duy Thức nói : “hết thảy sắc pháp là tướng phần của thức A-lại-da biến hiện”, mà thức A-lại-da chính là do một niệm bất giác, mê tâm chơn như mà thành ra.<O:p></O:p>
Nếu sắc loại đã là tướng phần của thức A-lại-da và là vật ở trong diệu minh chơn tâm sở hiện, thì nó vẫn là có đạo mà nó đã có đạo tức là nó với ta đồng một bản thể, thì có cái gì làm phòng ngại não loạn đến ta đâu !<O:p></O:p>
Nếu ta không rõ thấu cái bản tâm “muôn vật một thể” ấy là đạo, mà lìa ngoài vũ trụ vạn hữu để tìm đạo thì ta với đạo càng phân cách xa mà trọn đời không thấy đạo được.<O:p></O:p>
(19) Lao xao trót cả đời, rốt cuộc rồi áo não ; muốn được thấy đạo chơn, làm chánh tức là đạo : Bởi câu trên nói : lìa đạo mà tìm đạo, trọn đời không thấy đạo, mà nếu đã không thấy đạo thì nẻo tu hành chắc lạc vào lối thiên ma ngoại đạo rồi rốt cuộc không khỏi bị hoặc nghiệp lôi kéo vào trong biển khổ sanh tử mà mình tự làm áo não (uất-giận) lấy mình.<O:p></O:p>
Nhưng muốn thấy được chơn đạo, thì phải làm cách nào ? – Nghĩa là : phải làm theo cái tâm chơn-chánh là cái tâm xa lìa hết thảy các thứ thiên-chấp (chấp có, chấp không, chấp ngã, chấp pháp) của phàm phu, nhị thừa và các thứ tà-kể (thường kể không thường, không thường kể thường) của ngoại đạo, thì tức là thấy đạo.<O:p></O:p>
(20) Mình nếu không tâm đạo, đi tới chẳng thấy đàng ; bằng thiệt người tu đạo, không thấy lỗi thế gian – Trong bốn câu tụng nầy, thì hai câu trên là nói : những người không tâm đạo thì không thấy được đạo ; – hai câu dưới là nói : những người thiệt tu đạo, thì không thấy lỗi người.<O:p></O:p>
Sao gọi là : người không tâm đạo ? – Bởi vì người nhận lầm cái thức-tâm, sanh diệt, tiếp xúc với hoàn cảnh ấy làm thiệt, rồi khởi ra các nghiệp, tham sân, phiền-não, làm cho mê mất cái bản thể rỗng trống, vắng lặng của đạo mà thành không thấy được cái đạo ; cũng ví như người đi lúc đêm tối mà bị cái tối làm cho không thấy được đường.<O:p></O:p>
Sao gọi là : người thiệt tu đạo ? – Nguyên lai không phải tập quán, ngồi thiền, trì tụng, nghiên cứu gọi là : tu ; thiệt ra những người không thấy cái lỗi của thế gian mới thiệt là người chơn tu. – Vì những người ấy là người đã chứng tỏ cái toàn-thể thanh tịnh của pháp giới, trong tâm không còn cái ngã chấp phân biệt nên không thấy lỗi của phàm phu, và cũng không còn cái pháp chấp phân biệt nên không thấy lỗi của nhị thừa ; – mà ngã pháp phân biệt của ý thức đã không hiện hành luôn luôn thì ngã pháp cu-sanh của Mạt-na-thức cũng không còn lực lượng gì mà huân thành chủng tử đưa vào trong ruộng bát thức A-lại-da được nữa, tức là cu-sanh ngã pháp cũng phải tiêu-dung mà hoàn lại cái bản thể chơn không tịch-diệt. – Như thế mới thiệt là người chơn tu đạo.<O:p></O:p>
Thế gian có ba thứ : 1. Khí thế gian, – 2. Chúng-sanh thế gian, – và 3. Trí chánh giác thế gian mà thế gian nói đây là chúng-sanh thế gian vậy.<O:p></O:p>
(21) Nếu thấy sự quấy người, mình chê tức là dở, người quấy mình đừng chê, mình chê mình có lỗi : Người quấy là bởi người còn tại mê, nên khởi hoặc, tạo nghiệp thành ra quấy mà mình còn thấy sự quấy của người là mình còn tánh ngã-chấp phân biệt, thì mình cũng mê như người, không khác gì !<O:p></O:p>
Mình cũng mê như người mà mình chê người, thì mình càng thêm có lỗi ; Vì trong sự chê ấy gồm đủ ba nghiệp chẳng lành : 1. Chê ở trong tâm là ý nghiệp chẳng lành, – 2. Chê phát ra lời nói là khẩu nghiệp chẳng lành, – 3. Chê hình ra diện mạo là thân nghiệp chẳng lành.<O:p></O:p>
Nếu ba nghiệp đều chẳng lành, thì còn có lỗi gì hơn nữa !<O:p></O:p>
(22) Dẹp bỏ tâm chê bai, đánh tan phiền-não thảy, – ghét thương chẳng bận lòng, nằm giũi hai chân nghỉ : Tâm chê bai tức là tâm “ngã chấp phân biệt” ; bởi ngã chấp phân biệt mới lãnh nạp những hoàn cảnh thuận nghịch ở ngoài, cảnh nào thuận với cái “ta” thì khen, cảnh nào nghịch với cái “ta” thì chê, vì vậy mà gây nên các nghiệp phiền não (căn bản phiền não và chi mạt phiền não). – Bây giờ nếu dẹp bỏ được tâm (ngã chấp phân biệt) ấy, thì không do đâu có nghiệp phiền não, tức là nghĩa “đánh tan phiền não” vậy.<O:p></O:p>
Sau khi đánh tan nghiệp phiền não rồi, chẳng những oán thân bình đẳng, không ghét kẻ thù, không thương người nghĩa mà cũng chư pháp bình đẳng, không ghét sanh tử, không thương Niết-bàn, tức là sự ghét sự thương không vướng buộc vào tâm mà tâm được thanh tịnh ; đến lúc ấy là lúc vô sự của người tu hành, lìa cả ngã chấp và pháp chấp mà biểu lộ cái bản tướng cứu cảnh Niết-bàn, cho nên nói : nằm giũi hai chân nghỉ.<O:p></O:p>
Nằm nghỉ là hiển thị cái nghĩa “cứu cảnh Niết-bàn” ; – giũi hai chơn, là hiển thị cái nghĩa “lìa hết ngã chấp và pháp chấp”.<O:p></O:p>
(23) Nghĩ muốn độ người kia, mình phải có phương tiện – đừng để kia nghi lầm, tức là tự tánh hiện : “Phương” là phương pháp, – “tiện” là tiện dụng là tiện dùng cái phương pháp hợp với căn cơ của chúng-sanh ; tức như mình muốn hóa độ người mê trở nên ngộ, vọng trở về chơn, thì tự mình phải đủ phương tiện, tùy cơ nói pháp, tùy bịnh cho thuốc, khiến người rõ được cái lý : mê ngộ đồng nguồn, chơn vọng một gốc, ngoài mê không ngộ, ngoài vọng không chơn, cũng như nước với sóng, nguyên lai một thể, đừng để cho người còn có cái nghi “tâm là tự, Phật là tha” ; hay “chúng-sanh là phàm, Phật là thánh”, mà thành tự tha phàm thánh phân cách ; mỗi mỗi nói ra một câu gì hay một pháp gì cũng thâu về nơi tự tánh bản-giác thì người hết sự nghi lầm, tức là tự tánh hiển hiện.<O:p></O:p>
(24) Phật pháp ở trong đời, chẳng lìa đời mà có, – lìa đời tìm Bồ-đề, nào khác cầu sừng thỏ : Phật pháp với thế gian cũng không ngoài tự tánh ; tự tánh mê là thế gian, tự tánh giác là Phật pháp ; tự tánh vọng là thế gian, tự tánh chơn là Phật pháp ; chơn ở trong vọng, ngoài vọng không chơn, giác ở trong mê, ngoài mê không giác ; chơn với vọng như nước với sóng, giác với mê như thức với ngủ ; ngoài sóng không nước, ngoài ngủ không thức ; cho nên nói : không thể lìa thế gian mà có Phật pháp là vậy.<O:p></O:p>
Nếu lìa thế gian mà tìm Bồ-đề Phật-pháp, thì không bao giờ có ; cũng chẳng khác nào thỏ vốn không sừng mà đi tìm sừng thỏ, thì làm sao có đặng.<O:p></O:p>
(25) Thấy chánh kêu xuất thế, thấy tà gọi thế gian, – chánh tà đều đánh dẹp, tánh Bồ-đề rõ ràng : Thấy chánh (chánh kiến) là một món trong tám món chánh đạo, do nơi huệ vô lậu mà thấy rõ bốn pháp Diệu đế, không còn các thứ kiến hoặc trong Tam giới, nên kêu là : xuất thế.<O:p></O:p>
Thấy tà (tà kiến) là một món trong năm món thấy, tức là cái thấy tà vọng, không tin nhơn quả, không sợ tội phước nó chính do nơi căn bản phiền não sanh ra, làm cho chúng-sanh không thoát khỏi luân hồi sanh tử ; cũng bởi nơi nó, nên gọi là : thế-gian.<O:p></O:p>
Nhưng tự nơi mê ngộ phân biệt mà nói, thì có chánh kiến tà kiến ; thiệt ra thì cái thể Bồ-đề Niết-bàn gốc vẫn thanh tịnh vốn không có chi là tà là chánh, cho nên đánh dẹp hết các thứ tà chánh, tức là tâm không còn thủ xả phân biệt, thì tánh thể Bồ-đề y nhiên thanh tịnh vậy.<O:p></O:p>
(26) Tụng nầy là Đốn-giáo, cũng kêu Đại-pháp-thuyền – “mê” nghe trải nhiều kiếp, “ngộ” trong sát-na liền : Đốn-giáo là một giáo-lý xứng tánh mà nói, chẳng do nơi giai cấp tu chứng ; mà giáo-lý đã chẳng do nơi giai cấp tu chứng ; thì không phải dễ nghe ; cho nên những người mê giáo lý ấy tức là mê tự-tánh, thì dầu nghe đến nhiều kiếp cũng chưa chắc hiểu, – còn những người ngộ giáo lý ấy tức là ngộ tánh, thì nghe nói hiểu liền trong sát-na.<O:p></O:p>
“Sát-na“ là một thời gian rất ngắn. – Trong Đại-tạng pháp số nói : trong một niệm có chín mươi sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt.
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Phẩm Quyết-Nghi
PHẨM QUYẾT - NGHI
* * * * * *
THỨ BA

1.– Một ngày kia Vi-Thứ-sử vì Tổ, thiết một tiệc chay đại-hội. – Khi chay rồi , quan Thứ-sử thỉnh Tổ thăng tọa , ông cùng các quan liêu sĩ thứ, nghiêm-chỉnh dung nhan lễ bái rồi thưa rằng : ”Đệ-tử nghe Hòa-thượng nói pháp, thiệt không thể nghĩ đặng, bàn đặng ; nhưng nay còn có chút nghi, xin sẵn lòng đại-từ đại-bi thương vì chúng tôi bày tỏ.”
2.– Tổ nói : “Có chỗ chi nghi cứ hỏi , ta sẽ nói , cho .”
3.– Vi-Công bạch : “Những chỗ Hòa-thượng nói , có phải là tông-chỉ của Đạt-Ma Đại-sư chăng ?”
4.– Tổ nói : “Phải !”
5.– Vi-Công nói : “Đệ-tử nghe Tổ-sư Đạt-Ma ban sơ đến hóa độ vua Lương-Võ-Đế ; vua Võ Đế hỏi : “Trẫm trọn đời làm những việc : lập chùa , độ tăng , bố-thí thiết trai ; như vậy có công đức chi không ?” – Đạt-Ma nói : “Thiệt không công-đức !” (1) – Đệ-tử nầy chưa thông lý ấy , cầu xin Hòa-thượng chỉ bày.”
6.– Tổ nói : “Cái đó thiệt không công-đức chớ nghi lời nói của Thánh-Tổ trước ! – Bởi vì vua Võ-Đế tâm tà , chẳng biết pháp chánh. (2) – Việc lập chùa, độ tăng bố-thí, thiết trai ấy, gọi là cầu phước, chẳng nên đem phước nhận làm công-đức, thiệt ra công-đức ở trong pháp-thân, chớ chẳng ở nơi tu phước.”
7.– Tổ lại nói tiếp : “Kiến-tánh là công, bình-đẳng là đức, niệm-niệm không trở trệ, hằng thấy cái diệu-dụng chơn-thiệt của bản-tánh, gọi là công-đức.
8.– “Trong tâm khiêm tốn là công, ngoài làm theo tu là đức ; tự-tánh gầy dựng muôn pháp là công, tâm-thể lìa niệm là đức ; chẳng lìa tự-tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức ; nếu tìm công-đức trong pháp-thân thì y theo đó mà làm, ấy là : chơn-công-đức. – Hễ người tu công-đức, tức là tâm chẳng khinh người, mà thường đối với ai cũng kính nhường hết thảy.
9.– “Còn như tâm hằng khinh người, thì tánh vị-ngã chẳng dứt, tức là mình không công, tự-tánh giả dối chẳng thật, tức là mình không đức. – Vì tánh vị-ngã tự-cao, tự-đại, thường khinh thị hết thảy mọi người.
10.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Niệm-niệm không xen-hở là công, tâm làm bằng thẳng là đức ; tự tu tánh mình là công, tự tu thân mình là đức.
11.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Công-đức cần phải rõ thấy ở trong tự-tánh, chớ chẳng phải sự bố-thí cúng-dường mà cầu được. – Bởi vậy nên Phước-đức với Công-đức khác nhau. – Đó là vua Võ-Đế không biết chơn-lý, chớ chẳng phải Tổ-sư ta có lỗi.”
12.– Quan Thứ-sử lại hỏi : ”Đệ-tử hằng thấy kẻ tăng người tục, niệm Phật A-Di-Đà, cầu sanh về Tây-phương, chẳng biết quả được sanh về chăng ? – Cúi xin Hòa-thượng giải bày, ngõ khỏi điều nghi hoặc.”
13.– Tổ nói : “Thứ-sử hãy nghe kỹ, Huệ-Năng nầy nói : Hồi xưa Đức Thích-Ca Thế-Tôn, khi ở trong thành Xá-Vệ nói kinh, có dẫn cõi Tây-phương để hóa đạo chúng-sanh ; ngài chỉ rõ Tây-phương cách đây chẳng xa, nếu luận theo tướng mà nói, thì số có mười muôn tám ngàn dặm, tức là trong thân người có mười điều ác, tám điều tà, ấy là nói xa. (3)
14.– “Nói xa là nói kẻ hạ-căn, nói gần là nói với người thượng-trí ; người tuy có hai hạng, pháp vốn không hai bực ; bởi có mê có ngộ, nên thấy có chậm có mau. – Người mê thì niệm Phật, cầu sanh về cõi kia ; người ngộ thì tự tịnh lấy tâm mình.
15.– “Bởi vậy nên Phật nói : “Tùy nơi tâm minh-tịnh, tức là cõi Phật tịnh” ; Sử-quân là người ở phương Đông, hễ tâm tịnh là không tội ; còn kia tuy là người ở phương Tây mà tâm chẳng tịnh cũng tức là có lỗi. – Người ở phương Đông làm điều tội, niệm Phật cầu sanh về Tây-phương, còn người ở phương Tây làm điều tội, thì niệm Phật cầu sanh nước nào ?
16.– “Kẻ phàm-phu chẳng rõ được tự-tánh, chẳng biết Tịnh-độ ở trong thân mình, mà cầu Đông cầu Tây ; chớ người đã tỏ ngộ, thì ở chỗ nào cũng vậy, sở dĩ Phật nói : “Tùy ở chỗ nào cũng thường yên vui.” – Nếu tâm của Sử-quân không điều gì chẳng lành, thì Tây-phương cách đây chẳng xa ; bằng như ôm giữ cái tâm chẳng lành, thì dầu có niệm Phật, cầu vãng sanh cũng khó đến được.
17.– “Nay ta khuyên thiện-tri-thức phải ! Trước trừ mười điều ác tức là đi được mười muôn dặm, sau trừ tám điều tà, tức là qua khỏi tám ngàn dặm. Niệm niệm thấy tánh, hằng thiệt hành cái tâm bằng-thẳng, thì đi đến Tây-phương chóng lẹ như khảy móng tay, mà thấy Phật Di-Đà liền.
18.– “Sử-quân cứ làm theo mười điều lành, cần gì phải nguyện vãng-sanh ; nếu tâm không dứt được mười điều dữ, thì Phật nào đi đến rước mình. – Cho nên ngộ được vô sanh Đốn-pháp nầy, thì chỉ trong giây phút thấy cõi Tây-phương ; bằng chẳng ngộ mà niệm Phật, thì con đường cầu sanh càng cách xa, thế nào thấu được !
19.– “Nay Huệ-Năng xin dời cõi Tây-phương sang đây trong giây phút cho các ngươi thấy rõ trước mắt, vậy các ngươi có ưng thấy không ?”
20.– Chúng-nhơn đảnh lễ bạch rằng : “Nếu ở chỗ nầy mà được thấy Tây-phương, thì cần gì nguyện vãng-sanh về đó ; vậy xin Hòa-thượng từ-bi hiện liền cõi Tây-phương cho chúng tôi đặng thấy.”
21.– Tổ nói : “Nầy Đại-chúng ! – Người đời cái sắc-thân ấy là Thành(4) ; mắt tai, mũi, lưỡi, là Cửa ; ngoài có năm cửa, trong có cửa Ý, tâm là cõi đất, (5) tánh là Vua. – Vua ở trên cõi đất tâm(6) tánh ở thì Vua ở, tánh đi thì Vua đi, tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm rã, – Phật do trong tánh mà làm, chớ tới ngoài thân tìm kiếm !
22.– “Tự-tánh hôn-mê tức là chúng-sanh, tự-tánh giác-ngộ tức là Phật, từ-bi tức là Quan-Âm, hỷ-xả gọi là Thế-Chí, thanh-tịnh tức là Thích-Ca, bằng-thẳng tức là Di-Đà.
23.– “Còn nhơn-ngã là núi Tu-Di, tâm tà-vạy là biển nước, phiền-não là làn sóng, độc-hại là rồng dữ, giả-dối là quỷ-thần, trần-lao là cá-trạnh, tham-giận là địa-ngục, ngu-si là súc-sanh.
24.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Hằng làm mười điều lành thì Thiên-đường đưa đến, trừ cái thấy nhơn-ngã thì núi Tu-Di đổ, bỏ cái tâm tà-vạy thì biển nước khô không phiền-não thì làn-sóng tạnh, quên độc-hại thì cá rồng tuyệt.
25.– “Ông Phật giác-tánh ở trên cõi tự-tâm, phóng ra đại ánh sáng, ngoài soi sáu cửa thanh-tịnh, phá hết các trời Lục-dục, chiếu vào tự-tánh, ba độc dứt liền, các tội Địa-ngục thảy đều tiêu diệt, trong ngoài sáng suốt không khác gì cõi Tây-phương ; nếu chẳng tu theo pháp ấy, thì làm sao đi đến cõi kia được !”
26.– Đại-chúng nghe Tổ nói, rõ ràng thấy tánh, thảy đều lễ lạy đồng khen thật hay, rồi cất tiếng nói to rằng : “Nguyện tất cả chúng-sanh trong pháp-giới, ai nghe cũng tỏ ngộ liền.”
27.– Tổ nói : “Thiện-tri-thức ! – Nếu muốn tu hành thì ở nhà cũng được, chẳng cần phải ở chùa (7) ; ở nhà mà làm được cũng như người phương Đông tâm lành, còn ở chùa mà chẳng tu cũng như người phương Tây tâm ác ; chỉ tâm thanh-tịnh tức là tự tánh Tây-phương.”
28.– Vi-công hỏi : “Ở nhà tu hành bằng cách nào, xin nhờ chỉ dạy ?”
29.– Tổ nói : “Ta đối với đại-chúng làm ra bài Tụng-vô-tướng, cứ y theo đó mà tu, thì như các ngươi hằng ở cùng ta một chỗ. – Bằng chẳng tu theo đó, thì dầu cạo đầu xuất gia cũng không ích gì với đạo.
30.– Tụng rằng :
Tâm bằng<SUP>(8)</SUP> chẳng cần giữ giới,
Hạnh thẳng<SUP>(9)</SUP> nào đợi tu thiền,
Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ,
Nghĩa thì trên dưới cùng thương,
Nhượng thì lớn nhỏ hòa thuận,
Nhẫn thì các dữ dẹp yên.
Nếu được giùi cây ra lửa,<SUP>(10)</SUP>
Bùn lầy chắc trổ bông sen,<SUP>(11)</SUP>
Đắng miệng ấy là lương-dược,<SUP>(12)</SUP>
Trái tai hẳn thiệt trung-nghiên,<SUP>(13)</SUP>
Đổi lỗi ắt sanh trí-huệ,<SUP>(14)</SUP>
Che dở tâm đâu phải hiền.<SUP>(15)</SUP>
Hằng ngày làm sự lợi ích,
Thành đạo chẳng tại thí tiền,<SUP>(16)</SUP>
Bồ-đề do tâm tìm thấy,
Nhọc chi ngoài tánh cầu huyền,<SUP>(17)</SUP>
Nghe nói cứ tu theo đó,
Thiên-đường trông thấy nhãn tiền.<SUP>(18)</SUP>
31.– Tổ lại nói : “Thiện-tri-thức ! – Các ngươi đều phải y theo lời kệ nầy tu hành, thấy lấy tự tánh, thẳng đến thành Phật, pháp chẳng cùng đợi, các ngươi hãy giải-tán, để ta về Tào-Khê ; nếu các ngươi còn có chỗ nghi, sẽ đến cùng nhau hỏi nói.”
32.– Khi ấy Vi-Thứ-sử và các quan liêu cùng thiện nam tín nữ tại hội, thảy đều tỏ ngộ tin chịu vâng làm.*

<HR align=left SIZE=1 width="33%">(1) Từ câu : ”Tổ Đạt-Ma ban sơ đến hóa độ vua Lương-Võ-Đế”… tới câu : “Tổ Đạt-Ma nói : Thiệt không công-đức“ : Đây nói : Lập chùa, độ tăng, thiết trai, tuy riêng ra từng chuyện mà tóm lại cũng thuộc về pháp bố-thí.
Bố-thí là một pháp đặc biệt do nơi miệng vàng của Phật thốt ra và là một pháp đứng đầu trong sáu độ của Bồ-tát tu hạnh mà Tổ Đạt-Ma sao lại bác khước, cho rằng không có công đức ?
Bởi vì vua Lương-Võ, trong khi gặp tổ Đạt-Ma mà hỏi : “Ta làm việc bố-thí như vậy có công đức chi không”, một câu hỏi ấy đủ biết ông chưa đạt tới cái lý “tam luân thể không” trong pháp bố-thí tâm còn hy vọng phước báo, tức là tâm còn trụ tướng, không phải nghĩa bố-thícủa Bồ-tát làm, cho nên Tổ Đạt-Ma nói : “Thiệt không có công-đức”, nghĩa là nói : Bố-thí mà còn trụ tướng, thì chỉ được cái tiểu quả ở cõi Nhơn-Thiên chớ đối với phần công đức vô lậu thì không có.
Xem vậy thì biết câu nói : “Thiệt không công đức” của Tổ Đạt-Ma nói đó là bác khước cái bố-thí trụ-tướng của vua Lương-Võ-Đế, chớ đâu phải là ngài bác khước bố-thí !
Còn câu nói : “chỉ được cái tiểu quả ở cõi Nhơn-Thiên” là đối với “công đức vô-lậu” của pháp xuất thế, thì phước báo Nhơn-Thiên vẫn nhỏ, cho nên kêu là : tiểu quả ; vì phước báo Nhơn-Thiên thuộc về hữu lậu, dầu có khoái lạc đến đâu cũng có lúc phải hết mà trở lại chịu sự thống khổ ; cũng ví như mũi tên bắn lên hư không, dầu lên cao cho mấy, đến lúc sức đi của mũi tên cùng tột rồi thì nó cũng phải rơi xuống đất.
Cho nên những người làm việc bố-thí, không nên nhận lầm câu nói của Tổ Đạt-Ma mà sanh lòng thối chuyển ; còn những người có tánh xan lẫn cũng không nên mượn câu nói của Tổ Đạt-Ma rồi bài xích cái pháp bố-thí mà mang tội. – Miễn làm việc bố-thí mà tự mình không nghĩ mình là người năng thí, không nghĩ kẻ kia là người thọ thí, và cũng không nghĩ vật của mình đưa ra đó là vật sở thí, tức là “tam luân thể không”, hiệp với nghĩa “ly tướng bố-thí” của Phật nói và Bồ-tát làm thì phước đức vô lượng.
Xem như kinh Kim-Cang nói : Bồ-tát bố-thí chẳng trụ tướng, thì phước đức không thể nghĩ lường (Bồ-tát bất-trụ tướng bố-thí, kỳ phước đức bất khả tư lương), thì đủ rõ.

(2) Bởi vì vua Võ-Đế tâm tà, chẳng biết pháp chánh : Hai câu này là nói : Vua làm việc bố-thí mà tâm còn trụ tướng, tức là tà ; lại tuy vua bố-thí mà chưa đạt tới nghĩa “ly tướng hành thí” của Phật nói, tức là chẳng biết pháp chánh.

(3) Từ số 13 đến số 22 : Trong đoạn ngài Lục-Tổ nói với ông Vi Thứ-sử về việc niệm Phật cầu sanh Tây-phương” trên đây, xưa nay đã không biết bao nhiêu người nghi lầm.
Những kẻ lâu nay tín phụng theo pháp môn niệm Phật thì buồn ngài sao lại bác khước cái thuyết “cầu sanh Tây-phương” ; còn nhữngkẻ lâu nay phản đối với pháp môn niệm Phật thì lại vu chỉ cho ngài nói không có Tây-phương Tịnh-độ.
Tóm lại : một bên buồn, một bên vui, đều là không hiểu được cái ý của Tổ nói mà thành lầm. – Thiệt ra là ngài đích chỉ cái nghĩa “Duy tâm Tịnh-độ và tự tánh Di-Đà”, để dắt người vào chỗ chơn tế niệm Phật, chớ đâu phải ngài bảo đừng cầu sanh Tây-phương và đâu phải ngài nói không có Tây-phương Tịnh-độ.
Tức như ngài dẫn lời Phật nói “tùy nơi tâm minh-tịnh, tức là cõi Phật tịnh”, đó là ngài chỉ rõ về nghĩa “Tịnh-độ duy tâm”, chính hiệp với câu “y-báo và chánh-báo ở cõi Cực-lạc mà đặng trang-nghiêm như thế là do hạnh nguyện công-đức của Phật Di-Đà làm nên” của kinh nói.
Lại ngài nói : “Niệm niệm thấy tánh thì đi đến Tây-phương chóng lẹ như khảy móng tay mà thấy Phật Di-Đà liền”, đó là ngài chỉ rõ về nghĩa “Di-Đà tự tánh” ; bởi vì tự tánh bản lai vẫn sáng suốt và vẫn thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt ; mà “sáng suốt” là nghĩa Vô-lượng-quang, “thường trụ” là nghĩa Vô-lượng-thọ, cho nên niệm niệm thấy tánh, tức là thấy Phật Di-Đà phải rồi.
Xem thế thì biết ngài đã nói “cõi Phật tịnh” thì lẽ nào ngài lại nói không có Tịnh-độ và ngài đã nói “niệm niệm thấy tánh là thấy Phật”, thì lẽ nào ngài lại bác cái thuyết niệm Phật duy có một điều là ngài sợ những người hằng ngày niệm Phật Di-Đà mà chẳng biết niệm lấy tự tánh và mỗi bữa cầu sanh Tịnh-độ mà chẳng biết tịnh lấy tự tâm, cho nên tận tình thổ lộ như vậy, chớ đâu phải bác khước.
Chí như những câu ngài nói : “Sử-quân là người ở phương Đông, hễ tâm tịnh tức là không tội, còn kia tuy là người ở phương Tây mà tâm chẳng tịnh cũng tức là có lỗi : lại người ở phương Đông làm điều tội, niệm Phật cầu sanh về Tây phương, còn người phương Tây làm điều tội, niệm Phật cầu sanh nước nào”, đó đều là lời phiên-chuyển để gạn cùng cái nghĩa “duy-tâm tịnh-độ”, chớ cũng không phải là ý kích-bác.
Nếu như ngài có ý kích-bác, thì ngài đã không nói : “Nếu tâm của Sử-quân không điều gì chẳng lành, thì Tây phương cách đây chẳng xa ; bằng như ôm giữ cái tâm chẳng lành, thì dầu có niệm Phật cầu sanhcũng khó đến được.” – Mà ngài đã nói thế, tức là ngài nhận có “Tây phương Tịnh độ” rõ ràng và cũng không phải ngài bác thuyết “niệm Phật cầu sanh” chút nào cả.
Huống chi rồi sau, ngài lại nói : “trừ hết cái thấy nhơn ngã, cái tâm tà vọng, cái chướng phiền não, và cái ý độc hại, thì ông Phật giác tánh ở trên cõi tự tâm phóng ra đại ánh sáng, trong ngoài sáng suốt, không khác gì cõi Tây phương ; nếu chẳng tu theo pháp ấy thì làm sao đi đến cõi kia được.” – Thế là ngài chẳng những không bác khước mà còn chỉ rõ cách tu Tây phương cho người biết là khác.
Chí như câu nói : “Sử-quân cứ làm theo mười điều lành, cần gì phải nguyện vãng sanh”, câu nói ấy chính là bác những người niệm Phật mà cái tâm tham lam, sân-hận, si-mê, tà-kiến, niệm Phật mà cái thân làm sự sát sanh, trộm cắp, tà-dâm và niệm Phật mà cái miệng nói láo nói thêu-dệt, nói hai lưỡi, nói hung dữ, niệm Phật như vậy thì vãng-sanh sao được mà cầu ; cho nên ngài nói thế là ngài có ý kỉnh tỉnh ông Vi-Thứ-Sử đừng bắt chước những người cầu vãng sanh không chắc được kia mà bị mười nghiệp ác của “thân, khẩu, ý” lôi kéo rồi phải đọa.
Vậy phải biết rằng : phàm những câu nói như thế đều thuộc về “đối trị tất đàn”, tùy bịnh cho thuốc, chớ không phải là câu nói “tự thị phi dư” theo như người còn cố chấp. (Những người nghiên cứu Đàn kinh, đoạn nầy phải chú ý.)

(4) Sắc-thân ấy là Thành : Vì nghĩa năm căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi và ý, đều ở trong phạm vi của thân, nên ví dụ thân là Thành.
Mắt, tai, mũi, lưỡi là Cửa : Vì nghĩa : Căn hay thông với Trần và hay nạp trần ở ngoài vào nên ví dụ là Cửa.
Ngoài có năm Cửa : Mắt tai mũi lưỡi và thân.
Trong có cửa Ý : Ý nầy chỉ cho ý thức thứ sáu và thứ bảy, vì hai thức ấy cũng đều tên là Ý.

(5) Tâm là cõi đất : Tâm là thức A-lại-da thứ tám, vì nó ngậm chứa hết thảy các hột giống thiện ác, nên ví dụ nó là cõi đất.

(6) Tánh là Vua, Vua ở trên cõi đất tâm : Tánh là tự tánh chơn như ; vọng thức nương nơi chơn như mà có ; vọng thức là mê, mê tức là chúng-sanh, chơn như là giác, giác tức là Phật ; vì chơn như đối với vọng thức có phần tôn thắng, nên ví dụ “Tánh là Vua” – Vả lại thức A-lại-da thứ tám là chơn vọng hòa hiệp, vẫn có một phần chơn như ở xen lộn vào trong nó nên gọi là “Vua ở trên cõi đất tâm”.
Trong thời kỳ nhân duyên tụ hợp, ngũ uẩn thân tâm còn trụ thế thọ báo, thì gọi là : “thân tâm còn” ; đến khi báo mãn rồi, nhơn duyên ly tản, thì ngũ uẩn thân tâm trước kia, thân phải tiêu hoại, tâm phải tan vào các thú khác, nên gọi là : “thân tâm rã”.
Nhưng tự tánh chơn như đã ở xen lộn vào trong thức tâm thì khi thức tâm còn thác căn trụ thế, tự tánh cũng ở, mà khi thức tâm tùy nghiệp thọ sanh thú khác, thì tự tánh cũng đi, nên gọi là : “tánh ở tánh đi”.

(7) Tổ nói : Nếu muốn tu hành thì ở nhà cũng được, chẳng cần phải ở chùa : Câu nói nầy cũng để một nghi án cho người tu Phật, vì nghe trong Phật, vì nghe trong Phật-giáo thường gọi rằng : Nhà là hang ổ ân ái là kho tàng danh lợi, là trường hợp thị phi, và là rừng rú phiền não, mà người ở trong đó tức là người tâm còn nhiễm ô, chưa thoát khỏi ngoài vòng tục lụy.
Còn như chùa là chỗ thanh vắng trong sạch, không vướng nhiễm sự trần, mà người ở trong đó tức là người đã dứt dây ân ái, đã chán mối danh lợi, đã ghê chốn thị phi và đã nhàm cảnh phiền-não ; mỗi bữa rau đồng nước suối nuôi sống huyễn thân, hằng năm trăng giới đèn thiền soi luôn tự tánh ; thế là người ở chùa vẫn có cái tánh cách siêu việt hơn người ở nhà như một trời một vực, mà sao đây Tổ lại nói : “không cần phải ở chùa” ? – Nếu đã không cần ở chùa, thì người ở chùa ấy cũng không có chi là đặc biệt, vì vậy mà phát sanh ra cái nghi tướng.
Nhưng có dè đâu chùa với nhà chẳng qua cũng một tiền trần khu biệt, để chia riêng một bên lo pháp xuất thế và một bên làm việc thế gian đó thôi ; thiệt ra cái công năng hành đạo chính ở nơi người, chớ chùa với nhà không có ảnh hưởng gì trong đó cả.
Nếu người ở nhà mà có cái tánh cách siêu trần, mỗi việc hành vi đều khế hợp với chơn lý đạo Phật, không đắm danh đắm lợi, không mê cảnh mê duyên, ngoài cái trách nhiệm “tự lợi lợi tha”, không có một việc gì hệ lụy trong tâm trí, người ở nhà như vậy tức là cái chùa không khác !
Còn như người ở chùa mà quên bổn phận xuất gia, cứ lo công chuyện ứng-phú cùng năm mãn tháng tính lợi toan danh, lấy cơm tiền của thí-chủ làm kế nuôi thân, mượn y-phục của Như-Lai làm nghề buôn Phật, gia dĩ kinh không thông luật không hiểu, Phật không niệm, giới không trì, mãi ra vào trong cửa trần lao, mà chịu với cái đời sống say chết ngủ, người ở chùa như vậy chẳng khác gì người ở nhà, mà cái chùa như vậy dầu kêu là cái nhà cũng không có chi làm lạ. – Cho nên đây Tổ nói : “Ở nhà mà tu cũng được, không cần phải ở chùa” là thế.


(8) Tâm bằng : là nói cái tâm bình đẳng ; – Tâm đã bình đẳng, tức là coi vật với ta đồng thể, oán với thân in nhau thì có đâu làm sự sát sanh hại vật mà phải giữ giới “sát” ; – Tâm đã bình đẳng, tức là không phân biệt nhơn ngã, của người cũng như của ta, thì có đâu làm sự trộm cắp mà phải giữ giới “đạo” ; – Tâm đã bình đẳng, tức là không có phân biệt tướng nam tướng nữ, thì có đâu làm sự dâm dục mà phải giữ giới “dâm” ; – Tâm đã bình đẳng, tức là không phân biệt bỉ thử, thì có đâu láo dối lẫn nhau mà phải giữ giới “vọng”, vân vân… Vậy nên nói : “Tâm bằng chẳng cần giữ giới.”




(9) Hạnh thẳng : là nói : Cái hạnh tu theo tâm ngay thẳng cao nên nghĩa “hạnh thẳng” (hạnh trực) nói đây cũng như nghĩa ”tâm thẳng” (trực tâm) nói trong kinh Lăng-Nghiêm và Duy-Ma-Cật.
Kinh Lăng-Nghiêm nói : “Mười phương Như-Lai đều lấy cái tâm thẳng mà ra khỏi sanh tử và đồng chứng đạo vô thượng Bồ-đề.” – Cái tâm mà nói rằng thẳng là từ lúc phát tâm đến lúc rốt ráo trongkhoảng trải qua hai mươi lăm vị Bồ-đề, trước sau hằng không có tướng vạy vọ.
Kinh Duy-Ma-Cật nói : “Tâm thẳng là đạo tràng, tâm thẳng là tịnh độ.” – Cho nên “hạnh thẳng nào đợi tu thiền” – Bởi vì thiền là thiền na (tiếng Phạm), chữ Tàu gọi là tịnh tự nghĩa là yên-lặng sự lo nghĩ ; mà cái hạnh thẳng, tâm thẳng thì không có các thứ vọng tưởng điên đảo, tức là : thiền, chớ còn phải tu gì nữa.
(10) Giùi cây ra lửa : “Cây” là dụ : thân ngũ uẩn – “lửa” là dụ : Phật tánh, là nói : Phật tánh ở nơi thân ngũ-uẩn, tức như ngài Vĩnh-Gia thiền sư nói : “Vô minh thiệt tánh tức là Phật tánh, huyễn hóa không thân tức pháp thân” vậy.
(11) Bùn lầy chắc trổ bông sen : “Bùn lầy” là dụ : phiền não, – “bông sen” là dụ Bồ-đề, – là nói Bồ-đề ở trong phiền não mà phiền não không nhiễm được cái thể sáng suốt, cũng như bông sen ở trong bùn mà bùn không nhơ vấy được cái thể thơm sạch vậy.
(12) Lương-dược : là thuốc hay ; – thuốc hay tuy đắng miệng mà đả tật.
(13) Trung-nghiên : là lời nói ngay, lời nói ngay tuy trái tai mà lợi cho việc làm.
(14) Đổi lỗi ắt sanh trí-huệ : “Lỗi” là các thứ : tham, sân, si, phiền não, hay làm cho người che lấp cái trí-huệ bản hữu ; mà đổi lỗi tức là diệt trừ các thứ phiền não, thì trí-huệ phát sanh.
(15) Che dở tâm đâu phải hiền : là nói : Những người làm quấy mà che giấu không cho ai biết, tức là tâm chưa chừa đổi và sự quấy càng ngày càng tăng thêm, thì người ấy không phải là người có lòng nhơn hiền.
(16) Thành đạo chẳng tại thí tiền : là nói : Nếu muốn thành đạo vô thượng Bồ-đề, thì phải diệt trừ cho hết các thứ căn bản phiền não và chi mạt phiền não, tự nhiên tâm trí mở mang, tức là hoàn lại cái bản thể sáng suốt mà gọi là : thành đạo ; chớ thành đạo đâu phải tại nơi phước đức thí tiền vì phước đức ấy chẳng qua chiêu cảm cái tiểu quá ở cõi Nhơn-Thiên là cùng, mà rồi có ngày phải hết.
(17) Bồ-đề do tâm tìm thấy, nhọc chi ngoài tánh cầu huyền : là nói : Bồ-đề tức là tâm tánh, tâm tánh tức là bồ-đề không phải ngoài tâm tánh mà kiến bồ-đề diệu đạo được, cầu cái đạo huyền diệu ở ngoài tâm tánh, tức là vọng tưởng.
Cho nên kinh Lăng-Nghiêm nói : “Hết thảy chúng-sanh từ vô thỉ nhẫn lại, sanh tử nối nhau, đều bởi chẳng biết chơn tâm thường trụ, tánh thể sáng sạch, mà trở lại dùng các thứ vọng tưởng ; vì cái tưởng ấy chẳng thiệt, cho nên có sự luân chuyển.”
(18) Thiên-đường trông thấy nhãn tiền : là nói : Nếu y theo bài tụng ấy mà tu, Thiên đường hiện trước mặt, không phải ở xa đâu mà tìm. – Nhưng phải biết nghĩa “thiên đường” nói đây là tùy thuận theo các thường kiến thế gian cho Thiên đường là chỗ tột bực vui vẻ mà Tổ nói thế ; thiệt ra câu nói Thiên đường ấy là chỉ về một cõi an-lạc cũng như nói Phật quốc, chớ không phải đích chỉ về cõi Trời.
Coi như trước khi đọc bài tụng mà Tổ nói : “Ta đối với đại chúng làm ra bài tụng vô tướng ; cứ y theo đó mà tu, thì thường cùng với ta cùng ở một chỗ”, thì đủ rõ. – Vì bài tụng đã kêu ta là “vô-tướng”, thì lẽ nào tu theo bài tụng vô tướng mà lại cầu thấy cõi Trời ; huống chi Tổ đã nói “Tu theo đó thì đồng ở với ta một chỗ”, tức là chỗ chơn tế tháo nghệ cũng như Tổ rồi, thì lẽ nào còn bảo người lấy Thiên đường làm chỗ y-thác.
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
IconL.gif
Phẩm Định-Huệ;
Phẩm Định-Huệ


THỨ TƯ


1.– Tổ dạy cho chúng hiểu rằng : “Nầy thiện-tri-thức ! – Pháp-môn ta đây lấy Định Huệ làm gốc ; đại-chúng chớ mê mà nói Định và Huệ riêng khác. – Thiệt Định và Huệ một thể, vốn chẳng phải hai. – Định là “thể” của Huệ, Huệ làm “dụng” của Định ; – trong lúc Định tức là Huệ, thì Định ở nơi Huệ ; – trong lúc Huệ tức là Định, thì Huệ ở nơi Định ; – nếu hiểu nghĩa ấy, tức là Định Huệ đồng học.

2.– “Các kẻ học đạo chớ nói trước Định rồi sau phát Huệ, hay là nói trước Huệ rồi sau phát Định mà chia riêng ra. – Nếu chỗ thấy biết như vậy, thì thành pháp có hai tướng. – Miệng nói lời lành mà trong tâm chẳng lành, thì luống có cái danh Định Huệ ; Định Huệ ấy chẳng phải bình đẳng. – Bằng như tâm và miệng đều lành, thì trong ngoài một cách, tức là Định Huệ bình-đẳng.

3.– “Tự mình tỏ ngộ tu hành, chẳng ở nơi sự kình-cãi ; nếu kình-cãi trước sau, tức đồng như người mê, chẳng dứt được sự hơn thua giỏi dở, thì ngã-chấp và pháp-chấp càng thêm, không lìa khỏi bốn tướng.

4.– “Thiện-tri-thức ! – Định Huệ bằng cách nào ? – Định Huệ ví như đèn sáng ; có đèn tức là sáng, không đèn tức là tối, đèn là “thể” của sáng, sáng là “dụng” của đèn, danh tuy có hai, thể vẫn đồng một ; pháp Định Huệ nầy cũng như vậy.”

5.– Tổ dạy chúng rằng : “Nầy Thiện-tri-thức ! – Nhứt hạnh tam muội là nói : Đối với hết thảy những chỗ đi, đứng, ngồi, nằm, hằng thiệt hành một tâm ngay-thẳng đó vậy – Như kinh Tịnh-Danh nói : “tâm ngay-thẳng là đạo tràng, tâm ngay-thẳng là tịnh độ” ; cho nên tâm làm sự tà-vạy mà miệng chỉ nói ngay-thẳng ; cũng đừng miệng nói “nhứt hạnh tam-muội” mà chẳng làm theo tâm ngay-thẳng. – Vậy cứ làm theo tâm ngay-thẳng mà đối với hết thảy các pháp, đừng có chấp-trước một pháp nào.

6.– “Kẻ mê đắm theo pháp-tướng, rồi chấp cái nghĩa “nhứt hạnh tam-muội” mà nói rằng : “Ngồi im-lặng chẳng động, đừng cho vọng-niệm khởi ở nơi tâm”, tức là nhứt hạnh tam-muội ; nếu hiểu biết như vậy tức là đồng với loài vô-tình, mà trở lại thành cái nhơn-duyên chướng đạo.”

7.– Tổ dạy cho chúng hiểu rằng : “Nầy thiện-tri-thức ! Đạo cần Phải lưu thông, sao lại để cho ngưng trệ ; hễ tâm chẳng trụ nơi pháp, thì đạo mới thông lưu ; bằng tâm trụ nơi pháp, thì gọi là mình tự trói. – Nếu nói : ngồi im chẳng động là phải, thì cũng như ông Xá-Lợi-Phất, khi ngồi im lặng trong rừng mà bị ngài Duy-Ma-Cật la rầy đó chẳng khác.

8.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Lại có người dạy ngồi, để xem lòng quán tịnh, đừng động thân và đừng khởi niệm, cứ do đó mà lập công, rồi kẻ mê không rõ trở lại chấp cái ngồi mà thành khùng thành điên. – Những bọn như vậy đông lắm, nó cứ dạy nhau thế ấy, cho nên biết là thiệt lầm.”

9.– Tổ lại dạy chúng rằng : “Thiện-tri-thức ! Chánh-giáo xưa nay, gốc không có đốn tiệm ; nhơn vì tánh người có bén có lụt, kẻ mê thì lần lần hiểu biết, người ngộ thì chốc-lát tỏ liền, nhưng đến khi tự biết được bổn tâm và tự thấy được bổn tánh, thì không sai khác ; vì vậy lập ra cái giả-danh kêu là : ”Đốn Tiệm”.

10.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Pháp-môn của ta đây, từ xưa đến nay, trước hết lập vô-niệm làm tông, vô-tướng làm thể, vô trụ làm bổn. – Vô-tướng là ở nơi tướng mà lìa tướng, vô niệm là ở nơi niệm mà không niệm, vô-trụ là bổn tánh của người, đối với những sự lành, dữ, tốt, xấu trong thế gian, cho đến kẻ thù người thân cùng khi nói năng xúc-phạm, khinh-khi, kình-cãi, đều coi như không có, chẳng nghĩ đến sự trả oán hại người, ở trong niệm niệm chẳng nhớ cảnh trước. – Nếu như niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối nhau chẳng dứt, thì gọi là : trói buộc ; còn đối với các pháp mà niệm niệm chẳng trụ, tức là không có gì trói buộc ; ấy là nghĩa lấy vô-trụ làm “bổn”.

11.– “Nầy thiện-tri-thức ! – Ngoài lìa hết thảy các tướng, thì gọi là : vô-tướng ; mà đã lìa hết tướng rồi, tức là pháp thể thanh-tịnh ; ấy là nghĩa lấy vô-tướng làm “thể”.

12.– “Thiện-tri-thức ! – Đối với các cảnh, tâm chẳng nhiễm tới, kêu là vô niệm, ở trong tâm niệm của mình thường lìa các cảnh, chẳng bao giờ đối cảnh sanh tâm. – Bằng như trăm việc chẳng nghĩ tới chỉ cứ diệt trừ cái niệm cho hết, hễ một niệm dứt thì chết, chết rồi lại phải thọ sanh nơi khác, đó là lầm to. – Cho nên kẻ học đạo cần phải nghĩ lấy ! – Nếu chẳng biết ý pháp thì phần mình lầm còn chưa hại mấy, lại khuyên người khác lầm theo ; tự mê chẳng thấy, trở chê kinh Phật ; vì vậy nên lập vô-niệm làm “tông”.

13.– “Thiện-tri-thức ! – Tại sao vô-niệm làm “tông” ? – Bởi vì người mê miệng nói thấy tánh, mà đối với cảnh có niệm, tâm niệm lại khởi ra tà-kiến, rồi hết thảy trần-lao vọng tưởng từ đó sanh ra, nhưng tự-tánh vốn không có một pháp gì khá đặng. – Nếu còn có chỗ đặng mà chả nói sự họa sự phước, thì tức là trần lao tà-kiến, cho nên pháp-môn nầy lấy vô-niệm (không niệm) làm “tông”.

14.– “Thiện-tri-thức ! – “Không”, là không việc gì ? – “Niệm” là niệm vật gì ? – “Không”, là không hai tướng và là không các thứ tâm trần lao. – “Niệm”, là niệm bổn-tánh chơn-như, chơn-như tức là cái “thể” của niệm, mà niệm tức là cái “dụng” của chơn-như. – Chơn-như tự-tánh của mình khởi niệm, chớ chẳng phải : mắt, tai, mũi, lưỡi mà khởi niệm được, vì chơn-như có tánh cho nên khởi niệm ; chớ chơn-như nếu không tánh, thì : mắt, tai, sắc, tiếng tiêu hoại tức-thời.

15.– “Thiện-tri-thức ! – Chơn-như tự-tánh mình khởi niệm, sáu căn tuy có thấy, nghe, rõ, biết chẳng nhiễm muôn cảnh, mà chơn-tánh vẫn thường tự-tại ; cho nên kinh nói : Hay phân biệt được tướng các pháp, đối với nghĩa thứ nhứt chẳng động.”
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Phẩm Diệu-Hạnh;
Phẩm Diệu-Hạnh


THỨ NĂM


1.– Tổ dạy chúng rằng : “Pháp-môn tọa thiền nầy, gốc chẳng bạ ở nơi tâm, cũng chẳng bạ ở nơi tịnh, và cũng chẳng phải là chẳng động. Nếu nói : bạ ở nơi tâm, thì tâm gốc là vọng ; biết tâm như tuồng giả-mỵ cho nên không chỗ bạ. Còn nếu nói bạ ở nơi tịnh, tánh người gốc tịnh, chỉ vì vọng-niệm che lấp bản-tánh chơn như ; hễ không vọng tưởng, thì tánh mình gốc sẵn thanh tịnh. Nếu khởi tâm bạ vào cái tịnh, thì lại sanh ra tịnh-vọng, mà vọng vốn không xứ-sở, hễ bạ vào tức là vọng, huống chi tịnh vốn không có hình-tướng mà lại lập ra cái tướng tịnh, rồi nói vậy là công-phu, thì chỗ thấy biết như thế đó, là mình tự che lấp bổn-tánh mình, rồi trở lại bị cái tịnh ấy trói buộc.
<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
2.– “Thiện-tri-thức ! – Nếu tu pháp “chẳng động”, thì trong khi mình thấy hết thảy mọi người mà mình chẳng thấy những điều : phải, quấy, lành, dữ, và sự tội lỗi của người, tức là tự-tánh “chẳng động”.
<O:p></O:p>
3.– “Thiện-tri-thức ! – Kẻ mê, thân tuy chẳng động, mà mở miệng nói ra thì nói những sự : phải, quấy, hay, dở, tốt, xấu của người ; ấy là trái hẳn với đạo. – Cho nên, nếu bạ ở nơi tâm, hay bạ ở nơi tịnh, thì tức là làm ngăn che cho đạo.”
<O:p></O:p>
4.– Tổ dạy chúng rằng : “Thiện-tri-thức ! – Sao gọi là : Tọa Thiền ? – Trong pháp-môn nầy không ngăn không ngại, đối với hết thảy cảnh-giới lành, dữ ở ngoài mà tâm-niệm chẳng dấy-tưởng, kêu là “Tọa” ; trong thấy tự-tánh mình chẳng động, kêu là “Thiền”.
<O:p></O:p>
5.– “Thiện-tri-thức ! – Sao gọi là : “Thiền Định ?” – Ngoài lìa tướng là “Thiền” ; trong chẳng loạn là “Định”. – Nếu ngoài còn trước-tướng, thì trong tâm ắt loạn ; bằng ngoài lìa tướng, thì trong tâm ắt chẳng loạn, bổn-tánh mình tự-tịnh tự-định, chỉ vì thấy cảnh tưởng cảnh mà thành loạn động. – Ví bằng thấy các cảnh mà tâm chẳng loạn động, thì mới thiệt là : “Chơn Định”.
<O:p></O:p>
6.– “Nầy Thiện-tri-thức ! – Ngoài lìa tướng tức là : “Thiền” ; trong chẳng loạn tức là : “Định” ; ngoài Thiền trong Định, ấy là : “Thiền-Định”. – Trong kinh Bồ-Tát-Giới nói : “Bổn tánh ta vốn nó thanh tịnh sẵn.”
<O:p></O:p>
7.–“Thiện-tri-thức ! – Ở trong niệm-niệm, mình tự thấy bổn-tánh thanh tịnh mà mình tự tu tự hành, tự thành Phật-đạo.”
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Phẩm Sám-Hối;
Phẩm Sám-Hối


THỨ SÁU


1.– Khi Tổ thấy người ở châu Quảng, châu Thiều cùng hàng sĩ-thứ trong bốn phương vân tập tại chùa nghe pháp, lúc ấy Tổ lên pháp tọa bảo chúng rằng : Các thiện-tri-thức đi đến đây, phải biết sự đó nên từ trong tự tánh khởi ra, dầu ở trong lúc nào cũng niệm niệm mình tự thanh tịnh lấy tâm mình, mình tự tu, tự hành, tự thấy pháp thân và tâm Phật của mình mà mình tự độ, tự răn lấy mình, thì mới được cái đi đến đây là chơn thiệt.
<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
2.– Mấy người đã từ phương xa đi tới hội hiệp ở nơi đây, tức cùng nhau có duyên ; nay nên mỗi mỗi quỳ xuống, đặng trước là ta truyền “năm phần hương pháp thân” của tự-tánh và sau ta trao pháp “vô tướng sám hối cho”.
<O:p></O:p>
3.– Chúng đều quỳ mọp.
<O:p></O:p>
4.– Tổ nói : Một là : Giới-hương, – tức là trong tâm mình không quấy, không dữ, không ganh-ghét, không tham, không giận, không cướp hại ; vậy gọi là : Giới-hương.
<O:p></O:p>
5.– Hai là : Định-hương, – tức là trông thấy các cảnh-tướng lành dữ mà tâm mình chẳng loạn-động ; vậy gọi là : Định-hương.
<O:p></O:p>
6.– Ba là : Huệ-hương, – tự-tâm mình không ngăn ngại, hằng lấy trí-huệ xem soi tự-tánh, chẳng tạo các điều ác, tuy tu các nghiệp lành mà tâm chẳng chấp trước, kính người trên, nghĩ kẻ dưới, thương xót những bọn cô bần ; vậy gọi là : Huệ-hương.
<O:p></O:p>
7.– Bốn là : Giải-thoát-hương, – tức là tự-tâm mình không chỗ vịn níu, chẳng nghĩ lành, chẳng nghĩ dữ, tự-tại không ngăn ngại ; vậy gọi là : Giải-thoát-hương.
<O:p></O:p>
8.– Năm là : Giải-thoát-tri-kiến-hương, – là tự tâm mình đã không vịn-níu theo đường thiện, đường ác, mà cũng chẳng nên đắm theo cái “không” và giữ lấy cái “vắng”, cần phải học rộng nghe nhiều, biết bổn tâm mình, suốt cả lý Phật, hòa sáng tiếp người, không tướng nhơn-ngã, thẳng đến khi thành đạo Bồ-đề, chơn-tánh vẫn chẳng dời đổi ; vậy gọi là : Giải-thoát-tri-kiến-hương.
<O:p></O:p>
9.– Thiện-tri-thức ! – Những “hương” ấy mỗi-mỗi đều tự xông ở trong, chớ đừng theo bề ngoài mà kiếm.
<O:p></O:p>
10.– Nay ta vì bọn ngươi trao cho pháp “vô-tướng sám hối”, để dứt hết tội nghiệp trong ba đời, mà làm cho ba nghiệp được thanh tịnh.
<O:p></O:p>
11.– Nầy thiện-tri-thức ! – Các ngươi hãy đồng thời nói theo lời ta đây : Chúng đệ-tử nầy, từ niệm trước, niệm nay, cùng niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm theo sự ngu mê, bao nhiêu những tội ác-nghiệp ngu mê đã có từ trước, thảy đều sám hối, nguyện tiêu diệt trong một lúc nầy, vĩnh viễn chẳng khởi lại nữa.
<O:p></O:p>
12.– Chúng đệ-tử nầy, từ niệm trước, niệm nay, cùng niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm theo sự kiêu căng, dối-gạt, bao nhiêu những tội ác nghiệp kiêu-căng, dối-gạt đã có từ trước, thảy đều sám hối, nguyện tiêu diệt trong một lúc nầy, vĩnh viễn chẳng khởi lại nữa.
<O:p></O:p>
13.– Chúng đệ-tử nầy, từ niệm trước, niệm nay, cùng niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm theo sự ganh-ghét, bao nhiêu những tội ác-nghiệp ganh-ghét đã có từ trước, thảy đều sám hối, nguyện tiêu diệt trong một lúc nầy, vĩnh viễn chẳng khởi lại nữa.
<O:p></O:p>
14.– Thiện-tri-thức ! – Những lời trên đó là : Vô-tướng sám hối. – Sao gọi rằng : “Sám” ? – Sao gọi rằng : “Hối” ? – “Sám” là chừa bỏ lỗi trước nghĩa là những tội ngu mê, kiêu căng, dối-gạt, ganh-ghét, thuộc về ác-nghiệp đã có từ trước thảy đều chừa bỏ, vĩnh viễn chẳng khởi lại nữa ; ấy gọi là : Sám.
<O:p></O:p>
15.– “Hối” là ăn-năn lỗi sau ; từ nay về sau, có những ác-nghiệp như các tội ngu mê, kiêu căng, dối-gạt, ganh-ghét, nay đã tỏ-ngộ, thảy đều dứt luôn, chẳng làm lại nữa ; ấy gọi là : Hối ; cho nên xưng rằng : Sám-hối.
<O:p></O:p>
16.– Kẻ phàm-phu ngu-mê chỉ biết chừa bỏ tội trước, mà chẳng biết ăn-năn lỗi sau. – Bởi cớ chẳng biết ăn-năn, nên tội trước chẳng dứt mà lỗi sau lại sanh ; tội trước đã chẳng dứt, lỗi sau lại còn sanh thì sao gọi là : Sám-hối !
<O:p></O:p>
17.– Thiện-tri-thức ! Đã dạy phép Sám-hối rồi, nay ta cùng với thiện-tri-thức phát bốn điều thệ-nguyện rộng lớn, đều phải tỏ lòng chăm nghe : Tự tâm chúng-sanh không ngằn, thệ nguyện độ ; – Tự-tâm phiền não không cùng, thệ nguyện dứt ; – Tự tánh pháp-môn không lường, thệ nguyện học ; – Tự-tánh Phật-đạo không tột, thệ nguyện thành.
<O:p></O:p>
18.– Thiện-tri-thức ! – Các ngài há chẳng cho rằng : “Câu : chúng-sanh không ngằn, thệ nguyện độ”, nói như thế là chẳng phải Huệ-Năng nầy độ.
<O:p></O:p>
19.– Thiện-tri-thức ! – Chúng-sanh ở trong tâm là nói tâm tà-mê tâm dối-giả, tâm chẳng lành, tâm ganh ghét, tâm độc dữ, những tâm như vậy thảy là chúng-sanh ; các ngươi phải dùng tánh mình độ mình, ấy mới gọi là : Chơn-độ. – Sao gọi : Tánh mình độ mình ? – Tức là những thứ chúng-sanh : tà-kiến, phiền não, ngu si trong tự-tâm mình, thì đem cái thấy chơn-chánh mà độ lấy. – Đã có cái thấy chơn-chánh, thì dùng trí bát-nhã đánh dẹp những thứ chúng-sanh ngu-si, mê-vọng, mỗi mỗi mình tự độ lấy mình ; hễ tà đến thì chánh độ, mê đến thì ngộ độ, ngu đến thì trí độ, ác đến thì thiện độ, độ như vậy gọi là : Chơn độ.
<O:p></O:p>
20.– Lại câu : “Phiền não không cùng, thệ nguyện dứt”, là nói : đem trí bát-nhã của tự-tánh mình mà trừ dẹp cái tâm tư-tưởng giả-dối đó vậy.
<O:p></O:p>
21.– Lại câu : “Pháp-môn không lường, thệ nguyện học”, là nói : phải tự thấy tánh mình, hằng làm theo chánh pháp ; ấy gọi là : Chơn học.
<O:p></O:p>
22.– Lại câu : “Phật-đạo không tột, thệ nguyện thành” là nói : Mình đã thường tự thấp lòng mình mà làm theo pháp chơn-chánh, lìa cả mê và giác, lại thường sanh trí bát-nhã, trừ cả chơn và vọng, tức là thấy được Phật-tánh và tức là nghe nói rồi, thì thành được Phật-đạo. – Vậy phải hằng niệm tu hành theo pháp nguyện lực ấy.
<O:p></O:p>
23.– Thiện-tri-thức ! – Nay đã phát bốn điều hoằng nguyện rồi, thì ta lại trao cho thiện-tri-thức về giới “Tam quy-y vô-tướng”.
<O:p></O:p>
24.– Thiện-tri-thức ! – Tam quy-y là : Quy-y Giác lưỡng-túc-tôn ; Quy-y Chánh ly-dục-tôn ; Quy-y Tịnh chúng-trung-tôn. – Từ ngày nay sắp tới, xưng Giác làm thầy, chẳng trở lại quy-y theo tà-ma ngoại-đạo, vì Tam-bảo của tự-tánh thường tự chứng minh cho mình.
<O:p></O:p>
25.– Ta khuyên thiện-tri-thức hãy quy-y theo Tam-bảo của tự-tánh : “Phật” là : tánh Giác-ngộ ; – “Pháp” là : tánh Chơn-chánh ; – “Tăng” là : Thanh-tịnh.
<O:p></O:p>
26.– Tự-tâm mình quy-y nơi Giác, thì tà-mê chẳng sanh, ít sự muốn, biết sự đủ, lìa được cả tài và sắc, gọi là : Lưỡng-túc-tôn.
<O:p></O:p>
27.– Tự-tâm mình quy-y nơi chánh, thì niệm-niệm không tà kiến ; hễ không có tà-kiến, tức là không có lòng nhơn-ngã, cống-cao, ham-mê, chấp trước, gọi là : Ly-dục-tôn.
<O:p></O:p>
28.– Tự-tâm mình quy-y nơi tịnh, thì hết thảy các cảnh-giới trần lao, ái-dục, tánh mình đều chẳng nhiễm tới, gọi là : Chúng-trung-tôn. – Bằng tu theo hạnh ấy, là mình tự quy-y mình.
<O:p></O:p>
29.– Kẻ phàm phu chẳng rõ, từ ngày chí đêm thọ giới Tam-quy ; nếu phải quy-y với Phật, thì Phật ở chỗ nào ? Bằng chẳng thấy Phật, thì nương về nơi đâu ? – Vậy thì nói quy-y với Phật, thành ra lời nói dối.
<O:p></O:p>
30.– Thiện-tri-thức ! – Các ngươi nên tự mình xem xét, chớ dụng tâm lầm thiệt ra kinh văn rõ ràng nói : Quy-y nơi Phật mình, chẳng nói quy-y nơi Phật khác. Phật mình chẳng về, thì không chỗ nương.
<O:p></O:p>
31.– Nay mình đã tỏ ngộ, thì đều phải quy-y Tam-bảo của tự-tâm mình, trong thì điều hòa tâm-tánh, ngoài thì kính nhường mọi người ; ấy là : mình quy-y với mình.
<O:p></O:p>
32.– Thiện-tri-thức ! – Đã quy-y Tam-bảo của mình rồi, thì các ngươi đều phải chí tâm nghe ta nói. Phật tự-tánh một thể ba thân, để cho các ngươi thấy rõ ba thân, rồi tự mình tỏ ngộ tánh mình ; vậy các ngươi nói theo ta đây :
<O:p></O:p>
Tự nơi sắc-thân mình, quy-y với Phật-thanh-tịnh-Pháp-thân ;<O:p></O:p>
Tự nơi sắc-thân mình, quy-y với Phật-ngàn-trăm-ức-Hóa-thân ;<O:p></O:p>
Tự nơi sắc-thân mình, quy-y với Phật-viên-mãn-Báo-thân.

33.– Thiện-tri-thức ! – Sắc-thân là nhà ở, không thể nói rằng quy hướng được, Phật ba thân đều ở trong tự-tánh mình, người đời thảy có, chỉ vì tâm mê chẳng thấy tánh trong, trở lại tìm Phật ba thân ở ngoài mà chẳng thấy trong thân mình có Phật ba thân. – Bọn ngươi nghe ta giảng, khiến cho bọn ngươi từ trong mình thấy tự-tánh có Phật ba thân, – Phật ba thân ấy do nơi tự-tánh mình sinh ra, chẳng phải do ở ngoài mà có được.
<O:p></O:p>
34.– Sao gọi là : “Thanh-tịnh Pháp-thân-Phật ?” – Người đời tánh vốn thanh tịnh, muôn pháp đều do nơi tự-tánh mình mà sanh ra ; hễ nghĩ lường những sự ác tức là sanh ra hạnh ác ; nghĩ lường những sự thiện, tức là sanh ra hạnh thiện các pháp như vậy đều ở trong tự tánh mình ; ví như trời hằng trong, mặt-nhựt mặt-nguyệt hằng sáng, mà bị đám mây phủ che thành ra trên sáng dưới lờ, thoạt nhiên gặp gió thổi mây tan, tức là trên dưới đều tỏ, muôn tượng đều hiện ; người đời tánh hay un nổi cũng như đám mây trên trời kia.
<O:p></O:p>
35.– Thiện-tri-thức ! – “Trí” như mặt-nhựt, “Huệ” như mặt-nguyệt ; Trí-Huệ vẫn hằng sáng, mà vì đắm theo cảnh ở ngoài, nên bị đám mây vọng-niệm kia phủ che lấy tự tánh, mà chẳng đặng tỏ rạng ; nếu gặp người thiện-tri-thức giảng nói cho nghe được pháp chơn-chánh mà mình tự bỏ lỗi mê vọng, thì trong ngoài sáng-suốt, muôn pháp đều hiện trong tự-tánh mình, những người thấy tánh cũng in như vậy, ấy gọi là : Thanh-tịnh-Pháp-thân-Phật.
<O:p></O:p>
36.– Thiện-tri-thức ! – Tự tâm mình quy-y với tự-tánh mình, ấy là : quy-y chơn Phật. – Tự quy-y là đuổi dẹp những thứ tâm xấu trong tự-tánh như là : tâm chẳng lành, tâm ghen-ghét, tâm dua-vạy, tâm vì ta, tâm dối-quấy, tâm khinh người, tâm dễ ngươi, tâm tà kiến, tâm tự-cao, cùng những hạnh chẳng lành trong hết thảy lúc nào, hằng thấy chỗ lỗi của mình, chẳng nói sự tốt xấu của người khác ấy là nghĩa : “tự quy-y”. – Hằng phải tự thấp tâm mình xuống mà làm hạnh cung kính, tức là thấy tánh thông suốt, không có cái gì ngăn ngại, ấy là nghĩa tự quy-y.
<O:p></O:p>
37.– Sao gọi là : ”Ngàn-trăm-ức-Hóa-thân ?” – Bằng chẳng nghĩ thì muôn pháp, tánh vốn như không ; nếu sanh một niệm lo lường, thì gọi biến hóa, lo lường việc dữ thì hóa làm địa-ngục, lo lường việc lành thì hóa làm thiên-đường, độc-hại thì hóa làm rồng rắn, từ-bi thì hóa làm Bồ-tát, Trí-huệ thì hóa làm thượng-giới, ngu-si thì hóa làm hạ-phương. – Tánh mình biến hóa rất nhiều, người mê chẳng tỉnh biết được, rồi niệm niệm khởi ác mà theo sự ác luôn. – Nếu một niệm hồi tâm hướng thiện thì trí-huệ sanh liền, ấy gọi là : Tự-tánh-Hóa-thân-Phật.
<O:p></O:p>
38.– Sao gọi là : “Viên-mãn-Báo-thân ?” – Ví như một ngọn đèn, nó có thể trừ được cái tối ngàn năm, thì biết cái trí của mình có dứt được cái ngu muôn thuở. – Cho nên đừng nghĩ việc trước vì nó đã qua rồi, không thể được lại, thường phải lo nghĩ sau nầy, nếu niệm niệm tròn sáng thì tự thấy tánh mình ; lành dữ tuy khác, bổn-tánh không hai ; cái tánh không hai ấy gọi là : Thiệt-tánh. – Hễ ở trong thiệt-tánh mà không nhiễm thiện và không nhiễm ác, ấy gọi là : Viên-mãn-Báo-thân-Phật.
<O:p></O:p>
39.– Tánh mình khởi một niệm ác, thì dứt mất muôn kiếp nhơn lành ; bằng tánh mình khởi một niệm thiện, thì nghiệp ác nhiều như số cát sông Hằng cũng phải hết, thẳng đến bực Vô-thượng Bồ-đề, niệm niệm tự thấy, chẳng mất bổn-niệm, ấy gọi là : Báo-thân.
<O:p></O:p>
40.– Thiện-tri-thức ! – Do nơi Pháp-thân mà nghĩ lường, tức là : Hóa-thân-Phật ; – còn niệm niệm tự-tánh tự thấy, tức là : Báo-thân-Phật ; – mình ngộ mình tu công-đức của tự tánh, ấy là : Chơn quy-y.
<O:p></O:p>
41.– Chí như da thịt là sắc-thân, mà sắc-thân là nhà ở, không thể nói rằng quy-y.
<O:p></O:p>
42.– Hễ ngộ đặng Ba thân của tự-tánh, tức là biết được ông Phật tự-tánh. – Ta có một bài “Tụng vô-tướng” nếu trì tụng được thì dưới câu nói ta, có thể làm cho các ngươi trong một thời mà tiêu diệt hết những tội mê nhiều kiếp.
<O:p></O:p>
43.– Tụng rằng :
<O:p></O:p>
Người mê tu phước chẳng tu đạo,<O:p></O:p>
Chỉ nói tu phước ấy là đạo<SUP>(1)</SUP> ;<O:p></O:p>
Bố-thí cúng-dường phước không ngằn,<O:p></O:p>
Trong lòng ba ác gốc còn tạo.<SUP>(2)</SUP><O:p></O:p>
Tưởng cho tu phước tội mình tiêu,<O:p></O:p>
Đời sau được phước nhưng còn tội ;<O:p></O:p>
Chỉ trừ tội-nghiệp trong tâm mình,<O:p></O:p>
Ấy là tự-tánh chơn sám-hối.<SUP>(3)</SUP><O:p></O:p>
Ngộ được Đại-thừa chơn sám-hối,<O:p></O:p>
Bỏ tà làm chánh là không tội<SUP>(4)</SUP> ;<O:p></O:p>
Học đạo hằng xem tự-tánh mình,<O:p></O:p>
Các Phật cùng ta đồng một loại.<SUP>(5)</SUP><O:p></O:p>
Tổ xưa<SUP>(6)</SUP> chỉ truyền đốn-pháp nầy,<O:p></O:p>
Nguyện cả mọi người đồng thấy tánh ;<O:p></O:p>
Bằng muốn về sau thấy Pháp-thân,<O:p></O:p>
Lìa các pháp-tướng rửa lòng sạch.<SUP>(7)</SUP><O:p></O:p>
Gắng công tự thấy chớ lơ lơ,<O:p></O:p>
Dứt hết niệm sau một đời rảnh<SUP>(8)</SUP> ;<O:p></O:p>
Ngộ được Đại-thừa thấy tánh mình,<O:p></O:p>
Chấp tay cầu tột lòng cung kính.<SUP>(9)</SUP><O:p></O:p>

44.– Tổ nói : “Thiện-tri-thức ! – Đều phải tụng lấy, y đó tu hành thì dưới câu nói, ắt được thấy tánh, dầu cách ta ngàn dặm, cũng như thường ở bên ta, bằng dưới câu nói nầy mà chẳng ngộ được, thì dầu giáp mặt ta cũng như cách xa ngàn dặm, cần gì ở xa đi đến, các ngươi hãy nên trân trọng lấy !”
<O:p></O:p>
45.– Chúng nhơn nghe pháp, không còn ai mà chẳng tỏ ngộ, thảy đều hoan hỷ vưng làm.*<O:p></O:p>







<HR align=left SIZE=1 width="33%">(1)Người mê tu phước chẳng tu đạo, chỉ nói tu phước ấy là đạo : “tu phước”, là làm những việc bố-thí, cúng-dường để cầu phước-báo,gọi là : tu phước.“Tu đạo”, là diệt trừ cho hết cái hoặc-nghiệp vô-minh mà đạt tới Bồ-đề diệu giác, gọi là : tu đạo. Thế là tu phước với tu đạo khác nhau, mà người mê trở nhận lầm cái tu phước ấy là tu đạo.
<O:p></O:p>


(2) Bố thí cúng-dường phước không ngằn, trong lòng ba ác gốc còn tạo : Cái phước bố-thí cúng-dường vẫn nhiều thiệt nhưng thuộc về phước hữu lậu, dầu có nhờ phước ấy sanh về cõi Trời, hưởng sự khoái-lạc đến trăm kiếp ngàn kiếp đi nữa, thì cũng có ngày phước hết mà phải luân chuyển vào trong ba đường ác-đạo.
Bởi vì nghĩa “bố-thí cúng-dường” nói đây là chưa đạt tới cảnh-giới “ly tướng bố-thí” và “tự tánh cúng-dường”, còn khởi tâm, còn động niệm, tức là còn tội còn nghiệp, chưa dứt được cái ác-nhơn trong ba đường ; cho nên nói : “ba ác gốc còn tạo”.

<O:p></O:p>
(3) Chỉ trừ tội-nghiệp trong tâm mình, ấy là tự-tánh chơn sám-hối : Bởi tâm điên đảo mới sanh ra tội ; nếu muốn trừ tội, thì chỉ trừ cái tâm điên-đảo ấy cho trở thanh-tịnh. – Thanh tịnh tức là hết tội, hết tội tức là sám-hối, mà cách sám-hối ấy mới thiệt là chơn sám-hối ở trong tự-tánh.

<O:p></O:p>
(4) Ngộ được Đại-thừa chơn sám-hối, bỏ tà làm chánh là không tội : “Thừa”, là nghĩa : vận-tải, là nói : cái cộ, xe lớn vận tải được nhiều người, gọi là : Đại-thừa ; nên trong Phật giáo gọi Bồ-tát là bực người Đại-thừa, vì Bồ-tát có cái đại-nguyện quảng độ chúng-sanh.<O:p></O:p>
Lại trong Phật-giáo gọi các pháp viên-đốn, liễu-nghĩa là Đại-thừa, vì các pháp ấy có cái thân-lực được nhiều người đạt đến cảnh giới làm Phật.<O:p></O:p>
Cách sám hối của Đại-thừa Phật pháp không phải lạy cầu khấn vái gọi là : sám hối ; thiệt ra chỉ trừ bỏ các nghiệp tà vọng mà làm theo tự tâm chơn chánh, tức là nghĩa : chơn sám hối vậy.

<O:p></O:p>
(5) Học đạo hằng xem tự-tánh mình, các Phật cùng ta đồng một loại : là nói : Người học đạo chẳng nên trì-trục theo văn-tự ngữ-ngôn làm chỗ quy-hướng, vì văn-tự ngữ-ngôn là cái tướng giả lập ở trên tự-tánh, chớ không phải chơn thiệt, cho nên cần phải xa lìa hết thảy các tướng mà thường thường xem xét lấy tự-tánh mình, thì tự nhiên thấy rõ cái bản-thể thanh tịnh của tự tánh mình với Phật vẫn không riêng khác.

<O:p></O:p>
(6) Tổ xưa, là chỉ cho ngài Đạt-Ma Sơ-tổ.

<O:p></O:p>
(7) Bằng muốn về sau thấy Pháp-thân, lìa các pháp-tướng rửa lòng sạch : Ý nghĩa câu nầy cũng như câu trong kinh Kim-Cang nói : Nếu thấy các tướng mà chẳng phải tướng, tức là thấy đức Như-Lai ; vì nghĩa “chẳng phải tướng” ấy tức là nghĩa “lìa tướng” và nghĩa “Như-Lai” ấy cũng tức là nghĩa “Pháp thân”. – Nếu lìa hết thảy những tướng của các pháp thì trong tâm không còn các pháp-tướng làm nhơ bẩn ngăn-ngại, tức là thấy được tự-tánh thanh-tịnh Pháp thân.

<O:p></O:p>
(8) Gắng công tự thấy chớ lơ-lơ, dứt hết niệm sau một đời rảnh : là nói : Nếu muốn thấy được thanh-tịnh Pháp-thân, thì cần dùng trí-huệ quán-sát lấy tự tánh luôn luôn, chớ không nên lơ lơ qua bữa.<O:p></O:p>
“Niệm sau”, là cái niệm nối luôn không dứt ; mà nếu dứt được cái niệm sau, thì nó không thể nối luôn mà làm cho ta chuyền níu theo cảnh, tức là cái đời tham-học của ta được rảnh công hết việc.

<O:p></O:p>
(9) Ngộ được Đại-thừa thấy tánh mình, chấp tay cầu tột lòng cung kính : là nói : Phải chí tâm cung kính mà cầu pháp Đại-thừa.
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Phẩm Cơ-Duyên;
Phẩm Cơ-Duyên

THỨ BẢY

1.– Tổ từ khi đắc pháp nơi Huỳnh-Mai, về làng Tào-Hầu ở Thiều-Châu, không ai biết cả. – Thuở đó có kẻ nho-sĩ tên Lưu-Chí-Lược lễ đãi Tổ rất hậu, – Chí-Lược có người cô làm vãi, tên Vô-Tận-Tạng, hằng tụng kinh Đại-Niết-Bàn ; Tổ nghe qua liền rõ nghĩa mầu, bèn vì cô giảng nói.
2.– Ni-cô cầm quyển kinh mà hỏi chữ.
3.– Tổ đáp : “Chữ thì ta chẳng biết, nghĩa xin cứ hỏi.”
4.– Ni-cô nói : “Chữ còn chẳng biết, thì nghĩa làm sao rõ được ?”
5.– Tổ đáp : “Lý mầu của chư-Phật chẳng cần thiết gì văn-tự.”
6.– Ni-cô kính phục, lấy làm lạ, bèn thông cáo với các người kỳ-lão đức vọng trong làng rằng : Sư đó là người có đạo đức, nên thỉnh về cúng dường. – Khi ấy có cháu huyền-tôn của ông Ngụy-Võ-Hầu, tên là Tào-Thúc-Lương, cùng các cư-dân đua nhau đến chiêm-bái.
7.– Nguyên Bửu-Lâm là một ngôi chùa xưa, nhưng từ khi cuối đời nhà Tùy, bị việc binh hỏa mà bỏ hư, nên mọi người mới nhơn chỗ nền cũ đó mà gầy dựng ngôi chùa lại, rồi rước Tổ về ở không bao lâu mà thành một nơi Bửu-phường.
8.– Tổ ở đó được chín tháng ngoài, lại mắc phải bọn ác tìm đuổi. – Tổ bèn trốn qua núi phía trước, lại bị bọn ấy phóng hỏa, đốt rụi cỏ cây ; Tổ ẩn mình, núp vào trong kẹt đá mới được thoát khỏi. – Hòn đá ấy đến nay còn dấu “đầu gối” của Tổ ngồi kiết-già, và dấu lằn “áo bố” ; nhơn đó người đời gọi là : “Hòn đá tỵ nạn”. – Tổ sực nhớ lời của Ngũ-Tổ dặn rằng ”Gặp Hoài thì ở gặp Hội thì trốn”, nên ngài ẩn mình nơi hai ấp ấy.
***
9.– Tăng-nhơn là Pháp-Hải, người ở Khúc-Giang thuộc về Thiều-Châu, ban đầu đến ra mắt Tổ mà hỏi rằng : “Sao gọi là : ”Tức tâm tức Phật”, xin ra ơn chỉ giáo cho.”
10.– Tổ đáp : Niệm trước chẳng sanh là : tức Tâm ; niệm sau chẳng dứt là : tức Phật ; – tạo thành hết thảy các tướng là : Tâm ; xa lìa hết thảy các tướng là : Phật. – Nếu ta nói cho đủ, thì cùng kiếp, nói chẳng hết.
11.– Vậy nghe kệ ta đây :
Tức tâm là Huệ,
Tức Phật là Định,<SUP>(1)</SUP>
Định Huệ đồng trì,
Trong ý thanh tịnh.<SUP>(2)</SUP>
Tỏ pháp-môn nầy,
Do ngươi tập tánh,<SUP>(3)</SUP>
Dùng gốc vô sanh,
Song tu là chánh.<SUP>(4)</SUP>
12.– Pháp-Hải nghe nói ngộ liền, rồi dùng kệ tán-thán rằng :
Tức tâm gốc là Phật,
Chẳng ngộ mà mình khuất,<SUP>(5)</SUP>
Ta biết Định Huệ nhơn,
Song tu lìa các vật.(6)
13.– Tăng-nhơn là Pháp-Đạt người ở Hồng-Châu khi bảy tuổi đã xuất gia, thường tụng kinh Pháp-Hoa đến lạy Tổ mà cúi đầu chẳng tới đất.
14.– Tổ trách : “Lễ lạy mà chẳng cúi sát đất, thì chi bằng đừng lạy ; trong lòng ngươi chắc có một vật, tập sẵn việc gì chăng ?”
15.– Pháp-Đạt bạch : “Tôi tụng kinh Pháp-Hoa đã đến ba ngàn bộ.”
16.– Tổ nói : “Ngươi nếu niệm đến muôn bộ, rõ được ý kinh, mà chẳng lấy cái đó làm hơn thì cùng với ta đi cặp.
17.– “Nay ngươi ỷ lấy công-nghiệp ấy mà tự mình đều chẳng biết lỗi, vậy nghe bài kệ ta đây :
Lạy gốc bẻ mạn tràng,
Đầu sao chẳng chí đất,(7)
Có ta tội ắt sanh,
Quên công phước không bực.(8)
18.– Tổ lại hỏi : “Ngươi tên chi ?”
19.– Bạch : “Tôi tên Pháp-Đạt.”
20.– Tổ nói : “Ngươi tên Pháp-Đạt, nào hề Đạt-Pháp.” – Lại đọc bài kệ nữa rằng :
Ngươi nay tên Pháp-Đạt,
Cần tụng chưa thôi dứt,
Đọc khống luống theo hơi,
Tỏ lòng gọi Bồ-tát.(9)
Ngươi nay có duyên cớ,
Ta vì ngươi nói cho,
Chỉ tin Phật không nói,
Hoa sen miệng mọc ra.(10)
21.– Pháp-Đạt nghe kệ liền ăn năn tạ lỗi và thưa rằng : “Từ nay về sau, tôi phải kính nhường cả thảy ; đệ tử nầy tuy tụng kinh Pháp-Hoa, mà chưa rõ được nghĩa kinh, tâm hằng có chỗ nghi, Hòa-thượng là bực trí-huệ rộng lớn, xin lược giải nghĩa lý trong kinh ấy cho nghe.”
22.– Tổ nói : “Nầy Pháp-Đạt ! – Pháp là rất Đạt, mà tâm ngươi chẳng Đạt ; kinh vốn không nghi, mà tâm ngươi tự nghi, vậy ngươi niệm kinh ấy, lấy cái gì làm tông ?”
23.– Đạt bạch : “Kẻ học đạo nầy, căn-tánh tối-tăm chậm lụt, lâu nay cứ y theo kinh văn tụng niệm, chớ đâu biết được tông-thú.”
24.– Tổ nói : “Ta chẳng biết mặt chữ, ngươi thử lấy kinh ra tụng một bận, rồi ta sẽ nói cho ngươi nghe.”
25.– Pháp-Đạt liền cất tiếng tụng kinh đến phẩm “Thí-dụ”.
26.– Tổ bảo ngừng rồi nói : “Kinh ấy gốc lấy “nhơn duyên xuất thế” làm tông, dầu có nói thí-dụ nhiều cách đi nữa, cũng không vượt ngoài nơi đó.
27.– “Sao là nhơn-duyên ? – Trong kinh nói : “Các Phật Thế-Tôn chỉ vì nhơn-duyên là một việc lớn mà hiện ra nơi đời một việc lớn ấy, tức là việc biết thấy của Phật”.
28.– “Người đời, ngoài thì mê về nỗi trước-tướng, trong thì mê về nỗi trước-không, nếu được đối với tướng mà lìa tướng, đối với không mà lìa không, thì tức là trong ngoài chẳng mê. – Bằng ngộ được pháp ấy, thì một niệm tâm mở-mang, ấy là mở được chỗ biết thấy của Phật.
29.– “Phật cũng như Giác, chia làm bốn môn ; Mở chỗ biết thấy của Giác, Bày chỗ biết thấy của Giác, Tỏ chỗ biết thấy của Giác, Vào chỗ biết thấy của Giác.
30.– “Nếu nghe được chỗ “mở bày” thì “tỏ vào” được, tức là cái biết thấy của Giác, thì chơn-tánh bản-lai xuất hiện ra được. – Ngươi chớ nên giải lầm ý kinh, thấy trong đó nói : “khai” (mở), “thị” (bày), “ngộ” (tỏ), ”nhập” (vào), rồi cho đó là chỗ biết thấy riêng của Phật ; chớ bọn ta không có phần gì ở trong. – Nếu hiểu lầm như thế, ấy là chê kinh, nhạo Phật. – Vì kia đã là Phật, thì đã đủ các sự biết thấy ; cần chi lại phải mở nữa. – Vậy ngươi nay phải tin chỗ biết thấy của Phật ấy, chỉ là tự-tâm của ngươi, chớ không phải Phật nào khác nữa.
31.– “Bởi vì tất cả chúng-sanh, tự che lấy tánh sáng-suốt của mình mà ham mến theo trần-cảnh, rồi ngoài thì chuyền níu, trong thì rối loạn, mà đành chịu giong-ruổi theo đường sanh-tử : đến nỗi nhọc sức Thế-Tôn kia, từ nơi chánh định đứng dậy mà nói cách nầy cách khác khuyên bảo chúng-sanh yên nghĩ, chớ tìm cầu ở bền ngoài, thì đối với Phật vẫn không khác ; cho nên ngài nói rằng : “Mở chỗ biết thấy của Phật”. – Ta nay cũng khuyên cả thảy mọi người, thường thường mở chỗ biết thấy của Phật ở trong tâm mình.
32.– “Người đời tâm tà, ngu mê mà làm ra tội, miệng nói lành, tâm ở dữ, tham-lam, nóng giận, ghen-ghét, dua-nịnh, kiêu-ngạo, lấn người hại vật, ấy là mình tự mở chỗ biết thấy của chúng-sanh.
33.– “Bằng như sửa lòng ngay thẳng, hằng sanh trí-huệ soi sáng tâm mình, bỏ dữ, làm lành, ấy là mình tự mở chỗ biết thấy của Phật.
34.– “Ngươi phải niệm-niệm, mở chỗ biết thấy của Phật, chớ nên mở chỗ biết thấy của chúng-sanh. – Hễ mở chỗ biết thấy của Phật, tức là xuất-thế, mà mở chỗ biết thấy của chúng-sanh, tức là thế-gian. – Ngươi nếu chỉ bo-bo chấp chỗ tụng niệm ấy làm công-khóa hằng ngày, thì chẳng khác nào con ly-ngưu kia thương tiếc cái đuôi dài.”
35.– Pháp-Đạt bạch : “Nếu như vậy thì chỉ cầu rõ được nghĩa, chớ chẳng cần nhọc sức tụng kinh sao ?”
36.– Tổ nói : ”Kinh có lỗi chi mà ngăn cấm ngươi niệm ; chỉ vì mê với ngộ ở nơi ngươi, tổn với ích ở nơi mình, hễ miệng niệm mà tâm làm, tức là mình chuyển kinh ; còn như miệng niệm mà tâm chẳng làm, tức là mình bị kinh xây chuyển.
37.– Vậy nghe bài kệ ta đây :
Tâm mê Pháp-Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp-Hoa.<SUP>(11)</SUP>
Tụng kinh lâu chẳng rõ,
Với nghĩa vẫn thù gia.<SUP>(12)</SUP>
Không niệm, niệm ắt chánh,
Có niệm, niệm thành tà.<SUP>(13)</SUP>
Có không đều chẳng quản,
Cỡi mãi Bạch-ngưu xa.(14)
38.– Pháp-Đạt nghe kệ thoạt nhiên mủi lòng buồn khóc, rồi tỏ ngộ liền bạch với Tổ rằng : “Pháp-Đạt nầy, từ trước đến nay, thiệt chưa từng chuyển nổi kinh Pháp-Hoa, mà bị kinh Pháp-Hoa chuyển.”
39.– Lại bạch nữa rằng : Trong kinh có nói : “Từ các bực Đại-Thinh-văn cho đến các bực Bồ-tát, đều hết sức nghĩ mà cùng nhau đo lường cũng không thể dò thấu trí Phật.” – Nay Thầy dạy kẻ phàm phu nầy chỉ ngộ được tự-tâm, thì gọi là chỗ biết thấy của Phật ; nếu tự mình chẳng phải bực người Thượng-căn, thì không sao tránh khỏi sự nghi báng. – Lại trong kinh nói : “Ba thứ xe mà đệ-tử nầy chưa rõ : xe dê, xe nai với xe trâu trắng, khác nhau bằng cách nào, xin Hòa-thượng ra ơn chỉ dạy một lần nữa.”
40.– Tổ nói : “Ý kinh dạy đã rành rẽ, mê lầm là tại ngươi. – Các người trong bực Tam-thừa, mà không thể dò thấu trí Phật là cái hại tại nơi đo lường, dầu ngươi cùng nghĩ cạn suy, lại càng cách xa hơn nữa.
41.– “Phật vốn vì kẻ phàm-phu mà nói, chớ chẳng phải vì Phật mà nói ; lý ấy bằng chẳng khứng tin, thì mặc kia lui ra khỏi chiếu. – Có biết đâu mình đã ngồi trên xe trâu trắng mà lại còn ra ngoài cửa tìm lấy ba xe.
42.– “Huống chi trong kinh-văn đã nói cho ngươi biết rằng : Chỉ có một Phật-thừa không có thừa nào khác, hoặc hai, hoặc ba, nhẫn đến vô số phương-tiện, nhiều thứ nhơn-duyên và lời lẽ ví dụ mà nói, là cũng đều vì cớ “một Phật thừa” mà nói ra pháp ấy.
43.– “Ngươi sao chẳng xét : ba xe là giả, vì cớ buổi trước : một thừa là thiệt, vì cớ ngày nay ta chỉ dạy ngươi bỏ giả về thiệt mà sau khi về thiệt rồi, cái thiệt ấy cũng không có tên kêu là thiệt nữa. – Vậy phải biết bao nhiêu của báu hiện có đó, đều thuộc về ngươi, tự ngươi thọ dụng, cũng chẳng tưởng là của cha, cũng chẳng tưởng là của con, và cũng không tưởng là mình dùng, thế mới gọi là trì kinh Pháp-Hoa, từ kiếp nầy đến kiếp khác, tay chẳng rời quyển, từ ban ngày đến ban đêm, không lúc nào là lúc chẳng niệm.”
44.– Pháp-Đạt nhờ ơn Tổ bày tỏ, nhảy-nhót vui mừng, rồi dùng kệ khen rằng :
Tụng kinh ba ngàn bộ,
Tào-Khê thảy bỏ ngay,<SUP>(15)</SUP>
Chưa rành ý xuất thế,
Há dứt kiến đời ngây.<SUP>(16)</SUP>
Dê, Nai, Trâu quyền đặt,
Sơ, Trung, Hậu đều hay,<SUP>(17)</SUP>
Ai dè trong nhà lửa,
Vua pháp gốc là đây.(18)
45.– Tổ nói : ”Ngươi từ đây về sau mới được xưng là : ông tăng niệm kinh.”
46.– Pháp-Đạt từ đấy lãnh-hội ý mầu, rồi việc tụng kinh cũng chẳng bỏ.
***
47.– Tăng-nhơn là Trí-Thông, người ở An-Phong thuộc về Thọ-Châu, ban đầu xem kinh Lăng-Già, ước hơn ngàn bận mà chẳng hiểu thấu chỗ Tam-thân Tứ-trí nên đảnh lễ Tổ mà cầu giải ý nghĩa.
48.– Tổ đáp : “Tam thân là : “Thanh-tịnh Pháp-thân”, tức là tánh của ngươi, – “Viên-mãn Báo-thân”, tức là trí của ngươi, – “Thiên-bá-ức Hóa-thân”, tức là hạnh của ngươi. – Nếu lìa bổn-tánh mà nói riêng tam-thân, thì gọi là : có thân mà không trí. – Còn nếu rõ tam-thân không có tự tánh, thì gọi là : tứ-trí bồ-đề.
49.– Vậy nghe kệ ta đây :
Tánh mình đủ ba thân,<SUP>(19)</SUP>
Tỏ ra thành bốn trí,<SUP>(20)</SUP>
Chẳng lìa duyên thấy nghe,
Vượt lên cõi Phật ấy.<SUP>(21)</SUP>
Nay ta vì ngươi nói,
Xét tin trót chẳng mê,
Chớ học người chạy kiếm,
Trọn ngày nói Bồ-đề.<SUP>(22)</SUP>
50.– Trí-Thông lại hỏi : “Cái nghĩa “bốn-trí” khá được nghe chăng ?”
51.– Tổ nói : “Đã hiểu ba thân thì rõ được bốn-trí, sao còn hỏi nữa ? – Nếu lìa ba thân mà riêng bàn bốn-trí, ấy gọi là có trí không thân và tức là cái có trí ấy lại thành ra không trí.
52.– Tổ lại đọc kệ rằng :
Trí đại-viên-cảnh, tánh thanh tịnh,<SUP>(23)</SUP>
Trí bình-đẳng-tánh, tâm không bịnh,<SUP>(24)</SUP>
Trí diệu-quán-sát, thấy chẳng công,<SUP>(25)</SUP>
Trí thành-sở-tác, đồng viên cảnh.<SUP>(26)</SUP>
Năm tám sáu bảy quả nhơn xây,<SUP>(27)</SUP>
Chỉ dùng danh ngôn không thiệt tánh,<SUP>(28)</SUP>
Bằng chỗ xây ấy chẳng lưu tình,
Bộn-bàng mãi ở Na-già-định.(29)
53.– Trên đây là nói xây cái Thức làm Trí. – Trong giáo nói :
Chuyển năm thức trước, làm trí-thành-sở-tác ;
Chuyển thức thứ sáu, làm trí-diệu-quán-sát ;
Chuyển thức thứ bảy, làm trí-bình-đẳng-tánh ;
Chuyển thức thứ tám, làm trí-đại-viên-cảnh.
Tuy thức sáu, thức bảy chuyển ở trong nhơn ; năm thức và thức thứ tám chuyển ở trên quả, nhưng chỉ chuyển cái danh mà chẳng chuyển cái thể.
54.– Trí-thông nghe rồi liền ngộ được tánh-trí, bèn trình kệ rằng :
Ba thân vốn ngã thể,
Bốn trí gốc tâm minh.<SUP>(30)</SUP>
Thân trí hòa không ngại,
Ứng vật mặc theo hình.<SUP>(31)</SUP>
Dấy tu đều vọng-động,
Trụ giữ chẳng chơn-tình.<SUP>(32)</SUP>
Ý nhiệm nhờ thầy dạy,
Trót quên nhiễm ô-danh.(33)
55.– Tăng-nhơn là Trí-Thường, người ở Quy-Khê thuộc về Tín-Châu, khi trẻ tuổi xuất gia, dốc chí cầu thấy tánh, một ngày kia đến tham lễ Tổ.
56.– Tổ nói : “Ngươi từ đâu đến và muốn cầu vật chi ?”
57.– Trí-Thường bạch : “Lúc gần đây, kẻ học đạo nầy ở núi Bạch-Phong, thuộc về Hồng-Châu, có đảnh lễ Đại-Thông Hòa-thượng, nhờ ngài tỏ bày cái nghĩa “kiến tánh thành Phật”, song chưa giải quyết được chỗ nghi ngờ, nên từ xa đến đây kỉnh lễ, cúi mong Hòa-thượng chỉ bảo.”
58.– Tổ nói : “Thầy ngươi có nói những câu chi, thuật lại cho ta nghe thử ?”
59.– Trí-Thường bạch : Trí-Thường nầy đến kia, tính đã ba tháng mà chưa nhờ ngài chỉ dạy điều chi, nhơn một hôm nọ, vì lòng cầu pháp quá thiết, nên một mình vào nhà phương-trượng, cầu hỏi nghĩa “Thế nào là bổn-tâm, bổn-tánh của tôi.” – Đại-Thông Hòa-thượng lại hỏi đệ-tử rằng : “Ngươi có thấy hư-không chăng ?”
Đệ-tử bạch : “Thấy !”
Kia lại hỏi rằng : “Ngươi thấy hư-không có tướng mạo gì không ?”
Bạch : “Hư-không vốn không hình, có chi là tướng mạo !”
Kia nói : “Bổn-tánh của ngươi cũng như hư-không, trót không một vật gì khá thấy, ấy gọi là : chánh kiến ; – không một vật gì khá biết, ấy gọi là chơn-tri ; – lại cũng không có xanh, vàng, dài, vắn, chỉ thấy gốc nguồn trong sạch giác-thể tròn sáng, tức gọi là : kiến-tánh thành Phật, và cũng gọi là : tri-kiến của Như-Lai, – kẻ học đạo nầy, tuy nghe lời ấy, mà cũng còn chưa giải quyết được ; vậy xin Hòa-thượng tỏ bày cho.”
60.– Tổ nói : Câu nói của thầy ngươi, hãy còn có chỗ thấy biết, cho nên khiến ngươi chưa rõ. – Ta nay tỏ cho ngươi một bài kệ nầy :
Chẳng thấy pháp gì giữ không thấy,
Khác nào mặt-nhựt mây che đậy.
Chẳng biết pháp gì giữ không biết,
Lại như trên không chớp điện nháy.<SUP>(34)</SUP>
Những tri-kiến ấy thoạt dấy lên,
Không rõ phương-tiện mà nhận bậy.<SUP>(35)</SUP>
Một niệm ngươi nên biết lỗi mình,
Ánh sáng tự-tâm thường hiện vậy.<SUP>(36)</SUP>
61.– Trí-Thường nghe kệ, tâm ý rỗng-suốt bèn thuật kệ lại rằng :
Khi không khởi biết thấy,
Trước-tướng tìm Bồ-đề.<SUP>(37)</SUP>
Tình còn một niệm ngộ,
Khó thoát buổi xưa mê.<SUP>(38)</SUP>
Tự tánh thể nguồn giác,
Theo bóng luống trôi dời.<SUP>(39)</SUP>
Chẳng được vào nhà Tổ,
Không khỏi chạy hai nơi.<SUP>(40)</SUP>
62.– Một ngày nọ Trí-Thường hỏi Tổ rằng : “Phật đã nói pháp Tam-thừa, sao còn nói Tối-thượng-thừa nữa ; đệ-tử nầy chưa rõ, xin nhờ chỉ dạy cho.”
63.– Tổ nói : “Ngươi cứ tự quán sát lấy bổn-tâm, đừng chấp theo pháp-tướng ở ngoài, pháp không có bốn thừa, mà tại tâm người có tự nhiều bực riêng khác :
Bực thấy nghe chuyển tụng là : Tiểu-thừa ;
Bực tỏ pháp rõ nghĩa là : Trung-thừa ;
Bực y pháp tu hành là : Đại-thừa ;
Bực muôn pháp đều thông, muôn pháp gồm đủ, hết thảy chẳng nhiễm, lìa các pháp-tướng, không một pháp nào khá đặng, ấy gọi là : Tối-thượng-thừa.
64.– “Thừa”, nghĩa là : “làm”, chẳng phải tranh luận ở đầu miệng, ngươi cứ tự tu, chớ hỏi ta nữa, tất cả trong lúc nào tánh mình cũng tự-như.
65.– Trí-Thường đảnh lễ tạ ơn và theo hầu hạ trọn đời Tổ.
***
*
66.– Tăng-nhơn là Chí-Đạo người ở Nam-Hải, thuộc về Quảng-Châu, đến cầu hỏi rằng : “Kẻ học đạo nầy từ khi xuất-gia xem kinh Niết-Bàn đã trên mười năm, nhưng chưa rõ được đại ý, xin Hòa-thượng xuống ơn chỉ giáo.”
67.– Tổ hỏi : “Ngươi chưa rõ chỗ nào ?”
68.– Chí-Đạo bạch : “Trong kinh nói : “Các hạnh không thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt dứt rồi, tịch diệt làm vui”, đệ-tử hãy còn nghi hoặc chỗ ấy.”
69.– Tổ hỏi : “Ngươi nghi cách sao ?”*
70.– Bạch : “Cả thảy chúng-sanh đều có hai thân, tức là sắc-thân và pháp-thân ; mà sắc-thân thì không thường, có sanh có diệt ; còn pháp-thân thì có thường, không tri không giác. – Vậy câu kinh nói : “Sanh diệt dứt rồi, tịch diệt làm vui”, đó chẳng rõ thân nào tịch-diệt và thân nào chịu vui ? – Nếu nói sắc-thân, thì khi sắc-thân diệt rồi, tức là tứ-đại rã tan, hoàn toàn là khổ ; mà đã khổ thì không thể nói vui được. – Còn như nói pháp-thân tịch-diệt, thì pháp-thân tức đồng như loại cỏ cây, gạch đá ; còn cái gì mà chịu sự vui ?
71.– “Lại pháp-tánh là cái thể sanh-diệt, ngũ-uẩn là cái dụng sanh-diệt, một thể năm dụng, sanh-diệt là thường, sanh thì do thể khởi ra dụng, thì diệt thâu dụng trở về thể.
72.– “Nếu cho rằng sanh lại, tức là loài hữu-tình chẳng đoạn chẳng dứt ; bằng chẳng cho rằng sanh lại, thì vĩnh viễn về nơi tịch diệt, không khác gì vật vô-tình. – Như thế thì hết thảy các pháp đều bị cảnh-giới Niết-bàn cấm ngăn đè nén, sanh còn chẳng được, thì có vui gì ?”
73.– Tổ nói : “Ngươi là con nhà họ Thích, sao lại học theo tà-kiến ”đoạn thường” của ngoại đạo mà nghị luận đến pháp tối-thượng-thừa ? – Cứ theo lời nói của ngươi, thì ngoài sắc-thân lại có pháp-thân khác, lìa sanh diệt mà cầu nơi tịch diệt, lại suy tìm tới chỗ Niết-bàn thường vui mà nói có thân thọ-dụng, đó là giữ chặt lấy nghiệp sanh tử mà đắm mê theo cái vui thế-gian.
74.– “Ngươi nay phải biết : Phật vì hết thảy đám người mê nhận lầm “năm uẩn hòa hiệp” làm tướng tự-thể và phân biệt hết thảy các pháp làm tướng ngoại-trần rồi ham sống, ghét chết niệm niệm đổi dời mà chẳng biết là mộng-hoạn dối giả, uổng chịu sự luân-hồi, lại lấy cảnh “Niết-bàn thường vui” kia, trở cho là tướng khổ mà trọn ngày rảo kiếm ở bề ngoài.
75.– “Phật thương xót vì cớ ấy, nên bày tỏ cái cảnh vui thiệt của Niết-bàn, không sát-na nào có tướng sanh, không sát-na nào có tướng diệt, lại không có cái sanh diệt gì khá diệt, đó là tịch-diệt hiền tiền ; – mà đương lúc hiện tiền, cũng không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường vui. – Cái vui ấy không có ai thọ và cũng không ai chẳng thọ, thì đâu có cái tên kêu là “một thể năm dụng” như lời ngươi nói : phương chi lại còn nói Niết-bàn cấm ngăn các pháp, làm cho vĩnh viễn chẳng sanh ; đó là ngươi nhạo Phật dể pháp.
76.– Vậy nghe kệ ta đây :
Bực Niết-bàn vô-thượng,
Tròn sáng thường lặng soi.<SUP>(41)</SUP>
Phàm-ngu gọi là chết,
Ngoại-đạo chấp làm đoạn.<SUP>(42)</SUP>
Các kẻ cầu nhị-thừa,
Chỉ cho là không dấy.<SUP>(43)</SUP>
Thảy suy tính theo tình,
Gốc sáu mươi hai thấy.<SUP>(44)</SUP>
Bạ lập cái giả danh,
Đâu phải nghĩa chơn thiệt.<SUP>(45)</SUP>
Chỉ có người quá lượng,
Suốt thông không lấy bỏ.
Vì biết pháp ngũ-uẩn,
Cùng cái ta ở trong.
Ngoài bày các sắc tượng,
Mỗi mỗi tướng âm thinh.
Bình đẳng như mộng huyễn,
Không cái thấy thánh phàm.
Chẳng nghĩ là Niết-bàn,
Hai bên ba khoản dứt.
Hằng ứng dụng các căn,
Mà chẳng tưởng là dụng.
Phân biệt cả các pháp,
Mà chẳng tưởng phân biệt.<SUP>(46)</SUP>
Lửa kiếp đốt đáy biển,
Gió thổi núi chọi nhau.
Chơn thường tịch diệt vui,
Tướng Niết-bàn như vậy.<SUP>(47)</SUP>
Ta nay cưỡng nói ra,
Khiến ngươi bỏ tà-kiến.
Ngươi chớ giải theo lời,
Cho ngươi biết phần ít.<SUP>(48)</SUP>
77.– Chí Đạo nghe kệ tỏ ngộ, hớn hở đảnh lễ rồi lui ra.
***
78.– Thiền-sư, tên là Hành-Tư, sanh tại nhà họ Lưu ở An-Thành, thuộc về Cát-Châu, nghe nói Tào-Khê mở Pháp-tịch, hoằng hóa rất thạnh, thẳng đến thăm lễ Tổ và hỏi rằng : “Nên làm việc gì ngỏ chẳng sa vào thềm bực ?”
79.– Tổ nói : “Ngươi lâu nay từng làm việc gì ?”
80.– Hành-Tư bạch : “Thánh-đế cũng chẳng làm.”
81.– Tổ nói : “Sa vào thềm bực gì ?”
82.– Bạch : “Thánh-đế còn chẳng làm, thì có thềm bực gì nữa.”
83.– Tổ rất khen trọng, rồi bảo Hành-Tư làm đầu trong chúng. – Một ngày kia Tổ dạy Hành-Tư rằng : ”Ngươi phải tách đi hóa-độ một nơi, đừng để giáo pháp đoạn tuyệt.”
84.– Hành-Tư sau khi đắc pháp, bèn trở về chùa Thanh-Nguyên, thuộc về Cát-Châu, mở rộng giáo pháp mà nối ngài hóa-độ, thụy-hiệu là Hoằng-Tế thiền-sư.
***
85.– Hoài-Nhượng thiền-sư, người ở Kim-Châu, con nhà họ Đỗ. – Khi đầu có yết kiến An quốc-sư ở chùa Tung-Sơn. – An bảo qua Tào-Khê khấu vấn, Nhượng đến nơi lễ lạy.
86.– Tổ hỏi : “Ở đâu đến ?”
87.– Bạch : “Ở Tung Sơn.”
88.– Tổ hỏi : “Đem vật gì đi đến như thế ?”
89.– Bạch : “Nói giống như một vật gì là chẳng nhằm.”
90.– Tổ nói : “Có tu chứng chăng ?”
91.– Bạch : “Tu chứng tức chẳng không, ô-nhiễm tức chẳng đặng.”
92.– Tổ nói : “Chỉ cái “chẳng ô-nhiễm” ấy là các Phật đều hộ niệm ; ngươi đã như thế, ta cũng như thế.”
93.– Nhượng rỗng-rang tỏ ngộ, rồi giữ phần hầu-hạ hai bên Tổ trọn mười lăm năm mỗi ngày mỗi tiến tới chỗ mầu nhiệm ; sau qua núi Nam-Nhạc mở rộng dòng thiền-tông, vua sắc phong là : Đại-Huệ thiền-sư.
***
94.– Thầy Vĩnh Gia Huyền Giác, con nhà họ Đái, ở Ôn-Châu, thuở nhỏ học kinh luận, tinh về pháp-môn Chỉ-quán của ngài Thiên-Thai. Nhơn xem kinh Duy-Ma mà phát tỏ cõi lòng. – Hôm nọ tình cờ gặp đệ tử của Lục-Tổ là Huyền-Sách đến thăm, cùng nhau đàm luận, Sách thấy Huyền-Giác nói ra đều ám-hiệp với lời của chư Tổ.
95.– Sách hỏi : “Nhơn-giả đặng pháp nơi thầy nào ?”
96.– Giác nói : “Tôi nghe kinh Phương-Đẳng và các luận đều có thầy truyền dạy, sau nhờ xem kinh Duy-Ma mà ngộ được tâm-tông nhà Phật, song chưa có thầy chứng minh.”
97.– Sách nói : “Từ đời Oai-Âm Vương-Phật về trước thì được, chớ từ đời Oai-Âm Vương-Phật về sau, nếu không thầy mà tự ngộ, đều là phái thiên-nhiên ngoại-đạo cả.”
98.– Giác nói : “Vậy xin nhơn-giả làm chỗ chứng cứ cho ta chút.”
99.– Sách nói : ”Lời nói tôi còn thấp hèn, hiện nay nơi Tào-Khê có Lục-Tổ đại-sư, người ở bốn phương vân tập rất đông mà đều thọ pháp với ngài cả ; ông có đi thời tôi cùng đi với.”
100.– Giác bèn theo Sách đồng đến tham phỏng ; Giác đi nhiễu xung quanh Tổ ba vòng, rồi chống tích-trượng mà đứng.
101.– Tổ nói : “Phàm làm sa-môn phải đủ ba ngàn oai-nghi, tám muôn tế hạnh ; nay đại-đức từ phương nào đến đây, lại sanh lòng ngã-mạn quá thể ?”
102.– Giác nói : “Sự sanh tử lớn lao, cơn vô-thường mau chóng.”
103.– Tổ nói : “Sao chẳng thể lấy lý “không sanh” và liễu lấy cái “không chóng” ư ?”
104.– Bạch : “Thể vẫn không sanh liễu vốn không chóng.”
105.– Tổ nói : “Như vậy ! – Như vậy !”
106.– Huyền-Giác bèn đủ oai nghi lễ lạy, rồi giây lát cáo từ.
107.– Tổ rằng : “Về quá mau chăng ?”
108.– Bạch : “Gốc mình chẳng động, thì có gì là làm mau !”
109.– Tổ nói : “Ai biết mình chẳng động ?”
110.– Bạch : “Tự nơi nhơn-giả sanh lòng phân biệt.”
111.– Tổ nói : “Ngươi thiệt được cái ý “không sanh”.”
112.– Bạch : “Không sanh há có ý sao ?”
113.– Tổ nói : “Không ý thì cái gì phân biệt ?”
114.– Bạch : “Phân biệt cũng chẳng phải ý.”
115.– Tổ khen rằng : “Hay thật ! – Thầy hãy tạm lại một đêm.” – Nhơn vậy mà người đời gọi ngài Huyền-Giác là : “Nhứt túc Giác”.
116.– Đến sau Huyền-Giác có làm bài “chứng đạo ca” thạnh hành trong đời, thụy hiệu là Vô-Tướng đại-sư, đời xưng là Chơn-Giác vậy.
***
117.– Trí-Hoàng thiền sư, ban đầu tham-học với Ngũ-Tổ, tự cho mình đã đặng pháp chánh-thọ, ở riêng một cái am, rồi cứ ngồi mãi, trót hai mươi năm.
118.– Đệ-tử của Lục-Tổ là Huyền-Sách, đi du phương đến đất Hà-Sóc, nghe danh Trí-Hoàng mới tới am hỏi rằng : “Ông ở đây làm công việc chi ?”
119.– Hoàng nói : “Nhập định.”
120.– Sách nói : “Ông nói “nhập định” là có tâm nhập, hay không tâm nhập ?
121.– “Như không tâm nhập, thì hết thảy những loài vô tình như cỏ, cây, ngói, đá cũng nên đắc định ; còn nếu có tâm nhập, thì tất cả những loài hữu-tình hàm-thức cũng đều đắc định.”
122.– Hoàng nói : ”Chánh trong lúc ta nhập định, chẳng thấy có cái tâm “có không”.”
123.– Sách nói : “Nếu chẳng thấy có cái tâm “có không” thì tức là : thường-định ; còn có gì là xuất nhập ! – Bằng có xuất có nhập, tức là chẳng phải đại-định.”
124.– Hoàng không ngỏ trả lời, giây lâu lại hỏi thầy của ông là ai ?
125.– Sách nói : “Thầy tôi là Lục-Tổ ở Tào-Khê.”
126.– Hoàng nói : “Lục-Tổ lấy chi làm thiền định.”
127.– Sách nói : “Chỗ thấy của thầy tôi : mầu, lợt, tròn, lặng, thể dụng như-như, năm uẩn vốn không, sáu trần chẳng có, chẳng xuất, chẳng nhập, chẳng định, chẳng loạn ; tánh thiền vẫn không trụ, đừng trụ vào cái thiền vắng lặng ; tánh thiền vẫn không sanh, đừng sanh cái tưởng thiền, như hư-không mà cũng không có cái lượng hư-không.”
128.– Hoàng nghe câu nói ấy, mới đi thẳng đến nơi ra mắt Lục-Tổ.
129.– Tổ hỏi : “Nhơn-giả ở đâu đến ?”
130.– Hoàng thuật đủ chuyện gặp Huyền-Sách bữa trước.
131.– Tổ nói : “Hẳn thiệt như lời của Huyền-Sách nói.” – Tổ lại thương Hoàng có lòng ở xa tìm đến, nên ra ơn giải quyết cho Hoàng rõ.
132.– Hoàng từ đó tỏ ngộ, mới biết chỗ đắc-tâm của mình trong hai mươi năm nay, đều không ảnh-hưởng gì cả. – Tại đêm ấy, những người ở Hà-Bắc đều nghe trên hư không có tiếng gọi rằng : “Hoàng thiền-sư ngày nay đắc đạo.”
133.– Hoàng sau đảnh lễ từ biệt Tổ trở về Hà-Bắc, mở đạo mà khai hóa hàng tứ-chúng. (Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.)
***
134.– Có một chàng đồng-tử tên Thần-Hội, con nhà họ Cao ở đất Tương-Dương, mới mười ba tuổi, từ chùa Ngọc-Tuyền đến tham lễ Lục-Tổ.
135.– Tổ hỏi : “Người tri-thức từ xa đi đến khó nhọc, có đem được cái bản-lai không ? – Nếu có bản, thì phải biết chủ, nói thử coi ?”
136.– Hội nói : “Lấy cái “không trụ” làm căn-bản, thấy tức là chủ.”
137.– Tổ nói : ”Kẻ Sa di kia ! Sao cứ nói theo thứ lớp ?”
138.– Hội trở lại hỏi : ”Hòa-thượng tọa thiền thấy hay chẳng thấy ?”
139.– Tổ lấy cây gậy chống, đánh Thần-Hội ba cái mà hỏi : “Ta đánh ngươi đau hay chẳng đau ?”
140.– Hội nói : “Thưa ! – Cũng đau, cũng chẳng đau !”
141.– Tổ nói : “Ta đây cũng thấy, cũng chẳng thấy.”
142.– Thần-Hội hỏi : “Sao là cũng thấy cũng chẳng thấy ?”
143.– Tổ nói : “Chỗ thấy của ta, là ta thường thấy chỗ tội lỗi của tự-tâm, chớ chẳng thấy những sự phải, quấy, tốt, xấu của người khác ; ấy là cũng thấy, cũng chẳng thấy. – Còn ngươi nói cũng đau, cũng chẳng đau là sao ?
144.– “Ngươi nếu chẳng đau, thì giống như loài cây đá, vô-tình ; bằng đau, thì giống như kẻ phàm phu, tức là khởi lòng hờn giận. – Trước đây ngươi hỏi : “thấy hay chẳng thấy”, đó là chấp hai bên và ngươi nói : “đau cũng chẳng đau”, ấy là còn sanh diệt. – Vậy thì tự-tánh của ngươi, ngươi còn chẳng thấy, mà sao dám khinh sức cợt người.”
145.– Thần-Hội lạy tạ xin lỗi.
146.– Tổ lại nói : “Ngươi nếu tâm mê chẳng thấy, thì phải hỏi người thiện-tri-thức mà tìm đường ; bằng ngươi tâm ngộ, thì tức là tự thấy tánh mình, y theo pháp mà tu hành. – Nay ngươi tự mê chẳng thấy được tâm mình mà trở lại hỏi ta “thấy cùng chẳng thấy” ; ta thấy thì tự ta biết, đợi gì cái mê của ngươi. – Còn ngươi nếu tự thấy, thì cũng chẳng đợi gì cái mê của ta. – Ngươi sao chẳng tự biết, tự thấy, lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy mà chi !”
147.– Thần-Hội lại lễ hơn trăm lạy mà xin tạ sự lầm-lỗi, rồi hết sức siêng-năng hầu hạ bên Tổ, chẳng khi nào rời.
148.– Một ngày kia Tổ bảo đồ-chúng rằng : “Ta có một vật, không đầu, không đuôi, không tên, không chữ, không lưng, không mặt, các ngươi có biết vật chi không ?”
149.– Thần-Hội bước ra bạch rằng : “Cái ấy là gốc nguồn của các Phật và là Phật-tánh của Thần-Hội nầy.”
150.– Tổ nói : “Ta đã nói với ngươi là không tên, không chữ, mà ngươi lại kêu là gốc-nguồn, Phật-tánh ; ngươi dầu đi tới đâu mà có nắm tranh che đầu, cũng chỉ thành một người tông-đồ tri-giải mà thôi.”
151.– Sau khi Tổ sư tịch rồi, Thần-Hội vào đất Kinh-Lạc, mở rộng pháp Đốn-giáo của Tào-Khê và làm sách “Hiển tông ký”, thạnh hành trong đời, người gọi là : Hà-Trạch thiền-sư.
&&&
152.– Có một ông tăng hỏi Tổ rằng : “Ý-chỉ của thầy Huỳnh-Mai, thiệt người nào đặng ?”
153.– Tổ nói : “Người hội Phật pháp được.”
154.– Tăng nói : “Hòa-thượng ta đặng chăng ?”
155.– Tổ nói : “Ta chẳng hội Phật-pháp.”
156.– Một bữa nọ, Tổ muốn giặt cái y của Ngũ-Tổ truyền ngày trước, mà không có suối tốt, nhơn ra sau chùa ước năm dặm, thấy nơi ấy, núi rừng sung rậm, khí tốt đoanh xây, Tổ mới dộng tích-trượng cặm xuống đất, mạch suối liền theo tay mà tuôn ra, chứa đầy thành ao. – Tổ bèn quỳ gối trên đá mà vò giặt lấy y, thì có ông tăng ở đất Thục, tên là Phương-Biện vừa đến ra mắt Tổ.
157.– Tổ hỏi : “Thượng-nhơn chuyên làm nghề chi ?”
158.– Bạch : “Khéo về nghề đắp hình tượng.”
159.– Tổ nghiêm chỉnh nét mặt nói rằng : “Ngươi thử đắp hình ta coi !”
160.– Biện chẳng biết tính sao, qua vài ngày sau mới đắp thành chơn-tượng của Tổ, bề cao độ bảy tấc, đúng tột bực khéo.
161.– Tổ cười mà rằng : “Ngươi khéo về tánh đắp mà chẳng rõ tánh Phật.” – Nói rồi liền vò đầu Phương-Biện mà thọ ký rằng : đời đời làm phước-điền cho cõi Nhơn-Thiên. – Nhơn đó lấy y mà đáp ơn Phương-Biện.
162.– Biện lấy y phân làm ba phần ! Một phần choàng vào tượng đấp, một phần để lại cho mình, một phần thì dùng hộp đựng, rồi chôn dưới đất, và phát lời thệ rằng : “Đời sau, người nào đặng áo nầy, tức là ta ra đời, trụ trì ở nơi đây, sửa dựng ngôi chùa lại.”
163.– Đến đời Tống, niên hiệu Gia-Hựu, năm thứ tám, có tăng-nhơn, tên Duy-Tiên, sửa đền chùa, đào đất gặp đặng y hãy còn như mới. – Còn cái tượng của Lục-Tổ thì sau thờ tại chùa Cao-Tuyền, ai cầu khẩn việc gì cũng đều thấy linh-ứng.
&&&
164.– Có ông tăng đọc lại bài của Ngọa-Luân thiền-sư rằng :
Ngọa-Luân có nghề giỏi,
Dứt trăm tư tưởng rui,
Đối cảnh chẳng sanh tâm,
Bồ-đề thêm lớn cội.<SUP>(49)</SUP>
165.– Tổ nghe qua bèn nói rằng : “Bài kệ ấy chưa tỏ được chỗ tâm địa ; nếu y theo đó mà làm, thì thêm sự trói buộc.” – Nhơn đó Tổ mới tỏ một bài kệ lại rằng :
Huệ-Năng không tài nghề,
Chẳng hề dứt tư tưởng,
Đối cảnh tâm khởi luôn,
Bồ-đề làm sao lớn.<SUP>(50)</SUP>
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
(1)Tức tâm là Huệ, Tức Phật là Định : “Tức tâm tức Phật” là nói : Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, gốc không riêng khác ; – bởi tâm tức là Phật nên tâm ấy là cái tâm sáng suốt, gọi là Huệ ; lại cũng bởi Phật tức là tâm nên Phật ấy là ông Phật thường trụ, gọi là : Định.
(2) Định Huệ đồng trì, trong ý thanh tịnh : ”Ý” nầy là chỉ cho “ý-căn”, tức là thức mạt-na thứ bảy ; – vì thức ấy tánh hay xét-nét nghĩ-lường, hay vận động, hay chấp ngã và làm chỗ sở-y cho ý thức thứ sáu phân biệt ; các nghiệp phiền não cũng do nó khởi ra, cho nên Định và Huệđều trì, thì nhờ có sức “Huệ” diệt trừ phiền não và nhờ có sức “Định” diệt trừ cái tánh nghĩ lường phân biệt, tức là ý phải thanh tịnh.
(3) Tỏ pháp-môn nầy, do ngươi tập tánh : là nói : Nhờ có cái sức huân tập của tự tánh chơn như ở trong mạnh mẽ mới bài trừ hết các thứ nghĩ lường phân biệt của ý mà tỏ ngộ được pháp môn Đốn-giáo ấy.
(4) Dùng gốc vô sanh, song tu là chánh : “Vô sanh” là nói : các pháp gốc tự chẳng sanh ; nhơn đó mới quán sát cái lý vô-sanh để phá trừ cái phiền-não sanh diệt, nên gọi là : “dùng gốc vô sanh”. – Nhưng muốn phá trừ cái phiền não sanh diệt, thì do nơi lý vô sanh ấy mà gồm tu cả Định và Huệ là chánh đáng hơn, nên gọi : “song tu là chánh”.

*** *** ***


(5) Tức tâm là gốc Phật, chẳng ngộ mà mình khuất : là nói : Bởi trước kia không biết tâm gốc là Phật nên tự khuất là phàm mà tôn Phật là thánh ; ngày nay đã rõ tâm gốc là Phật rồi, thì đâu còn có sự tự khuất ấy.
(6) Ta biết Định Huệ nhơn, song tu lìa các vật : Tự tâm thanh tịnh là cái nhơn của Định, bản giác sáng suốt là cái nhơn của Huệ ; mà tự tâm đã thanh tịnh tức là chẳng sanh chẳng diệt, thường trụ Niết-bàn bản giác đã sáng suốt tức là thấy rõ sự lý dung-thông, tánh tướng bình đẳng. – Biết tu Định Huệ một cách như thế, thì còn có sự nghĩ lường phân biệt đâu mà bị các vật làm ngăn ngại ; cho nên nói : “Ta biết Định Huệ nhơn song tu lìa các vật” là thế.


*** *** ***

(7) Lạy gốc bẻ mạn tràng, đầu sao chẳng chí đất : “Mạn” là tâm kiêu mạn ; “Tràng” là lá phướng, là nói : Cái tâm kiêu mạn của chúng-sanh thường tự cao lấy phần mình ; cũng ví như lá phướng treo cao trên đầu trụ, trồng ở trước chùa, nên gọi là : “mạn tràng”.
Còn phép lạy mà khom cái thân mình rồi mọp cả đầu và hai tay hai chơn xuống đất, làm cách khổ-cực như vậy, là để trừ dứt cái tâm kiêu mạn, đừng cho có thói tự cao nữa ; cũng ví như trụ phướng cao, đương đứng mà bẻ gãy vậy, nên gọi là : “bẻ mạn tràng”.
Thế mà Pháp-Đạt trong khi lạy Tổ mà đầu mọp chẳng chí đất, tức là cái tâm kiêu-mạn chưa hết ; cho nên bị Tổ quở.
(8) Có ta tội ắt sanh, quên công phước không bực : Bởi tâm kiêu-mạn chưa dứt hết, tức là trong tâm còn chấp có cái ta (ngã chấp) ; – vì chấp có cái ta ấy mới sanh ra nghĩ lường phân biệt mà tạo thành các thứ tội-nghiệp (phiền não) ; chớ ta tự quên lấy cái “công” của ta, tức là tâm không còn chấp có cái “ta” nữa, mà tâm đã không còn chấp có cái ta nữa tức là tâm thanh tịnh như hư không, thì phước đức cũng nhiều vô-lượng vô-biên như hư-không, có chi sánh bằng.


*** *** ***

(9) Đọc khống luống theo hơi, tỏ lòng gọi Bồ-tát : Tụng kinh không phải tụng suông mà chỉ lên hơi xuống tiếng gọi là tụng kinh. – Thiệt ra tụng kinh, gốc để hiểu rõ chơn-lý của Phật ; mà đã hiểu rõ chơn-lý của Phật, tức là hiểu rõ chơn-tâm thường-trụ của mình. – Chơn tâm thường-trụ bản-lai nó vẫn trong sạch sáng suốt, không có chi là vô-minh phiền-não, đạt tới cảnh-giới ấy, tức là minh tâm (tỏ lòng) mà được bực minh tâm ấy tức là : Bồ-tát.

*** *** ***

(10) Chỉ tin Phật không nói, hoa sen miệng mọc ra : Trong kinh Duy-Ma-Cật nói : Từ nơi gốc vô-trụ mà kiến lập hết thảy các pháp (tùng vô trụ bản, lập nhứt thiết pháp) mà vô-trụ tức là chơn không, chơn không thì tịch-diệt, cho nên các pháp đã gốc nơi chơn không tịch diệt mà lập ra, thì các pháp ấy là chơn không tịch diệt, – mà các pháp đã là chơn không tịch diệt, thì Phật nói ra các pháp cũng là cái nói chơn không tịch diệt, – mà cái nói đã là chơn-không tịch-diệt, thì cái nói ấy cũng tức là không nói.
Cho nên trong khi Phật sắp nhập Niết-bàn, các hàng đệ-tử đến cầu Phật, xin hỏi những chỗ pháp-yếu, thì Phật trả lời rằng : “Lâu nay các ngươi tưởng ta có nói pháp hay sao ? – Thiệt ra, trước từ vườn Lộc-Dã (là chỗ Phật thuyết pháp Tứ-diệu-đế độ cho bọn Kiều-Trần-Như năm người trước hết), sau đến sông Bạt-Đề (là chỗ Phật nhập diệt, trong khoảng bốn mươi chín năm), trong khoảng bốn mươi chín năm, chưa từng nói một chữ”, – Thế là Phật nói mà không nói.
Nếu người học Phật mà tin được cái “không nói” của Phật ấy, thì tức là tụng kinh Diệu-pháp liên-hoa. – Vậy nên gọi là : “chỉ tin Phật không nói, hoa sen miệng mọc ra” là thế. (Hoa sen, chữ Hán gọi là : liên-hoa, tức là nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa vậy.)


*** *** ***

(11) Tâm mê Pháp-Hoa chuyển, tâm ngộ chuyển Pháp-Hoa : “Mê” là mê chấp theo văn tự của kinh mà không ngộ nhập được tri kiến của Phật ;“Ngộ” là ngộ nhập được tri kiến của Phật mà không mê chấp theo văn tự của kinh.
Còn “chuyển” là nghĩa : xây lật. – Bởi vì tụng kinh mà theo từng hàng, tính từng câu, đếm từng chữ, kể từng biến số, mà không rõ những văn tự trong kinh là cái để tiêu chỉ cho mình do đó mà ngộ nhập tri kiến của Phật ở nơi văn tự ấy, thế mà mình chấp theo văn tự, tức là bị văn tự xây lật mình, làm cho mình mê quên cái tri kiến của Phật, cho nên nói rằng : “tâm mê Pháp-Hoa chuyển”.
Còn như mình ngộ được tri kiến của Phật, thì tuy hằng ngày tụng kinh mà không thấy cái tướng văn-tự của kinh mà văn tự vẫn cứ phân minh, không sai một câu, không lầm một chữ, và lại câu nào chữ nào cũng tiêu dung vào trong biển tri-kiến của Phật. – Tụng kinh như thế, tức là tâm mình xây lật được văn-tự, không bị văn tự làm cho tâm mình mê quên, vậy nên gọi là : “tâm ngộ chuyển Pháp-Hoa”.
(12) Tụng kinh lâu chẳng rõ, với nghĩa vẫn thù gia : là nói : Tụng kinh cần phải hiểu nghĩa, vì có hiểu nghĩa mới nhập lý, mà có nhập lý mới ngộ được tri kiến của Phật. – Bằng như tụng kinh lâu mà không hiểu nghĩa, tức là tương phản với nghĩa, nên gọi là : thù.
(13) Không niệm, niệm ắt chánh, có niệm, niệm thành tà : là nói : Hằng ngày niệm kinh mà không khởi tưởng có cái tâm năng niệm và cái kinh sở niệm, thì năng sở đều quên tức là không niệm, mà cái không niệm ấy mới gọi là : chánh niệm. – Còn như niệm kinh mà cứ chấp cái niệm ấy để làm công khóa tức là năng sở chưa quên ; mà năng sở chưa quên, thì cái niệm ấy tức là : tà niệm.
(14) Có không đều chẳng quản, cỡi mãi Bạch-ngưu xa : “Bạch-ngưu xa” là cái xe trâu trắng kéo, xe ấy là ví dụ Phật thừa.
Bởi vì “không niệm” đối với “có niệm” mà nói, thì “không niệm” chánh ; thiệt ra thì cái “không niệm” ấy cũng còn thuộc về thiên không Niết-bàn của Nhị thừa, chưa đoạn hết “cu sanh ngã pháp”, cho nên cái “có niệm” với cái “không niệm” đều dứt bặt, tức là “phân biệt ngã pháp” và “cu sanh ngã pháp” đều tiêu vong, thì mới viên thành Phật quả. – Cho nên những người đạt đến cảnh giới ấy gọi là : người cỡi xe trâu trắng.


*** *** ***

(15) Tụng kinh ba ngàn bộ, Tào-Khê thảy bỏ ngay : Đây là ý Pháp-Đạt lâu nay lầm tưởng sự tụng kinh của mình được nhiều biến số như vậy là công đức nhiều, không dè ngày nay bị một câu nói của ngài Lục-Tổ khai thị rõ ràng, làm cho ông tự biết lại bao nhiêu những công đức tụng kinh của ông đều bay bổng trong trường ô hữu.
(16) Chưa rành ý xuất thế, há dứt kiến đời ngây : “Ý xuất thế” là nói : cái bản ý xuất thế độ sanh của Phật là gốc muốn cho chúng-sanh đều ngộ nhập được cái tri-kiến của Phật.
“Kiếp đời ngây” là nói : cái tập quán ngây khùng đã nhiều đời nhiều kiếp, bởi chấp theo vọng-tưởng mà mê quên chơn-tâm.
Thế mà ngày nay, nếu chưa rõ được cái ý xuất thế ấy, thì làm sao dứt được cái khùng mê chơn chấp vọng trong nhiều kiếp kia.
(17) Dê, Nai, Trâu quyền đặt, Sơ, Trung, Hậu đều hay : “Dê, Nai, Trâu” là ba cái xe, ví dụ với ba thừa : 1. Cái xe dê kéo là ví-dụ Thinh-Văn-thừa, 2. Cái xe nai kéo là ví dụ Bích-Chi-Phật-thừa (cũng gọi là Duyên-Giác-thừa), 3. Cái xe trâu kéo là ví dụ Bồ-tát-Đại-thừa.
Vì Phật thấy chúng-sanh căn độn, không thể đem Phật-thừa mà vội nói được, nên mới dùng trí-huệ phương-tiện quyền thuyết ra ba thừa, để cứu vớt chúng-sanh ra khỏi cái nhà lửa Tam-giới cho được rồi sau mới lần lần dắt dẫn về Phật-thừa, vậy nên gọi là : “quyền đặt”.
“Sơ” là thời Phật thuyết pháp ban đầu ; – “Trung” là thời Phật thuyết pháp về chặng giữa ; – “Hậu” là thời Phật thuyết pháp về lúc sau. – Cả trong ba thời thuyết pháp ấy đều hay cả, nên gọi là “sơ, trung, hậu đều hay”.
(18) Ai dè trong nhà lửa, vua pháp gốc là đây : “Nhà lửa”, là dụ : phiền-não ; – “Vua pháp”, là dụ : Bồ-đề Phật-tánh ; – tức là nói Bồ-đề Phật-tánh ở trong phiền-não, chớ không phải ngoài phiền não mà tìm Bồ-đề được ; – Cũng như câu : “vô minh thiệt tánh tức Phật tánh” của ngài Vĩnh-Gia nói, đồng một ý nghĩa.


*** *** ***

(19) Tánh mình đủ ba thân: Tự tánh mình gốc vẫn thanh tịnh, lìa các danh tướng, dứt các hý luận, tức là Pháp-thân ; – tự tánh mình gốc vẫn đầy đủ hằng sa công đức, tức là : Báo-thân ; – tự tánh mình gốc vẫn có cái diệu dụng tùy duyên, tức là : Hóa-thân. – Cho nên Phật Phật đều có đủ ba thân là vì tự tánh có đủ ba thân, chớ không phải ba thân ấy lìa ngoại tự tánh mà có.
(20) Tỏ ra thành bốn trí : là Pháp thân thuộc về Đại viên cảnh trí, Báo thân thuộc về Bình đảng tánh trí, Hóa thân thuộc về Diệu quán sát trí, và thành sở tác trí. – Xem vậy thì biết : tức thân là trí tức trí tức thân, đều từ trong tự tánh mà phát minh ra cả.
(21)Chẳng lìa duyên thấy nghe, vượt lên cõi Phật ấy
(22) Chớ học người chạy kiếm, trọn ngày nói Bồ-đề : là nói : Đừng học những kẻ trọn ngày nói thiền, nói đạo, tìm Phật ở ngoài tâm, mà không biết Bồ-đề ở trong tự tánh.

*** *** ***

(23) Trí đại-viên-cảnh, tánh thanh tịnh : “Đại-viên-cảnh” là cái gương tròn lớn ; – là nói : Cái trí sáng láng tỏ sáng, soi khắp muôn trượng chẳng sót mảy lông, hết thảy các pháp hữu vô vi đều không phòng ngại ; cũng như trong cái gương tròn lớn mà hiện đủ hết thảy các thứ sắc tượng nên gọi là : Trí viên cảnh.
Trí ấy vốn là thức A-lại-da thứ tám chuyển trở lại mà thành ra ; cho nên trước kia nó là chơn vọng hòa hiệp, mà bây giờ chuyển thức (hữu lậu) thành trí (vô lậu) rồi, thì sạch hết phần vọng, chỉ còn lại cái tánh thể chơn như thanh tịnh mà thôi, nên gọi là : tánh thanh tịnh.
(24) Trí bình-đẳng-tánh, tâm không bịnh : “Bình đẳng tánh”, là cái trí đủ tánh chơn như bình đẳng, chẳng còn có cái tướng mỗi mỗi riêng khác, không oan thân, không nhơn ngã, tự và tha như một, tế độ khắp cả các chúng hữu tình, nên gọi là “trí bình đẳng tánh”.
Trí ấy vốn là thức Mạt-na thứ bảy chuyển trở lại mà thành ra ; cho nên trước kia nó vẫn chấp ngã mà thành sai biệt, bây giờ chuyển thức (hữu lậu) thành trí (vô lậu) rồi, thì cái ngã chấp sai biệt ấy tiêu hết mà đạt tới cái lý tánh vô ngã bình đẳng, tức là tâm không còn cái bịnh “ngã chấp” nữa, nên gọi là : “tâm không bịnh”.
(25) Trí diệu-quán-sát, thấy chẳng công : “Diệu quán sát”, là sức xét nét rất mầu ; – là nói : Cái trí xem xét khắp cả tự tướng cọng tướng của các pháp mà không ngăn ngại, ứng theo căn cơ của chúng hữu tình mà thuyết pháp một cách tự tại, làm cho chúng hữu tình đều được trở mê về ngộ nên gọi là : “Diệu quán sát”.
Trí ấy gốc là ý thức thứ sáu chuyển trở lại mà thành ra ; cho nên trước kia nó lấy cái thấy rõ ràng phân biệt làm công, bây giờ chuyển thức (hữu lậu) thành trí (vô lậu) rồi, thì cái thấy ô nhiễm ấy không dùng đến nữa, nên gọi là : “thấy chẳng công”.
(26) Trí-thành-sở tác, đồng viên cảnh : “Thành sở tác” là thành tựu những việc làm ; – là nói : Cái trí toàn lấy sự lợi tha làm mục đích, mà vì cả chúng phàm phu và nhị thừa làm cho thành tựu những việc nên làm trí theo bản nên gọi là : thành sở tác.
Trí ấy vốn là năm thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) chuyển trở lại mà thành ra, vì trước kia nó gốc do chủng tử (hột giống) của thức A-lại-da thứ tám ngậm chứa mà phát khởi, nên bây giờ chuyển thức (hữu lậu) thành trí (vô lậu) rồi, thì nó cũng đồng như trí Đại viên-cảnh của thức A-lại-da chuyển thành đó vậy, nên gọi là : “đồng viên cảnh”.
(27) Năm, tám, sáu, bảy, quả nhơn xây : “Năm” là năm thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) ; – “Tám” là thức A-lại-da thứ tám ; – “Sáu” là ý thức thứ sáu ; – “Bảy” là thức Mạt-na thứ bảy.
Còn “quả nhơn xây”, là nói thức thứ sáu và thức thứ bảy mà xây trở lại thành trí ấy, là xây trong lúc tu nhơn ; còn năm thức và thức thứ tám mà xây trở lại thành trí ấy, là xây trong khi chứng quả ; nên gọi là : “quả nhơn xây”.
(28) Chỉ dùng danh ngôn không thiệt tánh : là nói Thức mà xây trở lại thành trí ấy, là chỉ xây cái danh (kêu gọi) đó thôi, chớ không phải thiệt xây cái thể (tánh) ; vì thức với trí cũng như sóng với nước gốc không phải hai thể vậy.
(29) Bằng chỗ xây ấy chẳng lưu tình, bộn bàng mãi ở Na-già-định : “Na già”, nếu nói đủ là “ma-ha na-già”, tức là : biệt hiệu của Phật.
Trong Khế-kinh nói : “Na-già hành tại định, na-già trụ tại định, na-già tọa tại định, na-già ngọa tại định.” – Nghĩa là : Phật lúc đi cũng định, lúc ở cũng định, lúc ngồi cũng định, lúc nằm cũng định, tức là Phật không lúc nào chẳng ở trong định.
Cho nên đây nói : Nếu trong chỗ xây ấy, mà mình chẳng còn khởi một tình niệm gì đoạn vọng (thức) cầu chơn (tri), thì dầu cho muôn trượng sum la rộn-ràng trước mắt, ngàn trần náo-nhiệt khua động bên tai, hay là sự-vật vây bọc xung-quanh thân mình đi nữa, thì tâm mình vẫn ở trong cảnh giới na-già đại-định không xao động mảy nào. – Vậy nên gọi là : “bộn-bàng mãi ở na-già-định”.
: là nói : Nếu ta ngộ được ba thân bốn trí đều là tự tánh sở hiện, thì chẳng cần phải đoạn vọng, chẳng cần phải cầu chơn chỉ ở trong cái hoàn cảnh mắt thấy, tai nghe mà tự siêu lên Phật địa.

*** *** ***


(30) Ba thân vốn ngã thể, bốn trí gốc tâm minh : “Ngã-thể”, là cái bản-thể của ta ; bản-thể cũng như bản-tánh ; – nghĩa là nói : Ba thân của Phật vốn không ngoài bản thể của ta mà có.
Còn “Tâm minh”, là cái tâm giác-ngộ ; cho nên tâm mê thì thành bát-thức, lúc tâm ngộ thì thành tứ-trí ; thế là tứ-trí cũng không ngoài tự-tâm giác ngộ của ta mà thành được.
(31) Thân trí hòa không ngại, ứng vật mặc theo hình : “Thân” và ”trí” đã đồng do trong một nguồn tự-tâm bản tánh mà có ra, thì nó vẫn dung-thông lẫn nhau như nước hòa với nước, “không” hiệp với ”không”, chẳng có gì ngăn-ngại. – Mà đã chẳng có gì ngăn ngại, thì tha hồ ứng vật tùy hình, xuất sanh nhập tử, thần-thông biến hóa, thuyết pháp độ sanh, mỗi mỗi đều theo bản nguyện.
(32) Dấy tu đều vọng-động, trụ giữ chẳng chơn-tình : “Dấy tu” là khởi tâm tu hành, hoặc tu thiền, tu quán, tu giải-thoát, tu niệm Phật, vân vân… chẳng hạng tu pháp-môn nào ; mà đến lúc ngộ lúc chứng, cũng là ngộ chứng lại cái của mình sẵn có, chớ không phải cái gì mới được mà khác.
Cái của mình sẵn có ấy, tức là cái bản-thể thanh tịnh bồ-đề Niết-bàn từ hồi vô-thỉ, cũng gọi là : chơn-tâm thường trụ. – Nó đã thanh-tịnh, đã thường-trụ, thì nó không sanh diệt, không biến đổi, trên từ bực chư-Phật Bồ-tát, dưới đến loài xuẩn động hàm-linh cũng đồng một tâm-thể ấy, ở nơi Thánh không thêm, ở nơi phàm không bớt, thì có cái gì phải tu phải chứng.
Thế mà đương không, mình lên cái niệm tu hành cầu ngộ cầu chứng, tức là mình làm cho loạn-động cái bản-thể thanh tịnh thường-trụ của tự-tâm ; mà tự-tâm đã loạn-động tức là vọng : cũng ví như biển nước, đương đứng lặng mà thoạt-nhiên gió thổi làm xao-động thành sóng vậy. – Cho nên kinh Lăng-Nghiêm nói : người vứt mống lòng, trần-lao dấy nước (như tạm cử tâm, trần-lao tiên khởi), là thế.
Còn như mình không khởi niệm tu hành mà mình cứ trụ giữ nơi cái vắng-lặng ấy, cũng chẳng phải là chơn; vì mình còn biết khởi làđộng, trụ là tịnh, động là quấy, tịnh là phải, tức là tâm còn phân biệt, thì phân biệt cũng là vọng nữa. – Cho nên kinh Lăng-Nghiêm nói : Dầu dứt hết thảy những thứ : thấy, nghe, hay, biết, mà giữ cái nhàn-tịnh tối kín ở trong, thì cũng còn là việc bóng dáng của pháp-trần phân biệt (túng việc nhứt thiết kiến văn giác tri, nội thủ ư nhàn, du vi pháp trần phân biệt ảnh sự.)
Pháp-trần là cái cảnh sở-đối của ý-căn. – Ý-căn đối với pháp-trần có hai thứ : sanh-trần và diệt trần, cho nên mình không khởi niệm tu hành mà còn trụ giữ nơi cái vắng lặng ấy, là thuộc về diệt trần, chớ đâu phải thanh tịnh mà đã không thanh tịnh, thì đâu phải là chơn. (Chơn tịnh là cái chơn tâm thuần toàn không xen tạp.)
(33) Ý nhiệm nhờ thầy dạy, trót quên nhiễm ô-danh : “Ý nhiệm“, là tông-chỉ mầu-nhiệm của pháp Đốn-giáo, nhờ Tổ dạy pháp ấy mà Trí-Thông hiểu rõ được cái bản-lai thường-trụ chơn-tâm, lúc nào cũng vẫn thanh-tịnh, làm cho ông không còn bị ở trong phạm-vi vọng-thức mà chịu cái danh ô nhiễm. – (Vì vọng thức hay tạo thành các nghiệp thiện ác hữu lậu, nên gọi là nhiễm ô.)


*** *** ***

(34) Từ câu : “Chẳng thấy pháp gì giữ không thấy”… tới câu : “Lại như trên không chớp điện nháy” là nói : Nếu mình chẳng thấy và chẳng biết một pháp gì, tức là mình đã lìa được pháp chấp phân biệt. Thế mà mình còn chấp giữ lấy cái “chẳng thấy chẳng biết ấy làm phải, thì cũng chưa thoát khỏi cái lồng phân biệt của ý thức ; vì bởi có phân biệt mới có thủ xả (lấy bỏ) ; có thủ xả mới bởi cái “có thấy có biết” mà chấp lấy cái “không thấy không biết” như vậy.
Huống chi chơn-tâm của ta bản lai nó vẫn sáng suốt mà ngày nay bị cái chấp “không thấy” ấy làm cho khuất lấp, thì có khác nào đám mây kia che tối mặt trời. – Lại chơn tâm của ta bản lai nó vẫn thanh tịnh như hư không, mà ngày nay bị cái chấp “không biết” ấy lọt vào trong làm cho vọng động, thì có khác nào ở giữa hư không thoạt sanh ra chớp điện. – Cho nên ngài Vĩnh-Gia Huyền-Giác thiền-sư cũng có nói : Bỏ “có” chấp “không” bịnh in nhau, ví như sợ đắm, chun vào lửa. (Khí hữu chấp không bịnh diệc nhiên, thí như tỵ nịch nhi đầu hỏa.)
Ngài lại nói : Bỏ vọng tâm, lấy chơn lý, tâm còn lấy bỏ là hư ngụy, người tu chẳng rõ trở làm theo, thiệt là nhận giặc làm con quý. (Xả vọng tâm, thủ chơn lý, thủ xả chí tâm thành xảo ngụy, học nhơn bất liễu dụng tu hành, chơn thành nhận tặc tương vi tử.)
(35) Những tri-kiến ấy thoạt dấy lên, không rõ phương-tiện mà nhận bậy : “Tri kiến ấy” là nói : Chấp cái “không thấy không biết” như vậy làm cái thấy biết chơn chánh, mà chẳng hiểu là mình nhận lầm. – Nếu người tu mà còn thấy một pháp gì hay còn biết một pháp gì, thì cái thấy thuộc về nhãn-thức phân biệt và các biết ấy thuộc về ý thức phân biệt, đều là vọng cả, rồi trở lại chấp cái “không thấy không biết” làm chơn. – Ngờ đâu mình bỏ cái “thấy có biết có” kia mà lại chấp cái “thấy không biết không” nọ, thì cái “thấy không biết không” đó cũng y nhiên còn ở trong cái thấy biết, chớ đã thoát khỏi ngoài vòng “năng kiến sở kiến, năng tri sở tri” được đâu ; cho nên gọi là : nhận bậy.
(36)Một niệm ngươi nên biết lỗi mình, ánh sáng tự-tâm thường hiện vậy : “Ánh sáng tự tâm” là cái “bản hữu trí-quang” của tự tâm, – là nói : Nếu trong một niệm năng sở đều vong, có không thảy bặt, không phân biệt, không thủ xả, thì tự tâm thanh tịnh ; mà tự tâm đã thanh tịnh, thì bản hữu trí quang của ta thường thường hiển hiện vậy.“Theo bóng”, là nói : Mê đăm theo cảnh sở duyên ở ngoài.
“Luống trôi dời”, là nói : Từ hồi nào đến bây giờ, cứ trôi lăn trong biển sanh-tử mà chịu nỗi thay hình đổi xác ; oan uổng không biết dường nào !
Nói tóm lại : Bởi trải kiếp mê quên cái tánh thể sáng suốt của mình mà đeo đuổi theo ngoại trần phân biệt chấp trước, rồi khởi hoặc tạo nghiệp mà phải chịu cái quả báo sanh tử luân hồi như vậy.

*** *** ***


(37) Khi không khởi biết thấy, trước-tướng tìm Bồ-đề : là nói : Tự tâm bản lai gốc vẫn thanh tịnh, không năng không sở, không tự không tha, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải chẳng có, chẳng phải chẳng không, lìa cả danh tướng, tuyệt cả hý luận, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật, không đợi phải tu phải chứng gì nữa cả.
Thế mà đương khi không lại khởi ra cái biết, cái thấy phân biệt thủ xả, rồi chấp theo pháp tướng mà cầu đạo Bồ-đề, ấy là ngoài tâm cầu Phật, ngoài tâm cầu pháp, chẳng bao giờ được.
Nhưng phải biết : Cái lầm của ông Trí-Thường nói đây, là một cái lầm chung của đa số người học Phật, gốc nó phát nguyên từ trong một nguồn “tánh giác tất minh vọng vi minh giác” mà lưu bố ra cả.
(38) Tình còn một niệm ngộ, khó thoát buổi xưa mê : “Tình còn một niệm”, là nói : cái tình niệm quá ít ; “Ngộ” là giác ngộ (tỏ biết, thức tỉnh) ; – “buổi xưa mê” là nói : cái hoặc vô minh từ hồi vô thỉ làm cho tất cả chúng-sanh mê ám mà không rõ chơn lý.
Đây là nói : Nếu trong tâm tình ta mà còn một niệm cầu ngộ, hay biết mình là ngộ, thì tức là y-nhiên còn mê ; vì mê với ngộ tuy khác nhau cái danh mà cũng đồng một tâm thể : hễ tâm còn phân biệt chấp trước tức là mê, tâm hết phân biệt chấp trước tức là ngộ ; cái ngộ ấy là ngộ lại cái bản thể thanh tịnh của tự tâm, chớ không phải ngộ cái gì khác.
Thế mà ngày nay, ta dầu còn một chút tình niệm về sự cầu ngộ, hay biết mình là ngộ, tức là tâm phân biệt chấp trước chưa hết, thì làm sao hết được cái mê !
(39) Tự tánh thể nguồn giác, theo bóng luống trôi dời : “Tự tánh thể nguồn giác”, là nói : cái bản thể diệu minh chơn giác của tự tánh, nó chính là cái nguồn sáng suốt trong sạch, phát sanh ra các thứ trí đức vô lậu.

(40) Chẳng được vào nhà Tổ, không khỏi chạy hai nơi : “Nhà Tổ” là tiêu biểu cái cảnh giới “ly ngôn tuyệt tướng, tâm Phật đều vong, muôn cảnh yêm-đềm, một màu vắng bặt”, Nhị-thừa khó đi tới, ngoại đạo không tìm ra, trời đất hết ngỏ lường quỷ-thần chẳng dòm thấy.
Cho nên những người học Phật mà chưa đạt tới cảnh giới ấy, thì không sao khỏi chạy lạc về hai đầu, nghĩa là chẳng chấp “có”, cũng chấp “không” chẳng chấp “tướng”, cũng chấp “tánh”, không thể nào trực hạ thừa đương cho được.


*** *** ***

(41) Bực Niết-bàn vô-thượng, tròn sáng thường lặng soi : “Vô-thượng-đại”, nghĩa là : Không có bực gì cao lớn hơn nữa, cho nên Niết-bàn mà gọi rằng : Vô-thượng-đại, là tiêu biểu riêng cái nghĩa Niết-bàn nầy, không phải như Niết-bàn của hàng Tiểu-thừa, chỉ dứt bặt cái khổ “phân đoạn sanh-tử” trong Tam-giới, và cũng không phải như Niết-bàn của bực Đại-thừa, dứt bặt luôn cả cái khổ “biến dịch sanh-tử” ở ngoài Tam-giới. – Thiệt ra chính là nói : Niết-bàn của Phật vậy. Niết-bàn của Phật gồm đủ lý thể và trí dụng ; lý thể thì thường lặng bặt, nên gọi là : “tịch” mà khi chuyển lý thể ra trí dụng (hiện thân thuyết pháp), thì gọi là : “tuy chiếu mà tịch”. – Còn trí dụng thì thường sáng soi, nên gọi là : “chiếu” ; mà khi thâu trí dụng về lý thể (nhiếp hóa quy chơn), thì gọi là : “tuy tịch mà chiếu” cho nên nói “tròn sáng thường lặng soi” là thế.
(42) Phàm-ngu gọi là chết, Ngoại-đạo chấp làm đoạn : là nói : Những kẻ phàm-phu và ngoại đạo không rõ cái lý Niết-bàn tịch chiếu như vậy, nên phàm ngu thì gọi là : chết, nghĩa là nói : người ta sau khi tắt hơi, thì xác tiêu xuống đất, hồn thẳng về trời. – Còn ngoại đạo thì chấp làm đoạn nghĩa là cố chấp không đúng với chơn lý mà nhận định rằng sau khi người ta mãn thọ trong đời nầy rồi, thì dứt bặt luôn, chớ không lý nào nối sanh làm thân khác trở lại được nữa.
(43) Các kẻ cầu nhị-thừa, chỉ cho là không dấy : là nói : Các hàng nhị-thừa chấp về thiên không Niết-bàn, nên tự lấy làm không dấy (vô tác), nghĩa là đã xa lìa hết các pháp hữu-vi, không còn tạo tác gì nữa.
(44) Thảy suy tính theo tình, gốc sáu mươi hai thấy : là nói : Hết thảy các thứ kể chấp “là chết, là đoạn, là vô tác” trên đây, đều là không rõ cái nghĩa chơn thiệt của Phật nói mà suy tính theo vọng tình ; tóm lại đều là căn bản ở trong sáu mươi hai thứ tà kiến ấy cả.
(45) Bạ lập cái giả danh, đâu phải nghĩa chơn thiệt : là nói : Cái danh kêu rằng Niết-bàn, cũng là cái danh giả lập ra, chớ không phải là nghĩa chơn-thiệt ; vì đối với sanh tử mà nói là Niết-bàn và đối với sanh tử là khổ mà nói Niết-bàn là vui cho đến đối với Niết-bàn của nhị thừa là thiên không mà nói Niết-bàn của Phật là tịch chiếu, tóm lại đều nhơn theo cái sở-đối mà lập thành danh tự như vậy đó thôi. – Thiệt ra không có chi gọi là chúng-sanh, thì có đâu sanh-tử ; cũng không có chi gọi là Phật, thì có đâu Niết-bàn, nếu nói giống một vật gì đều chẳng nhằm cả.
(46) Từ câu : “Chỉ có người quá lượng“… đến câu : “mà chẳng tưởng phân biệt” : “Người quá lượng”, là bực người siêu diệt ở ngoài độ lượng của quần-chúng, không một việc gì chẳng biết đến cái nghĩa rốt-ráo của nó ; cho nên nói chỉ có người quá lượng là thông suốt hết thảy các pháp mà không chấp lấy một pháp nào và không lìa bỏ một pháp nào.
Tự nơi phàm phu mê ám thì nhận lầm cái thân ngũ-uẩn làm thiệt mà tin chắc ở trong thân ngũ-uẩn có cái “ta” làm chủ-tể cho các việc hành-động ; duy có người quá lượng thì rõ biết cái thân ngũ-uẩn là do các duyên giả hiệp mà thành ra chớ không có thiệt thể ; mà thân ngũ-uẩn đã không thiệt thể, thì trong uẩn lại có cái gì là cái “ta” làm chủ tể hằng còn được.
Vậy nên tự nơi con mắt cu-nhãn của người quá lượng kia, coi thấy pháp ngũ-uẩn và cái “ta” trong uẩn mà hiện ra các thứ sắc tướng và âm-thanh ở ngoài đó, cũng như thấy những cảnh vọng hiện trong chiêm bao và như những đồ biến hóa của huyễn thuật, tuy có đủ mà chẳng gì là chơn thiệt cả.
Bởi thế nên ở trong đó, không bao giờ khỏi ra cái thấy, cái biết rằng : kia là phàm, nọ là thánh, kia là sanh tử, nọ là Niết-bàn, cũng chẳng chấp là có, chẳng chấp là không, và cũng chẳng nghĩ đến trước là quá khứ, nay là hiện tại, sau là vị lai đoạn cả hai bên, dứt cả ba khoản ; tuy thường thường ứng dụng theo các căn : cũng mắt thấy, cũng tai nghe, cũng mũi ngửi, cũng lưỡi nếm, cũng thân xúc động, cũng ý phân biệt, mỗi mỗi ứng dụng như vậy mà không khởi tưởng là dụng.
Cho đến mắt cũng phân biệt đủ các sắc – tai cũng phân biệt đủ các tiếng – mũi cũng phân biệt đủ các hương – lưỡi cũng phân biệt đủ các vị – thân cũng phân biệt đủ các thứ : nóng nguội, mềm cứng, ý cũng phân biệt đủ cả sự sự vật vật, – mỗi mỗi phân biệt như vậy mà không khởi tưởng là phân biệt.
(47) Từ câu : “Lửa kiếp đốt đáy biển…“ đến câu : “tướng Niết-bàn như vậy” : “Tai lửa”, là đến khi hoại kiếp, về kiếp “tăng giảm”
rốt sau hết thì có hỏa-tai dấy lên thiêu đốt suốt tới đáy biển, làm cho sông biển đầm ao đều khô hết, rồi kế phong tai nổi lên có trận gió tỳ-lam thổi trốc cả núi, làm cho núi bay hòn nầy chọi với hòn khác, nát nghiến như bùn. – Lúc ấy là lúc thế giới tiêu hoại không còn gì ráo ; ấy là lấy cái tướng hoại kiếp mà hình dung cái tướng chơn thường tịch diệt của Niết-bàn.

Tức như khi gió thổi, núi chọi là một cái cảnh hết sức náo động như vậy, mà tướng vui Niết-bàn vẫn cũng vắng bặt luôn, không khi nào xao loạn ; lại như khi thế giới tiêu hoại thành tro bùn như thế mà cái tướng vui Niết-bàn vẫn cũng chơn-thường luôn, không khi nào biến đổi.
Đó là hiển rõ cái tướng “động” và tướng “tịnh” về cái thấy phân biệt của kẻ phàm phu ; chớ thiệt ra, ngoài “tịnh” không “động” ngoài “động” không “tịnh” ; nếu lìa tâm phân biệt, thì “động tịnh” vẫn bình đẳng ; cho nên nói : “tướng Niết-bàn như vậy”.
(48) Từ câu : “Ta nay cưỡng nói ra“… đến câu : “cho ngươi biết phần ít”. Đây là Tổ e cho Chí-Đạo chấp theo lời nói của ngài làm nhứt định mà không rõ cái nói ấy là phương-tiện quyền-xảo tùy bịnh cho thuốc, nên ngài mới tỏ cho biết rằng : “Niết-bàn gốc không hình không tướng, không danh không tự, thì có chi nói được. – Nhưng tuy không nói được mà cưỡng nói ra, là muốn cho ngươi dứt bỏ hết những chỗ kiến-giải tà-vọng mà đạt tới chỗ chánh-kiến chánh-tri vậy. – Nếu ngươi lãnh-hội được cái ý-chỉ ở ngoài lời nói của ta, thì ngươi mới có phần biết được chút ít.”


*** *** ***

(49) Từ câu : “Ngọa-Luân có nghề giỏi”… đến câu “Bồ-đề thêm lớn cội”. Cứ theo ý bài kệ nầy là phân biệt trong tâm ngoài cảnh, còn đoạn trừ phiền-não, cầu chứng Bồ-đề, tức là chưa đạt tới cái nghĩa “phiền não với Bồ-đề không phải hai thể tâm với cảnh không khác nòi”, thì dầu có dứt hết được tư-tưởng mà một niệm chẳng sanh đi nữa cũng không thoát khỏi cái phạm-vi so lường suy tính của ý-căn, cho nên bị Tổ bác-khước rằng “chưa tỏ được tâm-địa” là thế.

*** *** ***

(50) Huệ-Năng không tài nghề, chẳng hề dứt tư tưởng, đối cảnh tâm khởi luôn, Bồ-đề làm sao lớn : Bài kệ nầy là phản đối với bài kệ của Ngọa-Luân thiền-sư mà rất đúng với chơn-lý.
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Phẩm Đốn-Tiệm;
Phẩm Đốn-Tiệm


THỨ TÁM

1.– Thuở ấy Lục-Tổ ở chùa Bửu-Lâm, thuộc về Tào-Khê, còn Thần-Tú đại-sư ở chùa Ngọc-Tuyền, thuộc về Kinh-Nam. – Đương lúc hai tông-phái hóa độ thạnh hành, người đời đều xưng là Nam Năng, Bắc Tú, nên mới có chia ra Nam, Bắc, hai tông, Đốn-giáo và Tiệm-giáo, làm cho kẻ học đạo chẳng biết xu hướng về tông nào.<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
2.– Tổ nói với chúng rằng : “Pháp vốn một tông mà người có <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:pLACE w:st="on"><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on">Nam</ST1:COUNTRY-REGION></ST1:pLACE> có Bắc, pháp vẫn một giống mà thấy có chậm có mau. – Sao gọi Đốn Tiệm ? – Thiệt ra pháp không Đốn Tiệm mà vì căn người có bén có lụt, cho nên gọi là Đốn Tiệm.”<O:p></O:p>
3.– Song le các đồ-chúng của Thần-Tú, thường thường chê Nam-tông Tổ-sư chẳng biết một chữ, thì có cái gì hay.<O:p></O:p>
4.– Tú nói : “Kia đặng cái trí vô-sư, sâu tỏ đến bực thượng-thừa ; ta không bì kịp. – Vả lại thầy ta là Ngũ-Tổ mà tự trao y-pháp, há phải dễ gì ! – Ta hềm vì xa cách, không thể đi tới thân cận được, mà luống chịu cái ân quốc-gia ; bọn ngươi chớ câu nệ ở đây, nên qua Tào-Khê cầu kia giải quyết.”<O:p></O:p>
5.– Một bữa nọ, Tú bảo kẻ môn-đệ là Chí-Thành rằng : “Ngươi thông minh rộng trí, nên vì ta đến Tào-Khê thính pháp ; bằng có nghe được chỗ gì, thì hết lòng ghi nhớ lấy, lúc về nói lại ta nghe.”<O:p></O:p>
6.– Chí-Thành vưng mạng đến Tào-Khê, theo chúng cầu hỏi, mà chẳng nói mình ở đâu đến.<O:p></O:p>
7.– Khi ấy Tổ nói cùng chúng rằng : “Bữa nay có kẻ trộm pháp, lén ở trong hội nầy.”<O:p></O:p>
8.– Chí-Thành bước ra lễ lạy và bày hết các việc.<O:p></O:p>
9.– Tổ rằng : “Ngươi ở chùa Ngọc-Tuyền đến đây ắt là thám thính !”<O:p></O:p>
10.– Thưa “Chẳng phải !”<O:p></O:p>
11.– Tổ nói : “Sao là chẳng phải ?”<O:p></O:p>
12.– Thưa : “Chưa nói thì phải, nói rồi thì chẳng phải.”<O:p></O:p>
13.– Tổ nói : “Thầy ngươi dạy chúng thể nào ?”<O:p></O:p>
14.– Thưa : “Thầy tôi hằng chỉ dạy trong đại-chúng, trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi không nằm.”<O:p></O:p>
15.– Tổ nói : “Trụ tâm quán tịnh là bịnh, chớ chẳng phải thiền ; ngồi hoài thì có bó buộc vóc mình ích gì với lý ; vậy khá nghe kệ ta đây :<O:p></O:p>
Khi sống ngồi chẳng nằm,<O:p></O:p>
Thác rồi nằm chẳng ngồi,<O:p></O:p>
Gốc thiệt dầu xương thúi.<O:p></O:p>
Làm sao lập công tội.http://www.anphat.org/administrator...tml?InstanceName=detail&Toolbar=Default#_ftn1(1)<O:p></O:p>
16.– Chí-Thành lại lạy và bạch rằng : “Kẻ đệ-tử nầy ở nơi thầy Tú-đại-sư, học đạo chín năm, chẳng tỏ ngộ được, nay nghe một lời nói của Hòa-thượng mà khế hội bổn tâm, đệ-tử vì sanh-tử là việc lớn, xin Hòa-thượng rộng mở ơn lành chỉ dạy cho.”<O:p></O:p>
17.– Tổ nói : “Ta nghe thầy ngươi giảng dạy cho kẻ học đạo về pháp Giới-Định-Huệ, nhưng chưa rõ thầy ngươi nói hành-tướng của Giới-Định-Huệ thể nào, ngươi thuật lại cho ta nghe thử.”<O:p></O:p>
18.– Thành bạch : “Tú-đại-sư nói : Các sự ác chớ làm gọi là : Giới ; – các điều lành vưng làm gọi là : Huệ ; – mình tự thanh tịnh ý mình gọi là : Định. – Thầy tôi nói như thế, chưa rõ Hòa-thượng lấy pháp chỉ dạy người ?”<O:p></O:p>
19.– Tổ nói : “Nếu ta nói có pháp cho ngươi, tức là dối ngươi ; ta chỉ tùy lấy phương-tiện mở chỗ buộc trói cho ngươi mà giả danh kêu là Tam-muội ; như Giới-Định-Huệ của thầy ngươi nói đó thiệt chẳng khá nghĩ bàn song chỗ thấy Giới-Định-Huệ của ta lại khác.”<O:p></O:p>
20.– Chí-Thành bạch : “Đã nói là Giới-Định-Huệ, thì một giống in nhau, làm sao lại khác ?”<O:p></O:p>
21.– Tổ nói : “Giới-Định-Huệ của thầy ngươi nói đó là tiếp bực người đại-thừa ; còn Giới-Định-Huệ của ta nói đây là tiếp bực người tối-thượng-thừa, tại chỗ ngộ giải chẳng đồng, thấy có mau chậm. – Ngươi nghe ta nói có giống như thầy ngươi không ? – Pháp của ta nói, không lìa tự tánh ; nếu lìa bổn-thể mà nói pháp, thì gọi là tướng thuyết, tự tánh thường mê. – Vậy phải biết tất cả muôn pháp đều do nơi tự-tánh mà khởi ra dụng, ấy là thiệt pháp Giới-Định-Huệ.<O:p></O:p>
22.– Khá nghe kệ ta đây :<O:p></O:p>
Nơi lòng không quấy, tánh mình Giới ;<O:p></O:p>
Nơi lòng không mê, tánh mình Huệ ;<O:p></O:p>
Nơi lòng không loạn, tánh mình Định ;<O:p></O:p>
Chẳng thêm chẳng bớt, tánh Kim cang ;<O:p></O:p>
Thân lui thân tới, gốc tam-muội.http://www.anphat.org/administrator...tml?InstanceName=detail&Toolbar=Default#_ftn2(2)<O:p></O:p>
23.– Chí-Thành nghe kệ, hối ngộ tạ ơn, rồi trình lại bài một kệ rằng :<O:p></O:p>
Năm uẩn hoạn thân,<O:p></O:p>
Hoạn đâu cứu cảnh,<O:p></O:p>
Trở về chơn như,<O:p></O:p>
Pháp lại chẳng tịnh.http://www.anphat.org/administrator...tml?InstanceName=detail&Toolbar=Default#_ftn3(3)<O:p></O:p>
24.– Tổ khen là phải, lại nói với Chí-Thành rằng “Giới-Định-Huệ của thầy ngươi để khuyên kẻ căn-trí nhỏ. Giới-Định-Huệ của ta để khuyên người căn-trí lớn. – Ví bằng ngộ được tự-tánh, thì cũng chẳng lập ra Bồ-đề Niết-bàn và cũng chẳng lập ra giải-thoát tri-kiến không một pháp khá đặng, mới gầy dựng muôn pháp. – Bằng rõ ý ấy cũng gọi là : Bồ-đề Niết-bàn, và cũng gọi là : giải-thoát tri kiến. – Hễ người đã thấy tánh, lập ra cũng đặng, chẳng lập cũng đặng, lui tới tự-do, không ngăn không lấp, gặp việc làm liền, gặp hỏi đáp liền, hiện khắp hóa-thân, chẳng lìa tự-tánh tức là được tự-tại thần thông, du hý tam muội, ấy gọi là thấy tánh.”<O:p></O:p>
25.– Chí-Thành lại bạch với Tổ rằng : “Thế nào là nghĩa : chẳng lập ?”<O:p></O:p>
26.– Tổ nói : “Tự-tánh mình không quấy, không mê, và không loạn ; niệm niệm thường có trí bát-nhã xét soi, hằng lìa pháp-tướng, tự-do tự-tại, dọc ngang đều được cả thì có cái gì khá lập. – Tánh mình tự ngộ, ngộ liền tu liền, cũng không theo lần thứ lớp vậy nên chẳng lập tất cả các pháp, các pháp vẫn vắng bặt, nào có thứ lớp gì !”<O:p></O:p>
27.– Chí-Thành lạy tạ, rồi xin ở hầu hạ sớm khuya chẳng hề trễ nãi.<O:p></O:p>
(Chí-Thành là người ở Thái-Hòa thuộc về Cát-Châu.)<O:p></O:p>
&&&
28.– Một ông tăng, tự là Chí-Triệt, người ở Giang-Tây, họ Trương, tên Hạnh-Xương, thuở trẻ ưa làm kẻ hiệp-khách. – Từ Nam, Bắc, chia đường hóa đạo, hai vị Tông-chủ tuy quên lòng bỉ ngã, mà bọn đệ tử của Thần-Tú lại đua nhau khởi lòng thương ghét.<O:p></O:p>
29.– Thuở ấy kẻ môn-nhơn bên Bắc-tông đồng tôn Thần-Tú lên làm Tổ thứ sáu mà còn nể việc Tổ-sư truyền y, làm cho thiên-hạ đều nghe, nên chúc sử Hạnh-Xương đến hành thích Lục-Tổ.<O:p></O:p>
30.– Lục-Tổ là bực tâm thông, đã biết trước việc ấy nên tức thì lấy vàng mười lượng, để tại chỗ ngồi.<O:p></O:p>
31.– Vừa lúc đêm tối, Hạnh-Xương lén vào trong liêu Tổ, toan muốn làm hại ; Tổ đưa cổ cho giết, Hạnh-Xương hươi dao chém ba lần, đều không hề hấn chi cả.<O:p></O:p>
32.– Tổ nói : “Gươm chánh chẳng dùng được việc tà, gươm tà chẳng hạ được kẻ chánh ; ta chỉ mắc nợ vàng của ngươi, chớ chẳng mắc nợ mạng.”<O:p></O:p>
33.– Hạnh-Xương giùn mình té xỉu, giây lâu mới sống lại, cầu khẩn ăn-năn tội lỗi rồi xin xuất-gia.<O:p></O:p>
34.– Tổ lấy vàng cho và nói : “Ngươi khá đi liền, sợ đồ-chúng ta trở lại hại ngươi. – Ngày sau ngươi hãy đổi hình dạng đến đây, ta sẽ nạp thọ.”<O:p></O:p>
35.– Hạnh-Xương vưng theo ý dạy, trốn liền trong đêm ấy, sau xuất-gia làm tăng. – Nhơn một bữa nọ nhớ lời Tổ dặn mà từ xa đi đến đảnh lễ ra mắt Tổ.<O:p></O:p>
36.– Tổ nói : “Ta trông ngươi đã hèn lâu, ngươi đến sao muộn vậy !”<O:p></O:p>
37.– Bạch : “Ngày trước mông ơn Hòa-thượng xá tội nay tuy đã xuất-gia khổ hạnh, nhưng khó đền ơn đức chỉ còn mông truyền pháp độ-sanh thôi ! – Đệ-tử nầy hằng xem kinh Niết-Bàn mà chưa rõ nghĩa : “thường” ”vô thường”, xin Hòa-thượng lấy lượng từ-bi giải nói sơ lược cho tôi rõ.”<O:p></O:p>
38.– Tổ nói : “Vô-thường” tức là tánh Phật, còn “hữu-thường” tức là cái tâm phân biệt hết thảy các pháp thiện ác.<O:p></O:p>
39.– Bạch : “Chỗ Hòa-thượng nói thiệt trái với kinh văn.”<O:p></O:p>
40.– Tổ nói : “Ta đây truyền tâm ấn của Phật, đâu dám trái với kinh Phật.”<O:p></O:p>
41.– Bạch : “Trong kinh nói : Tánh Phật là “thường” mà Hòa-thượng lại nói là “vô-thường” ; các pháp thiện ác cho tới tâm Bồ-đề đều là “vô-thường” mà Hòa-thượng lại nói là “thường” ; ấy là trái nhau, làm cho kẻ học đạo nầy càng thêm nghi hoặc.”<O:p></O:p>
42.– Tổ nói : “Kinh Niết-Bàn ngày trước ta có nghe cô vãi Vô-Tận-Tạng đọc qua một vòng, ta bèn vì cô giảng nói, không một chữ, một nghĩa nào chẳng hạp với kinh văn cho đến ngày nay ta nói với ngươi đây cũng không hai nghĩa !”<O:p></O:p>
43.– Bạch : “Chỗ biết của kẻ học đạo nầy còn cạn cợt mờ ám, cầu xin Hòa-thượng cặn kẽ mở bày.”<O:p></O:p>
44.– Tổ nói : “Ngươi biết chăng ? – Tánh Phật nếu là “thường”, thì còn nói làm chi các pháp thiện ác, cho đến cùng tột kiếp số, không có một người nào phát tâm Bồ-đề ; vậy nên ta nói “vô-thường”, chánh là đạo Chơn thường của Phật nói.<O:p></O:p>
45.– “Lại hết các pháp nếu là “vô-thường”, thì tức là vật vật đều có tự tánh, dung chịu sự sanh tử, mà tánh Chơn thường có chỗ chẳng khắp, cho nên ta nói “thường”, chánh là nghĩa Phật nói Chơn vô-thường đó !<O:p></O:p>
46.– “Phật xưa vì kẻ phàm-phu ngoại-đạo chấp nơi tà thường và các người bực nhị-thừa, “thường” mà kể là “vô-thường”, cộng thành tám cách đảo ngược, nên trong giáo liễu-nghĩa của Niết-bàn phá những chỗ thấy chênh-lệch kia mà rõ nói ra nghĩa chơn-thường, chơn-lạc chơn-ngã chơn-tịnh.<O:p></O:p>
47.– “Ngươi nay y lời nói mà trái nghĩa, lại lấy cái đoạn-diệt vô thường và chấp định cái tử-thường mà lầm giải những lời nhiệm-mầu rốt sau của Phật, vậy thì dầu ngươi coi đến ngàn lần cũng không ích gì !”<O:p></O:p>
48.– Hạnh-Xương thoạt nhiên tỏ ngộ, rồi đọc kệ rằng :<O:p></O:p>
Bởi giữ tâm vô-thường,<O:p></O:p>
Phật nói tánh hữu thường.<SUP>(4)</SUP><O:p></O:p>
Chẳng biết lời phương tiện,<O:p></O:p>
Như lượm gạch ao vàng.<SUP>(5)</SUP><O:p></O:p>
Ta nay chẳng nhọc sức,<O:p></O:p>
Phật tánh hiện rõ ràng.<SUP>(6)</SUP><O:p></O:p>
Nếu không thầy chỉ bảo,<O:p></O:p>
Ta cũng khó tìm đường.<SUP>(7)</SUP><O:p></O:p>
49.– Tổ nói : “Nay ngươi đã thông triệt rồi nên đặt tên là : Chí-Triệt.”<O:p></O:p>
50.– Triệt lạy tạ rồi lui.<O:p></O:p>
51.– Nhơn khi Tổ thấy các tông-đồ vấn nạn lẫn nhau, đều khởi tâm ác, nhóm đông như chỗ ngồi, mới động lòng thương mà gọi rằng : Phàm kẻ học đạo, nên trừ hết tất cả niệm thiện, niệm ác, không có danh chi khá gọi, gọi là : tự-tánh ; cái tánh không hai gọi là : thiệt-tánh. – Ở trên thiệt-tánh gầy dựng hết thảy giáo môn, dưới câu nói mình nên tự thấy.<O:p></O:p>
52.– Các người nghe nói, thảy đều đảnh lễ, mà xin phụng sự Tổ làm thầy.<O:p></O:p>
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
(1) Từ câu : “ Khi sống ngồi chẳng nằm”… đến câu “Làm sao lập công tội” : Bài kệ nầy là Tổ phá cái chấp “ngồi thiền” vì thiền là nghĩa : lặng bặt các sự lo nghĩ, thì thiền thuộc về tâm ; còn ngồi hay nằm là thuộc về thân, hai bên vẫn không can thiệp. Nếu tâm đã lặng bặt, thì dầu đi đứng nằm ngồi, lúc nào lại chẳng lặng bặt, cần gì phải ngồi hoài mới tịnh được.
Cho nên trong Truyền-Đăng-Lục cũng nói : Có thầy sa-môn Đạo-Nhứt hằng ngày ngồi thiền ở trong am Truyền-Pháp. Ngài Nam Nhạc-Nhượng thiền-sư đi đến thấy hỏi : “Đại đức ngồi thiền, toan làm cái gì đó ?” – Nhứt nói : “Toan làm Phật.” – Nhượng-thiền-sư mới lấy một viên gạch, ra ngồi tại hòn đá trước cửa am mà mài. – Nhứt thấy hỏi : “Sư mài gạch làm cái gì ?” Nhượng nói : “Mài làm cái gương.” – Nhứt nói : “Mài gạch làm sao thành gương được ?” – Nhượng nói : “Mài gạch không thành gương được, thì ngồi thiền há làm Phật được ư ?”<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
Xem thế, thì biết chỗ chơn tham thiệt ngộ của Tào-Khê, Tổ trước Tổ sau như đồng khuôn mẫu.<O:p></O:p>
Vả lại sắc thân ấy, nó có sanh có tử, khi sống thì ngồi, khi chết thì nằm, dầu ngồi hay nằm cũng không có chi là công, cũng không có chi là tội ; vì gốc nó là đống xương thúi, đối với cái thiền bản lai của ta vẫn không ăn nhập gì cả.
<O:p></O:p>

http://www.anphat.org/administrator...?InstanceName=detail&Toolbar=Default#_ftnref2(2) Chẳng thêm chẳng bớt, tánh Kim cang ; thân lui thân tới, gốc tam-muội : “Kim-cang”, là một thứ rất bền, rất cứng, và rất bén ở trong loại kim, nên gọi là : kim-cang. – Đây lấy nó mà thí-dụ với tự-tánh Giới-Định-Huệ. – Bền là dụ “giới”, – cứng là dụ “định”, – bén là dụ “huệ” ; – vì tự-tánh “giới” rất bền chắc, dầu cho Thiên-ma ngoại đạo cũng không phá hoại được ; tự tánh “định” rất cứng vững, dầu cho lửa kiếp gió tỳ cũng không lay động được ; tự-tánh “huệ” rất sướt bén, dầu cho căn-bản phiền-não hay là chi mạt phiền não gì cũng bị nó chặt đứt hết ráo.<O:p></O:p>
Mà tự tánh Giới-Định-Huệ ấy, dầu Thánh dầu phàm vẫn cũng bình đẳng, cho nên nói : “Chẳng thêm chẳng bớt, tánh Kim cang” là thế.<O:p></O:p>
“Tam-muội”, Tàu dịch : Chánh-định, – câu nầy là nói cái thường định của Phật không có lúc nào chẳng định (Na-già thường tại định, vô hữu bất định thời), dầu cho thân tới thân lui rộn-ràng đến đâu, cái định ấy vẫn cũng không có tướng loạn động ; vì gốc nói đã định sẵn rồi, cho nên nói : “Thân lui thân tới gốc tam muội” là vậy.
<O:p></O:p>

http://www.anphat.org/administrator...?InstanceName=detail&Toolbar=Default#_ftnref3(3) Từ câu : “Năm uẩn hoạn thân”… đến câu : “pháp lại chẳng tịnh” là nói : thân “năm uẩn” là cái thân giả mỵ, không phải thiệt ; vì gốc do nơi các duyên giả-hiệp mà thành ra, thì nó cũng do nơi các duyên giả ly mà tan rã, không phải là vật thường-trụ bất-diệt, nên gọi là : giả-mỵ ; mà trong sự giả mỵ ấy, trừ Phật ra không ai rốt-ráo được cả.<O:p></O:p>
Nhưng tuy biết : trong từ cái thân ngũ-uẩn của ta, ngoài đến hết thảy vạn tượng trong vũ trụ đều là giả, mà xoay trở lại xu-hướng về pháp chơn như, thì pháp chơn như lại cũng chẳng tịnh ; vì tịnh với chẳng tịnh là ở nơi tâm, không phải ở nơi pháp ; mà nay tâm còn biết vọng, còn cầu chơn, tức là tâm còn phân biệt ; còn thủ xả, thì thuộc về vọng tâm ; mà vọng tâm thì nhiễm, chớ đâu phải tịnh.<O:p></O:p>
Nếu tâm đã chẳng tịnh, thì pháp làm sao tịnh được ; huống chi đã kêu là “như” thì bản thể thanh tịnh đã biến đổi rồi (hoán tát như như, tảo thi biến liễu), còn có chi là tịnh nữa. – Vậy nên nói : “trở về chân như, pháp lại chẳng tịnh” là thế.<O:p></O:p>


(4) Bởi giữ tâm vô-thường, Phật nói tánh hữu thường : Nguyên lai Đại thừa Niết-bàn có sẵn bốn đức là : “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”, vì là :
1. Thể của nó vẫn không biến đổi, không sanh diệt, và dụng của nó thì tùy duyên ứng-hóa mãi mãi không dứt, nên gọi là : “thường” ;<O:p></O:p>
2. Thể của nó thì dùng ra việc gì đều được thỏa thích, nên gọi là : “lạc” ;<O:p></O:p>
3. Thể của nó thì chơn-thiệt, và dụng của nó thì tự-tại không ngại, nên gọi là : “ngã” ;<O:p></O:p>
4. Thể của nó thì lìa ngoài hết thảy các nghiệp phiền-não nhơ bẩn, và dụng của nó thì tùy duyên ứng hóa mà duyên cảnh chẳng nhiễm ô, nên gọi là : “tịnh”.<O:p></O:p>
Thế mà những người trong hàng Nhị-thừa không đạt tới cảnh giới Đại Niết bàn ấy, trở lại chấp là : “không thường, không lạc, không ngã, không tịnh” mà tự đặt mình vào cái cảnh “khôi thân diệt trí, thiên không Niết-bàn”, nên trong Niết-bàn liễu nghĩa giáo, Phật mới nói ra tánh “có thường”, để hiển rõ nghĩa chơn thường bất biến mà phá cái chấp “không thường” kia.
<O:p></O:p>
(5) Chẳng biết lời phương tiện, như lượm gạch ao vàng : “Ao vàng”, là dịch theo vận ; thiệt ra thì dịch là “ao mùa xuân” mới đúng với chữ “xuân trì” của chánh văn, và mới đúng theo sự tích trong kinh Niết-Bàn nói.<O:p></O:p>
Đây là nói : Bởi chúng-sanh mê ám mà không biết, đời đời ở trong pháp sanh tử mà trở lại chấp là “thường” là “lạc” là “ngã”, là “tịnh”, mà chẳng biết nhàm chán để tìm đường giải thoát, ấy là bốn cái thấy điên đảo của chúng-sanh (tứ đảo).<O:p></O:p>
Phật thấy vậy mới nói ra pháp “khổ, không, vô thường, vô ngã” – nghĩa là :<O:p></O:p>
1. Hết thảy chúng-sanh trong Tam-giới đều bị tám thứ khổ ép ngặt nơi thân tâm, không có chi là vui, nên gọi là : “khổ” ;<O:p></O:p>
2. Hết thảy những hữu vi trong thế gian đều do nhơn duyên giả hiệp mà sanh ra, gốc nó không có tự tánh, nên gọi là : “không” ;<O:p></O:p>
3. Những pháp hữu vi ấy đều là sanh diệt biến đổi, không có chi là hằng còn, nên gọi là “vô thường” ;<O:p></O:p>
4. Trong từ ngũ uẩn căn thân của chúng-sanh, ngoài đến vạn hữu sum la giữa vũ trụ đều do nơi nhơn duyên giả hòa hiệp mà sanh ra, thì có cái gì thiệt thể là cái ta, và có cái gì thiệt thể là cái vật của ta, vậy nên gọi là : “vô ngã”. – Nếu hiểu thấu lý ấy, thì đạt tới cảnh giới “chơn không Niết-bàn”.<O:p></O:p>
Những người trong hàng Nhị thừa nghe Phật nói thế, liền chấp cái “chơn không Niết-bàn” ấy làm cảnh an-vui rốt ráo, mà không dè đó là Hóa thánh, chớ chưa phải Bảo-sở ; chẳng qua Phật dùng lời phương tiện quyền vào để phá cái thấy điên đảo của chúng-sanh mà dắt dẫn chúng-sanh ra khỏi Tam-giới đó thôi, chớ không phải là pháp chơn thiệt cứu cánh.<O:p></O:p>
Cho nên trong kinh Niết-Bàn, Phật nói : “Ví như đương lúc mùa xuân có một nhóm người rủ xuống ao tắm, rồi bơi thuyền chơi giỡn, bị rớt ngọc lưu-ly bảo châu chìm mất ; mấy người mới cùng nhau lặn xuống ao tìm kiếm, lượm trúng những gạch, ngói, cỏ, sạn, đá, lầm tưởng bảo châu, ai cũng vui mừng cầm lên, không dè coi lại mới biết là chẳng phải thiệt. – Lúc ấy bảo châu còn ở dưới nước, vì sức của châu mà nước đứng lặng trong trẻo, cả chúng đều dòm thấy bảo châu một cách rõ ràng như ngó lên mặt trăng trên trời không khác ; khi đó trong chúng có một người trí, dùng chước phương tiện chậm rãi xuống nước tức thời lấy đặng bảo châu. – Vậy chúng tỳ-khưu, ngươi chẳng nên tu theo cái tướng “vô-thường” ”khổ”, “vô ngã”, “bất tịnh” mà lấy làm thiệt. – Nếu chấp rằng thiệt, thì chẳng khác nào mấy người lượm lấy ngói, gạch, cây, cỏ, sạn, đá, kia ; mà gọi là bảo châu ; nên chúng ngươi cần phải học phương tiện cho giỏi, thường ở chỗ nào cũng tu theo cái tướng “Ngã, Thường, Lạc, Tịnh”, thì như người có trí kia đặng ngọc bảo châu một cách khôn khéo không khác gì.”<O:p></O:p>
Vì nghĩa như vậy, nên nói : “Chẳng biết lời phương tiện như lượm gạch ao vàng.”
<O:p></O:p>
(6) Ta nay chẳng nhọc sức, Phật tánh hiện rõ ràng : “Phật tánh”, tức là tự tâm thanh tịnh của ta, không phải cái gì khác nhưng vì trải kiếp, ta bị đeo đuổi theo cảnh lục trần mà tự mê quên Phật tánh của ta ; cũng như người ngu chỉ nhận lầm theo cảnh “mắt thấy tai nghe” trong chiêm bao làm thiệt mà không tự biết thân tâm của mình là cái gì ; thành thử Phật tánh của ta mà không tự thấy.<O:p></O:p>
Nếu ngày nay ta giác ngộ lại, thì Phật tánh của ta tự nhiên hiển hiện rõ ràng, không cần phải tu phải chứng gì cả ; cũng như người ngủ kia, khi đã thức dậy thì tự nhiên biết lại thân tâm của mình, không cần phải dùng lực chi hết.<O:p></O:p>
Cho nên trong kinh Lăng-Nghiêm nói : Tánh cuồng tự hết cuồng hết tức là bồ-đề, chẳng đợi nhọc công tu chứng khổ khắc. (Cuồng tánh tự yết, yết tức bồ-đề, hà tạ cù lao khẳng khái tu chứng.)<O:p></O:p>
Lại ngài Vĩnh-Gia thiền-sư nói : Tỏ ngộ tức là rồi, chẳng đợi ra công sức. (Giác tức liễu, bất thi công) là nghĩa như vậy.
<O:p></O:p>
(7) Nếu không thầy chỉ bảo, ta cũng khó tìm đường : “Khó tìm đường” tức là khó thấy được đạo. – Đây là lời ông Chí-Triệt tự biết cái giác ngộ của mình ngày nay là nhờ ơn “phá chấp trừ nghi” của Tổ vậy.
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Phẩm Hộ-Pháp;
Phẩm Hộ-Pháp

THỨ CHÍN


1.– Niên hiệu Thần-Long năm đầu, ngày Thượng-nguyên, vua Tắc-Thiên cùng vua Trung-Tôn xuống chiếu chỉ rằng : “Trẫm thỉnh hai vị An-sư và Tú-sư về trong cung-viện mà cúng dường, thừa khi công việc triều-chánh có rảnh, để nghiên-cứu về đạo Nhứt-thừa, mà hai sư đều thôi-nhượng rằng : Hiện nay ở Nam-phương có Huệ-Năng thiền-sư là người đã được Hoằng-Nhẫn đại-sư mật trao y-pháp và truyền phú tâm-ấn của Phật, nên thỉnh người đến mà hỏi. – Nay trẫm khiến quan Nội-thị là Tiết-Giản đệ tờ chiếu nầy nghinh thỉnh, xin đại-sư sẵn lòng từ-niệm, mau mau về tới kinh-đô.”
<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
2.– Tổ liền dưng biểu từ bịnh mà tình nguyện trót đời ở nơi lâm lộc.
<O:p></O:p>
3.– Tiết-Giản bạch : “Các vị Thiền-đức ở tại kinh-thành đều nói rằng : ”Muốn đặng tỏ đạo, ắt phải ngồi thiền lập định, nếu chẳng do pháp thiền-định mà được giải thoát là lẽ lâu nay chưa có.” – Vậy chưa rõ chỗ thuyết-pháp của Đại-sư thế nào ?”
<O:p></O:p>
4.– Tổ nói : “Đạo do nơi tâm mà tỏ ngộ, đâu phải tại cái ngồi ! – Trong kinh nói : “Nếu nói Như-Lai hoặc ngồi, hoặc nằm, ấy là làm theo tà-đạo.” – Tại sao thế ? – Bởi vì không từ đâu tới, cũng không chỗ nào đi, không sanh, không diệt, ấy là Như-Lai thanh-tịnh-thiền ; các pháp vắng bặt, ấy là Như-Lai thanh-tịnh-tọa ; rốt ráo không có gì là đắc chứng, huống chi là ngồi !”
<O:p></O:p>
5.– Giản bạch : “Đệ-tử nầy về kinh, Chúa-thượng chắc hỏi, xin sư từ-bi chỉ bảo cho chỗ tâm-yếu, đặng tôi tâu lại với hai cung và tỏ cho những người học đạo ở kinh thành ; ví như ngọn đèn mà thắp ra trăm ngọn, ngàn ngọn, thì chỗ tối đều sáng, sáng sáng chẳng cùng.”
<O:p></O:p>
6.– Tổ nói : “Đạo không có sáng tối, sáng tối là nghĩa thay đổi ; còn sáng sáng chẳng cùng, cũng là có khi cùng, ấy là hai bên đối đãi nhau, mà đặt tên kêu gọi, cho nên kinh Tịnh-Danh nói : Pháp không có so sánh, vì không đối đãi nhau.”
<O:p></O:p>
7.– Tiết-Giản bạch : “Sáng ví với trí-huệ, tối ví với phiền-não ; mà người tu đạo, nếu chẳng lấy trí-huệ soi phá phiền-não, thì nghiệp sanh-tử từ vô thỉ nhẫn lại đây nương nơi đâu mà thoát khởi ?”
<O:p></O:p>
8.– Tổ nói : “Phiền-não tức là Bồ-đề, không hai không khác ; nếu lấy trí-huệ soi phá phiền-não, thì tức là chỗ kiến-giải của hàng Nhị-thừa và căn cơ thuộc về bực xe Dương Lộc ; đến như bực thượng-trí đại căn, thì tất chẳng như vậy.”
<O:p></O:p>
9.– Giản bạch : “Thế nào là chỗ kiến-giải của bực Đại-thừa ?”
<O:p></O:p>
10.– Tổ nói : “Sáng cùng không sáng, tự nơi kẻ phàm-phu thấy làm hai ; còn người trí-giả thì rõ suốt, tánh đâu có hai ; cái tánh không hai gọi là : thiệt-tánh. – Cái thiệt-tánh ấy, ở nơi kẻ phàm phu chẳng bớt ở nơi hiền-thánh không thêm, ở nơi phiền-não chẳng rối loạn, ở nơi thiền-định chẳng vắng lặng, chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng tới, chẳng lui, chẳng ở chính giữa và trong ngoài, chẳng sanh, chẳng diệt, tánh tướng như-như, thường trụ chẳng dời, ấy gọi là : Đạo.”
<O:p></O:p>
11.– Giản bạch : “Sư nói : “chẳng sanh, chẳng diệt”, có khác gì ngoại đạo ?”
<O:p></O:p>
12.– Tổ nói : “Nghĩa “chẳng sanh, chẳng diệt” của ngoại đạo nói là đem cái diệt mà dứt cái sanh, lấy cái sanh mà hiển cái diệt, diệt như chẳng diệt, sanh nói chẳng sanh. – Còn nghĩa “chẳng sanh, chẳng diệt” của ta nói đây, là gốc vốn không sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên chẳng đồng với ngoại đạo. – Ngươi nếu muốn biết chỗ tâm yếu, thì hết thảy những sự thiện sự ác, đều chớ nghĩ lường, thì tự nhiên vào đặng cái tâm thể thanh tịnh, thường thường trong trẻo vắng lặng, mà diệu-dụng nhiều như số cát sông Hằng.”
<O:p></O:p>
13.– Giản nhờ ơn chỉ dạy mà cõi lòng rỗng rang tỏ ngộ, rồi lạy từ về kinh, dưng biểu tâu mấy lời của Tổ nói.
<O:p></O:p>
14.– Trong năm ấy, tháng chín, ngày mồng ba, vua có xuống chiếu khen tặng Tổ rằng : “Sư cố từ già bệnh, vì Trẫm mà tu hành, là ruộng phước của nước ; sư cũng như ngài Tịnh-Danh thuở trước thác tật ở nơi thành Tỳ-Da, mà bày Đại thừa, truyền lại tâm ấn của các Phật và nói pháp Bất-nhị. – Tiết-Giản vâng truyền mấy lời sư chỉ dạy về chỗ tri kiến của Như-Lai. – Trẫm nhờ phước dư tích thiện kiếp trước, sớm chưởng căn lành gặp được sư ra đời mà chóng tỏ các pháp Thượng-Thừa, thật cảm ơn sư, đầu đội chẳng xiết ! Xin dưng cái áo Ma-nạp cà sa và bát thủy tinh.”
<O:p></O:p>
15.– Sau vua lại sắc quan Thứ-sử Thiều-Châu sửa sang ngôi chùa lại và sắc tứ hiệu chùa cũ của Tổ làm là chùa Quốc-Ân.”<O:p></O:p>




 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Phẩm Phó-Chúc;
Phẩm Phó-Chúc
THỨ MƯỜI


1.– Một ngày nọ, Tổ đòi cả hàng môn-nhơn là : Pháp-Hải, Chí-Thành, Pháp-Đạt, Thần-Hội, Trí-Thường, Trí-Thông, Chí-Triệt, Chí-Đạo, Pháp-Trân, Pháp-Như mà dạy rằng : “Bọn ngươi chẳng phải như người khác ; sau khi ta diệt-độ rồi, mỗi người đều đi làm thầy mỗi phương ; – Nay ta dạy các ngươi nói pháp chẳng lìa mất cái tông-chỉ căn-bản ; trước phải đem ba khoa pháp-môn ra dùng theo ba mươi sáu đối, lặn mọc lìa cả đôi bên. – Nói tất cả các pháp, chớ lìa tự-tánh ; thoạt có người hỏi pháp nơi ngươi, thì nói ra thảy theo đôi cặp, đều lấy đối-pháp tới lui nương nhau, rốt ráo thì hai pháp đều dứt trừ, không có chỗ nào là chỗ đi tới.<?XML:NAMESPACE PREFIX = O /><O:p></O:p>
2.– “Ba khoa pháp-môn là : Ấm, Giới, Nhập.<O:p></O:p>
“Ấm” là năm ấm : sắc, thọ, tưởng, hành, thức.<O:p></O:p>
“Nhập” là mười hai nhập : Ngoài thì sáu trần : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp ; trong thì sáu cửa : nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.<O:p></O:p>
“Giới” là mười tám giới : sáu trần, sáu cửa và sáu thực.<O:p></O:p>
3.– “Tự-tánh gồm cả muôn pháp, gọi là Hàm-tàng-thức, nếu khởi tâm lo lường, tức là chuyển thức, rồi thì sanh sáu thức, ra sáu cửa, thấy sáu trần, cả mười tám giới như vậy, đều từ trong tự-tánh mà khởi dụng ra. – Nếu tự-tánh mình tà thì khởi mười tám pháp tà ; bằng tự-tánh mình chánh thì khởi mười tám pháp chánh ; chứa cái dụng “ác” tức là dụng của chúng-sanh, chứa cái dụng “thiện” tức là dụng của Phật. – Dụng do cách nào ? Do nơi tự-tánh có đối pháp.<O:p></O:p>
4.– “Cảnh vô-tình ở ngoài có năm pháp đối :<O:p></O:p>
Trời đối với Đất.<O:p></O:p>
Mặt-nhựt đối với Mặt-nguyệt.<O:p></O:p>
Sáng đối với Tối.<O:p></O:p>
Âm đối với Dương.<O:p></O:p>
Nước đối với Lửa.<O:p></O:p>
Ấy là năm Pháp đối.<O:p></O:p>
5.– “Nói về pháp-tướng có mười hai pháp đối :<O:p></O:p>
Ngữ đối với Pháp.<O:p></O:p>
Có đối với Không.<O:p></O:p>
Có sắc với Không sắc.<O:p></O:p>
Có-tướng đối với Không-tướng.<O:p></O:p>
Có-lậu đối với Không lậu.<O:p></O:p>
Sắc đối với Không.<O:p></O:p>
Động đối với Tịnh.<O:p></O:p>
Trong đối với Đục.<O:p></O:p>
Phàm đối với Thánh.<O:p></O:p>
Tăng đối với Tục.<O:p></O:p>
Già đối với Trẻ.<O:p></O:p>
Lớn đối với Nhỏ.<O:p></O:p>
Ấy là mười hai pháp đối.<O:p></O:p>
6.– “Trong tự-tánh làm ra có mười chín Pháp đối :<O:p></O:p>
Hay đối với Dở.<O:p></O:p>
Tà đối với Chánh.<O:p></O:p>
Si đối với Huệ.<O:p></O:p>
Ngu đối với Trí.<O:p></O:p>
Loạn đối với Định.<O:p></O:p>
Từ đối với Độc.<O:p></O:p>
Giới đối với Chẳng-giới.<O:p></O:p>
Ngay đối với Vạy.<O:p></O:p>
Thiệt đối với Hư.<O:p></O:p>
Hiểm đối với Bằng.<O:p></O:p>
Phiền não đối với Bồ-đề.<O:p></O:p>
Thường đối với Không thường.<O:p></O:p>
Bi đối với Hại.<O:p></O:p>
Mừng đối với Giận.<O:p></O:p>
Bố-thí đối với Xan-lẩn.<O:p></O:p>
Tới đối với Lui.<O:p></O:p>
Sanh đối với Diệt.<O:p></O:p>
Pháp-thân đối với Sắc-thân.<O:p></O:p>
Hóa-thân đối với Báo-thân.<O:p></O:p>
Ấy là mười chín pháp đối.”<O:p></O:p>
7.– Tổ nói : “Ba mươi sáu pháp đối đó, nếu rõ dùng tức là Đạo, thì suốt hết thảy kinh-pháp lặn mọc lìa cả đôi bên, tự tánh dùng ra cùng một người nói chuyện, ngoài thì đối với tướng mà lìa tướng, trong thì đối với không mà lìa không.<O:p></O:p>
8.– “Nếu toàn “trước tướng”, tức là lớn thêm tà-kiến ; bằng toàn “chấp không”, tức là lớn thêm vô-minh. – Những người “chấp không” thì hủy báng kinh Phật, mà chỉ nói rằng chẳng dùng văn-tự. – Nhưng đã nói chẳng dùng văn-tự, thì người cũng chẳng nên nói năng vì lời nói năng ấy lại là cái tướng của văn-tự. – Còn như cứ nói thẳng rằng : “Bất lập văn tự” thì hai chữ “bất lập” ấy, cũng là văn-tự, mà thấy người kia nói, lại trở chê rằng còn “trước văn-tự”.<O:p></O:p>
9.– “Vậy các ngươi phải biết tự mê phần mình còn khá, lại trở hủy báng kinh Phật. – Vậy các ngươi chớ nên hủy báng kinh Phật mà mắc phải tội chướng nhiều. – Nếu trước tướng nơi bề ngoài mà mong tác pháp cầu chơn, hoặc mở rộng đạo-tràng mà nói sự tội lỗi trong cái có chi không, những người như vậy, dầu trải bao kiếp-số cũng chẳng được thấy tánh.<O:p></O:p>
10.– “Chỉ nghe nói rồi y pháp tu hành, lại đừng trăm việc chẳng nghĩ mà làm ngăn-ngại tánh đạo. – Bằng nghe nói chẳng tu thì khiến người trở sanh lòng tà-niệm ; vậy cứ y pháp tu hành, chớ trụ tướng mà làm pháp thí. – Các ngươi nếu tỏ ngộ thì phải y theo đó mà nói, y theo đó mà dùng, y theo đó mà làm ; y theo đây mà động tác, tức là chẳng mất cái tông-chỉ cội gốc.<O:p></O:p>
11.– “Bằng có người hỏi nghĩa cùng các ngươi, hễ hỏi “có” đem “không” đáp, hỏi “không” thì đem ”có” đáp, hỏi “phàm” thì lấy ”thánh” đáp, hỏi “thánh” thì lấy ”phàm” đáp, hai đường nương nhau, sanh nghĩa trung-đạo ; ngươi cứ một hỏi một đáp, còn hỏi khác nữa, thì thảy y theo đó mà đáp, tức là lý chẳng sai mất.<O:p></O:p>
12.– “Giả như có người hỏi “sao là tối”, thì đáp rằng : Sáng là “nhơn”, Tối là “duyên”, sáng hết rồi thì tối, lấy cái sáng hiển rõ cái tối, lấy cái tối hiển rõ cái sáng, tới lui nương nhau, thành nghĩa trung-đạo ; còn hỏi khác nữa thì cũng đều đáp như vậy. – Bọn ngươi ngày sau truyền pháp, cứ y theo đó trao dạy chuyền nhau, chớ sai tông chỉ.”<O:p></O:p>
13.– Sang năm Nhâm-Tý, niên hiệu Thái-Cực năm đầu, hiệu Diên-Hòa tháng bảy, Tổ dạy kẻ môn-nhơn qua chùa Quốc-Ân ở Tân-Châu, dựng một ngôi tháp, nhưng phải hối thợ làm gấp. – Qua năm sau, lúc cuối mùa hạ thì tháp làm xong, đến ngày mồng một tháng bảy, Tổ nhóm đồ-chúng lại mà nói rằng : “Đến tháng tám đây, ta muốn lìa cõi trần, bọn ngươi có chỗ nào nghi, phải cùng nhau hỏi sớm, đặng ta phá chỗ nghi-ngờ mà làm cho các ngươi khỏi điều mê-muội. – Nếu để sau ta tịch rồi, không ai dạy cho các ngươi.”<O:p></O:p>
14.– Bọn Pháp-Hải nghe Tổ nói như vậy thảy đều tủi khóc, chỉ có một mình Thần-Hội thân hình chẳng động và cũng không tủi khóc.<O:p></O:p>
15.– Tổ nói : “Thần-Hội tiểu-sư đáng bực “lành với chẳng lành” bình đẳng, chê khen chẳng động, buồn vui chẳng sanh ; còn bao nhiêu thì chẳng đặng, trong năm ở chùa, tu học đạo gì ? – Nay các ngươi buồn khóc là lo cho ai ? – Nếu lo cho ta chẳng biết chỗ đi, thì ta đây vẫn tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi, thì ta tất không bảo trước cho các ngươi biết. – Bọn ngươi buồn khóc, là vì chẳng biết chỗ đi của ta, chớ như biết được chỗ đi của ta, thì chẳng nên buồn khóc ; pháp tánh vốn không sanh diệt khứ lai.<O:p></O:p>
16.– “Bọn ngươi đều ngồi đây, ta nói cho các ngươi một bài kệ, gọi là kệ : “Chơn-giả động-tịnh”. – Bọn ngươi hãy tụng lấy bài kệ nầy là đồng ý với ta, y theo đó tu hành, tức là chẳng sai tông chỉ.” – Chúng tăng lễ lạy, xin thầy làm kệ.<O:p></O:p>
Kệ rằng :<O:p></O:p>
Hết thảy không có chơn,<O:p></O:p>
Đừng nghĩ thấy cái chơn,<O:p></O:p>
Nếu thấy có chơn hẳn,<O:p></O:p>
Thấy ấy đều không chơn.<SUP>(1)</SUP><O:p></O:p>
Nếu tự mình có chơn,<O:p></O:p>
Lìa giả là tâm chơn,<O:p></O:p>
Tâm mình chẳng lìa giả,<O:p></O:p>
Không chơn chỗ nào chơn.<SUP>(2)</SUP><O:p></O:p>
Hữu tình tức biết động,<O:p></O:p>
Vô tình tức chẳng động,<O:p></O:p>
Nếu tu hạnh chẳng động,<O:p></O:p>
Đồng vô tình chẳng động.<SUP>(3)</SUP><O:p></O:p>
Bằng tìm chơn chẳng động,<O:p></O:p>
Trong động có chẳng động,<O:p></O:p>
Chẳng động là chẳng động,<O:p></O:p>
Không tình không Phật chủng.<SUP>(4)</SUP><O:p></O:p>
Rành được tướng phân biệt,<O:p></O:p>
Nghĩa thứ nhứt chẳng động,<O:p></O:p>
Chỉ cái thấy như vậy,<O:p></O:p>
Tức là chơn như dụng.<SUP>(5)</SUP><O:p></O:p>
Tỏ cùng người học đạo,<O:p></O:p>
Rán sức nên dụng ý,<O:p></O:p>
Đừng trong cửa Đại-thừa,<O:p></O:p>
Lại chấp trí sanh tử.<SUP>(6)</SUP><O:p></O:p>
Lời nói nếu tương ứng,<O:p></O:p>
Thì nghĩa Phật chung bản,<O:p></O:p>
Nếu thiệt chẳng tương ứng,<O:p></O:p>
Chấp tay khiến vui mừng.<O:p></O:p>
Tông nầy gốc không cãi,<O:p></O:p>
Cãi thì mất đạo ý,<O:p></O:p>
Giữ pháp môn trái cãi,<O:p></O:p>
Tự tánh vào sanh tử.(7)<O:p></O:p>
bàn vân vân… – Nếu ngoài cái sở đối ấy thì Bồ-đề Niết bàn cũng không có danh, huống chi có thiệt.<O:p></O:p>
Biết được như thế, thì đối với các pháp không nên có cái thấy nhận định là chơn ; nếu mình nhận định là chơn, thì cái thấy của mình chưa lìa khỏi tâm pháp sắc-pháp ; nên cái thấy ấy đều chẳng phải chơn.<O:p></O:p>
17.– Thuở ấy đồ chúng nghe Tổ đọc kệ rồi, thảy đều làm lễ và thể theo ý thầy mỗi mỗi thâu nhiếp lấy tâm mà y pháp tu hành chẳng dám trái cãi. – Đồ chúng biết Tổ chẳng còn ở thế lâu, Pháp-Hải là bực thượng-tọa, lại lạy mà bạch rằng : “Sau khi Hòa-thượng vào Niết-bàn, y-pháp sẽ truyền phó cho người nào ?”*<O:p></O:p>
18.– Tổ nói : “Những lời ta thuyết-pháp từ nơi chùa Đại-Phạm cho tới nay hiện chép lưu truyền thành quyển, nhan-đề là “Pháp-bảo Đàn-kinh” ; bọn ngươi phải giữ gìn lấy, để thay đổi nhau truyền thọ mà độ-chúng quần sanh, cứ y theo lời nói mà làm, ấy gọi là : pháp chánh.<O:p></O:p>
19.– “Nay ta vì bọn ngươi nói pháp, chớ chẳng truyền y, là vì bọn ngươi tín-căn thuần thục, quyết định không nghi, đủ gánh nổi việc lớn ; nhưng cứ theo ý kệ “phó thọ” của Tổ trước là Đạt-Ma đại-sư, thì y nầy chẳng nên truyền xuống nữa.<O:p></O:p>
Kệ rằng :<O:p></O:p>
Vốn ta đến cõi nầy,<O:p></O:p>
Truyền pháp cứu tình mê,<O:p></O:p>
Một hoa nở năm cánh,<O:p></O:p>
Kết trái nảy sum sê.(8)<O:p></O:p>
20.– Tổ lại nói : “Bọn ngươi nếu muốn thành được chủng-trí, thì phải thông pháp “Nhứt tướng tam muội” và ”Nhứt hạnh tam muội” ; dầu đối với hết thảy chỗ nào cũng chẳng trụ tướng, ở trong tướng kia chẳng sanh lòng ghét thương, cũng không lòng lấy bỏ, chẳng nghĩ các việc lợi ích nên hư, rảnh-rang im-lặng, rỗng thông, lợt-lạt, ấy gọi là : “Nhứt tướng tam muội”.<O:p></O:p>
21.– “Nếu hết thảy chỗ nào, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, toàn một tâm thẳng, chẳng động đạo tràng mà thành cảnh Tịnh-độ, ấy gọi là : “Nhứt hạnh tam muội”. – Người nếu đủ cả hai pháp Tam-muội ấy, cũng như đất kia có giống, ngậm chứa nuôi-nấng, thì thành thục đặng trái, nhứt tướng, nhứt hạnh lại cũng như vậy.<O:p></O:p>
22.– “Nay ta nói pháp cũng như mưa thuận thời, nhuần khắp cả miền đại-địa ; còn Phật-tánh của các ngươi ví như hột giống, gặp mưa đầm thắm, thảy đều nảy sanh nếu vưng theo ý của ta thì chắc thành đặng bồ-đề, y theo hạnh của ta thì chắc chứng đặng diệu-quả, hãy nghe bài ta đây :<O:p></O:p>
Cõi lòng chứa các giống,<O:p></O:p>
Mưa thấm mộng chồi xanh,(9)<O:p></O:p>
Tỏ đặng hoa tình ấy,<O:p></O:p>
Bồ-đề trái tự thành.(10)<O:p></O:p>
23.– Tổ đọc kệ rồi nói : “Pháp vẫn không hai ; tâm kia cũng vậy ; Đạo vẫn thanh-tịnh, cũng không các tướng. – Bọn ngươi dè-dặt, chớ “quán-tịnh” và chấp “không tâm”, vì tâm ấy vốn tịnh, chẳng nên lấy bỏ, đều phải rán sức, tùy duyên hẳn đi.” – Khi ấy đồ-chúng đảnh lễ rồi lui.<O:p></O:p>
24.– Tháng bảy mồng tám, Tổ thoạt nhiên nói với môn nhơn rằng : “Ta muốn về Tân-Châu, bọn ngươi sửa dọn thuyền chèo cho mau.” – Đại-chúng xin cầm Tổ ở lại rất ai-thiết.<O:p></O:p>
25.– Tổ nói : “Các Phật ra đời, hãy còn vào cảnh Niết-bàn, hễ có tới thì ắt có đi, lý cũng thường vậy, hình-hài của ta đây về ắt chỗ.”<O:p></O:p>
26.– Chúng nói : “Thầy đi phen nầy, về sớm hay muộn ?”<O:p></O:p>
27.– Tổ nói : “Lá rụng về cội, ắt không ngày trở lại.”<O:p></O:p>
28.– Chúng lại hỏi : “Chánh pháp Nhãn-tạng truyền phó cho người nào ?”<O:p></O:p>
29.– Tổ nói : “Kẻ hữu đạo thì đặng, kẻ vô tâm thì thông.”<O:p></O:p>
30.– Bạch : “Chúng tôi chưa biết từ trên Phật Tổ ứng hiện ra đời tới nay, truyền thọ đã bao nhiêu đời, xin Thầy mở dạy.”<O:p></O:p>
31.– Tổ nói : “Phật xưa ra đời, đã không số lường, không thể kể xiết. – Nay kể từ bảy đức Phật làm đầu.<O:p></O:p>
“Trong kiếp Trang-Nghiêm về đời quá-khứ : Phật Tỳ-Bà-Thi, Phật Thi-Khí, Phật Tỳ-Xá-Phù.<O:p></O:p>
“Trong Hiền-kiếp về đời hiện tại : Phật Câu-Lưu-Tôn, Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni, Phật Ca-Diếp, Phật Thích-Ca-Văn. – Ấy gọi là bảy đức Phật.<O:p></O:p>
32.– “Thích-Ca-Văn-Phật đầu tiên, truyền cho : 1. Ma-Ha-Ca-Diếp tôn giả ; 2. A-Nan tôn giả ; 3. Thương-Na-Hòa-Tu tôn giả ; 4. Ưu-Bá-Cúc-Đa tôn giả ; 5. Đề-Đa-Ca tôn giả ; 6. Di-Giá-Ca tôn giả ; 7. Bà-Ta-Mật-Đa tôn giả ; 8. Phật Đà-Nan-Đề tôn giả ; 9. Phục Đà-Mật-Đa tôn giả ; 10. Hiếp tôn giả ; 11. Phú-Na-Dạ-Xa tôn giả ; 12. Mã-Minh đại-sĩ ; 13. Ca-Tỳ-Ma-La tôn giả ; 14. Long-Thọ đại-sĩ ; 15. Ca-Na-Đề-Bà tôn giả ; 16. La Hầu-La-Đa tôn giả ; 17. Tăng-Già-Nan-Đề tôn giả ; 18. Già-Da-Xá-Đa tôn giả ; 19. Cưu-Ma-Đa tôn giả ; 20. Xà-Da-Đa tôn giả ; 21. Bà-Tu-Bàn-Đầu tôn giả ; 22. Ma-Noa-La tôn giả ; 23. Hạt-Lặc-Na tôn giả ; 24. Sư-Tử tôn giả ; 25. Bà-Xá-Tư-Đa tôn giả ; 26. Bất-Như-Mật-Đa tôn giả ; 27. Bát-Nhã-Đa-La tôn giả ; 28. Bồ-Đề-Đạt-Ma tôn giả (Đông-độ làm sơ Tổ) ; 29. Huệ-Khả đại-sư ; 30. Tăng-Xáng đại-sư ; 31. Đạo-Tín đại-sư ; 32. Hoằng-Nhẫn đại-sư ; Đến Huệ-Năng nầy là Tổ thứ ba mươi ba.<O:p></O:p>
33.– “Từ trên các Tổ đều có vưng chịu nối nhau ; còn bọn ngươi về sau, lưu truyền đời nầy đời khác, đừng để sai lầm.”<O:p></O:p>
34.– Đồ-chúng lại hỏi : “Từ đây về sau có nạn chi không ?”<O:p></O:p>
35.– Tổ phán rằng : “Sau khi ta tịch rồi cách năm sáu năm, sẽ có một người muốn trộm lấy đầu ta, vậy nghe lời sấm ta đây :<O:p></O:p>
Trên đầu nuôi thân,(11)<O:p></O:p>
Trong miệng cần ăn,(12)<O:p></O:p>
Gặp nạn tên Mãn,(13)<O:p></O:p>
Dương Liễu làm quan.(14)<O:p></O:p>
36.– Niêu-hiệu Thiên-Thiên thứ hai, năm Quý-Sửu, tháng tám, mồng ba (qua tháng chạp trong năm ấy, vua đổi niên-hiệu lại là Khai-Nguyên), nơi chùa Quốc-Ân, vừa bãi tiệc chay, thì Tổ với các đồ-chúng bảo rằng : “Bọn ngươi y theo ngôi thứ mà ngồi, ta cùng các ngươi từ biệt.”<O:p></O:p>
37.– Pháp-Hải bạch rằng : “Hòa-thượng còn lưu lại giáo Pháp gì để cho những kẻ mê đời sau, đặng thấy Phật-tánh.”<O:p></O:p>
38.– Tổ nói : “Bọn ngươi chăm nghe : Những kẻ mê lưu đời sau, nếu biết chúng-sanh, tức là Phật-tánh ; bằng chẳng biết chúng-sanh thì muôn kiếp tìm không gặp Phật. – Ta nay dạy các ngươi biết tự-tâm chúng-sanh và thấy tự-tâm Phật-tánh, muốn cầu thấy Phật, phải biết chúng-sanh, chỉ vì chúng-sanh mê Phật, chẳng phải Phật mê chúng-sanh :<O:p></O:p>
Tự-tánh tỏ ngộ, chúng-sanh là Phật.<O:p></O:p>
Tự-tánh còn mê, Phật là chúng-sanh.<O:p></O:p>
Tự-tánh bình đẳng, chúng-sanh là Phật,<O:p></O:p>
Tự-tánh tà hiểm, Phật là chúng-sanh.<O:p></O:p>
“Nếu các ngươi tâm còn hiểm khúc, thì tức là Phật ở trong chúng-sanh ; bằng một niệm bằng thẳng, tức là chúng-sanh thành Phật. – Tâm ta tự có Phật, Phật mình là Chơn-Phật, mình nếu không tâm Phật, chỗ nào tìm chơn Phật.<O:p></O:p>
39.– “Bọn ngươi tự tâm là Phật, đừng hồ nghi chi, ngoài không có một vật gì mà gầy dựng được, đều do tâm mình sanh ra muôn pháp, cho nên trong kinh nói : “Tâm sanh thì các giống pháp sanh, tâm diệt thì các giống pháp diệt.” – Nay ta để lại một bài kệ mà từ biệt cùng bọn ngươi, kệ ấy gọi là : “Tự-tánh Chơn-Phật”. – Nếu người đời sau biết được ý nghĩa kệ ấy, thì tự thấy bổn-tâm, tự thành Phật-đạo.<O:p></O:p>
Kệ rằng :<O:p></O:p>
Tự-tánh chơn-như là chơn-Phật,<O:p></O:p>
Tà kiến tam độc là Ma-Vương.<SUP>(15)</SUP><O:p></O:p>
Hễ lúc tà mê ma choán chỗ,<O:p></O:p>
Mà khi chánh kiến Phật vào nhà.<SUP>(16)</SUP><O:p></O:p>
Trong tánh thấy tà ba độc sanh,<O:p></O:p>
Tức là Ma-vương đến trụ-xá.<SUP>(17)</SUP><O:p></O:p>
Chánh-kiến dứt trừ ba độc kia,<O:p></O:p>
Ma biến thành Phật thiệt không giả.<SUP>(18)</SUP><O:p></O:p>
Pháp-thân, Báo-thân, với Hóa-thân,<O:p></O:p>
Ba thân gốc thiệt một thân nầy.<SUP>(19)</SUP><O:p></O:p>
Nếu trong tánh mình mình thấy được,<O:p></O:p>
Tức là thành đạo Bồ-đề ngay.<SUP>(20)</SUP><O:p></O:p>
Bởi có Hóa-thân sanh tánh tịnh,<O:p></O:p>
Tánh tịnh hằng ở trong Hóa-thân.<O:p></O:p>
Tánh khiến Hóa-thân làm đạo chánh,<O:p></O:p>
Về sau viên-mãn thiệt không ngần.<SUP>(21)</SUP><O:p></O:p>
Tánh dâm vốn là nhơn tánh tịnh,<O:p></O:p>
Trừ dâm tức là tịnh tánh thân.<O:p></O:p>
Trong tánh lìa xong cả năm dục,<O:p></O:p>
Giây phút thấy tánh tức là chơn.<SUP>(22)</SUP><O:p></O:p>
Đời nay bằng gặp môn Đốn-giáo,<O:p></O:p>
Chợt tỏ tánh mình thấy Thế-Tôn.<SUP>(23)</SUP><O:p></O:p>
Nếu muốn tu hành cầu làm Phật,<O:p></O:p>
Chỗ nào mà nghĩ để tìm chơn.<SUP>(24)</SUP><O:p></O:p>
Bằng trong tâm mình thấy chơn được,<O:p></O:p>
Là nhơn thành Phật chẳng còn nghi.<SUP>(25)</SUP><O:p></O:p>
Không thấy tánh mình tìm Phật khác,<O:p></O:p>
Khởi tâm như vậy thiệt ngu si.<SUP>(26)</SUP><O:p></O:p>
Pháp-môn Đốn-giáo nay truyền lại,<O:p></O:p>
Cứu độ người đời phải tự tu.<O:p></O:p>
Khuyên những đời sau người học đạo,<O:p></O:p>
Chẳng theo thấy ấy lắm mù mù.(27)<O:p></O:p>
40.– Tổ nói bài kệ rồi bảo rằng : “Bọn ngươi ở lại, sau khi ta diệt độ, chớ nên theo tình đời, buồn khóc rơi lệ và chẳng nên chịu lễ điếu viếng của người mà cũng không được mặc đồ hiếu phục ; nếu làm vậy thì chẳng phải đệ-tử của ta và cũng chẳng phải chánh-pháp chỉ biết bổn tâm mình, thấy bổn-tánh mình, không động không tịnh, không sanh không diệt, không lui không tới, không phải không quấy, không ở không đi là được.<O:p></O:p>
41.– “Ta e bọn ngươi tâm mê, chẳng rõ thấu ý ta, nên nay ta dặn lại, khiến cho các ngươi thấy tánh, sau khi ta diệt độ, cứ y theo đó tu hành, thì cũng như ngày ta còn tại thế ; bằng trái lời ta, thì dầu ta còn tại thế cũng không ích gì !” – Tổ dặn rồi lại thuyết kệ rằng :*<O:p></O:p>
Trơ trơ chẳng làm lành,<O:p></O:p>
Xăn xăn chẳng tạo ác,<O:p></O:p>
Bặt bặt dứt thấy nghe,<O:p></O:p>
Lộng lộng tâm không mắc.(28)<O:p></O:p>
42.– Tổ đọc kệ rồi, ngồi ngay thẳng đến canh ba, thoạt nhiên nói với môn nhơn rằng : “Thôi ta đi !” – Nói rồi im-lìm thoát hóa. – Thuở ấy mùi thơm lạ đầy nhà, mống bạc chói cả đất, rừng cây biến thành sắc trắng, cầm thú kêu giọng ai-bi.<O:p></O:p>
43.– Qua tháng mười một, các quan liêu ở trong ba quận : Quảng, Thiều, Tân, cùng bọn môn-nhơn kẻ tăng người tục, giành rước chơn-thân của Tổ, quan tài chưa quyết đưa về đâu, mới cùng nhau thắp hương vái rằng : “Hễ khói hương chỉ xứ nào, là chỗ về của Tổ ở nơi đó.” – Khi ấy khói hương bay thẳng về Tào-Khê.<O:p></O:p>
44.– Ngày mười ba tháng mười một năm ấy, bèn dời thần-khám (linh cửu) và đồ y bát của Tổ truyền mà đưa về Tào-Khê.<O:p></O:p>
45.– Qua năm sau, tháng bảy, ngày hai mươi lăm, thỉnh xác thân của Tổ xuất khám, đệ tử là Phương-Biện lấy keo thơm đem dưng, thì bọn môn nhơn nghĩ nhớ lời sấm-ký “Thủ thủ”, bèn trước lấy thiết-diệp bao vải dầu, giữ chặt chỗ cổ của Tổ, rồi đưa vào tháp, chợt thấy trong có một lằn bạch-quang xuất hiện, xông thẳng lên trời, trọn ba ngày mới tan.<O:p></O:p>
46.– Quan ở Thiều-Châu làm biểu tâu vua, lại vưng sắc vua, dựng bia mà ghi lại cái đạo-hạnh của Tổ như vầy : “Tổ-sư xuân thu được bảy mươi lẻ sáu tuổi, khi hai mươi bốn tuổi được truyền y, ba mươi chín tuổi xuống tóc, thuyết pháp lợi sanh ba mươi bảy năm, những kẻ đặng tông chỉ nối giáo-pháp được bốn mươi người, còn những người ngộ đạo siêu phàm chẳng biết bao nhiêu mà kể.”<O:p></O:p>
47.– Cái tín-y của Sơ-Tổ Đạt Ma truyền lại đó, là thứ bố khuất-quyến bên Tây-vức ; cái áo Ma-nạp và cái bửu-bát của vua Trung-Tôn ân tứ, cùng chơn tướng của Tổ mà ngày trước Phương-Biện đắp sẵn, với những đồ đạo-khí đều giao cho người chủ coi tháp giữ gìn, để vĩnh viễn an trấn nơi đạo-tràng Bửu-Lâm và lưu truyền quyển Bửu đàn-kinh để hiển rõ tông chỉ của Tổ mà dấy thạnh ngôi Tam-bảo, phổ lợi cho quần-sanh.<O:p></O:p>
48.– Sau khi chơn-thân của Tổ vào tháp yên rồi, đến niên-hiệu Khai-Nguyên thứ mười, năm Nhâm-Tuất, tháng tám, ngày mồng ba, lúc nửa đêm, xảy nghe trong tháp như tiếng kéo dây sắt ; chúng-tăng cả kinh chỗi dậy, thấy có một người mặt đồ chế, từ trong chạy ra. Chúng-tăng bèn tìm đến coi nơi cổ của Tổ, thấy có dấu vít, mới đem đủ việc gian trộm ấy mà tố cáo đến Châu Huyện.<O:p></O:p>
49.– Quan Huyện lịnh là Dương-Khảng và quan Thứ-sử là Liễu-Vô-Thiểm tiếp đặng cáo điệp, liền dã tâm tìm nã, qua ngày mồng năm, bắt được kẻ gian-trộm nơi làng Thạch-Giác, dẫn về Thiều-Châu hỏi, thì người ấy cung khai rằng : “Nó là họ Trương, tên Tịnh Mãn, người ở Huyện-Lương, Châu-Nhữ, thọ lãnh một số tiền mướn, hai mươi ngàn quan của tăng-nhơn là Kim-Đại-Bi, người đất Tân-La, ở chùa Khai-Nguyên nơi Hồng-Châu, bảo lén lấy đầu của Lục-Tổ đại-sư đem về Hải-Đông để cúng dường.”<O:p></O:p>
50.– Quan Liễu-Thái-Thú nghe lời cung trạng như vậy mà chưa vội gia-hình, bèn đến Tào-Khê hỏi người thượng-túc, đệ-tử của Tổ là Linh-Thao rằng : “Thầy muốn buộc cách nào ?”<O:p></O:p>
51.– Thao nói : “Bằng lấy theo phép nước mà luận tội, lý đáng tru-di ; nhưng lấy lượng từ-bi của Phật-giáo thì kẻ thù với người thân, một bực bình-đẳng, huống chi kia muốn cầu cúng dường, thì tội ấy nên tha.”<O:p></O:p>
52.– Liễu-Thái-Thú càng thêm khen ngợi rằng : “Vậy mới biết là cửa Phật rộng lớn không ngằn, nhơn tha luôn.”<O:p></O:p>
53.– Niên-hiệu Thượng-Nguyên năm đầu, vua Túc-Tông khiến sứ tới thỉnh y bát của Tổ đem về trong cung mà cúng dường.<O:p></O:p>
54.– Đến niên-hiệu Vĩnh-Thái năm đầu, ngày mồng năm tháng năm, vua Đại-Tông chiêm-bao thấy Lục-Tổ đại-sư đến đòi y bát. – Ngày mồng bảy, vua xuống sắc cho quan Thứ-sử là Dương-Giam rằng : “Trẫm chiêm-bao thấy Huệ-Năng thiền-sư đòi y ca-sa của Tổ trước truyền lại đó đem về Tào-Khê, nay Trẫm khiến quan Trấn-quốc đại-tướng-quân là Lưu-Sùng-Cảnh đảnh đái y ấy đưa về. – Trẫm gọi là đồ quốc-bửu, vậy ngươi (Dương-Giam) khá đến lại bổn-tự, y phép yên đặt, rồi bảo trong tăng-chúng người nào vưng nối tông-chỉ của Tổ, thì phải dè dặt giữ-gìn, chớ để sai lạc.”<O:p></O:p>
55.– Về sau y bát ấy, hoặc bị kẻ trộm lấy thì đều đem đi chẳng xa mà tìm lại được, đã trót ba bốn lần như vậy.<O:p></O:p>
56.– Qua đời vua Hiến-Tông có ban hàm-ân cho Tổ : “Đại-Giám Thiền-sư”, còn tháp thì tặng là : “Nguyên Hòa Linh Chiếu”.<O:p></O:p>
57.– Các sự tích khác nữa, thị có khắc vào trong các cái bia của quan Thượng-thơ Vương-Duy, quan Thứ-sử Liễu-Tông-Nguyên và quan Thứ-sử Lưu-Võ-Tích ở đời nhà Đường.<O:p></O:p>

Kẻ giữ tháp là Linh-Thao phụng chép<O:p></O:p>


(Đàn-kinh một quyển)<O:p></O:p>







<HR align=left SIZE=1 width="33%">
(1) Từ câu : “Hết thảy không có chơn”… đến câu “Thấy ấy đều không chơn” : “Hết thảy”, là nói : Cả pháp hữu vi (thế gian) và vô vi (xuất thế gian). – “Không có chơn” là nói : Những pháp ấy không có một pháp gì chơn thiệt.<O:p></O:p>
Vì chẳng những trong từ thân tâm của chúng ta, ngoài đến vạn hữu trong vũ trụ, đều là pháp hữu vi sanh diệt, gốc do nơi nhơn duyên mà sanh ra (nhứt thiết pháp tùng nhơn duyên sanh) chớ nó không có tự tánh, nên không phải thiệt ; mà đến như Bồ-đề Niết-bàn là pháp vô vi nhưng cũng do nơi cái sở đối mà lập ra ; như đối với phiền não thì nói Bồ-đề, đối với sanh tử thì nói Niết-Bàn

(2) Từ câu : “Nếu tự mình có chơn”… đến câu “Không chơn chỗ nào chơn” : “Lìa giả”, là lìa những thứ ngã chấp pháp chấp ; – “tâm chơn”, là cái tâm thanh tịnh, không còn “ngã pháp” làm chướng ngại. – Bằng như tự tâm mình chưa lìa được cái giả “ngã” và ”pháp”, thì tâm mình đã không chơn rồi, còn tìm chơn rồi, còn tìm chơn ở chỗ nào nữa !

(3) Từ câu : “Hữu tình tức biết động”… đến câu : “Đồng vô tình chẳng động” : “Hữu tình” là những loài có tri giác vận động, tức là động vật. – “Vô tình” là những loài không tri giác vận động, tức là loài khoáng vật thực vật. – “Hạnh chẳng động”, là tu theo cái hạnh ; thân ngồi không cử động như cây khô bặt hết tư tưởng như tro lạnh, cũng tức là cái tu “khôi thân diệt trí” của phái Tiểu-thừa. Cho nên Tổ nói : Nếu tu cái hạnh như vậy, thì có khác gì loài vô tình kia.

(4) Từ câu : “Bằng tìm chơn chẳng động”… đến câu : “Không tình không Phật chủng” : lại câu trên, là nói : Cái chơn thể Niết-bàn (chẳng động) vẫn ở trong tướng sanh tử (động) không phải lìa tướng sanh tử mà có thể Niết-bàn. – Còn hai câu dưới, là nói : Những người không hiểu thấu nghĩa “tịch chiếu, chiếu tịch” của Niết-bàn mà cứ chấp cái “chẳng động là chẳng động”, thì cái chẳng ấy không khác gì loài vô tình, không có tri giác và cũng không khác gì người không Phật-chủng, chẳng phát sanh được thiện-căn vậy.
<O:p></O:p>
(5) Từ câu : “Rành được tướng phân biệt”… đến câu : “Tức là chơn như dụng”. Hai câu trên, là nói : Ở trong các tướng phân biệt mà không có thấy “sanh-tử là dơ, Niết-bàn là sạch, phiền-não là mê, bồ-đề là giác”, thì mới hiểu rõ cái chơn tướng “chẳng động” trong nghĩa đề thứ nhứt. – Hai câu dưới, là nói : Chỉ cái thấy bình đẳng như vậy, tức là cái diệu-dụng của chơn như pháp hiện ra vậy.
<O:p></O:p>

(6) Từ câu : “Tỏ cùng người học đạo”… đến câu : “Lại chấp trí sanh tử” : “Cửa Đại-thừa”, tức là môn Đốn-giáo ; môn nầy quét sạch các thứ thấy “ngã pháp” và dấy bằng các thềm bực “Thánh phàm” chỉ ngộ liền nơi tự tâm, thấy tánh thành Phật là xong việc. – “Trí sanh-tử”, tức là cái trí biện thông của thế gian, thường bị nó mà tạo thành nghiệp thiện, nghiệp ác, rồi phải chịu cái khổ quả sanh tử, nên kêu là : trí sanh tử.
Nói tóm lại, là ý Tổ muốn báo cáo với các người học đạo, nên dùng lòng, rán sức cho đạt tới cửa nẻo Đại thừa, chớ không được chấp theo trí sanh tử mà thọ hại.
<O:p></O:p>
(7) Từ câu : “Lời nói nếu tương ứng”… đến câu : “Tự tánh vào sanh tử”. Đây là lời Tổ di chúc lại cho môn đồ phải biết. Pháp Đốn-giáo của ngài đắc truyền ở nơi Sơ-Tổ Đạt-Ma là một pháp “ngoại giáo biệt truyền”, trừ bực thượng-sĩ ra thì những kẻ trung-căn hạ-căn, phần nhiều tuy nghe mà chẳng tin.<O:p></O:p>
Cho nên đối với người nào mà lời nói có khế hợp với Đốn-giáo, thì đem nghĩa đế của Phật mà bàn luận với họ ; còn như lời nói không khế hợp, thì mình cũng chấp tay cung kính, tỏ dấu vui mừng, chớ không nên cãi lẫy. – Vì cái tông chỉ của Đốn-giáo nầy, gốc không ngã không nhơn, không phàm không thánh, muôn tướng đều bặt, một niệm chẳng sanh, thì có cái gì trái nghịch mà tranh đua kình cãi. Nếu không biết mà tranh đua kình cãi lẫn nhau, thì tức là sai mất đạo-ý và lại tự tánh của mình cũng phải tùy nghiệp lôi kéo mà chun vào đường sanh-tử là khác.
<O:p></O:p>


(8) Từ câu : “Vốn ta đến cõi nầy”… đến câu : “Kết trái nảy sum sê”. Nguyên bốn câu nầy là bài kệ phú pháp của Đạt-Ma Sơ-Tổ truyền cho ngài Huệ-Khả đại-sư (tức là Thần-Quang) hồi trước, mà nay Lục-Tổ thuật lại cho đệ-tử nghe.<O:p></O:p>
“Ta”, là lời nói của Đạt-Ma Sơ-Tổ tự xưng. – “Cõi nầy”, là chỉ nước Trung-quốc (Tàu) ; – “Truyền pháp”, là truyền pháp Đốn-giáo ; – “Tình mê”, là cái tình thức phân biệt chấp có thiệt-ngã, thiệt-pháp, mà chưa giác ngộ được bản-thể thanh-tịnh của tự-tánh ; – “Một hoa nở năm cánh”, là nói : Cái nhứt thừa tâm ấn của ngài truyền sang xứ Tàu, từ ấy về sau, có được năm đời thừa thọ y bát làm Tổ.<O:p></O:p>
Tóm lại : Hai câu trên là lời ngài tự thuật cái bản ý của ngài ở Tây-trúc sang Tàu ; – hai câu dưới, là lời ngài huyền-ký cái cơ-duyên đắc pháp và thể đại truyền y cho đệ-tử biết.
<O:p></O:p>

(9) Cõi lòng chứa các giống, mưa thấm mộng chồi xanh : Phật tánh ở trong tâm người ví như hột giống ở trong đất ; Phật-tánh nhờ sức thuyết pháp ở ngoài hun vào mà phát triển được cái bản-giác sáng-suốt, cũng như hột giống nhờ sức mưa thấm đất mà nứt mộng sanh chồi vậy.
<O:p></O:p>

(10) Tỏ đặng hoa tình ấy, Bồ-đề trái tự thành : “Hoa tình”. – Chữ “tình” nầy chớ nên hiểu lầm như chữ “tình dục”, thiệt ra nghĩa chữ “tình” nói đây cũng như nghĩa : “ý-chỉ”, tức là nói : Nếu tỏ ngộ được cái ý-chỉ “niệm hoa” như Ca-Diếp Thỉ-Tổ hồi trước và Tổ Tổ tương truyền cho đến ngày nay đó, thì tự nhiên thành được quả giác, không đợi phải tu phải gì nữa.
<O:p></O:p>

(11) Trên đầu nuôi thân : là nói : Đầu bịt khăn tang, hoặc tang cha hay mẹ.<O:p></O:p>

(12) Trong miệng cần ăn : là nói : Ăn tiền hối-lộ mà làm việc như vậy.<O:p></O:p>

(13) Gặp nạn tên Mãn : là nói : Kẻ trộm ấy tên là Trương-Tịnh-Mãn.<O:p></O:p>

(14) Dương-Liễu làm quan : là nói : Trong lúc xảy ra cái nạn tên Mãn ấy, thì ông Liễu-Vô-Thiểm đương làm Thứ-sử và ông Dương-Khảng đương làm Huyện lịnh. – Đây là lời huyền-ký của Tổ hồi trước, mà đến sau suy nghiệm không sai một mảy.
<O:p></O:p>

(15) Tự-tánh chơn-như là chơn-Phật, tà kiến tam độc là Ma-Vương : “Chơn-như”. – “Chơn” là chơn thiệt, hiển rõ cái nghĩa : không giả dối ; “như” là như thường, tiêu biểu cái nghĩa : không biến đổi ; tức là “tự-tánh thanh-tịnh tâm” của mọi người đồng có, mà tự-tánh ấy tức là Phật.<O:p></O:p>
Nếu trái hẳn với cái tự-tánh chơn thiệt như thường ấy tức là Ma. – Cho nên Phật với Ma, chỉ khác nhau ở nơi chơn với vọng, chánh với tà ; ba đức (trí-đức, đoạn-đức, ân-đức) với ba độc (tham-độc, sân-độc, si-độc) mà thành có giới-hạn phân tách đó thôi.
<O:p></O:p>
(16) Hễ lúc tà mê ma choán chỗ, mà khi chánh-kiến Phật vào nhà : “Chỗ” với ”nhà” là dụ cái tâm ; khi tâm tà mê thì tâm ấy là tâm ma ; khi tâm chánh-kiến thì tâm ấy là tâm Phật ; cho nên nói rằng “Ma choán, Phật vào” là thế.

(17) Trong tánh thấy tà ba độc sanh, tức là Ma-vương đến trụ-xá : Bởi cái thấy tà mới sanh ra ba độc, – bởi có ba độc mới thành ra Ma vương.
<O:p></O:p>
(18) Chánh-kiến dứt trừ ba độc kia, Ma biến thành Phật thiệt không giả : “Chánh-kiến”, là quán chiếu bát-nhã, dùng sức quán chiếu bát-nhã mà diệt trừ ba độc hết rồi, thì tự-tánh hoàn lại thanh-tịnh, tức là nghĩa : Ma biến thành Phật.<O:p></O:p>


“PHAP-THÂN NHƯ-LAI cũng tức là ông Phật-chơn-tánh ; ông Phật-chơn-tánh ấy không hình không sắc, không tiếng không tăm, nên không thể lấy con mắt và lỗ tai mà thấy được, nghe được ; nếu có sắc-tướng thấy được và có âm-thinh nghe được, thì ông Phật ấy không phải là ông Phật thiệt. – Cho nên kinh Hoa-Nghiêm nói : “Sắc thân chẳng phải Phật, âm thinh lại cũng thế” lại nói : “Chẳng rõ chơn tánh kia, người ấy không thấy Phật”.<O:p></O:p>
Xem như thế thì biết : Phật, Tổ trước sau, chỗ thuyết pháp cũng không ngoài tự-tánh.
<O:p></O:p>
(19) Pháp-thân, Báo-thân, với Hóa-thân, Ba thân gốc thiệt một thân nầy : Tự-tánh thanh tịnh là Pháp-thân ; – nhơn tròn quả mãn là Báo-thân ; – tùy cơ thị hiện là Hóa-thân ; – mà ba thân ấy đồng ở trong nguồn tự-tánh thanh-tịnh mà ra, cho nên nói : “gốc thiệt một thân”.

(20) Nếu trong tánh mình mình thấy được, tức là thành đạo Bồ-đề ngay : là nói : Mình nếu thấy được tự-tánh mình, lúc nào cũng vắng lặng, cũng trong sạch, cũng hằng còn, cũng không biến đổi, tức là mình tự-tánh Pháp thân Phật, – mình nếu thấy được tự-tánh mình có sẵn công-đức vô lượng, đầy đủ luôn luôn, tức là mình thấy tự-tánh Báo-thân-Phật ; – mình nếu thấy được tự-tánh mình có cái diệu-dụng tùy duyên mà chẳng khi nào ô-nhiễm, tức là mình thấy tự-tánh Hóa-thân-Phật.<O:p></O:p>
Thấy như vậy gọi là thấy tánh, tức là thành được cái nhơn Bồ-đề ; không cần phải tu nhơn hạnh gì khác.
<O:p></O:p>
(21) Từ câu : “Bởi có Hóa-thân sanh tánh tịnh”… đến câu : “Về sau viên-mãn thiệt không ngần”, “Hóa-thân”, là cái thân hoạn hóa, tức là chỉ cái thân “năm-uẩn giả hiệp”, chớ không phải cái thân ứng hóa độ sanh. – “Tánh-tịnh”, là tánh chơn như thanh tịnh. – “Viên-mãn”, là nói : Nhơn tròn quả mãn về sau, không cùng không tột.<O:p></O:p>
Câu : “Bởi có Hóa-thân sanh tánh tịnh” đây, không phải nói cái thân hoạn hóa mà sanh được cái tánh chơn như thanh tịnh ; chính là nói : Bởi có hóa thân là giả, nên mới có nói tánh tịnh là thiệt ; nhưng cái thiệt ấy không phải lìa cái giả ra mà có, nên nói “tánh tịnh hằng ở trong Hóa-thân”.<O:p></O:p>
Cũng vì có tánh chơn như thanh tịnh huân-tập ở trong, mới khiến cho hóa thân biết chán đạo tà mà làm theo đạo chánh và nhờ đạo chánh huân tập ấy mà làm nên cái công-nghiệp “nhơn tròn quả mãn” cho đến tột đời vị-lai vô cùng vô tận.
<O:p></O:p>
(22) Từ câu : “Tánh dâm vốn là nhơn tánh tịnh”… đến câu : “Giây phút thấy tánh tức là chơn”, “Tánh dâm”, là tánh ô-nhiễm, – “tánh tịnh” là tánh trong sạch. – Nhưng nhơ với sạch, dâm với tịnh, không phải hai gốc, nên trừ hết dâm rồi tức là thành cái thân tịnh-tánh.<O:p></O:p>
Tức như : Nàng Ma-Đăng-Dà-Nữ là một người gái dâm, mà sau khi nghe ngài Văn-Thù đọc kệ vừa rồi, thì nàng chứng quả A-la-hán.<O:p></O:p>
Lại hồi trước có người Tiên tên là Lộc-Đề, nhơn đi đất ướt bị trợt té nổi giận, mới dùng chú-thuật làm cho trời hạn mấy năm, quốc-dân không xiết nỗi khổ ; khi ấy vua mộ được một người gái đẹp, khiến đến tại chỗ Tiên-Lộc-Đề dụ bắt, sau khi dụ được, nàng cỡi trên cổ Tiên mà dẫn về kinh, nạp cho vua. – Nàng ấy là bà Da-Du, trên hội Pháp-Hoa bà được thọ ký sẽ làm Phật, hiệu là : Cụ-Túc Thiên-Vạn-Quang-Tướng Như-Lai.<O:p></O:p>
Thế là hai nàng ấy, trước kia một người thì dụ ngài A-Nan, một người thì dụ ông Tiên-Lộc-Đề, ấy là “dâm tánh” ; sau lại một người thì chứng quả A-la-hán và một người thì đương thọ ký làm Phật ấy là “tịnh tánh thân”, “ấy là giây phút thấy tánh tức là chơn” vậy.
<O:p></O:p>
(23) Đời nay bằng gặp môn Đốn-giáo, chợt tỏ tánh mình thấy Thế-Tôn : “Thế-Tôn”, là thông hiệu của Phật ; là nói : Nếu gặp được Đốn giáo là pháp “Đốn truyền trực chỉ” của ngài đã dạy cho đó mà mỗi người đều tự tỏ ngộ lấy tánh mình tức là thấy Phật ; vì Phật với mình không phải khác tánh.
<O:p></O:p>
(24) Nếu muốn tu hành cầu làm Phật, chỗ nào mà nghĩ để tìm chơn : là nói : Nếu muốn ngoài tâm cầu Phật, ngoài tánh cầu chơn, thì không bao giờ được.
<O:p></O:p>
(25) Bằng trong tâm mình thấy chơn được, là nhơn thành Phật chẳng còn nghi : là nói : Nếu mình tự thấy được chơn tâm của mình, thì chơn tâm ấy tức là cái nhơn thành Phật quyết định vậy.
<O:p></O:p>
(26) Không thấy tánh mình tìm Phật khác, khởi tâm như vậy thiệt ngu si : là nói : Những người mê quên ông Phật tự tánh của mình mà đi tìm ông Phật tướng hảo ở ngoài, thì người ấy là người “mê tâm chấp Phật, xả tự xu tha”, nên gọi là ngu-si.<O:p></O:p>
Trong kinh Kim-Cang, Phật nói : “Nếu người thấy ta ở nơi sắc-tướng, tìm ta ở nơi âm thinh, là người làm theo tà-đạo, không thể thấy được pháp thân Như-Lai.”

<O:p>(27) Từ câu : “Pháp-môn Đốn-giáo nay truyền lại”… đến câu : “Chẳng theo thấy ấy lắm mù mù” là nói : Pháp-môn Đốn-giáo của ngài để lại đó, là một pháp “thấy tánh thành Phật” rất mau chóng ; mà nếu người học đạo đời sau không thừa nhận theo cái thấy ấy, thì không đời nào tỏ ngộ cho được.

</O:p>
(28) tâm Trơ trơ chẳng làm lành, xăn xăn chẳng tạo ác, bặt bặt dứt thấy nghe, lộng lộng không mắc : Kệ nầy là Tổ hiển rõ cái chơn-tướng Niết-bàn và cũng biểu hiện cái diện mục bản-lai. – Lại cũng khai thị cho môn đồ biết rằng : Hết thảy các pháp, trước đã do nơi gốc vô-trụ mà lập ra, thì sau cũng rút về nơi gốc vô-trụ.<O:p></O:p>
Ý kệ nói : Nguyên lai, chẳng những không tạo cái ác Quỷ-Súc mà cũng không làm cái lành Nhơn-Thiên, lại chẳng những không tạo cái ác Nhị-thừa mà cũng không làm cái lành Bồ-tát ; cho đến chẳng những dứt bặt cái thấy cái nghe Thế gian mà cũng không dứt bặt cái thấy cái nghe Phật-pháp, tâm như hư-không, chẳng còn dính-mắc một pháp gì ở trong phàm-tình thánh-cánh tất-cả.








<O:p></O:p>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên