<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>10. PHẨM PHÓ CHÚC</B>
(Lời dặn về Trao Pháp và cách truyền bá, duy trì Phật Đạo)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một ngày kia, Đại Sư gọi các môn nhơn: Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như mà nói rằng: "Chúng ngươi chẳng phải giống như các người khác. Sau khi ta diệt độ rồi, các ngươi mỗi người sẽ ra làm thầy một phương. Nay ta dạy các ngươi khi ra thuyết pháp, chẳng nên làm sai lạc bổn tông<SUP><B>(1)</B></SUP>. Trước hết phải cử ra ba khoa Pháp môn và ba mươi sáu pháp đối về sự động dụng. Khi ra, lúc ẩn, phải lìa cả đôi bên, nói cả thảy các pháp mà chớ lìa Bổn tánh của mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thoạt có người hỏi các ông về Phật Pháp, thì các lời nói ra phải đi cặp nhau, đều phải dùng pháp đối, qua lại đối nhau, rốt cùng cả hai pháp đều bỏ hết, lại cũng không chấp chỗ bỏ ấy nữa.
<p style="padding-left: 56px;">Ba khoa pháp môn ấy là: Ấm, Giới, Nhập.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ấm là năm Ấm <I>(vật che lấp bổn tánh)</I>: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành<I>(hành động của tâm trí)</I>, Thức <I>(phân biệt của ý)</I>.
<p style="padding-left: 56px;">Giới là mười tám giới hạn:
- Sáu trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp)
- Sáu căn (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý).
- Sáu thức: <I>(Sự biết)</I> Nhãn thức <I>(sự biết của Mắt)</I>, Nhĩ thức <I>(sự biết của Tai)</I>, Tỷ thức <I>(sự biết của Mũi)</I>, Thiệt thức <I>(sự biết của Lưỡi)</I>, Thân thức <I>(sự biết của Thân)</I>, Ý thức <I>(sự biết của Ý)</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhập là mười hai chỗ ra vào: Ngoài có sáu trần, trong có sáu cửa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cái Tánh của mình có thể bao gồm muôn pháp, nên gọi là Hàm Tàng Thức. Nếu tánh khởi lo nghĩ, tức là tánh chuyển ra thức. Thức này lại sanh ra sáu Thức, sáu Thức chun ra Sáu Cửa, rồi thấy Sáu Trần. Thế thì, mười tám giới đều do tánh mình khởi dụng. Nếu tánh mình tà, thì khởi ra mười tám điều tà. Còn nếu tánh mình chánh, thì khởi ra mười tám điều chánh. Tánh mình ứng dụng theo điều dữ, tức là chỗ ứng dụng của chúng sanh. Còn tánh mình ứng dụng theo điều lành, tức là chỗ ứng dụng của Phật. Vậy chỗ khởi dụng do đâu mà có? Do nơi tánh mình vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những pháp đối là:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm pháp đối của loài vô tình ở cảnh ngoài:
- Trời đối với Đất
- Mặt Trời đối với Mặt Trăng
- Sáng đối với Tối
- Âm đối với Dương
- Nước đối với Lửa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ấy là năm pháp đối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mười hai pháp đối của lời nói thuộc về pháp tướng:
- Tiếng Nói đối với Pháp.
- Có đối với Không.
- Sắc Chất đối với Không Sắc Chất.
- Tướng đối với Không Tướng.
- Hữu Lậu <I>(phiền não)</I> đối với Vô Lậu <I>(không phiền não)</I>.
- Sắc đối với Không.
- Động đối với Tịnh.
- Trong đối với Đục.
- Phàm đối với Thánh.
- Tăng đối với Tục.
- Già đối với Trẻ
- Lớn đối với Nhỏ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ấy là mười hai pháp đối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mười chín pháp đối của tánh mình trong chỗ khởi dụng:
- Hay đối với Dở
- Tà đối với Chánh
- Si đối với Huệ
- Ngu đối với Trí
- Loạn đối với Định
- Từ <I>(lành)</I> đối với Độc <I>(dữ)</I>
- Giới <I>(răn)</I> đối với Phi <I>(lỗi)</I>
- Ngay đối với Vạy
- Thật đối với Dối
- Hiểm <I>( hiểm ác)</I> đối với Bình <I>(bình đẳng)</I>
- Phiền não đối với Bồ Đề
- Thường đối với Không Thường
- Thương đối với Hại
- Mừng đối với Giận
- Bố Thí đối với Bỏn Sẻn
- Tới đối với Lui
- Sanh đối với Diệt
- Pháp Thân đối với Sắc Thân
- Hóa Thân đối với Báo Thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ấy là mười chín pháp đối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư lại nói rằng: "Ba mươi sáu pháp đối ấy, nếu hiểu mà dùng cho đứng đắn, thì nói cả thảy kinh pháp ra vào đều lìa cả hai bên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi các tánh mình động dụng, nói chuyện với người, thì ngoài đối với tướng mà phải lìa tướng, trong đối với không mà phải lìa không. Nếu tánh mình toàn trước <I>(dính)</I> tướng tức là làm lớn thêm cái tà kiến. Bằng tánh mình toàn chấp không, tức là làm lớn thêm sự vô minh. Người chấp "không" thường có ý chê kinh, nói rằng chẳng dùng văn tự. Đã rằng chẳng dùng văn tự, lẽ thì họ chẳng nói ra lời mới phải, vì lời nói ra tức là cái tướng của văn tự. Lại nói Chánh Đạo chẳng lập văn tự, mà hai chữ "chẳng lập" đó cũng là văn tự! Hễ thấy người ta nói thì chê lời nói của người là chấp truớc văn tự.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng ngươi phải biết: Tự mình mê còn dung được, sao dám chê bai kinh Phật? Chẳng nên chê kinh mà phải bị tội chướng vô cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước tướng bên ngoài mà lập ra phép tắc để cầu chơn đạo, hoặc mở rộng Đạo tràng, hoặc nói ra những điều lầm lỗi về chỗ "có" chỗ "không", người như thế ấy, dầu tu mấy muôn kiếp, cũng không thể thấy tánh được. Phải nghe và y theo chánh pháp mà tu hành, lại cũng chẳng nên chẳng nghĩ đến mọi việc, mà làm cho bít ngăn cái đạo tánh. Nếu nghe pháp mà chẳng tu, ắt khiến người trở lại sanh tà niệm. Phải y theo pháp mà tu hành. Còn thí pháp thì đừng trụ vào tướng. Nếu các ông đều rõ, thì y theo đây mà ứng dụng, y theo đây mà hành động, y theo đây mà làm các việc, thì chẳng lạc bổn tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu có người hỏi các ông về đạo nghĩa: Hỏi có thì đối không, hỏi không thì đối có, hỏi phàm thì đối thánh, hỏi thánh thì đối phàm, hai đường đối nhau thì sanh ra nghĩa trung đạo. Một câu hỏi, một câu đáp. Giai dư câu hỏi khác, cứ y theo đây mà thi hành, thì chẳng sai lý vậy. Giả như có người hỏi sao gọi là tối? Đáp: Sáng là cái nhơn, tối là cái duyên, sáng dứt thì tối. Lấy cái sáng mà chỉ rõ cái tối; lấy cái tối mà chỉ rõ cái sáng, qua lại đối nhau thì thành cái nghĩa trung đạo. Mấy điều hỏi khác, tất cả đều y theo cách chỉ đó mà trả lời. Ngày sau các ông có di truyền pháp, cứ y theo pháp ấy mà truyền dạy nhau, chớ làm sai tông chỉ".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thái Cực ngươn niên <I>(Niên hiệu vua Đường Duệ Tông)</I> cải lại là Diên Hòa, nhằm năm Nhâm Tý, tháng bảy, Đại Sư sai kẻ môn nhân qua Tân Châu, nơi chùa Quốc Ân Tự, mà xây một cái tháp và bảo thúc các người làm công phải xây cho rồi sớm. Cuối mùa hạ năm kế, làm lễ lạc thành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày mồng một tháng bảy, Sư nhóm các đồ chúng mà nói rằng: "Đến tháng tám, ta muốn lìa bỏ thế gian; các ngươi có điều nào nghi, phải hiệp nhau hỏi cho sớm, ta sẽ phá nghi cho các ông hết mê muội. Sau ta tịch rồi, không có người chỉ dạy các ngươi".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các môn đệ như ngài Pháp Hải nghe rồi, cả thảy đều khóc mùi. Duy có Thần Hội, thần tình tự nhiên lại cũng không khóc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư rằng: "Thần Hội Tiểu Sư đã chứng được bậc Thiện và chẳng Thiện đồng như nhau, chê khen không động, buồn vui chẳng sanh, còn giai dư các đồ đệ khác không đặng như vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ở trong núi mấy năm, các ông hành đạo gì? Nay các ngươi buồn khóc là vì lo cho ai? Nếu là lo cho ta không biết chỗ đi, thì ta đã tự biết chỗ đi. Nếu ta không biết chỗ đi, thì ta chẳng báo tin cho chúng ngươi hay trước. Các ngươi buồn khóc là vì chẳng biết chỗ ta đi. Nếu biết chỗ ta đi, thì chẳng nên buồn khóc. Cái Pháp Tánh vốn không sanh diệt, đi lại. Các ngươi hết thảy ngồi xuống, ta nói cho các ngươi một bài kệ gọi là Chơn Giả Động Tịnh Kệ. Các ngươi hãy tụng bài kệ này, thì được đồng một tâm ý với ta. Y theo bài kệ ấy mà tu hành thì chẳng sai tông chỉ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng tăng làm lễ, xin Sư làm kệ:
<p style="padding-left: 56px;">Chơn Giả Động Tịnh Kệ:
<BR>Thế gian muôn vật thảy không chơn
Chẳng khá lầm xem nhận thật chơn
Nếu thấy nhìn đều là chắc thật
Chỗ xem thấy ấy quả không chơn.
Tự tâm tỏ thấu nguồn chơn chánh
Lìa giả thì tâm vẫn chánh chơn
Tự tánh chẳng lìa điều huyễn giả
Tâm mình chẳng chánh, chỗ nào chơn?
Có tình hiểu biết đương nhiên động
Không động là loài chẳng có tình
Học đạo nếu tu hạnh chẳng động
Giống loài chẳng động tức không tình <I>(như cây đá)</I>.
Muốn tìm cảnh thiệt tâm không động
Trong lúc động mà tánh chẳng lay
Chẳng động thiệt ròng tâm chẳng động
Không tình đâu có giống Như Lai.
Biệt phân các tướng đều thông suốt
Ấy nghĩa tột cao chẳng động tu
Hiểu thấy lý mầu như thế ấy
Tức là diệu dụng của chơn như.
Hỡi người học đạo tìm chơn lý
Hành động gắng dùng ý biệt phân
Vào cửa Đại thừa đừng cố chấp
Mà theo sanh tử trí phàm trần.
Nói rồi nếu hiểu đồng tương ứng
Hội luận cùng nhau Phật nghĩa chơn
Bằng thiệt chẳng đồng tâm hiệp ý
Kính nhau vui vẻ chớ sanh hờn.
Tông này vốn thiệt không tranh luận
Tranh luận làm sai ý đạo thâm
Cửa pháp cố tranh điều trái lẽ
Tự tâm ắt đọa chốn luân trần <I>(sanh tử)</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi nghe kệ rồi, các đồ chúng đều làm lễ. Cả thảy đều thể theo bổn ý của Đại Sư, mỗi người kềm tâm, y pháp tu hành, lại chẳng dám tranh luận nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Biết rằng Đại Sư chẳng còn ở lâu tại thế, thầy Thượng Tọa Pháp Hải lại làm lễ mà hỏi rằng: "Sau khi Hòa Thượng nhập diệt rồi, y pháp phải truyền cho ai?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Các lời ta thuyết pháp từ lúc ở chùa Đại Phạm đến ngày nay đều phải biên chép lại mà lưu hành, và phải nhan đề là Pháp Bửu Đàn Kinh. Các ông hãy giữ gìn, thay thế nhau mà truyền thọ để độ chúng sanh. Hãy y theo lời kinh này mà nói, ấy gọi là Chánh Pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay ta nói pháp cho các ông mà chẳng giao cái áo Cà sa là bởi cái tín căn của các ông đã thuần thục, chắc chắn không nghi, có thể nhậm kham việc lớn. Lại cư như ý bài kệ của tiên Tổ Đạt Ma Đại Sư để lại, thì cái áo cà sa chẳng nên truyền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kệ rằng: (Đạt Mạ Tổ Sư Kệ)
<p style="padding-left: 56px;">Vốn Ta đến cõi này
Truyền pháp cứu mê tình
Một bông, nở năm cánh
Trái kết tự nhiên thành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư lại nói rằng: "Chư Thiện Tri Thức, các ông mỗi người phải tịnh tâm mà nghe ta nói pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Muốn thành tựu cả thảy giống trí Phật, thì phải đạt đến cảnh: Một Tướng Chánh Định <I>(nhứt tướng tam muội)</I>, Một Hạnh Chánh Định <I>(nhứt hạnh tam muội)</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đối với cả thảy các nơi mà tâm chẳng trụ vào các tướng. Trong các tướng ấy chẳng sanh lòng ghét yêu, cũng không chấp bỏ, chẳng tưởng đến việc lợi hại nên hư, một mực an nhàn điềm tịnh<SUP><B>(2)</B></SUP> <I>(rảnh rang, lặng lẽ)</I>, hư dung đạm bạc<SUP><B>(3)</B></SUP>, ấy là pháp Một Tướng Chánh Định.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đối với cả thảy các nơi, đi đứng ngồi nằm, phải ròng giữ một lòng ngay thật, chẳng động đạo tràng <I>(đạo tâm)</I>, phải thiệt lòng tịnh độ <I>(trong sạch)</I>. Ấy gọi là pháp Một Hạnh Chánh Định .
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu người nào có đủ hai pháp Chánh Định <I>(tam mội)</I> ấy, thì cũng như đất có hột giống, ngậm chứa châm nuôi cho hột giống ấy lớn lơn tới kỳ trái chín. Một Tướng Chánh Định, Một Hạnh Chánh Định cũng giống như thế.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay ta nói pháp cũng như trời mưa thấm ướt khắp cả mặt đất. Phật tánh của các ông tỉ như các hột giống gặp đám mưa pháp này, thì cả thảy đều thấm ướt và phát sanh. Người nào vâng theo tông chỉ của ta, chắc đặng đạo Bồ Đề; Y theo chỗ làm của ta, ắt chứng diệu quả. Hãy nghe ta kệ:
<p style="padding-left: 56px;">Tâm Địa gồm bao các giống lành
Mưa chan khắp thấm mộng đều sanh.
Hoa tình Bổn Tánh mình liền hiểu
Trái quý Bồ Đề tự kết thành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói kệ rồi tiếp rằng: "Pháp vốn không hai, tâm mình cũng vậy. Đạo là trong lặng, không có các tướng. Các ngươi hãy cẩn thận, chớ đắm vào cảnh không và xem cảnh tịnh<SUP><B>(4)</B></SUP>. Tâm vốn trong sạch, chẳng có gì mà chấp hay bỏ được. Mỗi người tự gắng sức và tùy duyên mà ứng động. Thôi hãy lui ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi ấy đồ chúng làm lễ mà lui ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày mồng tám, tháng bảy, thình lình Đại Sư gọi các môn nhơn mà dạy rằng: "Ta muốn về Tân Châu, các ông mau sửa soạn chiếc ghe".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại chúng buồn thảm và gắng sức cầm ngài ở lại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Chư Phật ra đời, rồi cũng vào Niết Bàn. Có lại ắt có đi, lẽ ấy cũng là thường vậy. Cái hình hài của ta đây đi về chỗ đã định".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng nhơn bạch rằng: "Từ đây Sư đi, sớm muộn xin Sư cũng trở về".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Lá rụng thì về cội. Trở về thì không ngày".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng nhơn lại hỏi: "Cái Chánh Pháp Nhãn Tàng sẽ truyền trao lại cho người nào?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Hữu Đạo thì đặng, Vô Tâm thì không".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng lại hỏi: "Ngày sau có tai có nạn chi chăng?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Sau khi ta tịch diệt, năm sáu năm, sẽ có một người đến lấy đầu ta. Hãy nghe lời ta thọ ký:
<p style="padding-left: 56px;">Dốc lòng thờ kính giống cha sanh
Vì đói phải toan kế lợi nhanh
Gặp Mãn, gian nhơn lâm khổ nạn
Hai quan Dương, Liễu xử phân rành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư lại nói: "Ta tịch rồi, bảy mươi năm, sẽ có hai vị Bồ Tát từ Đông Phương đến, một vị xuất gia, một vị tại gia, đồng thời hưng hóa, kiến lập tông phái của ta và tạo tu Phật tự. Chính là hai vị Pháp Tự<SUP><B>(5)</B></SUP> xương minh chánh giáo vậy".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng nhơn lại hỏi rằng: "Chẳng biết từ trên Phật Tổ ứng hiện tới nay, đã truyền thọ được mấy đời? Xin Tổ Sư chỉ dạy".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Cổ Phật đã ra đời được vô số, không thể kể hết được. Nay kể bảy vị Phật làm đầu mà thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời quá khứ Trang Nghiêm Kiếp có:
- Tì Bà Thi Phật.
- Thi Khí Phật.
- Tì Xá Phù Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời Kim Hiền Kiếp có:
- Câu Lưu Tôn Phật.
- Câu Na Hàm Mâu Ni Phật.
- Ca Diếp Phật.
- Thích Ca Mâu Ni Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ấy là bảy vị Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước hết, Thích Ca Mâu Ni Phật truyền cho Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả, Tổ thứ nhất:
- Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả
- A-Nan-Đà Tôn Giả
- Thương Na Hòa Tu Tôn Giả
- Ưu-Bà-Cúc-Đa Tôn Giả
- Đề Đa Ca Tôn Giả
- Di Già Ca Tôn Giả
- Bà Tu Mật Đa Tôn Giả
- Phật Đà Nan Đề Tôn Giả
- Phục Đà Mật Đa Tôn Giả
- Hiếp Tôn Giả
- Phú Na Dạ Xa Tôn Giả
- Mã Minh Đại Sĩ
- Ca Tì Ma La Tôn Giả
- Long Thọ Đại SĨ
- Ca Na Đề Bà Tôn Giả
- La Hầu La Đa Tôn Giả
- Tăng Già Nan Đề Tôn Giả
- Già Da Xá Đa Tôn Giả
- Cưu Ma La Đa Tôn Giả
- Đồ Dạ Đa Tôn Giả
- Bà Tu Bán Đầu Tôn Giả
- Ma Nã La Tôn Giả
- Hạt Lặc Na Tôn Giả
- Sư Tử Tôn Giả
- Bà Xá Tư Đa Tôn Giả
- Bất Như Mật Đa Tôn Giả
- Bát Nhã Đa La Tôn Giả
- Bồ Đề Đạt Ma Tôn Giả
- Huệ Khả Đại Sư
- Tăng Xán Đại Sư
- Đạo Tín Đại Sư
- Hoằng Nhẫn Đại Sư
- Huệ Năng Đại Sư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Huệ Năng này là Tổ thứ 33. Từ trên, các vị Tổ mỗi vị đều có vâng mạng truyền kế nhau. Ngày sau, các ông phải thay thế nhau mà lưu truyền, đừng làm trái nghịch và sai lầm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niên Hiệu Tiên Thiên <I>(Vua Đường Huyền Tông)</I> thứ hai, nhằm năm Quý Sữu, tháng tám, ngày mồng ba, tại chùa Quốc Ân, sau khi thọ trai rồi, Đại Sư bèn kêu đồ chúng mà bảo rằng: "Chúng ngươi hãy theo ngôi thứ mà ngồi, ta sắp từ biệt chúng ngươi".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Hải bạch rằng: "Hòa Thượng để lại giáo pháp gì, khiến cho những người mê muội đời sau đặng thấy Phật tánh?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nói: "Chúng ngươi hãy chú tâm nghe cho rõ. Những người mê muội đời sau nếu biết cái tâm chúng sanh <I>(phàm tâm)</I>, tức là biết Phật tánh. Bằng chẳng biết cái tâm chúng sanh, thì muôn kiếp tìm Phật ắt khó gặp. Nay ta dạy các ông phải biết chúng sanh ở tâm mình. Muốn cầu thấy Phật thì phải biết cái tâm chúng sanh. Chỉ vì cái tâm chúng sanh làm mê muội tánh Phật, chớ chẳng phải tánh Phật làm mê muội tâm chúng sanh. Nếu mình giác ngộ, thì chúng sanh tức là Phật. Bằng tánh mình mê muội, thì Phật là chúng sanh. Tánh mình bình đẳng thì chúng sanh tức là Phật. Tánh mình tà hiểm, thì Phật là chúng sanh. Nếu tâm của chúng ngươi hiểm khúc <I>(hiểm ác tà vạy)</I>, thì tức là Phật ở trong chúng sanh. Một niệm bình đẳng, ngay thật, tức là chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, Phật ở tâm mình, mới thiệt là chơn Phật. Nếu mình không có tâm Phật, thì tìm chơn Phật ở nơi nào? Cái tự tâm của các ông là Phật, chớ khá hồ nghi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiệt sự thì ngoài cái tâm, không có một vật gì tạo ra được, vậy mà chính cái Bổn tâm sanh ra muôn giống pháp vậy. Cho nên Kinh nói: "Tâm sanh thì muôn giống pháp đều sanh. Tâm diệt thì muôn giống pháp đều diệt<SUP><B>(6)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay ta để lại một bài kệ đặng từ biệt các ông. Bài kệ này gọi là: Tự Tánh Chơn Phật Kệ. Bài kệ nói về chơn Phật ở nơi tánh mình. Người đời sau biết được cái ý chỉ của bài kệ này, thì tự mình thấy Bổn Tâm, tự mình thành Phật đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tự Tánh Chơn Phật Kệ (Bản dịch của Hòa Thượng Thích Từ Quang)
<p style="padding-left: 56px;">Tự Tánh Chơn Như là Chơn Phật
Tà Kiến Tam Độc thật Ma Vương
Lúc tà mê thì ma choán chỗ
Khi chánh kiến thì Phật tại tâm
Trong tánh thấy tà, ba độc sanh
Tức là ma vương đến trụ xá
Chánh kiến trừ tuyệt ba lòng độc
Ma chuyển làm Phật, thiệt không giả
Pháp thân, Báo Thân, với Hóa Thân
Tuy ba thân vớn thiệt một thân
Nếu tự tánh mình năng tự thấy
Tức là thành Phật Bồ Đề nhân
Bởi có Hóa Thân nương tánh tịnh
Tánh tịnh hằng ở trong Hóa Thân
Tánh khiến Hóa Thân hành đạo chánh
Về sau viên mãn chân vô tận
Tánh dâm vốn là nhân tánh tịnh
Đoạn dâm thì thành Tịnh Tánh Thân
Trong tánh ly khai cả năm dục
Giây phút thấy tánh tức là chơn
Đời nay ngộ được môn Đốn Giáo
Tỏ ngay tự tánh, thấy Thế Tôn
Nếu muốn tu hành cầu làm Phật
Biết đâu là chỗ để tầm chơn
Như trong tâm tự thấy chơn được
Chơn ấy tức là nhân thành Phật
Không thấy tự tánh, cầu Phật khác
Khởi lòng như vậy, là người mê lớn
Pháp môn Đốn Giáo nay truyền lại
Cứu độ người thế, phải tự tu
Khuyên người học đạo ở hậu thế
Không theo chánh kiến, luống chơi vơi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại Sư nói kệ rồi, bảo rằng: "Chúng ngươi hãy ở lại, sau khi ta diệt độ, chẳng nên theo thế tình mà buồn khóc ủ ê, hoặc thọ sự điếu vấn của người, hoặc mình mặc hiếu phục. Nếu trái lời ta mà làm như thế, thì chúng ngươi chẳng phải là đệ tử của ta, vì đó chẳng phải là chánh pháp. Người biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh mình thì tánh không động không tịnh, không sanh không diệt, không đi không lại, không phải không quấy, không ở chỗ nào, cũng không dời đổi. Ta sợ e chúng ngươi còn mê muội, không hiểu ý ta, nên nay ta dặn lại chúng ngươi, đặng cho chúng ngươi thấy tánh. Sau khi ta diệt độ, phải y theo pháp ấy mà tu hành, như lúc ta còn ở tại thế. Nếu làm trái lời ta dạy, dầu ta ở tại thế cũng không ích gì".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư lại nói kệ rằng:
<p style="padding-left: 56px;">An nhiên thiện sự vẫn không tu
Siêu thoát ác duyên hẳn bỏ từ
Lẵng lặng dứt trừ nghe thấy hết
Phẳng bằng tâm địa tự như như.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tổ thuyết xong, ngồi kiết già đến canh ba, thoạt nhiên bảo môn nhơn: "Ta đi". Nói rồi, ngồi im lặng tịch diệt. Khi ấy, mùi thơm lạ bay phưởng phất khắp chùa, móng bạc chiếu đất, rừng cây biến màu trắng, cầm thú kêu giọng bi ai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Qua tháng mười một năm ấy, các quan liêu ở trong ba quận Quảng Châu, Thiều Châu, Tân Châu, cùng các môn nhơn, chư Tăng, và cư sĩ, giành nhau rước chơn thân của Tổ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong lúc phân vân, chưa quyết định đưa linh cửu về đâu, đại chúng đồng ý niệm hương khấn vái: "Hễ khói nhang bay về xứ nào, thì sư sẽ về xứ ấy<SUP><B>(7)</B></SUP>". Lúc ấy, khói nhang bay thẳng về Tào Khê.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày mười ba, tháng mười một, trong năm ấy, dời Thần Khám <I>(Cái tháp bằng cây để ngồi thiền định)</I> của Đại Sư và đồ y bát của Tổ về xứ Tào Khê.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Qua năm kế, ngày hai mươi lăm, tháng bảy, mở Thần Khám ra, Phương Biện dâng cúng keo thơm, các môn nhơn vì lời sấm "Thủ thủ", lấy một miếng thiếc bao vải dầu quấn vào cổ hầu tránh nạn trộm thủ cấp, rồi đưa chơn thân vào tháp, bổng nhiên thấy trong tháp có một lằn hào quang trắng xuất hiện, chiếu thẳng lên trời, trọn ba ngày mới tan.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quan Thứ Sử Thiều Châu làm biểu tâu vua và khi được sắc lệnh của vua, vâng làm một tấm bia ghi đạo hạnh của Tổ như vầy: "Tổ Sư niên kỷ bảy mươi sáu tuổi, hồi hai mươi bốn tuổi được truyền y, ba mươi chín tuổi xuống tóc, thuyết pháp độ sanh ba mươi bảy năm, các vị đặng tông chỉ, vâng thọ giáo pháp, tiếp tục lưu truyền, được bốn mươi ba người, còn những người tỏ chánh đạo, thoát tục siêu phàm, không biết bao nhiêu mà kể".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tín y <I>(áo cà sa)</I>của Sơ Tổ Đạt Ma truyền lại làm bằng bố Khuất Uyến ở xứ Tây Thiên, y Ma nạp và bửu bát của vua Trung Tôn ân tứ, chơn tượng của Tổ do Phương Biện đắp, với những đạo cụ đều giao cho người chủ trì bửu tháp gìn giữ, để an trấn vĩnh viễn tại đạo tràng Bửu Lâm. Quyển Pháp Bảo Đàn Kinh được lưu truyền phổ biến để làm sáng tỏ Tông chỉ của Tổ, giúp ngôi Tam Bảo được thịnh vượng và tất cả chúng sanh đồng lợi lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sau khi chơn thân của Tổ an vị tại Bửu Tháp, vào niên hiệu Khai Nguyên thứ mười, năm Nhâm Tuất, ngày mùng ba tháng tám, giữa đêm, bổng nhiên nghe trong tháp có tiếng kéo dây sắt. Chư Tăng hoảng hốt thức dậy, thì thấy có một người mặc áo tang bịt khăn chế từ trong chạy ra. Chư Tăng xem xét lại thì thấy có dấu cắt ở cổ của Tổ, mới biết người mặc tang phục vừa chạy thoát là kẻ trộm. Chư Tăng làm điệp thuật rõ tự sự trình Huyện và Châu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quan Huyện Linh là Dương Khảng và Quan Thứ Sử Thiều Châu là Liễu Vô Thiểm tiếp nhận điệp của chư Tăng, tức tốc đến Bửu Tháp điều tra và tập nã thủ phạm. Qua ngày mùng năm, quan Huyện bắt được kẻ trộm ở làng Thạch Giác, dẫn về Thiều Châu. Kẻ trộm khai rằng: "Nguyên tánh danh là Trương Tịnh Mãn, ở Lương Huyện, Nhữ Châu, thọ lãnh một số tiền mướn hai mươi ngàn quan của Tăng nhân Kim Đại Bi, quê quán ở Tân La, trụ trì chùa Khai Nguyên, Hồng Châu, bảo lén lấy đầu của ức Lục Tổ đem về Hải Đông để cúng dường".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Liễu Thái Thú nghe qua mấy lời cung trạng như vậy, chưa vội định tội, bèn đến Tào Khê, hỏi vị Thượng túc, đệ tử của Tổ là Linh Thao Đại Sư: "Bạch Thầy, Thầy muốn buộc tội cách nào?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại Sư Linh Thao đáp: "Nếu lấy phép nước mà xử, thì tội tên Mãn đáng tru di. Tuy nhiên, lấy lượng Đại Từ Đại Bi của Đạo Phật thì kẻ thù người thân vốn bình đẳng, vả chăng, việc trộm thủ cấp này nhằm mục đích cúng dàng cầu phước; âu cũng là việc lầm lạc đáng tha thứ".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Liễu Thái Thú nghe qua lời nói khoan dung nhân hậu của Đại Sư Linh Thao, khen ngợi: "Thế mới biết cửa Phật từ bi rộng lớn bao la vô tận!" Vì vậy, Liễu Thái Thú tha bổng tên Mãn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niên hiệu Thượng Nguyên thứ nhất, vua Túc Tông sai sứ quân đến Bổn tự, xin thỉnh y bát của Tổ đem vào hoàng cung để cúng dường trong một thời gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến niên hiệu Vĩnh Thái thứ nhất, ngày mùng năm tháng năm, vua Đại Tông chiêm bao thấy Đức Lục Tổ đến đòi y bát. Ngày mùng bảy, vua ban sắc lịnh cho quan Thứ Sử là Dương Giám rằng: "Trẫm chiêm bao thấy Đức Huệ Năng Thiền Sư bảo đem y bát của Tổ trở về Tào Khê, nay Trẩm đề cử quan Trấn Quốc Đại Tướng Quân là Lưu Sùng Cảnh cung kính đưa y bát về. Trẫm tôn trọng quốc bảo <I>(vật báu trong nước)</I>. Vậy khanh <I>(Dương Giám)</I> hãy đến Bổn tự đúng theo phép tắc mà an vị, rồi yêu cầu chư tăng nào vâng thọ tông chỉ của Tổ, phải cẩn thận gìn giữ, chớ để lạc mất".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về sau, y bát của Tổ thường bị trộm đem đi xa, nhưng tầm lại được, đã bốn lần như thế.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hoàng Đế Hiến Tông kính tặng Tổ đức hiệu: "Đại Giám Thiền Sư" và Bửu tháp hiệu: "Nguyên Hòa Linh Chiếu".
<p style="padding-left: 56px;">Ngoài sự tích kể trên, còn có nhiều sự tích khác của Đức Lục Tổ Huệ Năng được khắc vào các tấm bia của Thượng Thơ Vương Duy, Thứ Sử Liễu Tông Nguyên và Thứ Sử Lưu Võ Tích ở đời Đường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sa Môn Linh Thao, lãnh sứ mạng thủ hộ Bửu tháp của Tổ, có công chép lại các sự tích.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Bổn tông: <I>Thiền tông.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) An nhàn điềm tịnh: <I>Rảnh rang lặng lẽ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Hư dung đạm bạc: <I>Lòng trống không, thong thả, hết tham dục.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Chớ đắm vào cảnh không và xem cảnh tịnh: <I>Trần không quán tịnh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Pháp Tự: <I>Người nối chánh pháp.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Tâm diệt thì muôn giống pháp đều diệt: <I>Tâm sanh, chủng chủng pháp sanh, tâm diệt, chủng chủng pháp diệt.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Hễ khói nhang bay về xứ nào, thì sư sẽ về xứ ấy: <I>Hương yên chi xứ, Sư sở qui diện.</I>
<p style="padding-left: 56px;"><I>(Cư sĩ Thiện Quang phụ chú – Tháng 12 ngày 18 năm 2002 Tây lịch)</I>
</span></span>