Mời các bạn

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào các Bạn,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->d/đ mời các Bạn đọc và liên kết ba lời nói này của đức Phật Thích Ca trong kinh Đại Bát Niết Bàn :

Phẩm Tứ Tướng - đức Phật nói : “Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, các bực tứ quả Thánh nhơn đều lần lượt nhập Niết Bàn”.
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-63_5-50_6-2_17-204_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Nghĩa là kể từ khi đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì chúng ta không có ai chỉ dạy cách tu để đạt quả tứ Thánh. Nhưng nếu không đạt được quả tứ Thánh thì không thể được định huệ xuất thế.

Phẩm Di Giáo - đức Phật nói : “Nầy A Nan ! Ông hỏi sau khi Phật diệt độ lấy gì làm Thầy ? Nên biết giới Ba La Đề Mộc XoaĐại Sư của các ông. Nương theo đó tu hành thời có thể được định huệ xuất thế”.
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-82_5-50_6-2_17-204_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Phẩm Tư Tướng - đức Phật nói : Ba la đề mộc xoa là lìa nghiệp tà bất thiện của thân, khẩu và ý”.
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-63_5-50_6-2_17-204_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Nếu căn cứ theo hai lời nói này của đức Phật thì muốn có được định huệ xuất thế - chúng ta phải lìa nghiệp tà bất thiện của thân, khẩu và ý. Vì sau khi đức Phật nhập Niết Bàn sẽ không có ai dạy chúng ta cách tu để có được định huệ xuất thế.

Nhưng nếu chỉ cần lìa nghiệp tà bất thiện của thân, khẩu và ý mà chúng ta có được định huệ xuất thế - thì chắc hẵn những điều bất thiện đức Phật nói - không đơn giản như chỗ hiểu của người đời. Và ngoài việc tìm hiểu những điều bất thiện trong các kinh Phật Thích Ca lưu lại cho chúng ta - thì chúng ta cũng không thể nghe theo chỗ hiểu của ai về những điều bất thiện của thân, khẩu và ý - mà đức Phật gọi - Ba la đề mộc xoa.

Đó là chỗ hiểu của d/đ. Còn các Bạn hiểu sao về ba lời nói này của đức Phật - xin chia sẻ để chúng ta có thể cùng nhau tìm ra “đáp số” chung.
Thân
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Hoàng Mai

Registered
Phật tử
Tham gia
22 Thg 10 2013
Bài viết
370
Điểm tương tác
188
Điểm
43
Kính cô Diệu Đức !

Xin phép cô cho con di chuyển bài này vào Thảo Luận Phật Học Tổng Quan, vì nơi đây chỉ để giới thiệu các Websites Phật Giáo.

Kính Thông Báo.
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Muốn làm Phật tử chân chánh...

Chào các Bạn,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->Nhơn bài bác Tuấn Tú viết trong chủ đề “Hỏi Thăm Sức Khỏe Những Người Chân Thành Tốt Bụng” :

Nếu là Phật Tử chân chánh, xin hãy lấy Tam Bảo làm thầy và làm chỗ nương tựa (lời của đại Sư Ấn Quang):

- Ðã quy y Phật hãy nên thờ Phật làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến hết đời, dốc lòng chân thành lễ kính, chẳng chịu lười nhác dẫu chỉ trong một hơi thở. Lại chẳng được quy y thiên ma, ngoại đạo, tà quỷ, tà thần.

- Ðã quy y Pháp, nên lấy Pháp làm thầy, từ nay cho đến hết đời, chẳng quy y kinh điển ngoại đạo nữa.

- Đã quy y Tăng nên lấy Tăng làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến hết đời, chẳng còn quy y đồ chúng ngoại đạo nữa.
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->d/đ thấy nếu chúng ta không phân biệt được sự sai khác giữa pháp của Phậtpháp của thiên ma, ngoại đạo, tà quỷ, tà thần. Hoặc là không phân biệt được sự sai khác giữa kinh điển của Phậtcủa ngoại đạo như thế nào - thì việc chúng ta mong muốn được làm một Phật tử chân chánh cũng khó đạt thành ý nguyện. Do đó, d/đ mở topic này để cùng các Bạn tìm hiểu về sự sai khác giữa Phật Pháp và pháp của thiên ma, ngoại đạo - căn cứ theo lời đức Phật Thích Ca giảng.

d/đ cũng cùng một ý với lời của đại Sư Ấn Quang : “Nếu đã quy y Phật hãy nên thờ Phật làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến hết đời, dốc lòng chân thành lễ kính, chẳng chịu lười nhác dẫu chỉ trong một hơi thở. Lại chẳng được quy y thiên ma, ngoại đạo, tà quỷ, tà thần”.

Nhưng - nếu chúng ta không giải thích vì sao đã quy y Phật thì không được quy y thiên ma, ngoại đạo, tà quỷ, tà thần - sẽ làm cho các Bạn chưa hiểu rõ về Phật Pháp - hiểu lầm - đạo Phật cũng chấp vào pháp tu của mình. Cho nên, chúng ta sẽ trình bày chỗ hiểu của mình về sự việc này để cùng nhau tham khảo. Mong được sự hưởng ứng của các Bạn


Riêng d/đ thì vì trong phẩm Trường Thọ - kinh Đại Bát Niết Bàn - đức Phật cho biết - Phạm Thiên và các vị trời vì trộm pháp của Như Lai nên không được nghe lời Như Lai giải thuyết về Phật Pháp - pháp của Như Lai. Do đó, Phạm Thiên và các vị trời đã hiểu sai về Phật Pháp. Và vì hiểu sai nên Phạm Thiên và các vị trời đã tu sai Phật Pháp. Và vì tu sai Phật Pháp nên mới có ra “ngôi nhà lửa”

Và đức Phật gọi pháp tu sai của Phạm Thiên và các vị trời là pháp thế gian. Còn tu đúng theo pháp của Như Lai thì gọi là pháp xuất thế.
Do đó, ngoại đạo của đạo Phật - cũng tu theo Phật Pháp - nhưng vì tu sai nên xa rời Phật Pháp. Vì xa rời Phật Pháp nên mới gọi là ngoại đạo.
Do đó , tu theo pháp của Phạm Thiên và các vị trời - gọi là tu theo ngoại đạo - chứ không phải vì không tin, không tu theo pháp của Phật mà bị Phật gọi ngoại đạo. d/đ nghĩ là Phật tử chân chánh chúng ta nên xác định rõ điều này.



Còn nói về Thiên ma thì vì ma vương Ba Tuần là thiên ma đứng đầu cõi Dục. Cho nên đối với chúng sanh cõi Dục (trong đó có cõi người của chúng ta) - thì ma vương Ba Tuần là thiên ma có uy quyền nhất. Trong khi thuyết của đạo Phật thì một tiểu thế giới gồm có một tầng trời Sơ thiền (Phạm Thiên là vua của tầng trời Sơ thiền) và một cõi Dục. Cho nên, ma Ba Tuần cũng tu theo pháp thế gian của Phạm Thiên.

Do đó, tu theo ngoại đạo là tu thuận theo pháp thế gian.
Tu thuận theo pháp thế gian là tu theo pháp của Phạm Thiên và thiên ma Ba Tuần.


Nhưng vì chúng ta là chúng sanh cõi người theo quy luật của pháp thế gian. Cho nên, đức Phật Thích Ca không những giảng cho chúng ta nghe biết về Phật Pháp - mà còn có giảng luôn cả pháp của ngoại đạo (pháp thế gian của Phạm Thiên). Do đó, chúng ta rất dễ bị nhầm lẫn lời giảng về pháp thế gian cũng là Phật Pháp.

Và điều d/đ muốn chia sẻ cùng các Bạn là trong kinh Phật - lời giảng về pháp thế gian là nói về pháp của ngoại đạo. Còn lời giảng về pháp xuất thế là nói về pháp của Như Lai.

Đối với lời giảng về pháp thế - chúng ta nghe để tránh (đừng bị phạm)
Đối với lời giảng về pháp xuất thế mới nói về pháp tu (để đạt quả)


Và nếu các Bạn để ý thì Thần, Tiên là các quả của pháp thế gian. Riêng về quả Thánh thì có Tứ Thánh (tu theo Thanh Văn thừa) và quả Thánh ở giữa hai quả Thần và Tiên (tu theo pháp của Phạm Thiên).

Vì vậy, Tứ Thánh (tu theo Thanh Văn thừa) là Phật Pháp. Còn Thần Thánh Tiên là tu theo ngoại đạo


Và do vì tu theo Phật là tu đúng. Còn tu theo ngoại đạo (tu theo pháp Phạm Thiên và thiên ma Ba Tuần) là tu sai. Cho nên, khi chúng ta đã quy y Phật mà còn quy y theo ngoại đạo, thiên ma Ba Tuần hay quỷ thần của ngoại đạo - thì chúng ta cũng sẽ bị tu sai Phật Pháp.

Phật Pháp không có đúng sai - chứ không phải tu theo Phật Pháp không có tu đúng, tu sai (tu sai lạc vào ngoại đạo).

Do đó, d/đ cũng cùng một ý với bác Tuấn Tú : “Nếu đã quy y Pháp, nên lấy Pháp làm thầy, từ nay cho đến hết đời, chẳng quy y kinh điển ngoại đạo nữa”. Kinh điển ngoại đạo thì dạy tu thuận theo pháp thế gian của Phạm Thiên. Vì vậy, chẳng quy y kinh điển ngoại đạo cũng tức là chẳng quy y kinh điển chưa liễu nghĩa

Và : “Nếu đã quy y Tăng nên lấy Tăng làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến hết đời, chẳng còn quy y đồ chúng ngoại đạo nữa”. Chẳng quy y đồ chúng ngoại đạo - là chẳng quy y các Tăng dạy tu thuận theo pháp thế gian của Phạm Thiên.

d/đ hiểu như vậy. Các Bạn hiểu sao xin chia sẻ để chúng ta cùng thảo luận. Rất mong…
Thân
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
trích Pháp Bảo đàn kinh giảng giải

Phẩm 6 SÁM HỐI

GIẢNG 4

VÔ TƯỚNG TAM QUI Y GIỚI

Này Thiện tri thức, nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại vì Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui y giới. Này Thiện tri thức,

Qui y Giác Lưỡng túc tôn,

Qui y Chánh Ly dục tôn,

Qui y Tịnh Chúng trung tôn.

Kế đến Tổ trao Vô tướng Tam qui y giới. Thường ở chùa chúng ta hay đọc: qui y Phật Lưỡng túc tôn, qui y Pháp Ly dục tôn, qui y Tăng Chúng trung tôn, nhưng Lục Tổ lại dạy khác: qui y Giác Lưỡng túc tôn, qui y Chánh Ly dục tôn, qui y Tịnh Chúng trung tôn. Vậy Giác là giác của Tự tâm, Chánh là chánh của Tự tâm, và Tịnh là tịnh của Tự tâm, đây là Phật Pháp Tăng của Tự tâm; còn chúng ta qui y Phật Pháp Tăng ở ngoài, cho nên khác nhau ở chỗ đó.

Từ ngày nay trở đi xưng Giác làm thầy, lại chẳng qui y tà ma ngoại đạo, dùng Tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên Thiện tri thức qui y Tự tánh Tam Bảo: Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh vậy.

Như vậy qui y Giác là qui y Phật, đó là Phật của chính mình, không phải Phật nào khác. Giác, Chánh, Tịnh là sẵn nơi Tự tâm của mình, chớ không ở đâu xa.

Tự tâm qui y Giác, tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay lìa tài sắc, gọi là Lưỡng túc tôn.

Chữ túc là chân, cũng có nghĩa là đủ. Lưỡng túc tôn là hai cái đầy đủ tức là tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc hay lìa tài và sắc, lìa tài lìa sắc đó là lưỡng túc, hai cái đủ, lìa tà mê là hai cái đủ. Hai cái đó đều lìa được gọi là Lưỡng túc tôn.

Tự tâm qui y Chánh, niệm niệm không tà kiến, vì không tà kiến tức là không nhân ngã cống cao, tham ái, chấp trước gọi là Ly dục tôn.

Chánh tức là chánh kiến; bởi chánh kiến nên không có tà kiến; bởi không tà kiến nên mình không có chấp nhân, chấp ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, lìa những tham dục, đó gọi là Ly dục tôn.

Tự tâm qui y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, Tự tánh đều không nhiễm trước gọi là Chúng trung tôn.

Qui y Tịnh tức là trở về tâm thanh tịnh của mình, thì tất cả các trần lao, ái nhiễm v.v... ngay Tự tánh mình đều không nhiễm trước, gọi đó là Chúng trung tôn. Như vậy Tổ đều qui hướng Phật, Pháp, Tăng trở về Tự tâm mình.

Nếu tu hạnh này, ấy là tự qui y. Phàm phu không hiểu, từ sáng đến tối, thọ Tam qui giới, nếu nói qui y Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật thì nương vào chỗ nào mà qui, nói lại thành vọng.

Tổ giải thích, như chúng ta phát nguyện trước Tam Bảo: Qui y Phật, thử hỏi Phật ở đâu? Nếu nói Phật trên bàn thờ thì Phật có nói câu nào mà nương với Ngài được? Còn nếu nói Phật ở Ấn Độ thì Ngài đã tịch hơn hai ngàn năm trăm năm rồi. Như nói qui y là nương về, nương về với hình tượng không biết nói năng, hay nương về với Phật xa xưa đã mất từ lâu rồi, đó là nương về cái rỗng. Cho nên Tổ bảo nương về Tánh giác của mình, đó là qui y Phật. Tánh giác nơi mình mới là thật, mới là chỗ để trở về. Nếu chúng ta không đạt được lý này, thành ra nói rỗng, không có lẽ thật.

Qui y Pháp, Pháp tức là Chánh, đây là chánh kiến, hằng thấy được điều tà ngoại không theo, đó là qui y Pháp. Qui y Tăng, Tăng tức là Tịnh, đó là Tâm thanh tịnh của mình. Như vậy Tổ muốn dạy chúng ta xoay trở về Tự tâm thanh tịnh của mình, có đầy đủ Tam Bảo, đó mới là qui y chân thật, đó mới là chỗ qui hướng đạt đạo; còn nếu chúng ta cứ hướng về bên ngoài khơi khơi như vậy, thì biết đến bao giờ đạt đạo! Đó là điều căn bản cần phải hiểu. Cho nên trong mỗi thời khóa tụng kinh đều có hai đợt lạy Tam Bảo: Phần đầu sau khi tán dương Phật rồi, chúng ta lạy ba lạy là lạy Tam Bảo ở ngoài, tức là Tam Bảo mười phương đã có công giáo hóa chúng ta. Đến phần cuối khi chấm dứt thời kinh, chúng ta lạy ba lạy: Tự qui y Phật, tự qui y Pháp, tự qui y Tăng, là lạy Phật, Pháp, Tăng của mình. Đức Phật xa xưa là bậc trưởng thượng chúng ta lạy là phải, nhưng vì sao mình lạy mình? Tự qui y là:

“Tự qui y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.” Chúng tôi giải thích ý nghĩa của buổi lễ. Tự qui y Phật là trở về nương tựa ông Phật của mình, tức là Tánh giác. Đương nguyện chúng sanh là nguyện cho tất cả chúng sanh. Thể giải đại đạo là thể nhập và hiểu thấu đạo lớn. Phát vô thượng tâm là phát tâm vô thượng. Phần trước chúng ta lạy Tam Bảo ở ngoài là vì lòng thành kính và ngưỡng mộ, còn ở đây mình lạy với tánh cách thệ nguyện, mình biết trở về Phật của mình, rồi nguyện cho tất cả chúng sanh đều hiểu được đạo lớn và phát tâm vô thượng. Vì biết trở về ông Phật của mình, mà chúng sanh chưa biết, nên mình lạy nguyện với Tam Bảo cho tất cả chúng sanh sẽ được như con, tức là trở về Phật của mình, hiểu được đại đạo và phát tâm vô thượng như con vậy.

“Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.” Tức là mình biết trở về với Pháp của nội tâm mình là chánh kiến, nhưng nhớ đến chúng sanh chưa biết điều đó, nên mình nguyện tất cả chúng sanh đều thâm nhập được kinh tạng, vào trí tuệ rộng như biển cả.

“Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.” Khi biết trở về với vị Tăng của mình, tức là tâm thanh tịnh của mình, chúng ta nguyện tất cả chúng sanh thống lý đại chúng tức là quản lý tất cả chúng, mà không có chướng ngại. Thường trong nhà Phật nói rằng chúng ta tu làm lợi ích cho mình cho người thì dễ, nhưng nhiếp chúng là cả một vấn đề. Nhiếp chúng tức là coi chúng để dạy họ sống hòa thuận an vui không bị phiền não rắc rối, đó là một chuyện hết sức khó. Cho nên nguyện tất cả chúng sanh quản lý hết chúng mà không có chướng ngại.

Như vậy mỗi khi lễ Phật rồi, chúng ta đều trở về Tam Bảo của Tự tâm, và không quên nghĩ đến chúng sanh nên nguyện cho tất cả đều được ba điều lớn lao đó. Mỗi một lần tự qui y rồi, chúng ta lạy Phật một lạy để thệ nguyện của mình được thực hiện. Biết được ý nghĩa tự qui y là trở về qui hướng với Tam Bảo nơi mình, đó mới là nghĩa chân thật vậy.

Này Thiện tri thức, mỗi người tự quan sát, chớ lầm dụng tâm, kinh văn rõ ràng nói tự qui y Phật, chẳng nói qui y với Phật khác, tự Phật mà chẳng qui thì không có chỗ nào mà y được.

Tức là ông Phật của mình mà mình không chịu trở về, thì không còn chỗ nào để mình nương được.

Nay đã tự ngộ, mỗi người phải qui y Tự tâm Tam Bảo, trong thì điều hòa tâm tánh, ngoài thì cung kính mọi người, ấy là tự qui y vậy.

Này Thiện tri thức, đã qui y tự Tam Bảo xong, mỗi người phải chí tâm, tôi vì nói một thể ba thân tự tánh Phật, khiến các ông thấy được ba thân rõ ràng tự ngộ Tự tánh.

Sau phần tự qui y Tam Bảo, Tổ nói về một thể ba thân Tự tánh Phật. Ba thân là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, ba thân này là Tự tánh Phật của chính mình, đều là Tự tánh mình có sẵn, chớ không đâu khác.

Phải nói theo tôi: Nơi tự Sắc thân qui y Thanh tịnh Pháp thân Phật, nơi tự Sắc thân qui y Viên mãn Báo thân Phật, nơi tự Sắc thân qui y Thiên bá ức Hóa thân Phật.

Này Thiện tri thức, Sắc thân là nhà cửa không thể nói qui hướng.

Nghĩa là Sắc thân mình mang đây là nhà cửa để mình tạm trú, chớ không phải là chỗ để mình qui y, nay mai nó tan rã, làm sao nương tựa nó được.

Ba thân Phật ở trong Tự tánh người đời thảy đều có, vì Tự tâm mê không thấy tánh ở trong nên chạy ra ngoài tìm ba thân Như Lai, chẳng thấy ở trong thân có ba thân Phật. Các ông lắng nghe tôi nói khiến các ông ở trong tự thân thấy được Tự tánh có ba thân Phật. Ba thân Phật này từ nơi Tự tánh sanh, chẳng phải từ ngoài mà được.

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời Bản tánh là thanh tịnh, muôn pháp từ nơi tánh mà sanh, suy nghĩ tất cả việc ác tức sanh hạnh ác, suy nghĩ tất cả việc lành tức sanh hạnh lành. Như thế các pháp ở trong Tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, vì mây che phủ nên ở trên sáng, ở dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, vạn tượng đều hiện. Tánh của người đời thường phù du như là mây trên trời kia.

Này Thiện tri thức, trí như mặt trời, tuệ như mặt trăng, trí tuệ thường sáng, do bên ngoài chấp cảnh nên bị mây nổi vọng niệm che phủ Tự tánh không được sáng suốt. Nếu gặp Thiện tri thức, nghe được pháp chân chánh, tự trừ mê vọng, trong ngoài đều sáng suốt, nơi Tự tánh muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng lại như thế, ấy gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật.

Trong đoạn văn trên Tổ giải thích mỗi người chúng ta ai cũng có đủ ba thân Phật: Thanh tịnh Pháp thân Phật, Viên mãn Báo thân Phật, Thiên bá ức Hóa thân Phật. Thanh tịnh Pháp thân Phật là gì? Là chỉ cho mỗi người chúng ta đều có sẵn Bản tánh thanh tịnh, từ Bản tánh đó dấy niệm nghĩ lành thì làm lành, dấy niệm nghĩ dữ thì làm dữ. Tỉ dụ như có mấy đứa bé chừng năm, ba tuổi xuống biển tắm, thấy sóng nó hỏi: Sóng tại sao mà có, hay sóng từ đâu có? Người lớn liền trả lời: Sóng từ nước mà có. Rõ ràng sóng từ dưới nước dấy lên, nếu không có nước làm gì có sóng được. Nhưng khi nước dấy lên thành sóng rồi, thì thể lặng của nước không còn. Cũng như vậy, niệm thiện niệm ác từ đâu dấy lên? Rõ ràng là từ Tự tánh thanh tịnh dấy lên, nếu không có Tánh thanh tịnh sẵn thì niệm thiện niệm ác đâu dấy được. Nhưng mình chỉ nhớ niệm thiện niệm ác mà quên đi Tự tánh thanh tịnh, đó là điều quan trọng của sự tu hành. Bởi có Tánh thanh tịnh nên mới dấy niệm thiện niệm ác, dấy niệm thiện rồi làm thiện, dấy niệm ác rồi làm ác. Cho nên người biết nghĩ thiện, biết nghĩ ác, biết nghĩ điều này, việc kia v.v... gốc là từ Tự tánh sẵn có. Tổ bảo rằng nếu không có tánh thì người đó chết mất rồi. Khi niệm dấy lên, chúng ta mải chạy theo niệm mà quên mất Tự tánh, nên Tổ dùng ví dụ sau đây hết sức rõ ràng: Như mặt trời mặt trăng trong bầu trời trong chiếu sáng, ánh sáng bủa cùng khắp, chợt có mây kéo đến che phủ mịt mù, nên ở trên sáng ở dưới tối. Khi gió thổi mây tan thì trên dưới đều sáng tỏ. Bầu trời xanh trong là tỉ dụ cho Tự tánh, do Tự tánh trong sạch nên trí tuệ mới hiện, mặt trời là trí, mặt trăng là tuệ. Khi bị mây che phủ thì bầu trời tối lại, khi mây tan thì ánh sáng mặt trời mặt trăng bủa cùng khắp. Cũng như vậy, Tự tâm chúng ta thanh tịnh, khi vọng niệm vừa dấy khởi thì trí tuệ bị mờ tối, nếu niệm lặng xuống thì trí tuệ sáng ngời. Như vậy muốn cho trí tuệ sáng thì đám mây vọng niệm phải tan. Nếu không hiểu điều này, tu hành mà lo luyện phép v.v... làm sao trí tuệ phát hiện được. Khi tất cả mây mù vọng tưởng tan rồi thì Tự tánh Thanh tịnh Pháp thân hiện.

Này Thiện tri thức, Tự tâm qui y Tự tánh là qui y chân Phật. Tự qui y là trừ bỏ trong Tự tánh tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngã, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm lấn người, tâm tà kiến, tâm cống cao và hạnh bất thiện trong tất cả thời, thường tự thấy lỗi mình, chẳng nói tốt xấu của người khác, ấy là tự qui y. Thường tự hạ tâm, khắp hành cung kính tức là thấy tánh thông đạt lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y.

Tự qui y là Tự tâm mình trở về với Tự tánh mình, đó gọi là qui y chân Phật. Tự qui y là trừ hết trong tâm mình những điều bất thiện như là tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngã, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm mạn người, tâm tà kiến, tâm cống cao, những tâm ác trong tất cả thời mình phải trừ sạch hết. Tổ lại dạy: Thường tự thấy lỗi mình, không nói lỗi xấu của người khác, đó gọi là tự qui y. Rồi phải tập thường hạ tâm mình và cung kính người khác, để thấy được Bản tánh, lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y. Ở chỗ này nên hiểu, người thấy tánh khác hơn người không thấy tánh, người không thấy tánh mà tu, càng tu càng tự cao tự đại tự mãn; còn người thấy tánh càng tu lại càng thấp mình, càng khiêm hạ, vì sao? Bởi vì càng tu càng thấy vô ngã, mà vô ngã thì cái gì cao? Người không thấy tánh tu một lúc thấy mình được nhiều công đức, mình có những phép lạ, mình có thần thông, thấy những điềm tốt, các người khác chưa được, do đó nên sanh tâm khinh người mà tự cao. Ngược lại người thấy tánh mà tu thì biết thân này, tâm này là hư giả, bởi biết hư giả nên càng tu càng hạ thấp nó xuống, càng mất nó chớ không cao nó được, cao nó tức là ngã mạn, là tướng của si mê, mà si mê thì bao giờ giác được. Hiểu đúng như vậy, mới thấy lời Tổ nói là chân lý. Người tu thường phải thấp tâm xuống, cung kính người khác, thấy tánh thông suốt, không có ngăn trệ, ấy là tự qui y.

Sao gọi là Viên mãn Báo thân Phật? Thí như một ngọn đèn hay trừ ngàn năm tối, một trí tuệ hay diệt muôn năm ngu.

Điều này có tin được không? Tỉ dụ như cái nhà tối mịt một ngàn năm, bây giờ muốn nó sáng lại thì phải bao lâu? Chỉ cần thắp ngọn đèn đem vào nhà thì sáng ngay, cái tối ngàn năm phút chốc liền mất. Hiện nay chúng ta tu cũng vậy, một phen trí tuệ sáng rồi thì cái ngu của muôn năm cũng mất. Như khi tất cả chúng ta chưa được duyên học đạo thì đối với thân này, đối với vọng tưởng này thấy là thật mình. Nhưng khi học đạo rồi, có thể nghe Phật, Tổ nói một câu hai câu, chúng ta thấy rõ thân này và vọng tưởng không phải là thật mình. Khi thấy rõ như vậy tức nhiên cái ngu ngàn đời tự nó mất. Còn nếu không mất luôn thì lâu lâu cái ngu tái lại, mình lại nhận thấy sự thật nữa, mãi rồi cái ngu cũng phải tan. Như vậy chúng ta thấy rằng ngọn đèn trí tuệ một phen thắp lên thì cái ngu không bao giờ còn được. Cho nên nói khi trí tuệ phát ra hay diệt được muôn năm ngu là như vậy.

Chớ suy nghĩ về trước, đã qua không thể được. Thường phải nghĩ về sau, mỗi niệm mỗi niệm tròn sáng, tự thấy Bản tánh.

Ở đây Tổ dạy chúng ta đừng suy nghĩ những lỗi về trước. Giả sử khi trước chúng ta có làm những điều gì sai lầm, nay đã biết lỗi sám hối rồi thôi, không nên nhớ mãi các lỗi đã qua rồi buồn tủi tu hành không được. Những lỗi gì qua rồi thì thành tâm sám hối, nguyện từ nay về sau chừa bỏ, không tái phạm, sám hối xong là thôi, nếu còn hối hận mãi đó là chướng đạo. Cho nên Tổ bảo chúng ta thường phải nghĩ về sau, trong mỗi niệm tròn sáng, tự thấy Bản tánh.

Thiện ác tuy là khác mà Bản tánh không có hai, tánh không hai đó gọi là Tánh thật.

Niệm thiện niệm ác tuy là hai niệm khác nhau, nhưng trên Bản tánh nó không có hai, tánh không hai đó gọi là Tánh thật. Tỉ dụ như khi ngồi tu, niệm niệm dấy khởi, hoặc là niệm lành, hoặc là niệm dữ. Nhưng khi niệm lành hoặc dữ lặng xuống rồi, thì cái hằng biết đó là lành hay dữ? Cái hằng biết trong tâm mình nghĩa là hằng biết lúc có niệm, lúc không niệm, cái hằng biết ấy thuộc về lành hay dữ? - Nó không có lành dữ. Cho nên khi dấy niệm, thì niệm niệm khác nhau, có lành có dữ, khi niệm lặng xuống, chỉ có cái liễu tri thường hằng không có lành dữ, nên nói tánh không hai mới là Tánh thật, còn niệm lành hay dữ không phải là cái thật. Tổ chỉ dạy rõ như ban ngày không có gì phải nghi ngờ nữa. Dấy niệm lên thì có thiện ác là thuộc về hai, mà hai thì không thật; niệm thiện hoặc ác lặng xuống trở về Bản tánh, thì Bản tánh là không hai, mà không hai mới là Tánh chân thật, thật quá rõ ràng. Thế nên chúng ta muốn sống với Tánh chân thật là phải dừng niệm thiện và ác, nếu không hiểu lý này chúng ta sẽ thắc mắc, bỏ niệm ác thì được, vì sao lại bỏ niệm thiện? Bởi vì thiện là đối với ác, những niệm đó còn dấy lên là sanh diệt, lặng những cái sanh diệt ấy mới là chân thật, cái chân thật ở ngay nơi đó, không đâu xa. Vì thế nói Bản tánh thì không hai, tánh không hai đó gọi là Thật tánh.

Ở trong Thật tánh không nhiễm thiện ác, đây gọi là Viên mãn Báo thân Phật.

Nghĩa là trong Tánh thật không có nhiễm thiện ác, đó là Viên mãn Báo thân Phật. Như vậy tìm đâu thấy Phật? Chỉ có lặng hai niệm thiện ác thì Viên mãn Báo thân Phật hiện tròn đầy, cho nên nói viên là tròn, mãn là đầy, Báo thân Phật là tròn đầy. Niệm dấy lên là tướng sanh diệt, thiên lệch, hoặc là thiện hoặc là ác, hai cái thiên lệch đó lặng xuống chỉ còn một Tánh giác tròn đầy, đó là Viên mãn Báo thân Phật. Vì vậy ngay nơi mỗi người đều có Báo thân Phật, vì chúng ta không lặng được niệm thiện ác cho nên không nhận được, nếu lặng được niệm thiện ác thì ngay nơi tâm mình đã đầy đủ Báo thân Phật.

Tự tánh khởi một niệm ác thì diệt muôn kiếp nhân lành, Tự tánh khởi một niệm thiện thì được hằng sa ác hết, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, niệm niệm tự thấy chẳng mất bản niệm gọi là Báo thân.

Tự tánh khởi một niệm ác thì diệt muôn kiếp nhân lành, Tự tánh khởi một niệm thiện thì cái ác dù nhiều như số cát sông Hằng cũng đều hết sạch. Những niệm dấy lên nhưng mình không mất bản niệm, tức là không mất Bản tánh hằng tri, đó gọi là Báo thân. Nói tóm lại, Báo thân Phật là gì? Là do hai niệm thiện ác lặng xuống, chỉ còn một Tánh giác thanh tịnh tròn đầy, đó là Báo thân Phật.

Sao gọi là Thiên bá ức Hóa thân Phật? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn như không, một niệm suy nghĩ gọi là biến hóa. Suy nghĩ việc ác là hóa làm địa ngục, suy nghĩ việc thiện thì hóa làm thiên đường, độc hại thì hóa làm rồng rắn, từ bi thì hóa làm Bồ-tát, trí tuệ thì hóa làm thượng giới, ngu si thì hóa làm hạ giới. Tự tánh biến hóa rất là nhiều, người mê không hay tỉnh giác, mỗi niệm khởi ác thường đi trong con đường ác, xoay về một niệm thiện, trí tuệ liền sanh, đây gọi là Tự tánh Hóa thân Phật.

Nếu mình không khởi duyên với muôn pháp thì tánh mình lặng lẽ như hư không, không có tướng mạo, dấy niệm suy nghĩ liền biến hóa. Trăm ngàn muôn ức niệm ác mình biết xoay trở về thiện tức là trở về với Tự tánh mình, đó là Hóa thân Phật. Dấy niệm ác bị dẫn đi trong lục đạo, niệm lành thì dẫn đi đến các cõi lành. Nếu xoay ngàn muôn ức niệm trở về Tự tánh, tức là chuyển cái biến hóa trở về cái thật, gọi đó là Hóa thân Phật.

Như vậy Tổ chỉ cho chúng ta thấy rõ ba thân Phật:

- Pháp thân là Tánh thanh tịnh của mình.

- Báo thân là do lặng được hai niệm thiện ác, chỉ còn cái liễu tri thường hằng.

- Hóa thân tức là xoay tất cả niệm ác trở về Tự tánh.

Này Thiện tri thức, từ Pháp thân suy nghĩ tức là Hóa thân Phật, niệm niệm Tự tánh tự kiến tức là Báo thân Phật, tự ngộ tự tu, Tự tánh công đức, ấy là chân thật qui y. Da thịt là Sắc thân, Sắc thân đó là nhà cửa, không nói là qui y vậy. Chỉ ngộ Tự tánh ba thân tức là biết được Tự tánh Phật.

Nếu căn cứ trên Pháp thân dấy niệm đó là Hóa thân Phật, mỗi niệm mình đều thấy rõ Tự tánh của mình, đó là Báo thân Phật. Chúng ta nói tự qui y nghĩa là trở về với Pháp thân, Báo thân, Hóa thân Phật của Tự tâm, chớ không phải trở về với thân xác thịt hôi thúi này, thân xác thịt này chỉ là nhà cửa che đậy bên ngoài không phải là thật. Nếu chúng ta ngộ được Tự tánh mình có đủ ba thân Phật tức là biết được Tự tánh Phật.


http://phamvandung57.blogspot.com/2013/02/kinh-phap-bao-giang-giai_1017.html
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
Nói về "Tự quy y Tam Bảo" là nói về đồng thể Tam bảo:
- Đồng thể Phật bảo là nói tự tánh sáng suốt của tâm chân như.
- Đông thể Pháp bảo là nói đức dụng chân chánh của tâm chân như.
- Đồng thể Tăng bảo là nói bản thể thanh tịnh của tâm chân như.
Tôi chỉ hiểu biết như vậy thôi.
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào bạn nhãn đầu mùa,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->d/đ cám ơn Bạn đã tham gia.

Nhưng vì mục đích d/đ mở topic này là để chúng ta cùng nhau tìm hiểu về sự sai khác giữa pháp của Phật và pháp của ngoại đạo ; sự sai khác giữa kinh điển của Phật và của ngoại đạo ; và Tăng nào tu theo Phật Pháp, Tăng nào tu theo ngoại đạo. Điều này giúp cho người mới tu - hoặc là muốn tu Phật đạo _ không lạc vào ngoại đạo.

Còn lời Bạn trích trong kinh Pháp Bảo Đàn thì Tổ Huệ Năng giảng giảng cho các vị “Thiện tri thức” – tức là giảng cho những người đã có được tri thức hướng về điều thiện chứ không phải giảng cho những người mới tu hay muốn tu Phật đạo. Vì vậy, bài trích dẫn của Bạn không đúng với mục đích của chủ đề này.

Vả lại, d/đ muốn chúng ta cùng nhau chia sẻ chỗ hiểu của mình - tức là của chính Bạn chứ không phải tìm tài liệu giảng về chủ đề.

Và để các Bạn mới tu hoặc muốn tu theo Phật đạo không cảm thấy rối rắm - d/đ không trao đổi bài trích dẫn này của Bạn và d/đ cũng xin với Ban Điều Hành nếu có thể - mở chủ đề mới cho bài viết này của bạn nhãn đầu mùa.
Mong được nghe lời chia sẻ của Bạn
Thân
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
Lời cuối cùng cho cô Diệu Đức:
Phật không phân biệt trí ngu.
Pháp không phân biệt đốn tiệm.
Tăng không phân biệt dưới trên.
Hãy để cho mọi việc xảy ra đúng với nhân duyên của nó.
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào bác Tuấn Tú,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->Rất vui được nghe lời Bác chia sẻ.

Theo d/đ hiểu thì lời của đại Sư Ấn Quang - Bác trích trong chủ đề “Hỏi Thăm Sức Khỏe Những Người Chân Thành Tốt Bụng” - là giảng cho người muốn hoặc là mới bắt đầu tu học Phật đạo (còn trong tình trạng mê lầm)

Còn theo chỗ hiểu của Bác - nói về đồng thể Tam Bảo là giảng cho người đã hiểu biết về Phật đạo (có giác ngộ).

Cho nên, một người không thể cùng một lúc ứng dụng cả hai lời giảng này. Vì nếu còn trong tình trạng mê lầm thì là chưa có sự giác ngộ. Còn nếu như đã giác ngộ rồi thì tức là không còn mê lầm. Do đó, muốn quy y theo Tam Bảo nào thì chúng ta phải biết mình đang ở giai đọan nào trong quá trình tu học Phật Pháp.
Thân kính
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Lời cuối cùng cho cô Diệu Đức:
Phật không phân biệt trí ngu.
Pháp không phân biệt đốn tiệm.
Tăng không phân biệt dưới trên.
Hãy để cho mọi việc xảy ra đúng với nhân duyên của nó.

Chào bác Tuấn Tú,
Theo như Bác nói thì :


Nếu Phật không phân biệt trí ngu sao lại có pháp Đại thừa giảng cho hàng Bồ tát
Nếu Pháp không phân biệt đốn tiệm thì sao lại có danh từ đốn tiệm
Tăng tuy không phân biệt dưới trên. Nhưng vì Phật tử tu đúng Phật Pháp hay lạc sang ngoại đạo là do lỗi từ Tăng ? Cho nên, Tăng cũng đã tự chia hai


Thật ra,


Phật có phân biệt trí ngu hay không,
Pháp có phân biệt đốn tiệm hay không,
Tăng có phân biệt hay không,

đều là do Phật giảng (tùy theo duyên). Cho nên, ngoài việc nghe lời Phật giảng chúng ta còn phải biết thêm lời giảng đó ứng dụng cho căn duyên nào. Và nhất là lời giảng đó có hợp với căn duyên của chúng ta hay không - thì mới giúp việc tu hành của chúng ta có kết quả.

Tuy pháp đốn tiệm là do từ Tổ Huệ Năng nói. Nhưng vì Tổ Huệ Năng là vị Tổ được truyền thừa y bát của Phật. Cho nên, lời nói của Tổ Huệ Năng được sự minh chứng của Phật. Vì vậy, tương đương với lời Phật nói.
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
Thân kính
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Phẩm 6 SÁM HỐI

GIẢNG 4

VÔ TƯỚNG TAM QUI Y GIỚI

Này Thiện tri thức, nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại vì Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui y giới. Này Thiện tri thức,

Qui y Giác Lưỡng túc tôn,

Qui y Chánh Ly dục tôn,

Qui y Tịnh Chúng trung tôn.

Kế đến Tổ trao Vô tướng Tam qui y giới. Thường ở chùa chúng ta hay đọc: qui y Phật Lưỡng túc tôn, qui y Pháp Ly dục tôn, qui y Tăng Chúng trung tôn, nhưng Lục Tổ lại dạy khác: qui y Giác Lưỡng túc tôn, qui y Chánh Ly dục tôn, qui y Tịnh Chúng trung tôn. Vậy Giác là giác của Tự tâm, Chánh là chánh của Tự tâm, và Tịnh là tịnh của Tự tâm, đây là Phật Pháp Tăng của Tự tâm; còn chúng ta qui y Phật Pháp Tăng ở ngoài, cho nên khác nhau ở chỗ đó.

......
......
http://phamvandung57.blogspot.com/2013/02/kinh-phap-bao-giang-giai_1017.html

Chào bạn nhãn đầu mùa !

Có điều này Cường phải nhắc nhở bạn :

1._ Pháp Bảo Đàn Kinh giảng giải. Ai giảng giải ? Bạn không nêu tên, hiệu gì cả khiến người đọc thắc mắc. Mãi đến hôm nay bạn bổ sung đường link, Cường truy cứu theo mới biết là do Hòa thượng Thanh Từ.
Khi copy bài của ai thì phải ghi rõ tên tác giả hay Giảng Sư, để tránh gây hiểu lầm.
(Trước đây Cường có một người bạn, thường hay chép những bài thơ hay của người khác mà không ghi tên tác giả, cuối mỗi bài thơ đều ký tên của anh ta. Hì ....hì.... không biết anh ta có cố tình "lập lờ đánh lận con đen" hay không nữa ?)

2._ Trình bày bài viết phải rõ ràng, câu nào là nguyên văn trong Kinh, câu nào là lời giảng giải, bạn phải viết phân biệt, thí dụ như :

"Này Thiện tri thức, nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại vì Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui y giới. Này Thiện tri thức,

Qui y Giác Lưỡng túc tôn,

Qui y Chánh Ly dục tôn,

Qui y Tịnh Chúng trung tôn.

Kế đến Tổ trao Vô tướng Tam qui y giới. Thường ở chùa chúng ta hay đọc: qui y Phật Lưỡng túc tôn, qui y Pháp Ly dục tôn, qui y Tăng Chúng trung tôn, nhưng Lục Tổ lại dạy khác: qui y Giác Lưỡng túc tôn, qui y Chánh Ly dục tôn, qui y Tịnh Chúng trung tôn. Vậy Giác là giác của Tự tâm, Chánh là chánh của Tự tâm, và Tịnh là tịnh của Tự tâm, đây là Phật Pháp Tăng của Tự tâm; còn chúng ta qui y Phật Pháp Tăng ở ngoài, cho nên khác nhau ở chỗ đó."

Mọi người sẽ hiểu "Chỗ tô màu xanh là nguyên văn, chỗ màu mặc định là lời giảng giải".

3._ Bạn có thói quen "KHÔNG ĐÁNH VÀO TRỌNG TÂM", bài trước bạn copy nguyên bài, bài này bạn copy nguyên chương, mà "tràng giang đại hải" không rõ ràng gì hết.

4._ Nhớ ghi xuất xứ hay link trích dẫn.

Mến !
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
chào lavinhcuong

Chào bạn nhãn đầu mùa !

Có điều này Cường phải nhắc nhở bạn :

1._ Pháp Bảo Đàn Kinh giảng giải. Ai giảng giải ? Bạn không nêu tên, hiệu gì cả khiến người đọc thắc mắc. Mãi đến hôm nay bạn bổ sung đường link, Cường truy cứu theo mới biết là do Hòa thượng Thanh Từ.
Khi copy bài của ai thì phải ghi rõ tên tác giả hay Giảng Sư, để tránh gây hiểu lầm.
(Trước đây Cường có một người bạn, thường hay chép những bài thơ hay của người khác mà không ghi tên tác giả, cuối mỗi bài thơ đều ký tên của anh ta. Hì ....hì.... không biết anh ta có cố tình "lập lờ đánh lận con đen" hay không nữa ?)

2._ Trình bày bài viết phải rõ ràng, câu nào là nguyên văn trong Kinh, câu nào là lời giảng giải, bạn phải viết phân biệt, thí dụ như :

"Này Thiện tri thức, nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại vì Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui y giới. Này Thiện tri thức,

Qui y Giác Lưỡng túc tôn,

Qui y Chánh Ly dục tôn,

Qui y Tịnh Chúng trung tôn.

Kế đến Tổ trao Vô tướng Tam qui y giới. Thường ở chùa chúng ta hay đọc: qui y Phật Lưỡng túc tôn, qui y Pháp Ly dục tôn, qui y Tăng Chúng trung tôn, nhưng Lục Tổ lại dạy khác: qui y Giác Lưỡng túc tôn, qui y Chánh Ly dục tôn, qui y Tịnh Chúng trung tôn. Vậy Giác là giác của Tự tâm, Chánh là chánh của Tự tâm, và Tịnh là tịnh của Tự tâm, đây là Phật Pháp Tăng của Tự tâm; còn chúng ta qui y Phật Pháp Tăng ở ngoài, cho nên khác nhau ở chỗ đó."

Mọi người sẽ hiểu "Chỗ tô màu xanh là nguyên văn, chỗ màu mặc định là lời giảng giải".

3._ Bạn có thói quen "KHÔNG ĐÁNH VÀO TRỌNG TÂM", bài trước bạn copy nguyên bài, bài này bạn copy nguyên chương, mà "tràng giang đại hải" không rõ ràng gì hết.

4._ Nhớ ghi xuất xứ hay link trích dẫn.

Mến !

đừng dùng cái trí của mình mà áp đặt lên cái trí của người khác., hoa hồng không giống hoa lay ơn đâu nhé. yên tâm đi, vào diễn đàn có nhiều loài hoa đẹp và ngát hương lắm.
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
cho vui

Chào bác Tuấn Tú,
Theo như Bác nói thì :


Nếu Phật không phân biệt trí ngu sao lại có pháp Đại thừa giảng cho hàng Bồ tát
Nếu Pháp không phân biệt đốn tiệm thì sao lại có danh từ đốn tiệm
Tăng tuy không phân biệt dưới trên. Nhưng vì Phật tử tu đúng Phật Pháp hay lạc sang ngoại đạo là do lỗi từ Tăng ? Cho nên, Tăng cũng đã tự chia hai


Thật ra,


Phật có phân biệt trí ngu hay không,
Pháp có phân biệt đốn tiệm hay không,
Tăng có phân biệt hay không,

đều là do Phật giảng (tùy theo duyên). Cho nên, ngoài việc nghe lời Phật giảng chúng ta còn phải biết thêm lời giảng đó ứng dụng cho căn duyên nào. Và nhất là lời giảng đó có hợp với căn duyên của chúng ta hay không - thì mới giúp việc tu hành của chúng ta có kết quả.

Tuy pháp đốn tiệm là do từ Tổ Huệ Năng nói. Nhưng vì Tổ Huệ Năng là vị Tổ được truyền thừa y bát của Phật. Cho nên, lời nói của Tổ Huệ Năng được sự minh chứng của Phật. Vì vậy, tương đương với lời Phật nói.
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
Thân kính

Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lại;
Phàm là lời nói đều không có nghĩa thật. Cho nên Phật nói 49 năm thuyết giảng mà chưa hề nói một chữ. Nếu hiểu và thấu những điều này thì chỉ có" im hơi bặt tiếng " Nghĩa là niệm mà không niệm như lời Lục Tổ nói. Ôi dào bỏ giây thừng thì lại trói vào giây xích vàng, đẹp lắm , sang trọng lắm nhưng vẫn là bị trói
 

Hắc phong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
7 Thg 10 2010
Bài viết
2,665
Điểm tương tác
476
Điểm
113
đừng dùng cái trí của mình mà áp đặt lên cái trí của người khác., hoa hồng không giống hoa lay ơn đâu nhé. yên tâm đi, vào diễn đàn có nhiều loài hoa đẹp và ngát hương lắm.

Chào bạn nhãn đầu mùa !

Nội quy của Diễn Đàn có ghi :

18) Khi trích dẫn kinh điển phải có xuất xứ rõ ràng.
......
......
22) Thành viên nên trích dẫn các lời dạy trong Tam Tạng Kinh Điển và những lời dạy của các vị Tổ, Bồ tát, Thánh Tăng, Cao Tăng có trong Kinh Sách đã được các Giáo Hội Phật Giáo công nhận để diễn giải giáo lý Phật Giáo giúp cho người đọc hiểu đúng, làm sáng tỏ thêm lời Phật dạy. Sau khi trích dẫn, người viết phải đưa ra cụ thể link hoặc thông tin cụ thể về nguồn tư liệu đã trích dẫn để mọi người tìm hiểu, xác nhận thông tin như điều khoản 18 đã đề cập.


1. Bài của bạn ban đầu không có link trích dẫn, sau đó bạn có bổ sung nhưng vẫn không hoàn chỉnh vì link ấy chỉ đưa đến trang blog cá nhân của bạn mà trang blog của bạn không nêu link gốc (từ một trang web uy tín), giả sử trang blog của bạn chứa những bài không đạt chuẩn (như bài ca ngợi ông Krishnamurti là đức Di Lặc) thì link trích dẫn này vô hiệu.

2. Với cách đăng bài "xô bồ" của bạn (không phân biệt đâu là lời của Tổ, đâu là lời của Giảng sư) rất dễ gây hiểu lầm cho người đọc, nếu là người mới thì sẽ bị nhầm lẫn "Tất cả đều là lời của Tổ".

3. Với bài này NHẤT THIẾT BẠN PHẢI GHI PHÁP DANH VỊ GIẢNG SƯ.

4. Mod lavinhcuong phụ trách nơi này có lời nhắc nhở bạn, nếu bạn không có lời cảm ơn thì nên làm thinh (như lời bạn nói), cớ sao lại buông lời chống đối "đừng dùng cái trí của mình mà áp đặt lên cái trí của người khác", cái trí (kiêu hảnh) của bạn dầu có cở nào đi nữa cũng phải tôn trọng Nội quy.


------------------

nhãn đầu mùa đã viết:
Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lại;
Phàm là lời nói đều không có nghĩa thật. Cho nên Phật nói 49 năm thuyết giảng mà chưa hề nói một chữ. Nếu hiểu và thấu những điều này thì chỉ có" im hơi bặt tiếng " Nghĩa là niệm mà không niệm như lời Lục Tổ nói. Ôi dào bỏ giây thừng thì lại trói vào giây xích vàng, đẹp lắm , sang trọng lắm nhưng vẫn là bị trói


1. Bốn câu kệ trong Kinh Kim Cang rất quan trọng, mà với cách trình bày của bạn không thể hiện sự trân trọng, bằng cách viết đều đều, lại gõ sai từ "Như Lai" thành "Như Lại" mà không chịu sửa.

2. "
Nếu hiểu và thấu những điều này thì chỉ có" im hơi bặt tiếng "
Bạn đã hiểu sai kinh Phật rồi đó ! Vì sau khi nói Kinh Kim Cang đức Phật vẫn tiếp tục thuyết giảng cho đến hơi thở cuối cùng, như vậy nếu theo lập luận của bạn thì đức Phật đã "không hiểu, không thấu những điều này". Lại nữa chư Tổ _ những vị không "im hơi bặt tiếng" _ là người không hiểu Phật pháp chăng ?

3. "
Nghĩa là niệm mà không niệm như lời Lục Tổ nói"
Cụm từ "niệm mà không niệm" là của vị nào đó nói, chứ không phải đức Lục Tổ nói mà bạn lại gán cho đức Lục Tổ, có phải là xuyên tạc ý Tổ hay không ?

Hắc phong cho 3 ba ngày để tra tìm trong Kinh Pháp Bảo Đàn, xem chỗ nào Đức Lục Tổ nói "niệm mà không niệm", nếu sau 3 ngày mà bạn không tìm được thì H/p sẽ khóa nick của bạn 3 ngày vì đã đem cái hiểu sai của mình gán cho Tổ.

4.
"Ôi dào bỏ giây thừng thì lại trói vào giây xích vàng, đẹp lắm , sang trọng lắm nhưng vẫn là bị trói"

Bạn hãy chuẫn bị tâm lý, H/p sẽ dùng "dây xích vàng" trói bạn đấy !

Kính báo !
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lại;
Phàm là lời nói đều không có nghĩa thật. Cho nên Phật nói 49 năm thuyết giảng mà chưa hề nói một chữ. Nếu hiểu và thấu những điều này thì chỉ có" im hơi bặt tiếng " Nghĩa là niệm mà không niệm như lời Lục Tổ nói. Ôi dào bỏ giây thừng thì lại trói vào giây xích vàng, đẹp lắm , sang trọng lắm nhưng vẫn là bị trói


Chào bạn nhãn đầu mùa,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->Như lời Bạn nói - Phật thuyết giảng suốt 49 năm mà Bạn chỉ nhớ có hai việc : lời nói đều không có nghĩa thậtPhật chưa hề nói một chữ - thì làm sao Bạn hiểu được trọn ý lời Phật nói.
Ít ra thì Bạn cũng nên nhớ thêm : lời Phật nói _ đều đúng như thậtnếu không vì lợi ích chúng sanh _ Phật không nói lời nghịch thuyết.

Nhớ như vậy Bạn mới biết - sở dĩ Phật thuyết giảng suốt 49 năm mà cho rằng không nói lời nào - là vì Phật đã nói lời nghịch thuyết. Nói lời nghịch thuyết là giảng về pháp sanh tử (pháp thế gian). Còn đối với lời giảng về pháp xuất thế (pháp thoát sanh tử) thì chỉ mới như ngón tay chỉ trăng. Trong khi, pháp của Phật là pháp thoát sanh tử.
Do đó, Phật mới cho rằng - lời Ngài nói - đều không có nghĩa thật (vì đó chỉ là lời nghịch thuyết) và phủ nhận tất cả những lời Ngài đã giảng trong suốt 49 năm.

Tuy là lời nghịch thuyết nhưng điều gì Phật nói ra đều đúng như thật. Trong khi, vì lợi ích của chúng ta đức Phật mới nói lời nghịch thuyết. Vậy mà Bạn chối bỏ có phải là quá uổng lắm chăng !?

Bằng chứng là trong kinh Đại Bát Niết Bàn - đức Phật cũng có nói :

Như người nghèo thiếu nợ nhiều, vì sợ chủ nợ đòi mà ẩn trốn, nên gọi là trốn kín. Như Lai thời không phải thế, Như Lai không có nợ chúng sanh về pháp thế gian. Dầu đối với chúng sanh có nợ xuất thế, nhưng cũng chẳng ẩn mặt, vì Như Lai luôn xem chúng sanh như con đẻ, mà thường diễn thuyết pháp nghĩa vô thượng.

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-63_5-50_6-2_17-205_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Cho nên, đức Phật đã xác định với chúng ta tuy Ngài có thường diễn thuyết pháp nghĩa vô thượng - nhưng đó chưa phải là giáo pháp dạy cách tu pháp xuất thế. Vì tuy có diễn thuyết pháp nghĩa nhưng chưa phải là giáo pháp nên đức Phật mới ví như ngón tay chỉ trăng

Còn nếu như lời Bạn nói - khi hiểu và thấu thì chỉ có “im hơi bặt tiếng” - thì Bạn có nghĩ với sự ngu mê của người đời có thể nhận ra mình ngu mê chăng ?

Nếu không nhận ra mình ngu mê - thì có phải cũng sẽ cho rằng mình đã hiểu và thấu về Phật Pháp _ rồi “im hơi bặt tiếng”. Sự “im hơi bặt tiếng” của người còn ngu mê đó - đâu thể sánh với sự “im hơi bặt tiếng” của người thật sự hiểu và thấu về Phật Pháp…

Hy vọng Bạn hài lòng với lời giải thích này của d/đ
Thân
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
671
Điểm tương tác
611
Điểm
93
Kính van cầu.

Kính thưa Ban Tổng Quản và Quý Tôn Đức Ban Điều Hành.

Con Thu tử kính xin van cầu quý ngài một việc nho nhỏ...

....... Số là. Theo chúng con cảm nhận. Mặc dù bác nhãn đầu mùa còn hơi non về nhận thức Chánh Pháp. Nhưng điều này rồi sẽ được bổ túc thêm. Bằng chứng là, những ngôn từ, những ý tưởng so với lúc mới vào diễn đàn đã có tiến bộ rất nhiều.

....... Do vậy chúng con kính xin Quý Ban hãy nhẹ tay cho, ví dụ như, nếu bài viết chưa đạt theo yêu cầu, thì tạm dời về phòng chát linh tinh. có thể cũng có người xem, nhưng chúng con nghỉ không đến nổi vì đó mà lầm chấp. (vì sẽ có người điều chỉnh lại).

....... Kính mong được quý Tôn túc, từ bi chấp nhận, để chúng con có thêm được một người bạn tốt trong tương lai.

MÔ PHẬT.- Con xin cảm ơn trước.
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
Kinh Pháp Bảo Đàn

Phẩm 4 ĐỊNH TUỆ

GIẢNG

Tổ dạy chúng:

Này Thiện tri thức, pháp môn của ta đây lấy Định Tuệ làm gốc, đại chúng chớ lầm nói Định Tuệ riêng, Định Tuệ một thể không phải là hai. Định là thể của Tuệ, Tuệ là dụng của Định, ngay khi Tuệ, Định ở tại Tuệ, ngay khi Định, Tuệ ở tại Định, nếu biết được nghĩa này tức là cái học Định Tuệ bình đẳng. Những người học đạo chớ nói trước Định rồi sau mới phát Tuệ, trước Tuệ rồi sau mới phát Định, mỗi cái riêng khác. Khởi cái thấy như thế ấy thì pháp có hai tướng. Miệng nói lời thiện mà trong tâm không thiện thì không có Định Tuệ, Định Tuệ không bình đẳng. Nếu tâm, miệng đều là thiện, trong ngoài một thứ, Định Tuệ tức là bình đẳng. Tự ngộ tu hành không ở chỗ tranh cãi, nếu tranh trước sau tức là đồng với người mê, không dứt sự hơn thua, trở lại tăng ngã và pháp, không lìa bốn tướng.

Này Thiện tri thức, Định Tuệ ví như cái gì? Ví như ngọn đèn và ánh sáng. Có ngọn đèn tức có ánh sáng, không đèn tức là tối, đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn, tên tuy có hai mà thể vốn đồng một, pháp Định Tuệ này cũng lại như thế.

Phẩm này là những điều chủ yếu của sự tu thiền. Thường trong các kinh hay nói do Định mà được Tuệ, do Định phát ra Tuệ, như vậy chúng ta thấy Định trước, Tuệ sau; nhưng trong đoạn này Tổ dạy Định Tuệ bình đẳng, không có trước sau, như vậy thành ra khác. Nói Định trước Tuệ sau là lối nói của Tiểu thừa, còn theo lời Tổ dạy thì Định Tuệ đồng thời. Tại sao? Điều này khi chúng ta tu rồi tự nhiên thấy. Tôi chỉ cho quí vị thấy một chút. Tỉ dụ như khi chúng ta ngồi thiền tâm chúng ta lặng, đó là Định. Nhưng tâm chúng ta lặng mà hằng giác tri, giác tri đó là gì? Là Tuệ. Như vậy Tuệ đâu có rời Định. Trong khi Định thì có Tuệ, Tuệ sẵn ở trong Định, Định Tuệ không tách rời được, nên không thể nói đợi cái này dứt mới phát cái kia, như vậy là thấy Định Tuệ riêng biệt, thế nên Tổ không chấp nhận. Lối dạy của Tổ là Định Tuệ đồng thời bình đẳng, không có trước, không có sau. Ngài dẫn ví dụ như ngọn đèn và ánh sáng. Khi chúng ta đốt ngọn đèn lên, ngay khi ngọn đèn vừa cháy là có ánh sáng phát ra. Như vậy ngọn đèn là thể, ánh sáng là dụng, thể dụng không rời nhau. Cũng thế Định là thể, Tuệ là dụng. Khi tâm mình lặng gọi là Định, bởi lặng nên nó mới sáng, cũng như nước trong thì mới sáng, vậy cái trong là sáng; cũng như cái gương không có bụi, gương trong thì tự sáng, cái sáng không tách rời gương trong được. Định Tuệ cũng thế. Khi những vọng tưởng không dấy khởi thì tâm lặng, đó gọi là Định, và khi Định thì Tuệ đã sẵn ở trong, nên nói trí tuệ không rời chánh định mà chánh định cũng không rời trí tuệ, hai cái không hai, không khác, nếu thấy hai, thấy khác, tức nhiên không đúng lẽ thật. Như ngọn đèn và ánh sáng tuy hai tên nhưng hai cái có tách rời được không? Nếu nghe hai tên chúng ta nói cái này riêng cái kia riêng thì không bao giờ đúng; như vậy để hiểu rõ rằng ngọn đèn và ánh sáng không rời nhau được, thì Định Tuệ cũng không rời nhau được, đó là thí dụ để hiểu rõ pháp.

Tổ dạy chúng:

Này Thiện tri thức, Nhất hạnh tam-muội là đối với tất cả chỗ, đi đứng ngồi nằm thường hành một trực tâm ấy vậy. Kinh Tịnh Danh nói: Trực tâm là đạo tràng, trực tâm là Tịnh độ. Tâm chớ làm những chuyện siểm khúc, miệng chỉ nói trực, miệng nói Nhất hạnh tam-muội mà không hành trực tâm; còn hành trực tâm, đối với tất cả pháp chớ có chấp trước.

Tiếp theo Tổ dạy về Nhất hạnh tam-muội. Tam-muội là chánh định. Một hạnh ở trong chánh định là thế nào? Nghĩa là trong tất cả chỗ, đi, đứng, ngồi, nằm chỉ là một trực tâm, gọi là Nhất hạnh tam-muội. Không phải chỉ ngồi thẳng mới là Nhất hạnh tam-muội. Không phải chỉ ở tại chùa, mà ở tất cả chỗ, nghĩa là ở chợ, ở xóm làng v.v... đi đứng nằm ngồi đều một trực tâm, đó là Nhất hạnh tam-muội. Ngài dẫn kinh Tịnh Danh (kinh Duy-ma-cật): “Trực tâm là đạo tràng, trực tâm là Tịnh độ” nghĩa là tâm mình ngay thẳng đó là đạo tràng, tâm mình ngay thẳng đó là Tịnh độ. Chữ ngay thẳng này tôi sợ nhiều người hiểu lầm, nên tôi giản trạch rõ một chút. Có nhiều người nói: Tôi không cần niệm Phật, không cần tụng kinh, không cần thọ giới, không cần tu thiền gì cả, tâm tôi ngay thẳng là được rồi! Họ cho rằng họ thấy thế nào thì nói thế ấy, đó là tâm ngay thẳng. Nói như thế đối với đạo Phật chưa phải ngay thẳng. Tại sao? Vì còn ở trong “Có, Không, Phải, Quấy” nên chưa ngay. Khi nói phải, khi nói quấy, khi nói có, khi nói không, thành ra còn ở hai bên, chớ chưa phải là ngay. Trực tâm đây là không kẹt ở hai bên. Điều này thật không đơn giản đâu. Đừng nghĩ rằng: “tôi thấy sao nói vậy” là trực tâm, đó là trực tâm ở thế gian, còn trực tâm Tổ nói đây là tâm không kẹt hai bên. Người được như vậy thì ở chỗ nào cũng là đạo tràng, ở chỗ nào cũng là Tịnh độ.

Ngài quở: Có những người chỉ nói ở ngoài miệng là trực mà hạnh không trực, tức là không hành trực tâm; còn người hành trực tâm là đối với tất cả pháp không có chấp trước, tức là đối với tất cả pháp không dính không kẹt vào bên này hay bên kia... Như vậy đối với tất cả pháp chớ có chấp trước!

Người mê chấp Pháp tướng, chấp Nhất hạnh tam-muội, chỉ nói ngồi không động, tâm vọng không khởi tức là Nhất hạnh tam-muội, người khởi hiểu thế này tức là đồng với vô tình, trở lại là nhân duyên chướng đạo.

Người mê không hiểu, chấp trước Nhất hạnh tam-muội, họ cho rằng chỉ khi ngồi yên bất động, tâm vọng không khởi nữa, đó là Nhất hạnh tam-muội, hiểu như vậy Tổ cho là đồng với vô tình. Đi, đứng, nằm, ngồi, nơi nơi đều trực tâm, nơi nơi đừng dính mắc, đó mới là Nhất hạnh tam-muội, chớ không phải ngồi đè cho tâm lặng xuống không biết gì cả là Nhất hạnh tam-muội. Nếu chỉ đè cho tâm lặng xuống không biết gì thì Tổ bảo đó là đồng với cây đá, đồng với vô tình, chớ không phải là tri giác. Lặng mà hằng tri, hằng giác mới đúng. Trái lại đè để tâm không biết gì đó là đồng với vô tình, là nhân duyên chướng đạo.

Này Thiện tri thức, đạo phải thông lưu, do đâu trở lại ngưng trệ, tâm không trụ nơi pháp, đạo tức là thông lưu. Tâm nếu trụ pháp gọi là tự phược, nếu nói thường ngồi không động, ấy chỉ như ngài Xá-lợi-phất ngồi yên trong rừng lại bị ngài Duy-ma-cật quở trách.

Đạo là phải thông lưu. Thông lưu tức là luôn luôn linh động mà không dính mắc. Đạo không phải là việc ngồi kềm đè cho tâm lặng yên rồi gọi là đạo, mà luôn luôn trong mọi động tác đi, đứng, nằm, ngồi đều không dính mắc, đó mới là đạo. Đạo là thông lưu như vậy. Hiểu như thế, chúng ta mới thấy đạo không phải do tâm chúng ta kẹt một chỗ, trái lại đối với pháp luôn luôn không dính mắc, đó là thông lưu. Cũng như một bè cây thả trôi trên sông, nếu bè cây tấp vào bờ nào thì bè cây đó không trôi suông, vì trôi suông là không bị dính, không tấp vào đâu cả. Cũng thế đạo hạnh được thông lưu là không dính, không mắc, nếu ai đối tất cả pháp không dính không mắc, đó là người thấy đạo, trái lại người nào còn dính mắc thì không thấy đạo, cả đến dính mắc vào pháp mình tu, chấp vào đó để kềm tâm cũng không thấy đạo nữa, đó là chỗ chân thật.

Nếu tâm chúng ta kẹt vào một pháp nào thì gọi là tự phược. Nếu nói ngồi yên không động là đạo thì tại sao ngài Xá-lợi-phất ngồi yên trong rừng lại bị ngài Duy-ma-cật quở trách? Như vậy việc ngồi yên chưa hẳn là đạo, đạo là thông lưu tức là không dính không chấp.

Này Thiện tri thức, lại có người dạy ngồi khán tâm quán tịnh, không động không khởi, từ đây mà lập công khóa, người mê không hiểu liền chấp thành ra điên cuồng; những người như thế này thật là đông, dạy nhau như thế, nên biết đó là lầm lớn.

Đây là Tổ muốn chỉ ngài Thần Tú. Ngài Thần Tú dạy ngồi thiền là khán tâm quán tịnh tức là nhìn tâm mình và nhìn chỗ nó lặng lẽ. Nếu nhìn chỗ lặng lẽ thì lặng lẽ là cái bị nhìn, không phải mình mà chấp là mình, đó là lầm. Số người lầm như thế rất nhiều, nếu dạy nhau như vậy là lầm lớn.

Tổ dạy chúng:

Này Thiện tri thức, xưa nay chánh giáo không có đốn tiệm, tánh người tự có lợi và độn, người mê thì lần lần khế hợp, người ngộ thời chóng tu, tự biết Bản tâm, tự thấy Bản tánh, tức là không có sai biệt, do đó nên lập giả danh đốn tiệm.

Này Thiện tri thức, pháp môn của ta đây từ trước đến nay, trước lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm bản.

Tông tức là chủ, vô tướng là cái không tướng, bản là gốc. Đây là ba điểm then chốt trong lối dạy của Lục Tổ: vô niệm làm tông, vô tướng làm thể, vô trụ làm bản.

Vô tướng là đối với tướng mà lìa tướng; vô niệm là đối với niệm mà không niệm; vô trụ là Bản tánh của người.

Vô tướng là thế nào? Ngay nơi tướng mà lìa tướng đó gọi là vô tướng. Tỉ dụ như ngay bình bông này mà lìa bình bông là thế nào? Chúng ta cũng nhìn bình bông, nhưng không có niệm phân biệt đẹp xấu, là ngay bình bông mà lìa bình bông. Nếu vừa nhìn bình bông liền phân biệt đẹp xấu là dính mắc nơi bình bông, như vậy lìa bình bông là thấy mà không dính, chớ không phải nhắm mắt đừng thấy nó mới gọi là lìa. Điểm này phải hiểu thật rõ cho khỏi lầm, nghe nói lìa tướng rồi đi đâu cũng che mắt lại, không nhìn cảnh vật vì sợ thấy nó là kẹt với tướng. Không phải như thế. Ngay nơi tướng, thấy vẫn thấy nhưng không thêm niệm gì để phân biệt, để so sánh thì đó là lìa tướng; nơi tướng mà lìa tướng đó là vô tướng.

Vô niệm là thế nào? Đối với niệm mà không niệm.

Vô trụ là thế nào? Bản tánh của người là vô trụ nên mới lập vô trụ làm bản, tức là Bản tánh của chúng ta không dính, không mắc, dính mắc đó là vọng chớ không phải Bản tánh.

Ở thế gian nào là thiện ác, tốt xấu, cho đến những việc oán cùng với thân, ngôn ngữ xúc chạm, hư dối tranh đua v.v... thảy đều đem về không; không nghĩ trả thù hại lại, trong mỗi niệm không nghĩ cảnh trước, nếu niệm trước, niệm hiện tại, niệm sau, trong mỗi niệm tương tục không dứt gọi là hệ phược (trói buộc).

Ở thế gian, tất cả những việc hơn thua, phải quấy, tốt xấu v.v... đều đưa về không. Tại sao? Thí dụ việc phải quấy ở thế gian, có cố định hay không? Một việc vào ngày xưa là phải, ngày nay cũng phải và muôn đời là phải? hoặc vào ngày xưa là quấy, ngày nay cũng quấy và muôn đời là quấy? hay việc phải quấy chỉ tùy thời? Vào một thời nào đó đặt cho một việc nào đó là phải thì nó phải, đến một thời khác đổi nó là quấy thì nó quấy. Như vậy phải quấy đâu có cố định, đã không cố định thì chấp làm gì? Không cố định nên nói nó là không. Tôi thí dụ một việc nhỏ như người Việt Nam ra đường đi phía tay mặt là phải, nếu sang Ấn Độ hay sang Anh thì đi phía tay trái là phải. Như vậy phải quấy là tùy địa phương và tùy thời, chớ không cố định. Thế nên chúng ta phải hiểu rõ rằng tất cả những việc phải quấy chỉ là đối đãi thôi, không có thật; đã không thật mà chấp là chân lý thì sai, cho nên nói tất cả đều đưa vào không. Cả tốt xấu cũng vậy, ví dụ như có một người nam hoặc một người nữ thật đẹp, nhưng bất thần một hôm họ bị nổi đơn thì lúc đó quí vị còn khen người đó đẹp nữa không? Như vậy cái đẹp xấu không cố định, nó không thật, những cái không thật mà chúng ta chấp, rồi mê say có phải là điên cuồng hay không? Nếu không thật thì đưa nó vào không!

Tóm lại, tất cả những phải quấy, tốt xấu, hơn thua đều không thật, nên khi nó xảy đến liền đưa vào chỗ hư giả thì mọi việc đều an bài. Trái lại, nếu chấp phải, chấp quấy thì buồn bực phiền não đủ thứ... Đó là Tổ chỉ cho chúng ta một lẽ thật. Thế nên tất cả đều đưa vào không, “không nghĩ trả thù hại lại, trong mỗi niệm không nghĩ cảnh trước”, tức là trong mỗi niệm không suy nghĩ về cảnh này cảnh khác. “Nếu niệm trước, niệm hiện tại, niệm sau, trong mỗi niệm tương tục không dứt gọi là hệ phược.” Nếu chúng ta quen nghĩ việc này việc kia rồi niệm trước mất, niệm kế hiện, niệm kế mất, niệm sau hiện liên tục không dừng thì đó là bị trói buộc. Người nào cứ niệm niệm liên tục là kẻ bị trói buộc. Chúng ta có bị không? Tất cả chúng ta đều bị trói buộc là vì niệm niệm không dừng, nên không bao giờ chúng ta được an ổn. Nếu có những lúc lặng hết niệm, chúng ta đi tới đi lui, hoạt động mà vẫn an nhiên, đó là tự tại thì cảnh nào cũng là Tây phương, là Tịnh độ cả. Như vậy trói buộc là tại niệm của mình trói buộc nên nói là bị phược.

Đối trên các pháp mỗi niệm không trụ, tức là không phược. Đây là lấy vô trụ làm gốc.

Đối với các pháp chúng ta không dấy niệm dính với nó là không bị trói, nếu dính với nó là bị trói. Chúng ta cứ nói rằng chúng ta ở trong cõi phiền não trần lao bị trói buộc, cảnh trói buộc hay ai trói buộc? Chính mình trói mình, mình trói mình với vật này, với cảnh kia, nên khi vật đó bị mất mình sầu khổ. Ví như quí đạo hữu đang mang một chiếc cà rá quí, khi nó rơi mất, hoặc bị ai giật mất thì thế nào? Nếu nó mất rồi thôi, thì an lành biết mấy, còn nếu mất rồi về nhà rầu rĩ v.v... như vậy là chiếc cà rá trói mình hay mình trói chiếc cà rá? Rõ ràng là mình trói nó. Nó chỉ là một bộ phận vô tình thôi, vì mình cứ nhớ nó thành mình khổ. Như vậy để thấy rằng vì chúng ta dính vào các pháp, nên chúng ta thấy pháp trói mình, chớ sự thật pháp nào có trói mình! Đây là lấy vô trụ làm gốc. Vô trụ là như thế, tức là không dính không mắc với pháp nào cả thì đó là vô trụ, đó là sống trở về với Bản tánh của mình, vì Bản tánh là vô trụ nên chính Bản tánh là gốc.

Này Thiện tri thức, ngoài lìa tất cả tướng gọi là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là Pháp thể thanh tịnh, đây là lấy vô tướng làm thể. Này Thiện tri thức, đối trên các cảnh tâm không nhiễm gọi là vô niệm. Đối trên niệm thường lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh tâm.

Tổ lại định nghĩa thế nào là lấy vô tướng làm thể. Ngay các tướng chúng ta không dính mắc các tướng thì Pháp thể của mình lúc nào cũng thanh tịnh. Ba điều này tuy nói là ba, nhưng nhìn kỹ thấy không có khác. Vô tướng là ngay nơi tướng mà lìa tướng, vô trụ là ngay nơi cảnh mà không dính cảnh, vô niệm là ngay nơi niệm mà buông xả không khởi; như vậy đối với cảnh không dính, không kẹt, không dấy niệm chạy theo cảnh thì đó là vô niệm, vô tướng, vô trụ. Rõ ràng là thế!

Nếu chỉ trăm vật chẳng nghĩ, niệm phải trừ hết, một niệm dứt tức là chết, rồi sẽ sanh nơi khác, ấy là lầm to.

Ngài lại nhắc đến cái bệnh Ngài đã nói trong đoạn trước. Ngài sợ chúng ta ngồi rồi cứ đè không cho nghĩ gì hết. Phương pháp Tổ dạy chúng ta tuy khó, nhưng nếu biết tu thì rất nhàn. Chúng ta không phải ngồi suốt ba, bốn tiếng đồng hồ, chúng ta vẫn đi tới đi lui, tiếp xúc mọi cảnh, nhưng trên cảnh mà không dính cảnh là vô trụ, ngay nơi cảnh mà lìa cảnh là vô tướng, ngay nơi cảnh mà không dấy niệm là vô niệm. Như vậy Ngài bắt chúng ta đối cảnh chớ không trốn cảnh, đối cảnh nhưng đi đứng nằm ngồi... trong mọi hoạt động đều thông lưu, không kẹt trên cảnh, đó là đúng lời dạy của Ngài. Trái lại nếu chúng ta cứ đè tâm mình cho nó không ngơ thì dứt niệm. Ngài bảo nếu niệm hết là chết, vì niệm là dụng của Tâm thể mà Tâm thể bặt rồi tức là chết, chết rồi là đi thọ sanh nơi khác. Như thế là lầm.

Người học đạo suy nghĩ đó, nếu không biết cái ý của pháp thì tự lầm còn có thể, lại dạy người khác (là không nên), tự mê không thấy lại còn chê bai kinh Phật, vì thế nên lập vô niệm làm tông. Này Thiện tri thức, thế nào lập vô niệm làm tông? Chỉ vì miệng nói thấy tánh, người mê ở trên cảnh có niệm, trên niệm lại khởi tà kiến, tất cả trần lao vọng tưởng từ đây mà sanh.

Ngài lại giải thích: Tại sao lập vô niệm làm tông? Vì có nhiều người nói rằng mình thấy tánh, nhưng trên cảnh lại khởi niệm, rồi trên niệm lại sanh tà kiến. Tỉ dụ như trên cảnh này, tôi khởi niệm hoa hường đẹp, hoa hường quí. Nếu có người khác nói hoa hường không quí bằng hoa mẫu đơn chẳng hạn, tức nhiên tôi không chịu rồi cãi nhau... Hoa là hoa, không tự nói quí tiện. Chúng ta chấp cái này quí, cái kia tiện thì đó là tà kiến. Trên niệm khởi thêm tà kiến, người nghiêng bên này, người nghiêng bên kia thành ra chuyện cãi nhau vô ích, do đó sanh ra đủ thứ trần lao vọng tưởng.

Tự tánh vốn không một pháp có thể được, nếu có sở đắc, vọng nói họa phước tức là trần lao tà kiến, nên pháp môn này lập vô niệm làm tông.

Tổ chỉ chỗ tu của chúng ta. Người tu thâm sâu rồi thì sống với Tự tánh thanh tịnh. Tự tánh thanh tịnh không có một pháp, như Ngài đã từng nói “Bản lai vô nhất vật”; ở đây Ngài cũng nhắc lại Bản tánh không có một pháp. Đã không một pháp có thể được, nếu vừa hơi yên liền nói tôi được thanh tịnh, rồi nói chuyện họa phước của người... như ông kia ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn, bà này ba tháng nữa sẽ được phước gặp điều may v.v... thì đó là tà kiến. Chúng ta biết Tự tánh vốn thanh tịnh, không có một pháp thì nói gì là sở đắc, không sở đắc thì có gì mà nói họa nói phước cho người. Nhưng hiện nay có một số người tu được chút ít hay nói họa nói phước, nói chuyện quá khứ vị lai v.v..., chúng ta biết những người đó là tà, không phải là người chân chánh.

Này Thiện tri thức, vô là vô việc gì? Niệm là niệm vật nào? Vô đó là không có hai tướng, không có các tâm trần lao; niệm là niệm Chân như Bản tánh.

Ngài nhắc lại: Pháp môn của Ngài lập vô niệm làm tông. Vô là vô việc gì? Ngài dạy: Vô là tất cả phiền não trần lao không dấy động. Niệm là niệm vật nào? Niệm là hằng nhớ Chân như Tự tánh của mình, hằng nhớ Tánh giác của mình, không chạy theo cảnh...

Chân như tức là thể của niệm, niệm tức là dụng của Chân như, Chân như Tự tánh khởi niệm, không phải mắt, tai, mũi, lưỡi hay khởi niệm, Chân như có tánh cho nên khởi niệm, Chân như nếu không có tánh thì mắt tai sắc thanh chính khi ấy liền hoại. Này Thiện tri thức, Chân như Tự tánh khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà không nhiễm muôn cảnh, mà Chân tánh thường tự tại, nên kinh nói “hay khéo phân biệt các pháp tướng mà đối với nghĩa đệ nhất không có động”.

Sau cùng Ngài chỉ cho chúng ta hiểu niệm khởi là từ Chân như. Như vậy chúng ta khởi niệm để niệm Chân như thì được, còn khởi niệm chạy theo cảnh thì sai. Khởi niệm chạy theo cảnh đó là dính với cảnh, còn xoay niệm trở về Chân như là đúng. Nhưng xoay niệm niệm Chân như là thế nào? Là nghe tiếng mà không chạy theo tiếng, hằng nhớ mình có cái hay nghe, có cái đang nghe mới biết nghe tiếng; cũng như thấy cảnh mình không phân biệt cảnh đẹp hay xấu mà biết mình đang thấy, đó là niệm Chân như. Hằng nhớ Tự tánh của chính mình, nhớ là niệm, niệm Bản tánh của mình đó là niệm Chân như.

Tóm lại, trong phần này Tổ nói về Định Tuệ. Theo Tổ, Định Tuệ bình đẳng không có trước sau, và điểm chủ yếu Tổ dạy chúng ta tu gồm có ba phần: vô niệm, vô tướng và vô trụ. Vô niệm là tông, vô tướng là thể, vô trụ là bản. Đó là những điều thiết yếu trong sự tu hành, ai tu theo Lục Tổ mà không biết ba điều này là không biết đường lối tu.



--------------------------------------------------------------------------------
[Định tuệ] [Dịch] [Giảng]

http://www.thuong-chieu.org/uni/KinhSachThiKe/Luan/PhapBaoDan/TRANG_CHINH.htm

Đừng có bắt bẻ câu chữ làm chi. học Kinh Phật chỉ cần hiểu nghĩa rồi gói lại ít lời cho dẽ hiểu dễ nhớ mà từ đó thực hành cho được . còn muốn đọc cho thoải mái mà hiểu thêm thế nào là vô niêm, vô trụ... thì tôi cóp vào đây cho mà đọc. riêng tôi có cách học của tôi không giống với mọi người. nên cách trình bày mà không phù hợp và không thấy gì là lợi ích thì cứ xóa đi. không có vấn đề gì cả. tôi không tranh hơn thua ,nên mọi người cứ tha hồ nói theo cái hiểu của mình, tôi không thắc mắc gì hết. có nói tôi ngu cũng chẳng sao hề hề...


ĐỐN NGỘ NHẬP ĐẠO YẾU MÔN

LỜI NÓI ĐẦU
Trước đây chúng tôi đã cho ra tập Thiền Căn Bản, do các Thiền sư y trong
kinh rút ra phương pháp tu thiền theo thứ lớp từ thấp lên cao. Đến tập này để tên là
Thiền Đốn Ngộ, căn cứ vào các tác phẩm của các Thiền sư nằm trong hệ thống
Thiền tông do Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền xuống. Tập sách này do góp năm tác phẩm
nhỏ chung lại.
Tác phẩm đầu là Thiền Tông Vĩnh Gia Tập của Thiền sư Huyền Giác, đệ tử
Lục Tổ Huệ Năng. Ngài thông suốt tam tạng giáo điển, lại rành rẽ về phương pháp
tu Chỉ Quán của Tông Thiên Thai. Do đó, trong tác phẩm này Ngài giải thích cách
tu Chỉ Quán và Thiền rất tinh vi, độc giả có thể nhân đó vào cửa đốn ngộ. Thích
Định Huệ, một Thiền sinh tại Thiền Viện Chân Không phiên dịch, chúng tôi xem
lại và cho đứng vào phần đầu của tập sách.
Tác phẩm thứ hai là Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn của Thiền sư Tuệ Hải,
đệ tử Mã Tổ Đạo Nhất, cháu đời thứ ba của Lục Tổ Huệ Năng. Chúng tôi phiên
dịch và đã xuất bản vào năm 1971, nhưng hiện đã hết, nay cho in vào đây cũng là
một cách tái bản cho độc giả tiện việc nghiên cứu.
Tác phẩm thứ ba là Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ của Thạch Thành
Kim hiệu Thiên Cơ đời Minh, Ngài là môn đệ dòng Thiền Lâm Tế. Chúng tôi
phiên dịch, chưa xuất bản.
Tác phẩm thứ tư là Tọa Thiền Dụng Tâm Ký của Thiền sư Thiệu Cẩn hiệu
Oánh Sơn dòng Tào Động ở Nhật Bản. Chúng tôi phiên dịch và đã cho in chung
trong quyển Tham Thiền Yếu Chỉ xuất bản vào năm 1962, hiện đã hết.
Tác phẩm thứ năm là Tham Thiền Yếu Chỉ của Hòa thượng Hư Vân, một
Thiền sư Trung Hoa gần chúng ta nhất. Trong tác phẩm này, Ngài dạy nghiêng về
thoại đầu theo lối tu sau này của dòng Lâm Tế. Chúng tôi phiên dịch và đã cho
xuất bản năm 1962, hiện đã hết. Để góp lại làm một tài liệu chung cho phương
pháp tu đốn ngộ, chúng tôi cho in chung trong tập này.
Năm tác phẩm trên mới chỉ là một phần rất nhỏ trong các tác phẩm của
Thiền tông. Nếu phiên dịch hết các tác phẩm về Thiền Đốn Ngộ có thể đến cả trăm
quyển thế này. Vì phương tiện có hạn, chúng tôi cố gắng làm được bao nhiêu thì
mừng bấy nhiêu. Điều cần yếu là độc giả khéo nghiền ngẫm để lãnh hội. Một câu
mà lãnh hội được thì tất cả đều thông.Nếu đọc cả trăm quyển mà không lãnh hội
được vẫn là người đứng ngoài cửa. Một thông tất cả đều thông thì còn nói gì
nhiều gì ít ? Thế nên quý ở chỗ lãnh hội, chớ không quý ở chỗ đọc nhiều. Tuy thế,
người không lãnh hội được, mà đọc nhiều sách Thiền hoặc đọc nhiều lần, lâu ngày
cơ duyên thuần thục tự nhiên lãnh hội.
Về phần lượng, quyển sách này chưa thấm vào đâu; song phần phẩm, nó
thật đáng kể. Nếu là độc giả nghiền nát được văn tự, có thể con đường đốn ngộ
không xa. Nếu là hành giả thì nương vào đây làm kim chỉ nam tiến bước, bảo sở
không mong cũng sẽ đến.
THÍCH THANH TỪ
TU VIỆN CHÂN KHÔNG
Mùa An Cư 1974
THIỀN SƯ HUYỀN GIÁC
��
LỜI DỊCH GIẢ
Quyển Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn là một quyển luận nhỏ, nếu căn cứ
phần lượng mà nói thì không thấm vào đâu đối với tam tạng giáo điển, nếu nhìn
vào phẩm mà bàn là một viên ngọc quý vô giá của Thiền tông nói riêng, của Phật
giáo Đại thừa nói chung. Vì thế, sau khi xem nó, Mã Tổ bảo chúng “Việt Châu có
Đại Châu tròn sáng thấu suốt tự tại không ngại”. Đành rằng Mã Tổ nói Đại Châu
là ngầm ý chỉ Thiền sư Tuệ Hải, song sự thâm ngộ của Thiền sư Tuệ Hải được bày
hiện dưới mắt Mã Tổ qua quyển luận nhỏ này.
Tên Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn nghĩa là “Cửa trọng yếu chóng ngộ vào
đạo”. Người tu hành muốn được mau ngộ tất nhiên phải bước vào cửa này, chớ
không còn cửa nào khác. Bởi vì cửa này là cửa tiến thẳng vào thẳng không quanh
co, không mượn nhiều phương tiện. Tiến thẳng vào thẳng cái gì ? – Tiến thẳng đến
vô sanh, vào thẳng Phật tánh. Những pháp tu khác hầu hết đều chỉ dạy từ từ, từ
thấp lên cao, từ cạn vào sâu. Duy pháp Đốn Ngộ này : “Ngay nơi sanh diệt nhận
vô sanh, ngay nơi phàm phu thấy được Phật tánh”. Ta hãy nghe trong đây định
nghĩa Thiền định : “Vọng niệm chẳng sanh là Thiền. Ngồi thấy bản tánh là Định”.
Thiền không có nghĩa là ngồi, mà trong bốn oai nghi tâm đều thanh tịnh sáng suốt
không có một vọng niệm dấy khởi. Định không có nghĩa chú tâm vào một cảnh,
mà thấy được bản tánh của mình. Bản tánh tức là Phật tánh hay chân tâm. Bản
tánh không sanh không diệt, nên tâm không chạy theo cảnh sanh diệt. Định ấy mới
thật chân định.
Pháp tu Đốn Ngộ này thật đơn giản, mà rất siêu việt. Vì lời dạy rất bình dị
nằm gọn trong một vài câu là đủ tu giải thoát. Như một câu trong đây : “Việc đến
chẳng nhận, tất cả chỗ không tâm”. Mới đọc qua chúng ta thấy nó rất tầm thường,
song nhận xét kỹ sẽ thấy nó hiện đầy đủ “Như Lai Thanh Tịnh Thiền” hay “Kim
Cang Tam-muội ”, “Pháp Hoa Tam-muội” v.v… Thật vậy, “Việc đến chẳng nhận”
tức là tám gió thổi chẳng động. Bởi vì việc lợi, việc suy, việc hủy nhục, việc đề
cao, việc khen ngợi, việc chê bai, việc khổ, việc vui đến, tâm đều không chấp nhận.
Do tâm không chấp nhận nên không động, mà luôn luôn an nhiên trước mọi cảnh.
Thế không phải Đại định là cái gì ? “Tất cả chỗ không tâm”, tức là trong mọi
trường hợp, mọi thời gian không khi nào phóng tâm chạy theo ngoại cảnh. Tâm
không theo cảnh là tâm như như hay là Đại Bát-nhã. Thế là đầy đủ Như Lai Thiền
rồi.
Bởi lời dạy cao siêu chắc thật này, nên Thiền sư Tuệ Hải dám đoan quyết
với chúng ta rằng : “Các ông nếu y theo lời dạy đây tu, mà chẳng được giải thoát,
tôi xin trọn đời thay các ông chịu tội trong Đại địa ngục”. Thiền sư đã khéo dùng
lời vấn đáp để chỉ dạy cho chúng ta dễ trực nhận, mà lại còn dám cam đoan y đó tu
hành sẽ được giải thoát, bằng không Ngài sẽ chịu tội địa ngục thế cho chúng ta.
Thật còn gì đại bi bằng. Nếu chúng ta đủ duyên cầm trên tay quyển luận này mà
không chịu y đó tu hành, thật là chúng ta đã cô phụ ơn Ngài !
Khi phiên dịch quyển luận này, chúng tôi mong quý độc giả cùng chúng tôi
đồng nỗ lực tiến thẳng đường chim mà chư Phật chư Tổ nói chung, Thiền sư Tuệ
Hải nói riêng, đã vạch và đã đi. Mong thay !
Kính ghi
Dịch giả : THÍCH THANH TỪ
TU VIỆN CHÂN KHÔNG
Cuối Xuân Tân Hợi (1971)
��
TIỂU SỬ: THIỀN SƯ TUỆ HẢI (ĐẠI CHÂU)
Sư họ Châu quê ở Kiến Châu, theo Hòa thượng Đạo Trí chùa Đại Vân ở
Việt Châu xuất gia học đạo.
Sơ khởi, Sư đến tham vấn Mã Tổ (Thiền sư Đạo Nhất). Mã Tổ hỏi :
- Từ đâu đi đến ?
Sư thưa :
- Ở Việt Châu chùa Đại Vân đến.
- Đến đây tính cầu việc gì ?
- Đến cầu Phật pháp.
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì ? Ta trong
ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì ?
Sư lễ bái thưa :
- Cái gì là kho báu nhà mình của Tuệ Hải ?
- Chính nay ngươi hỏi ta là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu
thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.
Ngay câu nói này, Sư tự nhận bản tâm không do hiểu biết, vui mừng lễ tạ.
Sư ở lại đây hầu Mã Tổ sáu năm.
Sau vì bổn sư tuổi già, Sư phải về phụng dưỡng. Từ đây, Sư tàng ẩn chỗ
thâm ngộ của mình, hiện bề ngoài như kẻ tầm thường. Sư thầm soạn quyển Đốn
Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn này, bị Huyền Ấn là cháu trong Pháp môn lén lấy đem
trình Mã Tổ.
Mã Tổ xem xong, bảo đại chúng :
- Việt Châu có Đại Châu (hạt châu lớn) tròn sáng thấu suốt, tự tại không
ngại.
Khi ấy, ở trong chúng có người biết Sư họ Châu bèn rủ nhau lần lượt tìm
đến thưa hỏi và nương tựa. Từ đó, người ta gọi Sư là Hòa thượng Đại Châu.
Sư từng từ chối không chịu chỉ dạy, nhưng chúng cứ khư khư theo hầu, bất
đắc dĩ Sư phải dùng biện tài vô ngại để giáo hóa.
��
ĐỐN NGỘ NHẬP ĐẠO YẾU MÔN
Cúi đầu đảnh lễ chư Phật khắp mười phương, các chúng Bồ-tát lớn. Nay
con soạn luận này, sợ e không hợp tâm Phật, xin cho con sám hối; nếu hợp tâm
Phật, trọn đem bố thí tất cả hữu tình, nguyện đời sau đều được thành Phật.
*
Hỏi : Phải tu pháp gì chóng được giải thoát ?
Đáp : Chỉ có một môn đốn ngộ là chóng được giải thoát.
- Thế nào là đốn ngộ ?
- Đốn là chóng trừ vọng niệm. Ngộ là ngộ không chỗ được.
- Từ cái gì mà tu ?
- Từ căn bản mà tu.
- Thế nào từ căn bản mà tu ?
- Tâm là căn bản.
- Làm sao biết tâm là căn bản ?
- Kinh Lăng-già nói : “Tâm sanh thì các thứ pháp sanh, tâm diệt thì các thứ
pháp diệt”. Kinh Duy-ma nói : “Muốn được tịnh độ, phải tịnh tâm ấy, tùy tâm ấy
tịnh là Phật độ tịnh”. Kinh Di Giáo nói : “Chỉ kềm tâm một chỗ không việc gì
chẳng xong”. Kinh nói : “Thánh nhân cầu tâm chẳng cầu Phật, ngu nhân cầu Phật
chẳng cầu tâm, trí nhân điều tâm chẳng điều thân, ngu nhân điều thân chẳng điều
tâm”. Kinh Phật Danh nói : “Tội từ tâm sanh lại từ tâm diệt”. Thế nên biết, tất cả
thiện ác đều do tâm mình, do đó nói tâm là căn bản.
Nếu người cầu giải thoát trước phải biết căn bản. Nếu chẳng đạt được lý
này, luống uổng nhọc công, từ nơi tướng bên ngoài mà cầu, thật không thể được.
Kinh Thiền Môn nói : “Từ nơi tướng bên ngoài mà cầu, dù trải qua nhiều kiếp trọn
không thể thành. Từ giác quán (xét soi) bên trong mà tu, bằng khoảng một niệm
liền chứng Bồ-đề”.
- Tu căn bản phải lấy pháp gì để tu ?
- Chỉ tọa thiền, thiền định liền được. Kinh Thiền Môn nói : “Cầu trí Thánh
của Phật, cốt phải thiền định. Nếu không thiền định, thì niệm tưởng xao động, phá
hoại căn lành kia”.
- Thế nào là thiền ? Sao là định ?
- Vọng niệm chẳng sanh là thiền. Ngồi thấy bản tánh là định. Bản tánh là
tâm vô sanh của ông vậy. Định là đối cảnh tâm không sanh, tám gió thổi chẳng
động. Tám gió là: lợi (tài lợi), suy (suy hao), hủy (hủy nhục), dự (đề cao), xưng
(khen ngợi), cơ (chê bai), khổ (đau khổ), lạc (vui vẻ). Nếu người được định như
thế, tuy là phàm phu mà liền vào vị Phật. Vì sao ? Vì kinh Bồ-tát Giới nói :
“Chúng sanh thọ Phật giới, liền vào ngôi vị chư Phật”. Người được như thế gọi là
giải thoát, cũng gọi đến bờ kia, hơn lục độ, vượt khỏi tam giới, là Bồ-tát đại lực, là
bậc Tôn vô lượng lực, là đại trượng phu.
*
- Tâm trụ chỗ nào là trụ ?
- Tâm trụ chỗ không trụ là trụ.
- Thế nào là chỗ không trụ ?
- Chẳng trụ tất cả chỗ, ấy là trụ chỗ không trụ.
- Thế nào là chẳng trụ tất cả chỗ ?
- Chẳng trụ tất cả chỗ là : Chẳng trụ nơi lành dữ, có không, trong ngoài,
chặng giữa, chẳng trụ không, cũng chẳng trụ chẳng không, chẳng trụ định, cũng
chẳng trụ chẳng định, tức là chẳng trụ tất cả chỗ. Chỉ cái chẳng trụ tất cả chỗ, ấy là
chỗ trụ. Người được như thế, gọi là tâm không trụ. Tâm không trụ là tâm Phật.
- Tâm ấy giống vật gì ?
- Tâm ấy chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, chẳng phải dài ngắn tới lui, chẳng
nhơ chẳng sạch, chẳng sanh chẳng diệt, yên tịnh thường lặng lẽ. Đó là hình tướng
của bản tâm, cũng là bản thân. Bản thân là thân Phật.
*
- Thân tâm này lấy cái gì để thấy ? Lấy mắt thấy, lấy tai, mũi và thân tâm
v.v… để thấy chăng ?
- Cái thấy này không phải như các thứ thấy đó.
- Đã không như các thứ thấy đó, là lấy cái gì thấy ?
- Là tự tánh thấy. Vì sao ? Vì tự tánh (tánh của mình) xưa nay trong sạch
yên tịnh không lặng, chính trong cái thể không lặng ấy hay sanh cái thấy này.
- Chỉ như thể thanh tịnh còn không thể có, thì cái thấy này từ đâu mà có ?
- Ví như trong gương sáng tuy không có hình tượng, mà có thể thấy tất cả
hình tượng. Vì sao ? Vì gương sáng không tâm. Người học đạo nếu tâm không có
chỗ nhiễm, vọng tâm chẳng sanh, tâm ngã sở (tâm chấp mình và sự vật của mình)
diệt, tự nhiên được thanh tịnh, vì thanh tịnh nên hay sanh cái thấy này.
Kinh Pháp Cú nói : “Trong cứu cánh không, rõ ràng dựng lập, ấy là thiện tri
thức”.
*
- Kinh Niết-bàn trong phẩm Kim Cang Thân nói : “Không thể thấy mà thấy
rõ ràng, không có biết mà không chẳng biết” là thế nào ?
- Không thể thấy, vì cái thể của tự tánh không hình tướng, không thể có,
nên nói : “Không thể thấy”. Song cái thấy không thể được đó, thể nó yên tịnh lặng
lẽ, không có tới lui, chẳng lìa dòng đời, mà dòng đời không lôi cuốn được nó, thản
nhiên tự tại, tức là thấy rõ ràng.
Không có biết, vì tự tánh không hình, vốn không phân biệt, nên nói “không
có biết”. Không chẳng biết, vì trong cái thể không phân biệt ấy đầy đủ hằng sa
diệu dụng. Hay phân biệt tất cả, thì không việc gì chẳng biết, nên nói “không
chẳng biết”. Kệ Bát-nhã nói : “Bát-nhã không biết, không việc gì chẳng biết; Bátnhã
không thấy, không chỗ nào chẳng thấy”.
- Kinh nói : “Chẳng thấy có không là chân giải thoát”. Thế nào là chẳng
thấy có không ?
- Khi chứng được tâm thanh tịnh gọi là có, trong đó chẳng sanh cái tưởng
được tâm thanh tịnh, gọi là chẳng thấy có. Được cái tưởng không sanh không trụ,
mà không khởi tưởng được không sanh không trụ, gọi là chẳng thấy không, nên
nói chẳng thấy có không. Kinh Lăng Nghiêm nói : “Biết thấy lập biết là gốc vô
minh, biết thấy không thấy, đây là Niết-bàn”. Cũng gọi là giải thoát.
*
- Thế nào là không có chỗ thấy ?
- Nếu thấy kẻ nam người nữ và tất cả màu sắc hình tượng, mà ở trong đó
không khởi tâm yêu ghét thì cùng không thấy chẳng khác, ấy là không có chỗ thấy.
- Khi đối tất cả màu sắc hình tượng thì gọi là thấy, khi chẳng đối màu sắc
hình tượng cũng gọi là thấy chăng ?
- Gọi thấy !
- Khi đối vật là có thấy, khi không đối vật làm sao có thấy ?
- Nay nói thấy, không luận đối vật cùng chẳng đối vật. Vì sao ? Vì tánh
thấy thường hằng, khi có vật thì thấy vật, khi không vật thì thấy không. Thế nên
biết, vật tự có đi lại, tánh thấy không có đi lại, các căn (tai, mũi, lưỡi, thân…) cũng
như vậy.
- Ngay khi thấy vật, trong cái thấy có vật chăng ?
- Trong cái thấy chẳng lập vật.
- Ngay khi thấy không vật, trong cái thấy có không vật chăng ?
- Trong cái thấy chẳng lập không vật.
*
- Khi có tiếng là có nghe, khi không tiếng lại được nghe chăng ?
- Cũng nghe.
- Khi có tiếng là từ tiếng có nghe, khi không tiếng làm sao được nghe ?
- Nay nói nghe chẳng luận có tiếng không tiếng. Vì sao ? Vì tánh nghe
thường hằng. Khi có tiếng liền nghe, khi không tiếng cũng nghe.
- Người nghe như thế là ai ?
- Là tánh nghe của mình, cũng gọi là người biết nghe.
*
- Môn đốn ngộ này lấy gì làm Tông (chủ) ? Lấy gì làm Chỉ (chỉ thú) ? Lấy
gì làm Thể ? Lấy gì làm Dụng ?
- Lấy vô niệm (tâm không dấy khởi) làm Tông. Vọng tâm chẳng khởi làm
Chỉ. Lấy thanh tịnh làm Thể. Lấy trí làm Dụng.
- Đã nói vô niệm làm Tông, chưa biết vô niệm là vô niệm nào ?
- Vô niệm là không tà niệm, chớ chẳng phải không chánh niệm.
- Thế nào là tà niệm ? Thế nào là chánh niệm ?
- Niệm có, niệm không là niệm tà, chẳng niệm có không là niệm chánh;
niệm thiện, niệm ác là niệm tà, chẳng niệm thiện ác là niệm chánh; cho đến niệm
khổ vui, sanh diệt, thủ xả, oán thân, yêu ghét thảy đều là niệm tà, chẳng niệm khổ
vui… là niệm chánh.
- Thế nào là chánh niệm ?
- Chánh niệm là chỉ niệm Bồ-đề .
- Bồ-đề có thể được chăng ?
- Bồ-đề không thể được.
- Đã không thể được làm sao chỉ niệm Bồ-đề ?
- Bồ-đề chỉ là danh tự giả lập, thật không thể được. Cũng không có trước
sau được. Vì không thể được nên không có niệm. Chỉ cái không niệm ấy gọi là
chân niệm. Bồ-đề không có chỗ niệm. Không có chỗ niệm tức là tất cả chỗ không
tâm, ấy là không có chỗ niệm.
Những lối giải vô niệm như trên, đều là tùy sự phương tiện giả lập danh tự,
vẫn đồng một thể, không hai không khác. Cốt biết tất cả chỗ không tâm tức là “vô
niệm”. Khi được vô niệm thì tự nhiên giải thoát.
*
- Thế nào là hành hạnh Phật ?
- Chẳng hành tất cả hạnh là hành hạnh Phật, cũng gọi là hạnh chánh, cũng
gọi là hạnh Thánh. Như trước đã nói, chẳng hành có không, yêu ghét v.v… ấy vậy.
Đại luật quyển năm phẩm Bồ-tát nói : “Tất cả Thánh nhân chẳng hành hạnh chúng
sanh, chẳng hành hạnh chúng sanh là hạnh Thánh”.
*
- Thế nào là chánh kiến ?
- Thấy mà không có chỗ thấy là chánh kiến.
- Thế nào thấy mà không có chỗ thấy ?
- Khi thấy tất cả sắc không khởi nhiễm trước. Không nhiễm trước thì không
khởi tâm yêu ghét, ấy là thấy mà không có chỗ thấy. Nếu khi được thấy mà không
có chỗ thấy gọi là con mắt Phật, trọn không có con mắt khác. Nếu khi thấy tất cả
sắc khởi yêu ghét, ấy là có chỗ thấy. Có chỗ thấy là con mắt chúng sanh, trọn
không có con mắt khác làm con mắt chúng sanh, cho đến các căn cũng lại như thế.
*
- Nói lấy Trí làm Dụng, thế nào là Trí ?
- Biết hai tánh không tức là giải thoát. Biết hai tánh chẳng không, thì không
được giải thoát. Ấy gọi là Trí, cũng gọi là rõ tà chánh, cũng gọi hiểu Thể Dụng.
Hai tánh không là Thể, biết hai tánh không là giải thoát. Lại không sanh nghi gọi
là Dụng. Nói hai tánh không là chẳng sanh tâm có không, lành dữ, yêu ghét vậy.
*
- Môn này từ đâu mà vào ?
- Từ bố thí ba-la-mật mà vào.
- Phật nói sáu pháp ba-la-mật (đến bờ kia hay được cứu cánh) là hạnh của
Bồ-tát, tại sao ở đây chỉ nói riêng bố thí ba-la-mật thì đâu thể đầy đủ mà được vào ?
- Người mê không biết năm độ kia (trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí tuệ) đều nhân bố thí mà sanh. Chỉ tu bố thí thì sáu pháp đều đầy đủ.
- Bố thí vật gì ?
- Bố thí là bỏ hai tánh.
- Thế nào là hai tánh ?
- Bố thí là bỏ tánh thiện ác, bố thí là bỏ tánh có không, tánh yêu ghét, tánh
không chẳng không, tánh định chẳng định, tánh tịnh bất tịnh, tất cả đều cho bỏ hết
thì được hai tánh không. Nếu khi được hai tánh không, cũng chẳng được khởi
tưởng hai tánh không, cũng chẳng được khởi nghĩ tưởng có bố thí, tức là chân thật
hành bố thí ba-la-mật, cũng gọi là muôn duyên đều bặt. Muôn duyên đều bặt, tức
là tất cả pháp tánh không ấy vậy. Pháp tánh không là tất cả chỗ không tâm. Nếu
khi được tất cả chỗ không tâm là không có một tướng có thể được. Vì sao ? Vì tự
tánh không, nên không một tướng có thể được. Không một tướng có thể được là
tướng thật. Tướng thật là tướng Như Lai diệu sắc thân. Kinh Kim Cang nói : “Lìa
tất cả các tướng gọi là chư Phật”.
- Phật nói sáu ba-la-mật, tại sao nay chỉ nói một, cho là đầy đủ, xin nói
nguyên nhân một gồm đủ sáu pháp ?
- Kinh Tư Ích nói : “Ngài Võng Minh gọi Phạm thiên nói : Nếu Bồ-tát bỏ
tất cả phiền não gọi là Bố thí ba-la-mật. Nơi các pháp không có chỗ dính mắc gọi
là Trì giới ba-la-mật. Nơi các pháp không có chỗ xâm phạm gọi là Nhẫn nhục bala-
mật. Nơi các pháp lìa tướng gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Nơi các pháp không có
chỗ trụ gọi là Thiền định ba-la-mật. Nơi các pháp không hý luận (nói trò đùa vô
nghĩa) là Trí tuệ ba-la-mật”. Đó gọi là sáu pháp. Nay nói sáu pháp này chẳng khác,
vì tóm lược pháp thứ nhất là bỏ, thứ hai là không khởi, thứ ba là không niệm, thứ
tư là lìa tướng, thứ năm là không trụ, thứ sáu là không hý luận. Sáu pháp như thế,
tùy việc phương tiện tạm đặt tên, chớ đến chỗ diệu lý thì không hai không khác.
Chỉ biết một bỏ thì tất cả đều bỏ, không khởi thì tất cả đều không khởi. Trên
đường mê lầm không khế hội ắt cho có sai khác. Người ngu mắc kẹt trong pháp số,
nên trôi lăn mãi trong sanh tử. Bảo cho các người học đạo, chỉ tu pháp Bố thí là
tròn đầy muôn pháp, huống là năm pháp mà chẳng đủ sao ?
*
- Tam học đẳng dụng, cái gì là tam học ? Thế nào là đẳng dụng ?
- Tam học là giới định tuệ.
- Nghĩa giới định tuệ thế nào ?
- Thanh tịnh không nhiễm là Giới. Biết tâm chẳng động, đối cảnh vắng lặng
là Định. Khi biết tâm chẳng động mà chẳng sanh tưởng chẳng động, khi biết tâm
thanh tịnh mà chẳng sanh tưởng thanh tịnh, cho đến thiện ác đều hay phân biệt, mà
ở trong ấy không nhiễm, được tự tại, ấy gọi là Tuệ.
Nếu khi biết thể của giới định tuệ đều không thể được, thì không phân biệt,
là đồng một thể, ấy gọi là tam học đẳng dụng.
*
- Nếu khi tâm trụ tịnh, chẳng phải chấp tịnh sao ?
- Khi được trụ tịnh, mà chẳng khởi tưởng trụ tịnh, ấy là không chấp tịnh.
- Tâm khi trụ không, chẳng phải chấp không chăng ?
- Nếu khởi tưởng không, gọi là chấp không.
- Nếu khi tâm được trụ chỗ không trụ, chẳng phải chấp chỗ không chỗ trụ
sao ?
- Chỉ cái khởi tưởng không là không có chỗ chấp. Nếu ông muốn thấu rõ,
hiểu được tâm không có chỗ trụ, thì khi ngồi ngay thẳng chỉ biết tâm, chớ suy nghĩ
tất cả vật, tất cả thiện ác đều chớ suy nghĩ, vì việc quá khứ đã đi rồi, chớ suy nghĩ,
thì tâm quá khứ tự bặt, gọi là không việc quá khứ. Việc vị lai chưa đến, chớ mong
chớ cầu, thì tâm vị lai tự bặt, gọi là không việc vị lai. Việc hiện tại đã hiện tại, đối
tất cả việc chỉ biết không chấp, không chấp là chẳng khởi tâm yêu ghét, thì tâm
hiện tại bặt, gọi là không việc hiện tại. Không nhiếp thuộc ba thời, cũng gọi không
ba thời. Nếu khi tâm khởi đi thì chớ theo đi, tâm đi tự bặt. Nếu khi tâm khởi đứng
cũng chớ theo đứng, tâm đứng tự bặt. Ấy là tâm không trụ, là trụ chỗ không trụ
vậy. Nếu tự biết rõ ràng khi trụ nơi trụ, chỉ có vật trụ cũng không có chỗ trụ, cũng
chẳng không chỗ trụ.
Nếu tự biết rõ ràng tâm chẳng trụ tất cả chỗ, gọi là rõ ràng thấy được bản
tâm, cũng gọi là rõ ràng thấy tánh vậy. Chỉ cái tâm chẳng trụ tất cả chỗ ấy, tức là
tâm Phật, cũng gọi là tâm giải thoát, tâm Bồ-đề, tâm vô sanh, sắc tánh không.
Kinh nói : “chứng vô sanh pháp nhẫn” đó vậy.
Nếu ông khi chưa được như thế, phải cố gắng ! Cố gắng ! Cần dụng công
thêm, khi công thành thì tự hội. Nói hội, là tất cả chỗ không tâm, ấy là hội. Nói
không tâm là không cái tâm giả chớ chẳng phải không tâm chân. Tâm giả là tâm
yêu ghét. Tâm chân thật là tâm không yêu ghét. Chỉ không tâm yêu ghét thì hai
tánh không. Hai tánh không thì tự nhiên giải thoát.
*
- Chỉ lúc ngồi thiền dụng công, khi đi có được dụng công chăng ?
- Nay nói dụng công, chẳng riêng khi ngồi, cho đến đi đứng ngồi nằm, làm
công việc, trong tất cả thời đều thường dụng công không gián đoạn ấy gọi là
thường trụ.
*
- Kinh Phương Quảng nói năm thứ pháp thân :
Thật tướng pháp thân
Công đức pháp thân
Pháp tánh pháp thân
Ứng hóa pháp thân
Hư không pháp thân.
Ngay nơi thân mình là thân nào ?
- Biết tâm chẳng hoại là Thật tướng pháp thân. Biết tâm bao gồm vạn tượng
là Công đức pháp thân. Biết tâm không tâm là Pháp tánh pháp thân. Tùy căn cơ
ứng nói là Ứng hóa pháp thân. Biết tâm không hình không thể được là Hư không
pháp thân. Nếu người thấu rõ nghĩa này là biết không chứng. Người không đắc
không chứng là chứng Phật pháp thân. Nếu có chứng có đắc, cho là chứng được ấy
là người tà kiến tăng thượng mạn, gọi là ngoại đạo. Vì cớ sao ? Kinh Duy-ma nói :
“Xá-lợi-phất hỏi Thiên nữ : Ngươi đã được pháp gì, chứng được pháp gì, mà biện
được như thế ? Thiên nữ đáp : Tôi không được không chứng, mới được như thế;
nếu có được có chứng thì ở trong Phật pháp là người tăng thượng mạn”.
*
- Kinh nói Đẳng giác, Diệu giác, thế nào là Đẳng giác ? Thế nào là Diệu
giác ?
- Tức sắc tức không (“Tức sắc tức không”: là thấy sắc mà không tâm; hoặc thấy
tánh sắc tức là không.) gọi là Đẳng giác. Vì hai tánh không, gọi là Diệu giác. Lại
nữa không giác, không không giác, gọi là Diệu giác.
- Đẳng giác cùng Diệu giác là khác hay chẳng khác?
- Vì tùy sự phương tiện giả lập hai tên, chớ bản thể là một không hai không
khác, cho đến tất cả pháp đều như vậy cả.
*
- Kinh Kim Cang nói : “Không pháp có thể thuyết, ấy gọi là thuyết pháp”,
nghĩa đó thế nào ?
- Thể của Bát-nhã cứu cánh thanh tịnh, không có một vật có thể được, ấy
gọi là “không pháp có thể thuyết”. Ngay trong thể không tịch của Bát-nhã, đầy đủ
diệu dụng như hằng sa, tức là không việc gì chẳng biết, “ấy gọi là thuyết pháp”.
Cho nên nói “không pháp có thể thuyết, ấy gọi là thuyết pháp”.
- Kinh nói : “Có người thiện nam thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, nếu bị
người khinh chê, là người ấy tội nghiệp đời trước lẽ phải sa vào đường ác, do đời
nay bị người khinh chê nên tội nghiệp đời trước liền được tiêu diệt, sẽ được Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”, nghĩa đó thế nào ?
- Như có người chưa gặp đại thiện tri thức chỉ tạo nghiệp ác, bản tâm thanh
tịnh bị ba độc vô minh che lấp không thể lộ bày, cho nên nói lẽ phải sa vào đường
ác. Do đời nay bị người khinh chê, tức là hôm nay phát tâm cầu Phật đạo, khiến vô
minh diệt hết, ba độc chẳng sanh, thì bản tâm sáng suốt, lại không loạn niệm, các
ác hằng dứt sạch nên đời này bị người khinh chê. Vô minh diệt hết, loạn niệm
chẳng sanh, thì tự nhiên giải thoát, nên nói sẽ được Bồ-đề. Chính khi phát tâm gọi
là đời này, chẳng phải cách đời.
- Kinh lại nói : “Như Lai có ngũ nhãn” thế là sao ?
- Thấy sắc thanh tịnh gọi là Nhục nhãn. Thấy thể thanh tịnh gọi là Thiên
nhãn. Đối các cảnh sắc cho đến thiện ác đều hay phân biệt vi tế, không có nhiễm
trước, ở trong ấy được tự tại, gọi là Tuệ nhãn. Thấy không có chỗ thấy gọi là Pháp
nhãn. Không thấy không không thấy gọi là Phật nhãn.
- Lại, kinh nói Đại thừa Tối thượng thừa, nghĩa ấy thế nào ?
- Đại thừa là Bồ-tát thừa, Tối thượng thừa là Phật thừa.
- Tu thế nào để được thừa này ?
- Người tu Bồ-tát thừa tức là Đại thừa. Chứng Bồ-tát thừa rồi, lại không
khởi quán, đến chỗ không tu, yên tịnh thường lặng lẽ, chẳng thêm chẳng bớt, gọi
là Tối thượng thừa, tức là Phật thừa.
*
- Kinh Niết-bàn nói : “Định nhiều tuệ ít chẳng lìa vô minh, định ít tuệ nhiều
thêm lớn tà kiến, định tuệ đồng nhau gọi là giải thoát”. Nghĩa đó thế nào ?
- Đối tất cả thiện ác đều phân biệt là tuệ; đối với cái bị phân biệt chẳng khởi
yêu ghét, chẳng nhiễm trước nó là định, đây là định tuệ đồng dùng vậy.
- Không bàn không nói gọi là định, chính khi bàn nói được gọi là định
chăng ?
- Nay nói định, chẳng luận nói cùng chẳng nói, vẫn thường định. Vì sao ?
Vì khi dùng tánh định nói năng phân biệt thì nói năng phân biệt cũng là định. Nếu
khi dùng tâm Không để quán sắc, thì lúc quán sắc cũng không. Nếu khi chẳng
quán sắc, chẳng nói chẳng phân biệt cũng không. Cho đến thấy nghe hiểu biết
cũng như thế. Vì cớ sao ? Vì tự tánh không thì đối tất cả chỗ đều không. Không thì
không chấp, không chấp là đồng dùng. Bởi Bồ-tát thường dùng pháp đẳng không
(cả thảy đều không) như thế nên được đến cứu cánh. Cho nên nói “định tuệ đồng
nhau gọi là giải thoát”.
Tôi lại vì ông nói thí dụ để hiển bày, khiến ông tỉnh tỉnh, được hiểu dứt
nghi. Ví như gương sáng khi chiếu soi hình tượng, ánh sáng của gương có động
chăng ? – Chẳng động. Lúc chẳng chiếu cũng động chăng ? – Chẳng động. Tại
sao ? - Vì gương sáng dùng ánh sáng vô tình chiếu, nên khi chiếu chẳng động, khi
chẳng chiếu cũng chẳng động. Vì sao ? Bởi trong vô tình không có động, cũng
không có chẳng động.
Lại như ánh sáng mặt trời khi chiếu thế gian, ánh sáng có động chăng ? –
Chẳng động. Nếu khi chẳng chiếu có động chăng ? – Chẳng động. Vì sao ? - Vì
ánh sáng kia vô tình, dùng ánh sáng vô tình chiếu soi, cho nên chẳng động, chẳng
chiếu cũng chẳng động. Chiếu đó là tuệ, chẳng động là định.
Nếu Bồ-tát dùng pháp định tuệ đồng ấy thì được Vô thượng giác. Cho nên
nói “định tuệ đẳng dụng tức là giải thoát”. Nói vô tình là không phàm tình, chẳng
phải không Thánh tình.
- Thế nào là phàm tình ? Thế nào là Thánh tình ?
- Nếu khởi hai tánh (có không, yêu ghét) tức là phàm tình. Hai tánh không
tức là Thánh tình.
*
- Kinh nói : “Bặt đường nói năng, dứt chỗ tâm nghĩ (ngôn ngữ đạo đoạn,
tâm hành xứ diệt). Nghĩa đó thế nào ?
- Dùng lời nói để hiển bày nghĩa, được nghĩa phải bặt lời. Nghĩa tức là
không, không tức là đạo, đạo thì bặt lời, nên nói “bặt đường nói năng”. Dứt chỗ
tâm nghĩ là được nghĩa thực tế (thực tại) thì chẳng khởi quán, vì chẳng khởi quán
nên vô sanh, vì vô sanh nên tất cả tánh sắc đều không, vì tánh sắc không nên muôn
duyên đều dứt, muôn duyên đều dứt, ấy là “dứt chỗ tâm nghĩ”.
*
- Như như là thế nào ?
- Như như là nghĩa chẳng động. Tâm chân như nên gọi là như như. Thế nên
biết chư Phật quá khứ hành hạnh này được thành đạo; Phật hiện tại hành hạnh này
cũng được thành đạo; Phật vị lai hành hạnh này cũng được thành đạo. Ba đời chư
Phật chỗ tu và chứng đạo không khác, nên nói như như. Kinh Duy-ma nói : “Chư
Phật cũng như, Di Lặc cũng như, cho đến tất cả chúng sanh thảy đều như”. Vì sao?
- Vì Phật tánh chẳng dứt, bởi có tánh vậy.
*
- Tức sắc tức không, tức phàm tức thánh, phải đốn ngộ chăng ?
- Phải.
- Thế nào là tức sắc tức không, tức phàm tức thánh ?
- Tâm có nhiễm tức sắc, tâm không nhiễm tức không, tâm có nhiễm tức
phàm, tâm không nhiễm tức Thánh. Lại, chân không mà diệu hữu là tức sắc, sắc
không có thật là tức không. Nay nói không là tánh sắc tự không, chẳng phải sắc
diệt mới không. Nói sắc là tánh không tự có sắc, không phải sắc hay làm sắc.
*
- Kinh nói : Pháp môn tận (hết) vô tận (không hết) là thế nào ?
- Vì hai tánh Không nên thấy nghe không sanh là tận (hết). Tận là các lậu
(nguyên nhân sanh tử) hết. Vô tận là ở trong thể vô sanh đầy đủ hằng sa diệu dụng,
tùy việc ứng hiện thảy đều đầy đủ, mà trong bản thể cũng không tổn giảm gọi là
vô tận. Ấy là pháp môn tận vô tận vậy.
- Tận cùng vô tận, là một hay khác ?
- Thể là một, nói thì có khác.
- Thể là một tại sao nói có khác ?
- Một là thể của nói, nói là dụng của thể. Vì tùy sự ứng dụng, nên nói thể
đồng mà nói thì khác. Ví như trên trời có một mặt nhật, dưới đất để các thứ chậu
chứa nước đầy, trong mỗi chậu đều thấy có mặt nhật. Các mặt nhật trong chậu
thảy đều tròn đầy cùng mặt nhật trên trời không sai biệt, nên nói thể đồng. Vì tùy
chậu đặt tên nên có sai biệt, do đó có khác. Cho nên bảo thể đồng, nói thì có khác.
Các mặt nhật hiện trong chậu đều tròn đầy, so với mặt nhật chánh trên trời không
có thua kém, nên nói “vô tận”.
- Kinh nói : “Chẳng sanh chẳng diệt”, pháp gì chẳng sanh ? Pháp gì chẳng
diệt ?
- Pháp ác chẳng sanh, pháp thiện chẳng diệt.
- Thế nào là ác ? Thế nào là thiện ?
- Tâm nhiễm lậu (ô nhiễm và trầm luân) là ác. Tâm không nhiễm lậu là
thiện. Chỉ không nhiễm không lậu thì pháp ác chẳng sanh. Khi được không nhiễm
không lậu thì thanh tịnh tròn sáng, lóng yên thường lặng, cứu cánh không dời đổi,
ấy gọi là pháp thiện chẳng diệt. Đây tức là chẳng sanh chẳng diệt vậy.
*
- Trong Bồ-tát Giới nói : “Chúng sanh thọ Phật giới liền vào vị chư Phật, vị
đồng bậc Đại giác rồi, mới thật là con Phật”, nghĩa này thế nào ?
- Phật Giới là tâm thanh tịnh đó vậy. Nếu có người phát tâm tu hành hạnh
thanh tịnh, được tâm không có chỗ thọ, gọi là thọ Phật giới. Chư Phật đời quá khứ
đều tu hạnh không thọ thanh tịnh, được thành Phật đạo. Thời nay có người phát
tâm tu hạnh không thọ thanh tịnh thì cùng chư Phật đồng công đức đẳng dụng
không khác, cho nên nói “vào vị chư Phật”. Như thế, được giác ngộ cùng Phật giác
ngộ đồng. Cho nên nói “vị đồng bậc Đại giác rồi, mới thật là con Phật”. Từ tâm
thanh tịnh sanh trí, trí thanh tịnh gọi là con chư Phật, cũng gọi là thật con Phật.
*
- Nói Phật với Pháp, là Phật có trước hay Pháp có trước ? Nếu Pháp có
trước thì Pháp ấy do Phật nào nói? Nếu Phật có trước thì nương giáo pháp nào
được thành đạo?
- Phật cũng có trước Pháp, cũng có sau Pháp.
- Nhân đâu nói Phật, Pháp có trước sau ?
- Nếu căn cứ Pháp tịch diệt mà nói thì Pháp trước Phật sau. Nếu căn cứ
Pháp văn tự mà nói thì Phật trước Pháp sau. Vì cớ sao ? - Vì tất cả chư Phật đều
nhân nơi Pháp tịch diệt mà được thành Phật, tức là Pháp trước Phật sau.
Kinh nói : “Làm thầy chư Phật, ấy là Pháp vậy”. Sau khi thành đạo rồi, Phật
mới nói rộng mười hai bộ kinh dẫn dắt giáo hóa chúng sanh, chúng sanh nương
nơi pháp Phật giáo hóa tu hành được thành Phật, ấy là Phật trước Pháp sau.
*
- Thế nào là thuyết thông tông chẳng thông ?
- Nói và làm trái nhau, tức là thuyết thông tông chẳng thông.
- Thế nào là tông thông thuyết cũng thông ?
- Nói và làm không sai biệt, tức là thuyết thông tông cũng thông.
- Kinh nói : “Pháp đến chẳng đến, chẳng đến đến” là thế nào ?
- Nói đến mà làm chẳng đến, gọi là đến chẳng đến. Làm đến mà nói chẳng
đến, gọi là chẳng đến đến. Làm nói đều đến, gọi là đến đến.
*
- Phật pháp chẳng hết hữu vi, chẳng trụ vô vi. Thế nào là chẳng hết hữu vi ?
Thế nào là chẳng trụ vô vi ?
- Chẳng hết hữu vi là từ mới phát tâm cho đến ở dưới cội Bồ-đề thành Đẳng
chánh giác, sau đến Song lâm vào Niết-bàn, trong khoảng giữa đó tất cả pháp đều
không bỏ. Ấy là chẳng hết hữu vi.
Chẳng trụ vô vi là tuy tu vô niệm mà chẳng dùng vô niệm làm chỗ chứng.
Tuy tu Không mà chẳng lấy Không làm chỗ chứng. Tuy tu Bồ-đề Niết-bàn vô
tướng vô tác, mà chẳng dùng vô tướng vô tác làm chỗ chứng. Ấy là chẳng trụ vô
vi.
*
- Có địa ngục hay không có địa ngục ?
- Cũng có cũng không.
- Tại sao cũng có cũng không ?
- Vì tùy tâm tạo tất cả nghiệp ác thì có địa ngục. Nếu tâm không nhiễm, vì
tự tánh Không thì không địa ngục.
*
- Chúng sanh chịu tội có Phật tánh chăng ?
- Cũng đồng Phật tánh.
- Đã có Phật tánh thì chính khi vào địa ngục Phật tánh đồng vào chăng ?
- Chẳng đồng vào.
- Vậy chính khi chúng sanh vào địa ngục Phật tánh ở chỗ nào ?
- Cũng đồng vào.
- Đã đồng vào thì khi chúng sanh chịu tội Phật tánh cũng đồng chịu tội
chăng ?
- Phật tánh tuy theo chúng sanh đồng vào, mà chúng sanh chịu tội khổ, Phật
tánh xưa nay vẫn không chịu.
- Đã đồng vào nhân đâu chẳng chịu ?
- Chúng sanh là có tướng, có tướng thì có thành hoại, Phật tánh là không
tướng, không tướng thì tánh Không. Thế nên, tánh chân không không có hoại. Ví
như có người chất củi trong hư không, củi lâu ngày bị mục, hư không chẳng mục.
Hư không dụ Phật tánh, củi dụ chúng sanh. Vì thế, nói đồng vào mà không đồng
chịu.
*
- Chuyển tám thức thành bốn trí, rút bốn trí thành ba thân, vậy mấy thức
chung thành một trí, mấy thức riêng thành một trí ?
- Mắt tai mũi lưỡi thân, năm thức này chung thành Thành sở tác trí. Ý thức
thứ sáu riêng thành Diệu quan sát trí. Tâm thức thứ bảy riêng thành Bình đẳng
tánh trí. Thức hàm tàng thứ tám riêng thành Đại viên cảnh trí.
- Bốn trí này là khác hay đồng ?
- Thể đồng mà tên khác.
- Thể đã đồng tại sao tên khác ?
- Vì tùy sự đặt tên (Câu đáp này trong bản văn thiếu, dịch giả thêm cho đủ
nghĩa.)
- Đã tùy sự đặt tên thì khi một thể, cái gì là Đại viên cảnh trí ?
- Yên tịnh không lặng tròn sáng chẳng động là Đại viên cảnh trí. Đối các
trần không khởi yêu ghét tức là hai tánh Không, hai tánh Không là Bình đẳng tánh
trí. Hay vào cảnh giới các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) khéo phân biệt mà chẳng
khởi loạn tưởng, được tự tại là Diệu quan sát trí. Hay khiến các căn tùy sự ứng
dụng, thảy vào Chánh định, không có hai tướng là Thành sở tác trí.
- Rút bốn trí làm ba thân, bao nhiêu trí chung làm một thân, bao nhiêu trí
riêng làm một thân ?
- Đại viên cảnh trí riêng thành Pháp thân. Bình đẳng tánh trí riêng làm Báo
thân. Diệu quan sát trí cùng Thành sở tác trí chung làm Hóa thân. Ba thân này
cũng giả lập tên để phân biệt, cốt cho người chưa hiểu xem. Nếu người liễu đạt lý
này cũng không có ba thân ứng dụng. Vì sao ? Vì thể tánh không tướng, từ gốc
không trụ mà lập, cũng không có gốc không trụ.
*
- Thế nào là thấy chân thân Phật ?
- Chẳng thấy có không, là thấy chân thân Phật.
- Thế nào là chẳng thấy có không, là thấy chân thân Phật ?
- Có nương nơi không mà lập, không nương nơi có mà hiển bày, vốn chẳng
lập có thì không đâu còn. Đã chẳng còn không thì có từ đâu mà có. Có với không
làm nhân cho nhau mà có. Đã làm nhân cho nhau mà có thì thảy đều sanh diệt. Chỉ
lìa hai cái thấy này, tức là thấy chân thân Phật.
- Có Không còn không thể được, huống là dựng lập chân thân, thì căn cứ
vào đâu mà lập ?
- Vì có hỏi nên lập. Nếu khi không hỏi thì tên chân thân cũng không thể lập.
Vì sao ? Ví như gương sáng nếu khi đối vật tượng tức hiện hình tượng, nếu khi
chẳng đối vật tượng trọn chẳng thấy hình tượng.
*
- Thế nào là thường chẳng rời Phật ?
- Tâm không khởi diệt, đối cảnh vắng lặng, trong tất cả thời cứu cánh
không tịch, tức là thường chẳng rời Phật.
*
- Thế nào là pháp vô vi ?
- Là hữu vi vậy.
- Nay hỏi pháp vô vi nhân sao đáp hữu vi?
- Hữu nhân vô mà lập, vô nhân hữu mà hiển. Vốn chẳng lập hữu thì vô từ
đâu mà sanh. Nếu luận về chân vô vi là chẳng chấp hữu vi cũng chẳng chấp vô vi,
ấy là pháp chân vô vi. Vì cớ sao ? Kinh nói : “Nếu chấp tướng pháp là chấp ngã
nhân, nếu chấp tướng phi pháp là chấp ngã nhân. Thế nên, chẳng nên chấp pháp,
chẳng nên chấp phi pháp” tức là được chân pháp vậy. Nếu thấu rõ được lý này là
chân giải thoát, là hội được pháp môn bất nhị.
- Thế nào là nghĩa trung đạo ?
- Nghĩa hai bên vậy.
- Nay hỏi nghĩa trung đạo, tại sao đáp nghĩa hai bên ?
- Hai bên nhân giữa mà lập, giữa nhân hai bên mà sanh. Trước nếu không
có hai bên thì giữa từ đâu mà có ? Nay nói giữa là nhân hai bên mà có. Cho nên
biết, giữa cùng hai bên nhân nhau mà lập, thảy đều vô thường, sắc thọ tưởng hành
thức cũng lại như thế.
*
- Thế nào gọi là năm ấm ?
- Đối sắc nhiễm sắc, theo sắc thọ sanh, gọi sắc ấm. Vì lãnh nạp vào trong
tám gió (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc), ưa tập những thứ tin tà, từ trong sự
lãnh thọ mà sanh, gọi là thọ ấm. Mê tâm chấp tưởng, theo tưởng thọ sanh, gọi là
tưởng ấm. Kết nhóm các hành, theo hành thọ sanh, gọi là hành ấm. Nơi thể bình
đẳng vọng khởi phân biệt dính mắc, theo thức thọ sanh, gọi là thức ấm. Thế nên
gọi là năm ấm
*
- Kinh nói : Hai mươi lăm cõi, thế nào là hai mươi lăm cõi ?
- Là thọ thân đời sau vậy. Thân đời sau là thọ sanh trong sáu đường. Vì
chúng sanh hiện đời tâm mê ưa kết các nghiệp, sau ắt theo nghiệp thọ sanh, cho
nên nói đời sau.
- Ở đời nếu có người chí tâm tu hành được cứu cánh giải thoát, chứng vô
sanh pháp nhẫn, hằng lìa tam giới chẳng thọ thân sau. Người không thọ thân sau là
chứng pháp thân. Pháp thân tức là thân Phật.
- Tên hai mươi lăm cõi làm sao phân biệt ?
- Bản thể là một, vì tùy dụng đặt tên nên có rõ ràng hai mươi lăm cõi. Hai
mươi lăm cõi là mười điều ác, mười điều lành và năm ấm.
- Thế nào là mười điều ác, mười điều lành ?
- Mười điều ác là : Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai
lưỡi, nói hung ác và tham, sân, tà kiến. Mười điều lành là ngược lại chẳng làm
mười điều ác trên.
*
- Trước nói vô niệm mà tôi chưa thông tột ?
- Vô niệm là ở tất cả chỗ mà không tâm, không tất cả cảnh, không có những
nghĩ cầu, đối các cảnh sắc hằng không khởi động. Được vô niệm gọi là chân niệm.
Nếu dùng niệm khởi nghĩ làm niệm là tà niệm, chẳng phải chánh niệm. Vì sao ? Vì
Kinh nói : “Nếu dạy người lục niệm (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới,
niệm thí, niệm Thiên) gọi là phi niệm”. Có lục niệm gọi là tà niệm. Không lục
niệm gọi là chân niệm. Kinh nói : “Này thiện nam ! Chúng ta trụ trong pháp vô
niệm được sắc vàng ba mươi hai tướng như thế, phóng hào quang lớn soi khắp các
thế giới, công đức không thể nghĩ bàn, Phật còn nói chẳng hết, huống là các thừa
mà có thể biết”.
Người được vô niệm, sáu căn không nhiễm, tự nhiên được vào tri kiến chư
Phật. Được như thế, gọi là Phật tạng (kho tàng Phật) cũng gọi là Pháp tạng (kho
tàng Pháp) hay bao gồm tất cả Phật, tất cả Pháp. Vì cớ sao ? Vì vô niệm vậy. Kinh
nói : “Tất cả chư Phật đều từ Kinh này xuất sanh”.
- Đã bảo vô niệm thì câu “Vào tri kiến Phật” từ đâu mà lập ?
- Từ vô niệm lập. Vì sao ? Kinh nói : “Từ gốc vô trụ lập tất cả Pháp”. Lại
nói : “Ví như gương sáng, trong gương tuy không hình tượng mà hay hiện muôn
vàn hình tượng. Vì sao ? Vì gương sáng nên hay hiện muôn vàn hình tượng”.
Người học đạo do tâm không nhiễm nên vọng niệm chẳng sanh, tâm ngã nhân diệt,
cứu cánh thanh tịnh, vì thanh tịnh hay sanh tri kiến vô lượng.
*
- Thế nào là đốn ngộ? (Câu này trong văn không có, e bản chữ Hán sót,
dịch giả thêm vào.)
- Đốn ngộ là ngay trong đời này được giải thoát. Làm sao mà biết ? Ví như
sư tử con, khi mới lọt lòng mẹ quả nhiên là sư tử. Người tu đốn ngộ cũng như thế,
ngay khi tu liền vào vị Phật. Như tre mùa xuân sanh măng, cũng ngay trong mùa
xuân măng bằng tre, đồng không có khác. Vì cớ sao ? Vì trong ruột trống. Người
tu đốn ngộ cũng như thế. Vì chóng trừ vọng niệm hằng dứt ngã nhân, cứu cánh
không tịch, cùng Phật bằng nhau, đồng không có khác. Cho nên nói : “Ngay nơi
phàm là thánh”. Người tu đốn ngộ chẳng rời thân này liền vượt tam giới. Kinh nói :
“Chẳng hoại thế gian mà vượt khỏi thế gian, chẳng xả phiền não mà vào Niết-bàn”.
- Người không tu đốn ngộ thì thế nào ?
- Người không tu đốn ngộ, ví như dã can nhập bầy sư tử, trải trăm ngàn
kiếp trọn chẳng được thành sư tử.
*
- Tánh chân như là thật không hay thật chẳng không? Nếu nói chẳng không
tức là có tướng. Nếu nói không tức là đoạn diệt. Tất cả chúng sanh phải nương vào
đâu tu hành để được giải thoát ?
- Tánh chân như cũng không cũng chẳng không. Vì sao? Vì diệu thể chân
như không hình không tướng không thể được, nên nói cũng không. Song trong thể
Không vô tướng đầy đủ diệu dụng hằng sa, không việc gì chẳng ứng hiện, nên nói
cũng chẳng không. Kinh nói : “Hiểu một tức ngàn theo, mê một tức muôn lầm”.
Nếu người giữ một thì muôn việc đều xong, ấy là diệu thuật ngộ đạo. Kinh nói :
“Sum la và vạn tượng đều do một pháp ấn hiện. Thế nào trong một pháp mà sanh
các thứ kiến ? Vì công nghiệp như thế do hành làm gốc”.
*
Nếu người chẳng chịu hàng phục tâm, y cứ văn nghĩa mà cho là chứng ngộ
thì không thể có. Người chấp như thế, là dối mình dối người, mình người đều đọa.
Phải cố gắng ! Cố gắng ! Xét nét kỹ càng. Chỉ việc đến chẳng nhận, tất cả chỗ
không tâm, người được như thế, liền vào Niết-bàn, chứng vô sanh pháp nhẫn, cũng
gọi là pháp môn bất nhị, cũng gọi vô tránh, cũng gọi nhất hạnh Tam-muội. Vì cớ
sao ? Vì cứu cánh thanh tịnh, không ngã không nhân, chẳng khởi thương ghét, là
hai tánh không, là không có chỗ thấy, tức là hoàn tất cái chân như vô đắc.
*
Quyển luận này chẳng truyền cho người không tin, chỉ truyền cho người
đồng kiến đồng hạnh. Phải xem xét người đối trước có tâm thành tín, kham lãnh
thọ không lui sụt, người như thế mới nên vì họ mà nói, chỉ dạy khiến cho họ được
ngộ. Tôi làm quyển luận này là vì người hữu duyên, chẳng phải cầu danh lợi.
Chư Phật nói ra ngàn kinh muôn luận, chỉ vì chúng sanh mê muội, tâm
hạnh chẳng đồng, tùy chỗ tà chấp của họ mà nói pháp đối trị, nên có sai biệt. Nếu
luận về lý giải thoát cứu cánh chỉ là việc đến chẳng nhận, tất cả chỗ không tâm,
hằng lặng lẽ như không, cứu cánh thanh tịnh tự nhiên giải thoát.
Ông chớ cầu hư danh miệng nói chân như, mà tâm tợ khỉ vượn, tức lời nói
việc làm trái nhau, gọi là dối mình, sẽ sa vào đường ác. Chớ cầu cái khoái lạc hư
danh nhất thời, mà chẳng biết nhiều kiếp phải chịu họa ương. Cố gắng! Cố gắng !
Chúng sanh phải tự độ, Phật không thể độ được. Nếu Phật hay độ chúng sanh, thì
chư Phật thời quá khứ số nhiều như cát bụi, lẽ ra tất cả chúng sanh đều được độ
hết. Vì sao chúng ta đến ngày nay vẫn còn trôi lăn trong sanh tử, không được
thành Phật ? Thế nên biết, chúng sanh phải tự độ, Phật không thể độ được. Cố
gắng ! Cố gắng ! Tự mình lo tu hành, chớ ỷ lại vào sức Phật khác. Kinh nói :
“Phàm người cầu pháp chẳng chấp trước Phật mà cầu”.
*
- Ở đời sau, có những nhóm tạp học, làm sao cùng ở chung ?
- Chỉ hòa ánh sáng kia, chẳng đồng nghiệp kia, đồng chỗ mà chẳng đồng ở.
Kinh nói : “Tùy lưu (trôi theo) mà tánh thường vậy”. Người học đạo cần yếu phải
nghĩ “mình vì đại sự nhân duyên là việc giải thoát, thảy đều chẳng dám khinh
người chưa học, kính người mình học như Phật, chẳng đề cao đức của mình, chẳng
đố kỵ điều hay của người, tự xét nét hạnh của mình, chẳng dòm dõ lỗi của người”,
thì ở tất cả chỗ đều không bị chướng ngại, tự nhiên được khoái lạc.
Lặp lại kệ rằng :
Nhẫn nhục đạo thứ nhất,
Trước phải trừ ngã nhân,
Việc đến không thọ nhận,
Là thân chân Bồ-đề .
Kinh Kim Cang nói : “Người thông đạt pháp vô ngã, Như Lai gọi là Bồ-tát
chân thật”. Lại nói : “Chẳng thủ lại chẳng xả, hằng đoạn được sanh tử, tất cả chỗ
không tâm, gọi là con chư Phật”. Kinh Niết-bàn nói : “Như Lai chứng Niết-bàn
hằng đoạn dứt sanh tử”.
Kệ rằng :
Nay ta ý thật rất tốt,
Khi người chê mắng chẳng buồn,
Không lời chẳng nói phải quấy,
Niết-bàn sanh tử đồng đường.
Hiểu thấu bản tông nhà mình,
Vẫn là không có xanh đen,
Tất cả vọng tưởng phân biệt,
Vả biết người đời chẳng rõ.
Gởi lời phàm phu đời sau,
Dẹp hết trong tâm rơm cỏ,
Nay ta ý rất thênh thang,
Chẳng nói, không việc, tâm an.
Thong dong, tự tại, giải thoát,
Đông tây dời đổi dễ dàng,
Trọn ngày không nói lặng yên,
Niệm niệm hướng lý nghĩ xét.
Tự nhiên tiêu dao thấy đạo,
Sanh tử quyết chẳng liên quan,
Nay ta ý thật lạ kỳ,
Chẳng đến trên đời luống dối.
Vinh hoa thảy là giả tạm,
Áo rách cơm hẩm đủ no,
Đi đường gặp người biếng nói,
Người đời đều gọi ta ngu.
Ngoài hiện ngu ngơ ám độn,
Trong tâm sáng tợ lưu ly,
Thầm hợp La-hầu mật hạnh,
Chẳng phải phàm phu kham biết.
Tôi e các ông chẳng hội thấu lý chân giải thoát nên lại chỉ bày các ông.
*
- Kinh Duy-ma nói : “Muốn được tịnh độ phải tịnh tâm ấy”. Thế nào là tịnh
tâm ?
- Dùng cái tịnh cứu cánh làm tịnh.
- Thế nào là dùng cái tịnh cứu cánh làm tịnh ?
- Không tịnh cũng không không tịnh, tức là tịnh cứu cánh.
- Thế nào là không tịnh cũng không không tịnh ?
- Tất cả chỗ không tâm là tịnh, khi được tịnh mà chẳng khởi tưởng tịnh, gọi
là không tịnh. Khi được không tịnh cũng không được khởi tưởng không tịnh, gọi
là không không tịnh.
*
- Người tu hành lấy cái gì làm chứng ?
- Lấy cái chứng cứu cánh làm chứng.
- Thế nào là cái chứng cứu cánh ?
- Không chứng cũng không không chứng, gọi là chứng cứu cánh.
- Thế nào là không chứng và không không chứng ?
- Ở ngoài không nhiễm sắc, thanh v.v… bên trong tâm không khởi vọng
niệm, được như thế gọi là chứng. Khi được chứng mà không khởi tưởng chứng,
gọi là không chứng. Khi được không chứng cũng không khởi tưởng không chứng,
gọi là không không chứng.
*
- Thế nào là tâm giải thoát ?
- Không tâm giải thoát, cũng không không tâm giải thoát, gọi là chân giải
thoát. Kinh nói : “Pháp còn phải xả hà huống phi pháp”. Pháp là có, phi pháp là
không, chỉ chẳng chấp có không là chân giải thoát.
*
- Thế nào đắc đạo ?
- Dùng cái đắc cứu cánh làm đắc.
- Thế nào là cái đắc cứu cánh ?
-Không đắc cũng không không đắc, gọi là đắc cứu cánh.
*
- Thế nào là Không cứu cánh ?
- Chẳng Không cũng chẳng chẳng Không gọi là Không cứu cánh.
*
- Thế nào là chân như định ?
- Không định cũng không không định gọi là chân như định. Kinh nói :
“Không có pháp định gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không pháp
định Như Lai có thể nói”. Kinh nói : “Tuy tu Không mà chẳng lấy Không làm
chứng, cũng chẳng được khởi tưởng Không. Tuy tu Định mà chẳng lấy Định làm
chứng, cũng chẳng được khởi tưởng Định. Tuy được Tịnh mà chẳng lấy Tịnh làm
chứng, cũng chẳng được khởi tưởng tịnh”.
Nếu khi được định, được tịnh, được tất cả chỗ không tâm, liền khởi tưởng
được như thế, đều là vọng tưởng, liền bị ràng buộc không thể nói là giải thoát. Nếu
khi được như thế, rõ ràng tự biết, được tự tại, mà chẳng được cho thế là chứng,
cũng chẳng được khởi tưởng như thế là được giải thoát. Kinh nói : “Nếu khởi tâm
tinh tấn là vọng không phải tinh tấn. Nếu người hay trong tâm chẳng vọng là tinh
tấn không có bờ mé”.
*
- Thế nào là trung đạo ?
- Không khoảng giữa cũng không hai bên là trung đạo.
- Thế nào là hai bên ?
- Có tâm kia, có tâm này là hai bên.
- Thế nào là tâm kia tâm này ?
- Bên ngoài dính với sắc thanh gọi là tâm kia. Bên trong khởi vọng niệm là
tâm này. Nếu bên ngoài không nhiễm sắc, gọi là không tâm kia. Bên trong không
khởi vọng niệm, gọi là không tâm này. Thế nên không phải hai bên. Tâm đã không
hai bên thì giữa cũng đâu có được. Được như thế gọi là trung đạo. Thật là Như Lai
đạo. Như Lai đạo là tất cả người giác được giải thoát. Kinh nói : “Hư không chẳng
giữa chẳng hai bên, thân chư Phật cũng vậy”. Nhưng tất cả sắc không, là tất cả chỗ
không tâm vậy. Tất cả chỗ không tâm tức tất cả sắc tánh không. Hai nghĩa chẳng
khác, cũng gọi sắc không, cũng gọi pháp sắc không.
Nếu ông lìa “Tất cả chỗ không tâm”, mà được Bồ-đề giải thoát, Niết-bàn
tịch diệt, thiền định kiến tánh, thì không thể nào có. “Tất cả chỗ không tâm” tức là
được Bồ-đề giải thoát, Niết-bàn tịch diệt, cho đến lục độ đều là chỗ kiến tánh. Vì
cớ sao ? Kinh Kim Cang nói: “Không có một chút pháp có thể được, ấy gọi là Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
*
- Nếu có tu tất cả hạnh đầy đủ thành tựu được thọ ký chăng ?
- Chẳng được.
- Nếu không tu tất cả pháp thành tựu, được thọ ký chăng ?
- Chẳng được.
- Nếu thế ấy, phải do pháp gì được thọ ký?
- Chẳng do có hành, cũng chẳng do không hành, là được thọ ký. Vì cớ sao?
Kinh Duy-ma nói : “Các hạnh tánh tướng đều vô thường”. Kinh Niết-bàn nói :
“Phật bảo Ca Diếp, các hạnh là thường, không có lẽ phải”. Ông chỉ tất cả chỗ
không tâm, là không có hạnh, cũng không không các hạnh, gọi là thọ ký. Nói tất
cả chỗ không tâm, là không tâm yêu ghét vậy. Nói không yêu ghét, là thấy việc tốt
chẳng khởi tâm yêu; thấy việc xấu cũng chẳng sanh tâm ghét .
Không yêu gọi là không tâm nhiễm, chính là sắc tánh không. Sắc tánh
không tức là muôn duyên đều bặt. Muôn duyên đều bặt thì tự nhiên được giải
thoát.
Ông phải xét kỹ đó, nếu khi chưa được tỉnh sáng thấu rõ, thì phải hỏi sớm
chớ có bỏ qua. Các ông nếu y theo lời dạy đây tu, mà chẳng được giải thoát, tôi
xin trọn đời thay các ông chịu tội trong đại địa ngục. Nếu tôi lừa dối các ông, sau
này tôi sanh nơi nào sẽ bị sư tử, cọp, sói ăn thịt. Các ông nếu chẳng y theo lời dạy
đây siêng năng tu hành thì không bảo đảm. Một phen mất thân này muôn kiếp khó
được lại. Phải cố gắng! Cố gắng! Cần phải tự biết .
��
GHI LỜI SƯ ĐÁP CÁC NGƯỜI ĐẾN HỎI
VÀ DẠY CHÚNG
Sư bảo học chúng :
- Tôi chẳng hội thiền, trọn không có một pháp có thể dạy người, không
phiền các ngươi đứng lâu, hãy tự đi đi!
Tuy vậy mà học chúng dần dần thêm đông, ngày đêm thưa hỏi. Sư bất đắc
dĩ vì hỏi giải đáp, biện tài không ngại.
*
Có vài vị Pháp sư đến hỏi :
- Định hỏi một câu, thầy có vui lòng đáp chăng ?
Sư bảo :
- Bóng trăng dưới đầm sâu, mặc ý mò bắt.(Thiền gia cho ngôn ngữ không
thể nói đến chân lý, chỉ nương ngôn ngữ để thấy chân lý ngoài ngôn ngữ. Vì thế
lời giải đáp như bóng mặt trăng hiện dưới đầm. Người muốn thấy mặt trăng thật,
phải nương bóng mặt trăng ấy, mà nhìn ngược lên trời thì mới thấy. Cố chấp bóng
mặt trăng dưới đầm, thì suốt kiếp không khi nào thấy bóng mặt trăng thật.)
- Thế nào là Phật ?
- Hồ nước trong đối diện, chẳng phải Phật là gì? (Tâm thanh tịnh là Phật.
Nếu đối cảnh mà tâm không sanh, chẳng phải Phật là gì ? Vì thế, Sư bảo “Hồ nước
trong đối diện”, tức là tâm đối cảnh chẳng động như hồ nước trong, khi ấy chẳng
phải Phật là cái gì ? Thiền tông chỉ tâm là Phật, chẳng đi cầu Phật bên ngoài. Nếu
đem tâm đi cầu Phật, ấy là vác Phật đi cầu Phật, không bao giờ thấy Phật.)
Các vị ấy đều ngơ ngác, không biết gì cả. Giây lâu có vị lại hỏi :
- Thầy nói pháp gì độ người ?
- Bần đạo chưa từng có một pháp gì độ người.
- Thiền sư nhà tối như thế ?
- Đại đức nói pháp gì độ người ?
- Giảng Kinh Kim Cang Bát-nhã.
- Giảng được bao nhiêu lần ?
- Hơn hai mươi lần.
- Kinh này ai nói ?
Pháp sư tằng hắng lên giọng gắt :
- Thiền sư khéo nói đùa, há không biết Phật nói sao?
- “Nếu nói Như Lai có nói pháp là chê bai Phật,
người ấy không hiểu nghĩa ta nói” (kinh Kim Cang). Nếu nói kinh này
không phải Phật nói tức là phỉ báng kinh. Thỉnh Đại đức nói xem ?
Pháp sư im lặng không đáp được.
Chốc lát, Sư lại hỏi :
- Kinh nói : “Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà,
không thể thấy Như Lai”. Đại đức hãy nói cái gì là Như Lai ?
- Đến chỗ này tôi mê hẳn.
- Từ trước đến giờ chưa từng ngộ nói cái gì là mê ?
- Thỉnh Thiền sư vì tôi nói.
- Đại đức giảng kinh hơn hai mươi lượt, lại chưa biết Như Lai ?
Pháp sư lễ bái cầu xin chỉ dạy.
Sư bảo :
- Như Lai là nghĩa Như của các pháp, đâu thể quên được.
- Phải là nghĩa Như của các pháp.
- Đại đức nói, phải cũng chưa phải.
- Văn kinh rõ ràng đâu thể chưa phải ?
- Đại đức Như chăng ?
- Như.
- Cây đá Như chăng ?
- Như.
- Đại đức Như, đồng cây đá Như chăng ?
- Không hai.
- Đại đức cùng cây đá đâu khác ?
Pháp sư không đáp được. Lại khen : “Đây là thượng nhân khó đối đáp
được”. Giây lâu lại hỏi :
- Thế nào được đại Niết-bàn ?
- Chẳng tạo nghiệp sanh tử.
- Thế nào là nghiệp sanh tử ?
- Cầu đại Niết-bàn là nghiệp sanh tử, bỏ nhơ lấy sạch là nghiệp sanh tử, có
đắc có chứng là nghiệp sanh tử, không vượt khỏi môn đối trị là nghiệp sanh tử.
- Thế nào là được giải thoát ?
- Vốn tự không phược (trói buộc) chẳng cần cầu giải thoát, dùng thẳng,
hành thẳng là Vô đẳng đẳng (Phật không ai so bằng gọi là vô đẳng, chư Phật đồng
nhau gọi là đẳng. Vô đẳng đẳng là chỉ cho Phật).
Pháp sư khen :
- Thiền sư như Hòa thượng thật là ít có.
Khen xong, Pháp sư lễ tạ lui ra.
*
Có vị cư sĩ đến hỏi :
- Tức tâm tức Phật, cái gì là Phật ?
Sư bảo :
- Ông nghi cái gì không phải Phật chỉ ra xem ?
Cư sĩ lặng thinh.
Sư nói tiếp :
- Đạt thì khắp cảnh là Phật, chẳng ngộ thì hằng trái xa.
*
Có Luật sư hiệu Pháp Minh đến nói :
- Các Thiền sư phần nhiều rơi vào không.
Sư bảo :
- Trái lại, các Tọa chủ phần nhiều rơi vào không.
Pháp Minh hoảng sợ hỏi :
- Tại sao rơi vào không ?
- Kinh luận là giấy mực văn tự, giấy mực văn tự đều là không (duyên hợp
không thể), dù là trên tiếng dựng lập danh, cú, văn, thân đâu chẳng phải là không.
Tọa chủ bám chặt vào giáo thể, đâu chẳng rơi vào không.
- Thiền sư rơi vào không chăng ?
- Chẳng rơi vào không.
- Sao lại chẳng rơi vào không ?
- Văn tự v.v… đều từ trí tuệ mà sanh, đại dụng hiện tiền đâu thể rơi vào
không.
- Cho biết một pháp không đạt, chẳng gọi là “Tất- đạt”.
- Luật sư chẳng những rơi vào không, lại còn dùng lầm danh ngôn.
Pháp Minh đổi sắc mặt hỏi :
- Lầm chỗ nào ?
- Luật sư chưa rành âm Trung Hoa và Phạn làm sao giảng thuyết ?
- Thỉnh Thiền sư chỉ ra chỗ lầm của Pháp Minh.
- Đâu chẳng biết “Tất-đạt” là tiếng Phạn sao? (Tất-đạt là tiếng Phạn, nói đủ
là Tất-bà-hạt-thích-tha-tất-đà. Trung Hoa dịch là Nhất thiết nghĩa. Xưa dịch âm
Tất-đạt là sai, không đủ âm.)
Pháp Minh tuy nhận thấy lỗi, mà tâm vẫn còn giận, lại hỏi :
- Phàm Kinh, Luật, Luận là lời Phật, đọc tụng, y giáo phụng hành, sao
chẳng thấy tánh ?
- Như chó điên đuổi bóng, sư tử cắn người. Kinh Luật Luận là tự tánh dụng,
người đọc tụng là tánh pháp.
- Phật A Di Đà có cha mẹ và họ chăng ?
- Phật A Di Đà họ Kiều Thi Ca, cha tên Nguyệt Thượng, mẹ tên Thù Thắng
Diệu Nhan.
- Xuất phát từ kinh điển nào ?
- Xuất phát từ tập Đà-la-ni.
Pháp Minh lễ tạ khen ngợi lui ra.
*
Có vị Pháp sư thông Tam tạng đến hỏi :
- Chân như có biến đổi chăng ?
Sư đáp :
- Có biến đổi.
- Thiền sư lầm.
- Đại đức có chân như chăng ?
- Có.
- Nếu không biến đổi quyết định là phàm tăng. Đâu chẳng nghe “Thiện tri
thức hay chuyển ba độc thành ba nhóm tịnh giới, chuyển sáu thức thành sáu thần
thông, chuyển phiền não thành Bồ-đề, chuyển vô minh thành đại trí”. Chân như
nếu không biến đổi, Đại đức thật là ngoại đạo, chủ trương tự nhiên vậy.
- Nếu vậy chân như tức có biến đổi ?
- Nếu chấp chân như có biến đổi cũng là ngoại đạo.
- Thiền sư vừa nói chân như có biến đổi, giờ lại nói không biến đổi, vậy thế
nào thật đúng ?
- Nếu người thấy tánh rõ ràng như hạt minh châu ma-ni hiện sắc, nói biến
đổi cũng được, nói không biến đổi cũng được. Nếu người không thấy tánh nghe
nói chân như biến đổi bèn hiểu biến đổi, nghe nói không biến đổi bèn hiểu không
biến đổi.
Pháp sư khen :
- Nên biết Nam tông (thiền đốn ngộ miền Nam) không thể lường.
*
Đồ đệ đạo Lão đến hỏi :
- Thế gian có pháp nào vượt hơn tự nhiên chăng ?
Sư đáp :
- Có.
- Pháp gì hơn được ?
- Hay biết tự nhiên vậy.
- Nguyên khí là Đạo chăng ?
- Nguyên khí tự nguyên khí, đạo tự đạo.
- Nếu như thế ắt phải có hai ?
- Biết, không hai người.
- Thế nào là tà, thế nào là chánh ?
- Tâm theo vật là tà, vật theo tâm là chánh.
*
Luật sư Nguyên đến hỏi :
- Hòa thượng tu có dụng công chăng ?
Sư đáp :
- Dụng công.
- Dụng công thế nào ?
- Khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ.
- Tất cả người đều như vậy, đồng chỗ dụng công của thầy chăng ?
- Chẳng đồng.
- Tại sao chẳng đồng ?
- Họ khi ăn chẳng chịu ăn, đòi trăm thứ cần dùng; khi ngủ chẳng chịu ngủ,
tính toán ngàn chuyện, do đó chẳng đồng.
Nguyên im lặng.
*
Đại đức Uẩn Quang đến hỏi :
- Thiền sư tự biết chỗ sanh chăng ?
Sư đáp :
- Chưa từng tử đâu cần luận sanh. Biết sanh tức là pháp không sanh, chẳng
lìa pháp sanh nói pháp không sanh. Tổ sư nói : “Chính cái sanh tức không sanh”.
- Người không thấy tánh cũng được như vậy chăng ?
- Tự chẳng thấy tánh chẳng phải không tánh. Vì sao? Vì thấy tức là tánh,
không tánh thì không thể thấy. Thức tức là tánh, nên gọi thức tánh. Liễu tức là
tánh, nên gọi liễu tánh. Hay sanh muôn pháp gọi là Pháp tánh, cũng gọi là Pháp
thân. Tổ sư Mã Minh nói : “Nói là pháp tức tâm chúng sanh. Nếu tâm sanh nên tất
cả pháp sanh, nếu tâm không sanh thì pháp không nương đâu sanh, cũng không
danh tự ”. Người mê chẳng biết Pháp thân không hình tượng, hay ứng vật hiện
hình, bèn nói : “Trúc biếc xanh xanh đều là Pháp thân, hoa vàng mịt mịt thảy đều
Bát-nhã” (thanh thanh thúy trúc tổng thị Pháp thân, uất uất hoàng hoa vô phi Bátnhã).
Hoa vàng nếu là Bát-nhã, Bát-nhã tức đồng vô tình. Trúc biếc nếu là Pháp
thân, Pháp thân tức đồng cây cỏ. Như người ăn măng tức ăn Pháp thân. Những lối
nói như thế đâu thể kể chép hết. Đối diện mê Phật nhiều kiếp mong cầu, trong
pháp thể mà mê lầm chạy tìm kiếm bên ngoài. Thế nên, người hiểu đạo đi đứng
ngồi nằm đều là đạo, người ngộ pháp tung hoành tự tại đều là pháp.
- Hư không hay sanh linh tri chăng ? Chân tâm duyên thiện ác chăng ?
Người tham dục là đạo chăng ? Người chấp phải quấy về sau tâm thông chăng ?
Người xúc cảnh sanh tâm có định chăng ? Người trụ chỗ yên lặng có tuệ chăng ?
Người ôm lòng khinh người có ngã chăng ? Người chấp không chấp hữu có trí
chăng ? Người tầm văn thủ chứng, người khổ hạnh cầu Phật, người lìa tâm cầu
Phật, người chấp tâm là Phật. Những người này hợp đạo chăng ? Thỉnh Thiền sư
mỗi mỗi vì đáp.
- Hư không chẳng sanh linh tri, chân tâm chẳng duyên thiện ác, người chìm
sâu trong tham dục căn cơ cạn, người phải quấy lăng xăng chưa thông, người xúc
cảnh sanh tâm ít định, người yên lặng quên hết là tuệ chìm, người khinh người cao
mạn là ngã mạn, người chấp không chấp có đều ngu, người tầm văn thủ chứng
thêm kẹt, người khổ hạnh cầu Phật là mê, lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo, chấp tâm
là Phật là ma.
- Nếu như thế thì rốt ráo không thể có ?
- Rốt ráo là Đại đức, chẳng phải rốt ráo không thể có.
Uẩn Quang vui mừng lễ tạ lui ra
*
Sư thượng đường dạy chúng :
- Các ngươi may mắn tự khéo giữ cái vô sự. Kẻ nhọc nhằn tạo tác là mang
cùm sa ngục chớ gì ? Mỗi ngày từ sáng đến tối bôn ba nói : “Ta tham thiền học
đạo, hiểu thấu Phật pháp”, như thế càng không dính dáng gì. Chỉ chạy theo thinh
sắc biết bao giờ dứt. Bần đạo xưa đến tham vấn Hòa thượng ở Giang Tây (Mã Tổ),
Hòa thượng dạy : “Kho báu nhà của ngươi đầy đủ tất cả, sử dụng tự tại chẳng nhờ
cầu bên ngoài”. Bần đạo từ đây thảy thôi, của báu của mình tùy thân thọ dụng, có
thể nói sống thích thú, không một pháp có thể thủ, không một pháp có thể xả,
chẳng thấy một pháp có tướng sanh diệt, chẳng thấy một pháp có tướng qua lại,
khắp mười phương thế giới không một hạt bụi nào mà chẳng phải của báu nhà
mình. Chỉ quan sát kỹ càng tâm mình một thể Tam bảo thường tự hiện trước,
không thể nghi ngờ. Chớ suy xét, chớ tìm kiếm, tâm tánh xưa nay thanh tịnh. Kinh
Hoa Nghiêm nói : “Tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp chẳng diệt, nếu hay hiểu
biết như thế, chư Phật thường hiện tiền”. Kinh Tịnh Danh nói : “Quán thân thật
tướng, quán Phật cũng vậy”. Nếu chẳng theo thanh sắc mà động niệm, chẳng theo
tướng mạo mà sanh hiểu, tự nhiên vô sự. Đi ! Chớ đứng lâu. Trân trọng !
Hôm nay đại chúng nhóm họp mãi không giải tán.
Sư hỏi :
- Các ngươi vì cớ sao ở đây mãi không đi ? Bần đạo đã đối diện trình nhau,
lại chịu thôi chăng ? Có việc gì khả nghi, chớ lầm dụng tâm uổng phí khí lực. Nếu
có nghi ngờ, các ngươi tùy ý thưa hỏi.
Có vị hiệu Pháp Uyên hỏi :
- Thế nào là Phật, thế nào là Pháp, thế nào là Tăng, thế nào là một thể Tam
bảo ? Xin Thầy từ bi chỉ dạy.
Sư đáp :
- Tâm là Phật chẳng cần đem Phật cầu Phật, tâm là Pháp chẳng cần đem
pháp cầu pháp. Phật, Pháp hòa hợp không hai là Tăng, tức là một thể Tam bảo.
Kinh nói: “Tâm, Phật, chúng sanh cả ba không khác”. Thân khẩu ý thanh tịnh gọi
là Phật ra đời, ba nghiệp không thanh tịnh gọi là Phật diệt độ. Ví như khi giận thì
không vui, khi vui thì không giận, chỉ một tâm thật không hai thể. Bản trí sẵn vậy,
vô lậu hiện tiền, như rắn hóa thành rồng không đổi vảy, chúng sanh hồi tâm thành
Phật chẳng đổi mặt. Tánh vốn thanh tịnh chẳng đợi tu thành, có chứng có tu tức
đồng người tăng thượng mạn. Chân không chẳng kẹt, ứng dụng không cùng,
không thủy không chung. Người lợi căn đốn ngộ dụng vô đẳng đẳng tức là A-nậubồ-
đề (Vô thượng Chánh giác). Tâm không hình tướng tức là sắc thân vi diệu.
Không tướng tức là thật tướng Pháp thân, thể tánh tướng đều không tức là thân hư
không vô biên. Muôn hạnh trang nghiêm, tức là công đức Pháp thân. Pháp thân
này là gốc của muôn hóa, tùy chỗ đặt tên : Trí dụng không hết gọi là Vô tận tạng
(kho vô tận), hay sanh muôn pháp gọi là Bản pháp tạng (kho gốc các pháp), đủ tất
cả trí gọi là Trí tuệ tạng (kho trí tuệ), muôn pháp về Như gọi là Như Lai tạng (kho
Như Lai). Kinh nói : “Như Lai đó, tức nghĩa Như của các pháp”. Lại nói : “Tất cả
pháp sanh diệt thế gian không có một pháp chẳng về Như ”.
*
Có vị khách hỏi :
- Đệ tử chưa biết Luật sư, Pháp sư, Thiền sư vị nào hơn cả, cúi xin Hòa
thượng từ bi chỉ dạy ?
Sư đáp :
- Luật sư là người mở pháp tạng Tỳ-ni (luật), truyền nề nếp làm mạng sống,
thấu suốt Trì Phạm thông đạt Khai Giá, giữ oai nghi để làm mô phạm, phổ cáo ba
phen yết-ma để làm nhân sơ khởi cho bốn quả (Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-nahàm,
A-la-hán). Nếu chẳng phải là hàng trưởng lão đức dày thì đâu kham đảm
trách.
- Pháp sư là người ngồi tòa sư tử, biện luận thông như nước chảy, đối với
nhiều người đông chúng soi thấu cổng huyền, mở cửa Bát-nhã nhiệm mầu, bình
đẳng bố thí tam luân không tịch. Nếu chẳng phải là hàng long tượng làm sao dám
đảm đương.
- Thiền sư là người nắm được then chốt của đạo, thấu suốt nguồn tâm, ra
vào co duỗi, tung hoành tùy vật ứng hiện; sự lý thảy đồng, chóng thấy Như Lai,
nhổ gốc sâu sanh tử, được Tam-muội hiện tiền. Nếu chẳng phải người an thiền
tịnh lự đến chỗ ấy thảy đều mờ mịt.
Tùy căn cơ thọ lãnh pháp tu, ba môn học tuy khác mà được ý quên lời thì
đồng Nhất thừa đâu sai biệt. Cho nên kinh nói : “Trong cõi Phật ở mười phương,
chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói, chỉ tạm
mượn danh tự, để dẫn đường cho chúng sanh” (Kinh Pháp Hoa).
Khách thưa :
- Hòa thượng thâm đạt ý chỉ của Phật, được biện tài vô ngại.
Lại hỏi thêm :
- Tam giáo Nho, Đạo, Thích là đồng hay khác ?
Sư đáp :
- Người đại lượng dùng đó thì đồng. Kẻ tiểu cơ cố chấp thì khác. Thảy đều
từ trên một tánh khởi dụng, tùy căn cơ thấy sai biệt thành ba, mê ngộ do người,
chẳng phải tại giáo đồng hay khác.
*
Pháp sư Đạo Quang chuyên giảng Duy Thức đến hỏi:
- Thiền sư dùng tâm nào tu đạo ?
Sư đáp :
- Lão tăng không tâm có thể dùng, không đạo có thể tu.
- Đã không tâm có thể dùng, không đạo có thể tu, tại sao mỗi ngày họp
chúng khuyên người học thiền tu đạo?
- Lão tăng còn không có chút đất cắm dùi thì chỗ nào họp chúng lại. Lão
tăng còn không có lưỡi thì đâu từng khuyên dạy người.
- Thiền sư đối diện mà nói dối.
- Lão tăng còn không có lưỡi khuyên người thì đâu biết nói dối.
- Thật tôi không hiểu lời luận nghị của Thiền sư.
- Lão tăng tự cũng chẳng hội.
*
Pháp sư Chí chuyên giảng kinh Hoa Nghiêm đến hỏi:
- Tại sao chẳng nhận “Trúc biếc xanh xanh đồng là Pháp thân, hoa vàng mịt
mịt thảy đều Bát-nhã” ?
Sư đáp :
- Pháp thân không tướng, ứng hiện trong trúc biếc thành hình, Bát-nhã vô
tri đối với hoa vàng mà hiển tướng, chẳng phải trúc biếc hoa vàng kia có Pháp
thân Bát-nhã. Kinh nói : “Chân Pháp thân của Phật giống như hư không, ứng vật
hiện hình như trăng trong nước”. Hoa vàng nếu là Bát-nhã, Bát-nhã tức đồng vô
tình. Trúc biếc nếu là Pháp thân, trúc biếc lại hay ứng dụng. Tọa chủ hội chăng ?
- Chẳng rõ ý này.
- Nếu người thấy tánh nói phải cũng được, nói chẳng phải cũng được, tùy
dụng mà nói, chẳng kẹt phải quấy. Nếu người chẳng thấy tánh nói trúc biếc thì
chấp trúc biếc, nói hoa vàng thì chấp hoa vàng, nói Pháp thân thì kẹt Pháp thân,
nói Bát-nhã mà chẳng biết Bát-nhã. Do đó mà trở thành tranh luận.
Pháp sư Chí lễ tạ lui ra.
*
Có người hỏi :
- Đem tâm tu hành bao lâu được giải thoát ?
Sư đáp :
- Đem tâm tu hành ví như lấy bùn lỏng rửa nhơ. Bát-nhã huyền diệu vốn tự
không sanh, đại dụng hiện tiền chẳng luận thời tiết.
- Phàm phu cũng được như thế chăng ?
- Người thấy tánh thì chẳng phải phàm phu, đốn ngộ thượng thừa thì đã siêu
phàm vượt thánh. Người mê luận phàm bàn thánh, người ngộ siêu vượt sanh tử
Niết-bàn, người mê nói sự nói lý, người ngộ đại dụng cùng khắp. Người mê cầu
đắc cầu chứng, người ngộ không đắc không cầu. Người mê hẹn kiếp xa sẽ chứng,
người ngộ chóng thấy liền.
*
Pháp sư giảng kinh Duy-ma đến hỏi :
- Kinh nói : “Lục sư ngoại đạo kia v.v… là thầy của ngươi, nhân kia xuất
gia, thầy kia bị đọa ngươi cũng theo đó mà đọa. Người thí cho ngươi chẳng gọi
phước điền, cúng dường cho ngươi đọa trong ba đường ác. Chê Phật, hủy pháp,
chẳng vào số chúng, trọn chẳng được diệt độ. Ngươi nếu như thế mới nên nhận
thức ăn” (Kinh Duy-ma). Thỉnh Thiền sư vì giải thích.
Sư đáp :
- Người mê chạy theo sáu căn gọi là Lục sư, ngoài tâm cầu Phật gọi là
ngoại đạo, thấy có vật để thí chẳng gọi phước điền, sanh tâm nhận cúng dường đọa
ba đường ác. Ngươi nếu hay chê bai Phật là chẳng đắm cầu Phật, hủy báng Pháp là
chẳng đắm cầu Pháp, chẳng vào số chúng là chẳng đắm cầu Tăng, trọn chẳng được
diệt độ là trí dụng hiện tiền. Nếu có người hay hiểu được như thế liền được thức ăn
thiền duyệt pháp hỷ.
*
Có vị cư sĩ đến hỏi :
- Có người hỏi Phật đáp Phật, hỏi Pháp đáp Pháp, bảo là pháp môn một chữ,
chẳng biết phải chăng ?
Sư đáp :
- Như chim Anh Võ học nói tiếng người, tự nói chẳng đặng, vì không trí tuệ.
Ví như đem nước rửa nước, đem lửa đốt lửa, trọn không có nghĩa lý gì.
*
Có người hỏi :
- Ngôn với ngữ là đồng hay khác ?
Sư đáp :
- Là một. Bởi vì lời nói (ngôn) thành câu gọi là ngữ. Vả như biện luận thao
thao, ví tợ như nước chảy trong sông lớn, lời hay chồng chập, như hạt châu
nghiêng để trong đồ tròn, mở rộng tên vạn tượng như nước chảy, chia chẻ nghĩa
nhiều như biển cả, đó là ngữ vậy. Ngôn là một chữ hiện bày của tâm. Ở trong chứa
huyền vi, bên ngoài hiện diệu tướng, muôn việc khuấy rối mà chẳng loạn, trong
đục lẫn lộn mà thường phân biệt. Vua Tề vẫn còn hổ thẹn lời của Đại phu, Bồ-tát
Văn Thù còn khen ngợi câu nói của Tịnh Danh, thì người thường làm sao hiểu nổi.
*
Luật sư Nguyên đến hỏi :
- Thiền sư thường nói : “Tức tâm là Phật”, không hợp lý. Vả lại, Bồ-tát
Nhất Địa phân thân ở trăm thế giới chư Phật, Nhị Địa tăng lên gấp mười. Thiền sư
thử hiện thần thông xem ?
Sư đáp :
- Chính mình Xà-lê là phàm hay Thánh ?
- Là phàm.
- Đã là phàm tăng sao lại hỏi cảnh giới như thế ? Kinh nói : “Nhân giả tâm
có cao thấp, chẳng y nơi trí tuệ Phật”, đây là thế.
- Thiền sư mỗi ngày bảo : Nếu ngộ đạo thì thân hiện tiền liền được giải
thoát, cũng không hợp lý.
- Có người trọn đời làm lành, bỗng nhiên ăn cắp đồ người cầm trong tay,
ngay khi ấy thân này phải thân kẻ cắp chăng ?
- Phải.
- Hiện nay thấy tánh rõ ràng, tại sao không được giải thoát ?
- Đời nay hẳn không được, phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp (ba vô số
kiếp) mới được.
- A-tăng-kỳ kiếp lại có số chăng ?
Nguyên lên giọng bảo :
- Đem kẻ cắp so với giải thoát, được thông đạo lý chăng ?
Sư đáp :
- Xà-lê tự chẳng hiểu đạo, không thể chướng tất cả người hiểu, con mắt
mình chẳng mở, không thể chướng tất cả người thấy vật.
Nguyên đổi sắc vừa đi vừa nói :
- Lão già hỗn tạp vô đạo.
Sư bảo :
- Chính đường đi đó là đạo của ông.
*
Pháp sư Tuệ chuyên giảng Chỉ Quán đến hỏi :
- Thiền sư biện biệt được ma chăng ?
Sư bảo :
- Khởi tâm là thiên ma, chẳng khởi tâm là ấm ma, hoặc khởi chẳng khởi là
phiền não ma. Trong chánh pháp ta không có việc như thế.
- Nhất tâm tam quán, nghĩa thế nào ?
- Tâm quá khứ thì đã qua, tâm vị lai thì chưa đến, tâm hiện tại thì không trụ,
ở trong đó lại dùng tâm nào để quán?
- Thiền sư chẳng hiểu Chỉ Quán.
- Tọa chủ hiểu chăng ?
- Hiểu.
- Như Trí Giả Đại sư nói Chỉ để phá Chỉ, nói Quán để phá quán, trụ Chỉ thì
chìm trong sanh tử, trụ Quán thì tâm thần loạn. Thế là, phải đem tâm Chỉ tâm, hay
khởi tâm Quán để quán ? Nếu có tâm quán là pháp thường kiến, nếu không tâm
quán là pháp đoạn kiến, cũng có cũng không là pháp nhị kiến. Thỉnh Tọa chủ xét
kỹ nói xem ?
- Nếu hỏi như thế đều không thể nói được.
- Vậy thì đâu từng Chỉ Quán.
*
Có người hỏi :
- Bát-nhã lớn chăng ?
Sư đáp :
- Lớn.
- Lớn bằng chừng nào ?
- Không có ngằn mé.
- Bát-nhã nhỏ chăng ?
- Nhỏ.
- Nhỏ bằng chừng nào ?
- Xem chẳng thấy.
- Chỗ nào là Bát-nhã ?
- Chỗ nào chẳng phải Bát-nhã ?
*
Pháp sư giảng kinh Duy-ma hỏi :
- Chư Bồ-tát mỗi vị nhập pháp môn Bất nhị, ngài Duy-ma lặng thinh là cứu
cánh chăng ?
Sư đáp :
- Chưa phải cứu cánh. Thánh ý nếu tột thì đến quyển ba lại nói việc gì ?
Pháp sư im lặng giây lát, thưa :
- Thỉnh Thiền sư vì tôi nói ý chưa cứu cánh.
Sư bảo :
- Căn cứ trong kinh thì quyển nhất là “dẫn chúng gọi mười vị đại đệ tử trụ
tâm”. Quyển hai là “chư Bồ-tát mỗi vị nói nhập pháp môn Bất nhị, dùng lời nói để
hiển bày không lời; ngài Văn Thù dùng không lời để hiển bày không lời; ngài
Duy-ma chẳng dùng lời chẳng dùng không lời, cho nên lặng thinh để thâu ngôn
ngữ ở trước”. Quyển ba là “từ chỗ lặng thinh khởi nói, lại hiển thần thông tác
dụng”. Tọa chủ hội chăng ?
- Thật là kỳ quái, đúng thế !
- Cũng chưa đúng thế.
- Tại sao chưa đúng thế ?
- Vả lại, vì để phá tình chấp của người nên nói như thế. Nếu y cứ ý kinh thì
chỉ nói sắc tâm không tịch khiến người thấy bản tánh, dạy bỏ hạnh giả vào hạnh
thật, chớ nhằm trên ngôn ngữ giấy mực mà thảo luận suy tính, cốt hội được hai
chữ Tịnh Danh là đủ. Tịnh là bản thể. Danh là tích dụng. Từ bản thể khởi tích
dụng, từ tích dụng trở về bản thể. Thể và dụng không hai. Bản (xưa) và tích (nay)
không khác. Do đó, cổ nhân nói : “Bản (xưa) tích (nay) tuy khác, chẳng nghĩ bàn
là một vậy. Một cũng chẳng phải một”. Nếu hiểu hai chữ Tịnh Danh là giả hiệu,
lại nói cái gì cứu cánh cùng chẳng cứu cánh ? Không trước không sau, chẳng phải
gốc chẳng phải ngọn, chẳng phải Tịnh chẳng phải Danh, vì chỉ bày cho chúng
sanh bản tánh bất tư nghì giải thoát. Nếu người không thấy tánh, trọn đời chẳng
thấy được lý này.
*
Có vị tăng hỏi :
- Muôn pháp trọn không, thức tánh cũng vậy. Ví như bong bóng nước một
khi tan thì không hợp lại. Thân này chết chẳng sanh trở lại tức là rỗng không thì
chỗ nào mà có thức tánh ?
Sư đáp :
- Bong bóng nhân nước mà có, bong bóng tan đâu thể không nước. Thân
nhân tánh mà có, thân chết đâu thể nói tánh diệt.
- Đã nói có tánh, thử đem ra xem ?
- Ông tin có ngày hôm qua chăng ?
- Tin.
- Ông đem ngày hôm qua đến xem ?
- Ngày hôm qua thật là có, nhưng mà hiện giờ không thể đem đến được.
- Ngày hôm qua không thể đem đến được, chẳng phải không ngày hôm qua,
ông tự không thấy tánh, chẳng phải không có tánh. Nay thấy mặc y, ăn cơm, đi,
đứng, ngồi, nằm đối diện mà chẳng biết, đáng gọi là ngu mê. Ông muốn thấy ngày
hôm qua thì cùng ngày nay chẳng khác. Đem tánh đi tìm tánh muôn kiếp trọn
chẳng thấy, cũng như có người chẳng thấy mặt trời, chẳng phải mặt trời không có.
*
Pháp sư chuyên giảng Thanh Long sớ đến hỏi :
- Kinh nói : “Không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp”. Thiền sư thể hội
như thế nào ?
Sư đáp :
- Vì thể Bát-nhã cứu cánh thanh tịnh, không có một vật có thể được, ấy gọi
là “không pháp”. Ở trong thể không tịch của Bát-nhã đủ diệu dụng như hà sa, là
không việc gì chẳng biết, ấy gọi là “nói pháp”. Cho nên nói : “Không pháp có thể
nói, ấy gọi là nói pháp”.
*
Pháp sư giảng kinh Hoa Nghiêm hỏi :
- Thiền sư tin vô tình là Phật chăng ?
Sư đáp :
Chẳng tin. Nếu vô tình là Phật thì người sống chẳng bằng người chết, lừa
chết chó chết lẽ ra hơn người sống. Kinh nói : “Phật thân tức là Pháp thân, từ giới
định tuệ mà sanh, từ tam minh lục thông mà sanh, từ tất cả pháp lành mà sanh”.
Nếu nói vô tình là Phật, Đại đức hiện giờ chợt chết liền thành Phật rồi.
*
Có Pháp sư hỏi :
- Trì kinh Bát-nhã công đức rất nhiều, Thầy có tin chăng ?
Sư đáp :
- Chẳng tin.
- Nếu vậy sự linh nghiệm truyền lại hơn mười quyển đều không thể tin sao ?
- Người sống giữ hiếu tự có cảm ứng, không phải xương trắng hay có cảm
ứng. Kinh là chữ giấy mực, chữ giấy mực tánh nó không, thì chỗ nào có linh
nghiệm ? Sự linh nghiệm tại người trì kinh dụng tâm nên thần thông cảm vật. Thử
đem một quyển kinh để trên bàn không có người thọ trì, tự nó có linh nghiệm
chăng ?
*
Có vị tăng hỏi :
- Chưa biết tất cả danh tướng và pháp tướng, nói cùng với nín, thế nào
thông hội liền không có trước sau ?
Sư đáp :
- Khi một niệm khởi xưa nay không tướng không danh, làm sao được nói
có trước sau ? Chẳng rõ danh tướng vốn tịnh, vọng chấp có trước sau. Cổng danh
tướng khóa, chẳng phải chìa khóa trí thì không thể mở. Hễ nói Trung đạo thì bệnh
tại Trung đạo, nói hai bên thì bệnh tại hai bên. Chẳng biết hiện dụng là Pháp thân
Vô đẳng đẳng (Phật). Mê ngộ được mất là pháp của người thường, tự khởi sanh
diệt, chôn vùi chánh trí. Hoặc đoạn phiền não, hoặc cầu Bồ-đề đều là chối bỏ Bátnhã.
*
Có người hỏi :
- Luật sư cớ sao chẳng tin thiền ?
Sư đáp :
- Vì lý sâu kín khó hiển bày, danh tướng dễ giữ. Người không thấy tánh nên
chẳng tin thiền. Nếu người thấy tánh gọi đó là Phật, người biết Phật mới hay tin
vào, Phật chẳng xa người mà người xa Phật. Phật là tâm tạo, mà người mê căn cứ
trong văn tự để tìm. Người ngộ nhằm nơi tâm mà giác, người mê tu nhân đợi quả.
Người ngộ thấu rõ tâm không tướng, người mê chấp vật giữ cái ngã làm mình.
Người ngộ Bát-nhã ứng dụng hiện tiền, người ngu chấp không chấp có sanh kẹt.
Người trí thấy tánh liễu tướng linh thông. Hàng càn tuệ (tuệ khô) biện luận mỏi
miệng, bậc đại trí thấu suốt bản thể tâm an vui. Bồ-tát chạm vật soi tỏ, Thanh văn
sợ cảnh làm mờ tâm. Người ngộ hằng ngày được vô sanh, người mê hiện tiền cách
xa Phật.
*
Có người hỏi :
- Thế nào được thần thông ?
Sư đáp :
- Thần tánh linh thông khắp giáp thế giới như cát bụi núi sông đá vách qua
lại không ngại, trong sát-na đi muôn dặm, qua lại không dấu vết, lửa không thể đốt,
nước không thể chìm. Người ngu tự không tâm trí muốn thân tứ đại này được bay
trong hư không. Kinh nói : “Phàm phu chấp tướng tùy nghi vì họ nói : Tâm không
hình tướng tức là sắc thân vi diệu; không tướng tức là tướng thật, tướng thật thì thể
nó không, gọi là thân hư không vô biên, muôn hạnh trang nghiêm nên gọi là Pháp
thân công đức”. Chính Pháp thân này là gốc của muôn hạnh, tùy công dụng đặt tên,
nói thật chỉ có Pháp thân thanh tịnh.
*
Có người hỏi :
- Kẻ nhất tâm tu hành thì nghiệp chướng đời quá khứ được tiêu diệt chăng ?
Sư đáp :
- Người không thấy tánh chưa được tiêu diệt. Nếu người thấy tánh như mặt
trời giọi sương tuyết. Lại người thấy tánh, ví như gom cỏ bằng ngọn núi Tu Di chỉ
dùng một đóm lửa là cháy rụi. Nghiệp chướng như cỏ, trí tuệ như lửa.
- Thế nào biết được nghiệp chướng hết ?
- Hiện tiền tâm thông thì việc sanh trước sau đều thông. Ví như nhìn thấy
Phật trước Phật sau, muôn pháp đồng thời. Kinh nói : “Một niệm biết tất cả pháp
là đạo tràng vì thành tựu Nhất thiết trí”.
*
Có vị cư sĩ hỏi :
- Thế nào được trụ chánh pháp ?
Sư đáp :
- Cầu trụ chánh pháp là tà. Vì cớ sao ? Vì pháp không có tà chánh.
- Làm sao được thành Phật ?
- Chẳng cần bỏ tâm chúng sanh, cốt đừng ô nhiễm tánh mình. Kinh nói :
“Tâm, Phật và chúng sanh cả ba đều không sai biệt”.
- Nếu hiểu như thế được giải thoát chăng ?
- Vốn tự không phược (trói buộc) chẳng cần cầu giải. Pháp vượt ngoài ngôn
ngữ văn tự, chẳng dùng trong câu số mà cầu; pháp chẳng phải quá khứ hiện tại vị
lai, không thể do trong nhân quả mà khế hội; pháp vượt tất cả, không thể so sánh;
pháp thân không hình tượng, ứng vật hiện hình, chẳng rời thế gian mà cầu giải
thoát.
*
Có vị tăng hỏi :
- Cái gì là Bát-nhã ?
Sư bảo :
- Ngươi nghi cái gì không phải Bát-nhã, thử nói xem ?
- Thế nào được thấy tánh ?
- Thấy tức là tánh, không tánh thì không thể thấy.
- Thế nào là tu hành ?
- Cốt đừng ô nhiễm tự tánh tức là tu hành, chớ tự lừa dối là tu hành, đại
dụng hiện tiền tức là Pháp thân Vô đẳng đẳng (Phật).
- Trong tánh có ác chăng ?
- Trong đây thiện còn chẳng lập.
- Thiện ác đều chẳng lập, đem tâm dùng vào chỗ nào ?
- Đem tâm dùng tâm là đại điên đảo.
- Làm thế nào mới phải ?
- Không làm thế nào, cũng không phải.
*
Có người hỏi :
- Có người chèo thuyền, lườn thuyền cọ chết con ốc con hến, là người chịu
tội hay thuyền chịu tội ?
Sư đáp :
- Người thuyền cả hai đều không tâm, tội chính tại ông. Ví như cuồng
phong thổi gãy cây hại mạng, mà không có người làm, không có người chịu,
nhưng trong thế giới đâu không phải là chỗ chúng sanh chịu khổ.
*
Có vị tăng hỏi :
- Chưa biết “thế thác tình” (gởi tình), “thế chỉ cảnh”, “thế nói nín”, cho đến
“thế nhướng mày chớp mắt” v.v…, làm sao được thông hội ở trong khoảng một
niệm ?
Sư đáp :
- Không có việc ngoài tánh. Người dụng diệu thì động yên đều diệu. Người
tâm chân thì nói nín thảy chân. Người hội đạo thì đi đứng ngồi nằm đều là đạo. Vì
mê tự tánh nên muôn lầm phát sanh.
- Thế nào là pháp có tông chỉ ?
- Tùy chỗ kia lập liền có các nghĩa. Ngài Văn Thù nơi gốc vô trụ lập tất cả
pháp.
- Chẳng đồng thái hư chăng ?
- Ngươi sợ đồng thái hư chăng ?
- Sợ.
- Cái biết sợ là chẳng đồng thái hư.
- Chỗ nói không thể đến, làm sao được hiểu ?
- Nay chính khi ngươi nói, nghi chỗ nào chẳng đến.
*
Có hơn mười vị Túc đức đồng đến hỏi :
- Kinh nói : “Phá diệt Phật pháp”, chưa biết Phật pháp có thể phá diệt
chăng ?
Sư đáp :
- Phàm phu ngoại đạo bảo Phật pháp có thể phá diệt, người Nhị thừa bảo
Phật pháp không thể phá diệt, trong chánh pháp của tôi không có hai cái thấy này.
Nếu luận về chánh pháp chẳng những phàm phu ngoại đạo, cho đến hàng Nhị thừa
chưa đến vị Phật cũng là người ác.
- Pháp chân, pháp huyễn, pháp không, pháp chẳng không mỗi thứ có chủng
tánh chăng ?
- Pháp tuy không có chủng tánh, ứng vật đều hiện. Tâm huyễn nên tất cả
pháp đều huyễn, nếu có một pháp chẳng huyễn thì huyễn ắt có định. Tâm không,
nên tất cả đều không, nếu có một pháp chẳng không thì nghĩa không chẳng lập.
Khi mê thì người theo pháp, lúc ngộ thì pháp do người. Như sum la vạn tượng đến
không là tột, trăm sông các dòng đến biển là tột. Tất cả Hiền Thánh đến Phật là tột.
Mười hai phần kinh, năm bộ Tỳ-ni (luật), năm Vi-đà luận (luận) đến tâm là tột.
Tâm là gốc diệu của tổng trì, là nguồn lớn của muôn pháp, cũng gọi là kho đại trí
tuệ, vô trụ Niết-bàn, trăm ngàn muôn tên thảy là tên khác của tâm mà thôi.
- Thế nào là huyễn ?
- Huyễn không có tướng nhất định, như vòng lửa quay, như thành Càn-thátbà,
như người gỗ bằng máy, như sóng nắng, như hoa giữa hư không, đều không có
pháp thật.
- Sao gọi là thầy đại huyễn ?
- Tâm gọi là thầy đại huyễn. Thân là thành đại huyễn. Danh tướng là đồ ăn
mặc của đại huyễn. Thế giới nhiều như cát bụi không có việc gì ngoài huyễn.
Phàm phu chẳng biết huyễn, nơi nơi mê nghiệp huyễn. Thanh văn sợ cảnh huyễn,
mờ tâm vào tịch diệt. Bồ-tát biết pháp huyễn, đạt thể huyễn, chẳng câu nệ tất cả
danh tướng. Phật là thầy đại huyễn, xoay bánh xe pháp đại huyễn, thành Niết-bàn
đại huyễn, chuyển sanh diệt huyễn, được chẳng sanh chẳng diệt, chuyển cõi ô uế
như cát bụi thành pháp giới thanh tịnh.
*
Có vị tăng hỏi :
- Tại sao chẳng chịu tụng kinh, mà gọi là “khách ngữ” (kẻ học nói) ?
Sư đáp :
- Như chim Anh Võ chỉ học tiếng người mà không hiểu ý người. Kinh là
truyền ý Phật, chẳng nhận được ý Phật mà chỉ tụng, ấy là người học ngữ. Do đó
nên chẳng chịu tụng kinh.
- Không thể lìa văn tự ngôn ngữ mà riêng có ý ?
- Ngươi nói như thế cũng là học ngữ.
- Đồng là ngôn ngữ sao Thầy chẳng nhận lời tôi ?
- Ngươi hãy lắng nghe, trong kinh có đoạn văn rất rõ ràng “Ta nói ra là
nghĩa ngữ mà chẳng phải văn, chúng sanh nói ra là văn ngữ mà chẳng phải nghĩa,
người được ý vượt ngoài lời, người ngộ lý vượt ngoài văn tự, pháp vượt ngôn ngữ
văn tự, đâu thể nhằm trên câu văn mà cầu”. Thế nên, người phát Bồ-đề thì được ý
quên lời, ngộ lý mà lờ kinh, cũng như được cá quên nôm, được thỏ bỏ bẫy.
*
Có Pháp sư hỏi :
- Niệm Phật là “hữu tướng Đại thừa”, ý Thiền sư thế nào ?
Sư đáp :
- Vô tướng vẫn chẳng phải Đại thừa, huống là hữu tướng. Kinh nói : “Phàm
phu chấp tướng” tùy nghi vì họ nói.
- Nguyện sanh Tịnh độ, chưa biết thật có Tịnh độ chăng ?
- Kinh nói : “Muốn được Tịnh độ phải tịnh tâm kia, tùy tâm kia tịnh tức
Phật độ tịnh”. Nếu tâm thanh tịnh thì chính chỗ ở hiện giờ là Tịnh độ. Ví như sanh
trong nhà Quốc vương, nhất định nối nghiệp Quốc vương. Phát tâm hướng Phật
đạo là sanh nơi cõi Phật tịnh. Tâm kia nếu chẳng tịnh thì chính chỗ ở hiện giờ là
uế độ. Tịnh và uế độ là tại tâm chẳng phải tại cõi nước.
- Mỗi ngày nghe nói đạo, chưa biết người nào hay thấy ?
- Người có tuệ nhãn hay thấy.
- Rất thích Đại thừa làm sao học được ?
- Ngộ là được, chẳng ngộ là chẳng được.
- Làm sao được ngộ ?
- Phải quán kỹ.
- Giống vật gì ?
- Giống không vật.
- Thế nào là rốt ráo Không ?
- Không chẳng rốt ráo.
- Thế nào là Hữu ?
- Hữu mà không tướng.
- Chẳng ngộ làm sao ?
- Đại đức tự chẳng ngộ, chẳng phải tại người làm chướng ngại.
- Phật pháp ở nơi ba mé (trong ngoài giữa) chăng ?
- Thấy tại vô tướng chẳng ở ngoài nơi ấy, ứng dụng không cùng, chẳng ở
tại trong, chặng giữa không có chỗ trụ, ba mé không thể được.
- Câu đáp này rất hỗn tạp.
- Chính khi Thầy nói hai chữ “hỗn tạp” là ở trong ở ngoài chăng ?
- Đệ tử xét nghiệm trong ngoài không dấu vết.
- Nếu không dấu vết thì biết rõ lời nói từ trước đến giờ không có hỗn tạp.
- Thế nào được làm Phật ?
- Tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật.
- Chúng sanh vào địa ngục, Phật tánh có vào chăng ?
- Như hiện nay chính khi làm ác lại có lành chăng ?
- Không.
- Chúng sanh vào địa ngục, Phật tánh cũng như thế.
- Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh là thế nào ?
- Tạo dụng Phật là tánh Phật, tạo dụng kẻ cướp là tánh cướp, tạo dụng
chúng sanh là tánh chúng sanh. Tánh không hình tướng, tùy dụng đặt tên. Kinh
nói : “Tất cả Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt” (kinh Kim Cang).
*
Có vị tăng hỏi :
- Thế nào là Phật ?
Sư đáp :
- Rời ngoài tâm thì không có Phật.
- Thế nào là Pháp thân ?
- Tâm là Pháp thân, nghĩa là hay sanh muôn pháp nên gọi là Pháp giới thân.
Luận Khởi Tín nói : “Nói là pháp đó, nghĩa là tâm chúng sanh, tức y tâm này hiển
bày nghĩa Đại thừa”.
- Thế nào là nói có quyển kinh lớn trong hạt bụi nhỏ?
- Trí tuệ là quyển kinh lớn. Kinh nói : “Có quyển kinh lớn lượng bằng thế
giới tam thiên đại thiên, ở trong một hạt bụi nhỏ”. Một hạt bụi là một niệm tâm
trần vậy. Cho nên nói “trong một niệm trần nói ra hà sa bài kệ, người đời tự chẳng
biết”.
- Sao gọi là thành đại nghĩa ? Sao gọi là vua đại nghĩa?
- Thân là thành đại nghĩa. Tâm là vua đại nghĩa. Kinh nói : “Người đa văn
giỏi về nghĩa, mà chẳng giỏi về nói năng, nói năng là sanh diệt, nghĩa chẳng sanh
diệt, nghĩa không hình tướng, ngoài lời nói năng. Tâm là quyển kinh lớn, tâm là
vua nghĩa lớn. Nếu người chẳng biết tâm rành rõ thì không gọi là giỏi nghĩa, chỉ là
người học ngữ.
- Kinh Bát-nhã nói : “Độ chín loài chúng sanh đều vào Vô dư Niết-bàn”, lại
nói “thật không chúng sanh được diệt độ”, hai đoạn văn kinh này làm sao thông
hội ? Người xưa và người nay đều nói “thật độ chúng sanh mà không chấp tướng
chúng sanh”. Tôi vẫn còn nghi, thỉnh thầy vì tôi giải nghi.
- Chín loài chúng sanh trong một thân đầy đủ, tùy tạo nghiệp tùy thành quả.
Vô minh là noãn sanh (sanh bằng trứng), phiền não bao bọc ở trong là thai sanh
(sanh bằng bào thai), nước ái đượm nhuần là thấp sanh (sanh chỗ ẩm ướt), chợt
khởi phiền não là hóa sanh (từ loài này hóa sanh loài khác). Ngộ liền là Phật, mê
gọi là chúng sanh. Bồ-tát chỉ dùng tâm niệm niệm làm chúng sanh. Nếu thấu rõ
niệm niệm nơi tâm, thể nó đều không, gọi là độ chúng sanh. Người trí căn cứ trên
bản tế (tâm) của mình mà độ. Lúc chưa thành hình, chưa thành hình đã không, thì
biết thật không chúng sanh được diệt độ.
Có vị tăng hỏi :
- Ngôn ngữ là tâm chăng ?
Sư đáp :
- Ngôn ngữ là duyên chẳng phải tâm.
- Lìa duyên cái gì là tâm ?
- Lìa ngôn ngữ không tâm.
- Lìa ngôn ngữ đã không tâm, vậy cái gì là tâm ?
- Tâm không hình tướng, chẳng lìa ngôn ngữ, chẳng phải chẳng lìa ngôn
ngữ, tâm thường lặng lẽ, ứng dụng tự tại. Tổ sư nói : “Nếu thấu rõ tâm phi tâm,
mới hiểu tâm tâm pháp”.
*
Có vị tăng hỏi :
- Thế nào là định tuệ đồng học ?
Sư đáp :
- Định là thể, tuệ là dụng, từ định khởi tuệ, từ tuệ về định, như nước với
sóng, một thể lại không có trước sau, gọi là định tuệ đồng học. Phàm kẻ xuất gia
chớ tìm lời theo câu, đi đứng ngồi nằm đều là tánh dụng của ngươi, thì có chỗ nào
cùng đạo không tương ưng? Hãy tự nhất thời thôi dứt đi, nếu chẳng theo gió ngoại
cảnh thì nước tánh thường tự lặng lẽ.
Vô sự, trân trọng !
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
cho vui

1. Bài của bạn ban đầu không có link trích dẫn, sau đó bạn có bổ sung nhưng vẫn không hoàn chỉnh vì link ấy chỉ đưa đến trang blog cá nhân của bạn mà trang blog của bạn không nêu link gốc (từ một trang web uy tín), giả sử trang blog của bạn chứa những bài không đạt chuẩn (như bài ca ngợi ông Krishnamurti là đức Di Lặc) thì link trích dẫn này vô hiệu.

Trước hết tôi muốn nói với bạn rằng Lục Tổ là người không biết chữ. nhưng khi ngộ đạo rồi thì tam tạng kinh điển không chỗ nào không biết.
Còn blogs của tôi thì nhỏ bé không đáng nói. nhưng với người muốn đắc đạo thì thì cái học được từ kinh điển cuối cùng cũng phải xả bỏ hết. nói như ngài Lai Quả thì phải mửa ra cho hết, nạo cho sạch cái sạch đó cũng phải nạo luôn thì mới có phần tương ưng. vậy blogs của tôi cũng chỉ để tham khảo nghiên cứu, ai thấy dùng được chỗ nào thì dùng. còn chuyện ông Krishnamurti có phải người chứng ngộ hay không không quan trọng. chỉ cần ở ông ấy có cải gì mình học được thì tôi học , mọi người không học được gì ở ông ấy thì thôi. cớ gì cứ đặt nặng trong tâm cho thêm khổ. tôi muốn hỏi các bạn Thầy của các bạn đã chứng ngộ chưa? mà theo tôi thì ai ưng học theo ai thì tùy. riêng tôi cóc nhái tôi cũng học, muỗi mòng tôi cũng học.. hề hề vì là trí ngu mà hề hề. thôi nhé để thời gian mà ngồi thiền hay niệm Phật có ích lợi hơn. chúng ta phí quá phí quá. chúc mọi người khỏe gân cốt sáng tinh thần


http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-79...-lai-qua-thien-su-dich-gia-thich-duy-luc.html
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Chào chú nhãn đầu mùa !
nhãn đầu mùa đã viết:
Nếu hiểu và thấu những điều này thì chỉ có" im hơi bặt tiếng " Nghĩa là niệm mà không niệm như lời Lục Tổ nói.

Theo hoatihon thì chú đã hiểu lầm câu nói của Tổ "VÔ NIỆM là ở nơi niệm mà chẳng niệm".
http://www.tosuthien.com/kinh-sach/kinh-phap-bao-dan/pham-dinh-hue-thu-tu

Còn bản giảng giải của Thầy Thanh Từ ghi là
" Đối với niệm mà không niệm."
Do vì bỏ bớt chủ ngữ, chỉ còn động từ niệm (tưởng nhớ) cho nên chú mới nói "chỉ có "im hơi bặt tiếng" . Đây là cái hiểu sai ý của Tổ, ở câu trên Tổ có nói rõ ràng :

Sư dạy chúng rằng: Thiện tri thức, đạo cần phải linh động, chớ nên làm cho ngăn trệ.
......
Nếu là trăm điều chẳng nghĩ, làm cho niệm tuyệt, một niệm tuyệt liền chết,thọ sanh nơi khác, ấy là cái lỗi lầm lớn, người học đạo nên xét kỹ! Nếu chẳng hiểu ý Chánh Pháp, tự lầm còn đỡ, lại khuyên người khác học theo, tự mê chẳng thấy, lại thêm tội phỉ báng kinh Phật, vì vậy nên lập VÔ NIỆM làm tông.

Cẫn thận nghĩa này.
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
chào chị hai

Chào chú nhãn đầu mùa !


Theo hoatihon thì chú đã hiểu lầm câu nói của Tổ "VÔ NIỆM là ở nơi niệm mà chẳng niệm".
http://www.tosuthien.com/kinh-sach/kinh-phap-bao-dan/pham-dinh-hue-thu-tu

Còn bản giảng giải của Thầy Thanh Từ ghi là
" Đối với niệm mà không niệm."
Do vì bỏ bớt chủ ngữ, chỉ còn động từ niệm (tưởng nhớ) cho nên chú mới nói "chỉ có "im hơi bặt tiếng" . Đây là cái hiểu sai ý của Tổ, ở câu trên Tổ có nói rõ ràng :

Sư dạy chúng rằng: Thiện tri thức, đạo cần phải linh động, chớ nên làm cho ngăn trệ.
......
Nếu là trăm điều chẳng nghĩ, làm cho niệm tuyệt, một niệm tuyệt liền chết,thọ sanh nơi khác, ấy là cái lỗi lầm lớn, người học đạo nên xét kỹ! Nếu chẳng hiểu ý Chánh Pháp, tự lầm còn đỡ, lại khuyên người khác học theo, tự mê chẳng thấy, lại thêm tội phỉ báng kinh Phật, vì vậy nên lập VÔ NIỆM làm tông.

Cẫn thận nghĩa này.

Thưa chị hai ở diễn đàn này em chưa là học trò của ai cả, mà chưa ai là thầy của em cả, tất cả đều bình đẳng trao đổi chân thành. nếu như cái hiểu không đồng nhau thì coi như là không biết nhau. còn nếu lấy cái quyền khóa, xóa thì cứ việc khóa, xóa. còn về ngôn ngữ đúng sai thì xin chị để cho những người vào đọc họ phê bình hay chỉ dạy. chứ từ lâu đến giờ em không nhận nổi cái hiểu của chị hai và êkíp của chị đâu ạ. chị có thể xóa hết những gì mà chị không cho là đúng đi ạ. em xin kiếu chị. khi nào thành đạo rồi chị ứ em một tiếng là em đến bái làm sư liền à chị
và biết được những gì xảy ra nên có mấy câu rằng:
Nắng lắm nên trời són chút mưa
Một chút nước thừa đã sướng chưa
Dung dăng bỡn những bầy tôm tép
Cua cá đua tình cũng phởn phơ
Nhưng mà vui được trong chốc lát
Nước cạn, cát trồi, mắt trợn ngơ
Hề hề hề....
 

Ngọc Tuấn

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2012
Bài viết
630
Điểm tương tác
278
Điểm
63
Thưa chị hai ở diễn đàn này em chưa là học trò của ai cả, mà chưa ai là thầy của em cả, tất cả đều bình đẳng trao đổi chân thành. nếu như cái hiểu không đồng nhau thì coi như là không biết nhau. còn nếu lấy cái quyền khóa, xóa thì cứ việc khóa, xóa. còn về ngôn ngữ đúng sai thì xin chị để cho những người vào đọc họ phê bình hay chỉ dạy. chứ từ lâu đến giờ em không nhận nổi cái hiểu của chị hai và êkíp của chị đâu ạ. chị có thể xóa hết những gì mà chị không cho là đúng đi ạ. em xin kiếu chị. khi nào thành đạo rồi chị ứ em một tiếng là em đến bái làm sư liền à chị

Ứh.....hự !

Vậy là chú nhãn đầu mùa đã ở CHỖ KHÔNG NIỆM MÀ NIỆM rồi !

:eek:nion09::eek:nion09::eek:nion09:
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên