Mỗi người trong chúng ta là một vị y sĩ : Đức Phật Dược Sư và Nghiệp chữa bệnh

TamDuc

Phó Trưởng Ban Đại Biểu nhiệm kỳ I (2011-2012)
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
30 Thg 1 2010
Bài viết
890
Điểm tương tác
114
Điểm
43
Địa chỉ
Canada
[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=21&pictureid=3269"]
Mỗi người trong chúng ta là một vị y sĩ :
Đức Phật Dược Sư và Nghiệp chữa bệnh


<table align="left" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="1"> <tbody><tr><td>
images_2010_quy4_hinh_duc_duoc_su_luu_ly_qua_jpg_jpg_874980645.jpg
</td></tr> <tr><td style="padding-left: 5px; padding-right: 5px;" align="Center"> NAM MÔ DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI
</td></tr> </tbody></table>​
Trong truyền thống Phật giáo, vị thầy chữa bệnh nguyên thủy và đầu tiên là đức Phật. Thường được gọi là Đức Phật Dược Sư, chính đức Phật Dược Sư đã tiết lộ các bài pháp thiêng liêng được gói ghém trong những bài kinh được gọi là Tứ Mật Y Kinh (Four Medical Tantras).
Một nhà cố vấn về thời trang thẩm mỹ bị bệnh ung thư.
Đây là cách mà bà ta sử dụng để làm giảm nỗi đau :
Bà ta gửi một tin nhắn đến người bạn đang là học viên ở Viện Vajrapani ở California, để hỏi về cách thực tập chữa bệnh. Bà được người bạn chỉ dẫn nên mua lại các sinh vật sắp sửa bị giết và phóng sanh chúng ở một nơi an toàn, giúp cho chúng có thể sống lâu hơn.

Người phụ nữ dễ thương nầy đã cứu rất nhiều súc vật sắp sửa bị giết. Bà đã phóng sanh hai hoặc ba ngàn con vật, đa số là gà, cá, và giun trùng. Bà đem gà đến một nông trại gia súc, và thả cá xuống sông. Bà mua hai ngàn con trùng vì chúng rẻ và dễ tìm, và bà thả trùng trong khu vườn của bà. Phóng sanh trùng là một ý rất hay vì trùng khi được thả ra sẽ lẹ làng chui xuống đất. Chúng sống trong khu vườn nhà thì không bị sát hại bởi các sinh vật khác và như vậy chúng sẽ sống lâu hơn. Các con vật khác được phóng sanh trong rừng, hồ, hoặc biển không chắc sẽ sống lâu hơn vì chúng luôn có những kẻ thù trong thiên nhiên.
Nghe nói rằng sau khi đã thực tập phóng sanh, bà ấy vào nhà thương để chẩn đoán lại, và các bác sĩ đã không tìm thấy dấu vết nào của căn bệnh ung thư .
Thật hay giả, chuyện nầy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với những ai tin tưởng thuyết nghiệp quả. Đây là những lời của ông Deepak Chopra :

« Không có món nợ nào trong vũ trụ mà không phải trả. Vũ trụ có một hệ thống tính toán sổ sách rất hoàn hảo, và tất cả mọi thứ là sự trao đổi tới lui. »
Như vậy, nhờ giúp đỡ sinh mạng các con vật yếu đuối, người phụ nữ đã xác định niềm tin của bà trong tính xác thật của luật nhân quả, gọi là « nghiệp vừa là hành động vưà là kết quả của hành động đó. » Hành động của bà không phải là ảo thuật hay phép lạ mà là gieo trồng những hạt giống thích hợp để chúng đơm hoa kết trái thành sức khỏe và niềm hạnh phúc. Thật vậy, nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc trong cuộc sống, chúng ta phải học gieo trồng các hạt giống hạnh phúc cho người khác. Cũng như với các thực tập của người Phật tử thông thường, kết quả mà một người đang nhận lãnh là nghiệp của quá khứ. Tất cả mọi thứ đang xảy ra vào lúc nầy là kết quả của những hành động mà ta đã làm trước đó. Đây là một minh họa cho thành ngữ « gieo nhân nào gặt quả nấy » .

Nếu chúng ta có lòng từ bi và tử tế, chúng ta sẽ luôn luôn không có ý gây tổn hại đến người khác, và việc nầy chính nó đã là một phương pháp chữa bệnh. Theo niềm tin Phật giáo, một người có từ tâm là vị thầy chữa bệnh thần kỳ nhất, không những chỉ chữa lành bệnh hay giải quyết được các nan đề cho chính họ, mà còn là vị thầy chữa bệnh cho những người khác. Đa số chúng ta đều xác nhận rằng trong nhà thương, nơi căn bệnh đang hoành hành và bệnh nhân đang chịu đựng nỗi đau, với nụ cười thân thiện và lời khích lệ của vị y sĩ, bệnh nhân sẽ đỡ đau và mau khỏe hơn. Thật ra chính là do tình thương mà bệnh được chữa lành. Một khi tình thương được lan tỏa ra từ nơi sâu thẳm của một người, chính tình thương yêu đã tạo nên sức khỏe tốt.

Trong truyền thống Phật giáo, vị thầy chữa bệnh nguyên thủy và đầu tiên là đức Phật. Thường được gọi là Đức Phật Dược Sư, chính đức Phật Dược Sư đã tiết lộ các bài pháp thiêng liêng được gói ghém trong những bài kinh được gọi là Tứ Mật Y Kinh (Four Medical Tantras). Tất cả y thuật của Phật giáo đều bắt nguồn từ bộ kinh thiêng liêng nầy. Như đã giải thích trong bài đầu tiên của các bài kinh nầy, đức Phật Dược Sư một lần đã ngồi thiền định, và xung quanh các vị đệ tử gồm có các vị y sĩ, các vị thông thái, thiên vương và các vị Bố Tát, tất cả đều ước muốn học hỏi về phương pháp chữa bệnh. Tất cả đều lặng người bởi hào quang sáng rỡ trang nghiêm của đức Phật, mà không dám mở lời. Biết được nguyện vọng của họ, đức Phật Dược Sư đã phát ra hai ánh hào quang, ánh hào quang thứ nhất là lời thỉnh cầu học pháp, và ánh hào quang thứ hai giảng giải về pháp nầy. Nhờ vậy, bài kinh nầy được nói ra, và đức Phật Dược Sư giải thích những chứng bệnh khác nhau về thân cũng như tâm, giảng về nguyên nhân của chúng, sự chẩn đoán bệnh tình, và cách chữa trị.
Mặt khác, đức Phật hiểu rõ nguyện vọng của các đệ tử mà không cần họ phải nói ra, việc nầy cho thấy lòng từ bi vô hạn của đức Phật đối với các đệ tử. Thật vậy, các thầy chữa bệnh như đức Phật được gọi là những vị đại y sĩ không những chỉ vì khả năng chữa lành bệnh – mà còn là vì lòng từ bi và trí tuệ để chẩn đoán và chữa trị tận gốc rễ của căn bệnh, dù là thân bệnh hay tâm bệnh.
Trong nghệ thuật tranh ảnh, hình đức Phật Dược Sư được vẽ với màu vàng hoàng kim, dù các đặc điểm khác vẫn là màu xanh dương.
Trong bất cứ hình ảnh nào, bàn tay trái của đức Phật Dược Sư đều để trên đùi trong tư thế bắt ấn của thiền định, với một cái bát bằng sắt. Tay phải ngửa lên, như đang ban phát, một cử chỉ thể hiện sự rộng lượng, một nhánh myrobalan (một loại thảo dược trong y học Tây Tạng). Đây là một loại trái cây có thể chữa bệnh rất phổ biến trong y học Tây Tạng và ở đây là biểu tượng của sự phục hồi mạnh mẽ của thế giới thực vật, nhắc nhở chúng ta là trái đất cung cấp miễn phí cho chúng ta, và không đòi hỏi gì hơn là gìn giữ sự mầu mỡ của nó với sự chăm sóc nhẹ nhàng, nâng niu.

Tuy nhiên, y học Phật giáo chỉ áp dụng thuốc men một cách có giới hạn. Việc sử dụng thuốc chỉ được áp dụng vừa phải để chữa các triệu chứng ngoại tại của căn bệnh. Việc chữa trị căn bệnh cho con người tận gốc rễ cần phải nương vào sự chứng ngộ tâm linh, mỗi người chúng ta đều có thể tự chữa trị bằng cách nầy. Đức Phật Dược sư thường được vẽ với đủ loại dược thảo thơm tho bao quanh, trong y dược Tây Tạng, với vô số thiên vương, và Bố Tát. Hình vẽ như thế nầy được gọi là « Thiên đàng của đức Dược Sư » .
Thiên đàng nầy tượng trưng cho một vũ trụ lý tưởng, nơi tất cả các thuốc giải cho mỗi chứng bệnh đều hiện hữu. Đức Phật Dược Sư cũng đã nói như sau, « Bao nhiêu chúng sinh hiện hữu trong hệ thống thế giới, đều có một con đường giải thoát. »
Theo lời Romio Shrestha « « Đức Phật Dược Sư là nhà bào chế thuốc tâm linh. Để khám phá ra sức mạnh chữa bệnh tiềm tàng ngay trong con người chúng ta, là lối vào thiên đàng của « Bậc thầy về thuốc giải. » . Cũng có nghĩa là thiên đàng nầy nằm ngay trong lòng mỗi chúng ta, chỉ cần tâm thức sáng suốt để nhận diện và sử dụng nó. Romio Shrestha còn nói thêm, « Thân thể chúng ta có khả năng tự chữa bất cứ căn bệnh nào. Mỗi một cây, mỗi một dược thảo, mỗi thuốc giải đều có vật bổ sung của nó nằm trong cốt lõi tinh tế của thân thể con người. »
Chúng ta không những có khả năng chữa trị cho chính bản thân, mà còn có thể chữa bệnh cho những người xung quanh chúng ta như câu chuyện sau đây :

Ngày xưa đó, có một tăng sĩ sống trong một làng nhỏ ở Tây Tạng. Ông ta rất là tầm thường, và hằng ngày chăm lo nhiệm vụ tu sĩ của mình. Năm đó làng xảy ra một cơn dịch đậu mùa, giết chết vô số người trong vùng, vị tăng sĩ cũng bị đậu mùa và chết đi. Đó là vào giữa mùa đông, mặt đất bị đóng băng và củi thì khan hiếm, vì vậy xác của vị ấy được khiêng thả xuống một cái hồ đang đóng băng. Một thời gian sau đó, cơn dịch đậu mùa chấm dứt. Vào mùa xuân, mặt băng tan đi, và người ta nhận thấy một cầu vòng phía trên mặt hồ nơi họ thả xuống xác của vị tu sĩ.
Người ta liền đến nơi đó và thấy xác của vị tu sĩ đang nổi lên, hoàn toàn nguyên vẹn. Xác của ông được đưa về tu viện và được làm lễ hỏa táng theo nghi thức tăng sĩ. Khi xác thân của ông biến mất trong ngọn lửa, nơi dàn hỏa xuất hiện nhiều cầu vồng bay thẳng lên bầu trời, sau đó người ta tìm được các xá lợi trong đống tro tàn. Lúc ấy, mọi người đồng công nhận vị tăng sĩ là một người xuất chúng trong cái vỏ ngoài rất « tầm thường », và người ta khen tặng ông đã nhận lãnh căn bệnh hiểm nguy để thanh tịnh hóa các nghiệp xấu tạo nên cơn dịch. Trong Phật giáo Tây Tạng, bệnh hoạn có thể là một biểu hiện của sự thành công về mặt tâm linh, và sự hy sinh chính mình để cứu những người khác.
Một người mẹ có thể hiểu được điều nầy, bà mẹ có thể cho đi sự sống của mình để nuôi nấng các con. Thật như vậy có thể chứng minh sự ép xác, khổ hạnh là đúng, xem bệnh hoạn như một cây chổi quét sạch hết nghiệp xấu, và như vậy chứng tỏ con đường tâm linh cao nhất để thanh tịnh hóa bản thân là sự chịu đựng khổ hạnh.
Một người tầm thường có khả năng trị bệnh xuất phàm. Khả năng nầy chỉ đạt được khi chúng ta chấp nhận về mình sự đau khổ của kẻ khác, chịu đau khổ như kẻ khác, bằng cảm nhận lấy nỗi khổ của họ. Trau dồi những cảm giác tương thông nầy sẽ làm tăng trưởng lòng từ bi, sự xót thương. Chỉ có như vậy mới có thể huy động được năng lực chữa bệnh không giới hạn đã tìm tàng sâu thẳm trong tâm thức vô biên của chúng ta.
Thật sự bệnh tật và đau khổ được xem là cách giải thoát đặc thù, cho ta cơ hội để trải nghiệm sự liên hệ chặt chẽ giữa ta và những chúng sinh khác, và cho ta thấy rõ bản chất tử vong của kiếp con người. Có một câu chuyện về một vị trụ trì thiền viện đã đạt được năng lực chữa bệnh bằng lòng từ bi. Một ngày trong khi ông ta đang dạy dỗ đệ tử, bất thần ông ta la đau. Khi các đại sư hỏi ông bị gì, ông nói rằng có một con chó đang bị đánh đập bên ngoài. Khi họ ra ngoài, họ nhìn thấy một người đàn ông đang giận dữ và dùng gậy để đánh một con chó. Khi người đàn ông được gọi vào bên trong thiền viện, vị trù trì kéo áo xuống cho ông ta thấy những vết bầm và cắt trên lưng đúng ngay chỗ con chó bị đánh đập. Đây là tính chất hợp nhất mà một vị thầy chữa bệnh lý tưởng cần phải có.
Truyền thống Phật giáo nhận diện Đức Dược Sư là vị thầy chữa bệnh lý tưởng, và nhấn mạnh rằng năng lực chữa bệnh mạnh mẽ nhất nằm trong lòng chúng ta. Theo ông Deepak Chopra "Chúng ta có một dược phòng nội tại thật sự thanh nhã. Dược phòng nầy chế tạo thuốc có hiệu quả trong thời gian với mục tiêu chính xác về bộ phận được chữa trị, và không bị ảnh hưởng phụ của thuốc.."

Như vậy, chúng ta hiểu rằng đức Phật Dược Sư đang ở trong lòng mỗi chúng ta. Con đường đi đến giải thoát phải xuyên qua việc thiền định, đặc biệt là thiền định mường tượng. Bằng cách thiền về đức Dược Sư và mường tượng về Ngài trước mặt chúng ta, chúng ta có thể đối diện với đức Phật Dược Sư, và trông thấy được nụ cười từ bi sáng rỡ đối với vũ trụ, và cặp mắt hiền dịu đầy ắp tình thương yêu đối với tất cả chúng sinh.
Kế đó, từ nơi trái tim đức Phật phóng ra một luồng hào quang sáng chói và làn ánh sáng nầy ngấm dần vào trái tim của chúng ta một cách dịu dàng. (Trái tim ở đây có nghĩa là « trung tâm » - cốt lõi của bản chất nằm ngay trọng tâm ngực của chúng ta, không phải chỉ là một cơ cấu máy móc vật chất chỉ để bơm máu). Trọng tâm nầy được định nghĩa như sau :
"Ngay trong bản thân anh, đã có sự tĩnh lặng và một ngôi đền thiêng liêng mà anh có thể lui vào bất cứ lúc nào để nghỉ ngơi và yên tịnh một mình. Ngôi đền thiêng liêng nầy chính là nhận thức đơn giản về sự tiện nghi không bị bất cứ rối loạn nào có thể xâm phạm được. Nơi đây không có sự sợ hãi và không có đau thương. Một thiền sinh cần phải tìm ra không gian tâm thức nầy để có thể chữa được các bệnh."
--- Deepak Chopra
Chứng nghiệm nầy đến với chúng ta như một ánh chớp sáng suốt, và đây không phải bằng lời nói, hoặc bằng ngôn ngữ học. Đây là cảm giác thật bất ngờ, một sự hiểu biết tự do, khi mà chúng ta trải nghiệm chân lý không cần từ ngữ. Chân lý lọc qua từ ngữ sẽ bị gò bó, bởi vì chúng ta cần một thời gian nhất định để chuyên chú về ý nghĩa của nó. Xuyên qua trải nghiệm biểu tượng và sáng tạo tâm linh mà những chúng sinh « tầm thường » được chuyển hóa để trở thành những vị thầy chữa bệnh xuất chúng. Đây là cách giao tiếp với đức Phật Dược Sư, vị y sĩ chữa bệnh vĩ đại nhất.
Cũng vì vậy các y sĩ tin tưởng vào những lý tưởng nói trên sẽ thực tập thiền định và cầu khẩn đức Phật Dược Sư trước khi ra toa xắt thuốc, và trước khi đưa cho bệnh nhân sử dụng. Khi bắt đầu làm những công việc nầy, họ đọc thần chú của đức Dược Sư. Câu thần chú ấy là OM BEKANDZE BEKHANDZE MAHA BEKANDZE RANDZE SAUNGATE SOHA. Khi đọc thần chú thiêng liêng nầy, họ tưởng tượng đến hình ảnh mật hoa rơi xuống, từ những âm tiết của thần chú, rớt vào chén thuốc. Những âm tiết nầy hoàn toàn tan hòa vào chén thuốc và làm cho thuốc ấy trở nên có hiệu lực và có khả năng trị bệnh.
Biểu tượng hành động nầy nhắm vào sự thực hành và các âm tiết thiêng liêng đã tạo nên câu thần chú, làm cho chén thuốc có khả năng trị bệnh, cũng như vậy, do ý thức được việc bước đi trên con đường nghiệp đúng đắn, chúng ta có thể thấm nhuần cuộc sống của chúng ta với mật hoa chảy ra từ những hành động tốt đẹp xuyên qua việc trau dồi phẩm hạnh.
4bce769a_35bca00a_namo-blog7.gif

Phụ lục và sách tham khảo :
Baker, Ian. The Tibetan Art of Healing, New Delhi, 1997.
Chopra, Deepak. Journey Into Healing (Awakening the Wisdom Within You), London, 1999.
Chopra, Deepak. The Seven Spiritual laws of Success: New Delhi, 2000.
Crow, David. In Search of the Medicine Buddha (A Himalayan Journey), New York, 2001.
Landaw, Jonathan, and Weber, Andy. Images of Enlightenment (Tibetan Art in Practice), New York, 1993.
Rinpoche, Lama Zopa, Foreword by Lillian Too. Ultimate Healing (The Power of Compassion), Boston, 2001.
Shrestha, Romio. Celestial Gallery: New York, 2000.
Vessantara. Meeting the Buddhas (A Guide to Buddhas, Bodhisattvas, and Tantric Deities), Birmingham, 1993.
Yanagi, The Unknown Craftsman (A Japanese Insight into Beauty), Tokyo, 1989.

Dịch sang tiếng Việt : Mỹ Thanh

[/NEN]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TamDuc

Phó Trưởng Ban Đại Biểu nhiệm kỳ I (2011-2012)
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
30 Thg 1 2010
Bài viết
890
Điểm tương tác
114
Điểm
43
Địa chỉ
Canada
Hạnh nguyện của Đức Dược Sư Như Lai

[NEN="http://giaoluututuong.com/trangchu/picture.php?albumid=28&pictureid=3926"]
Hạnh nguyện của Đức Dược Sư Như Lai


thumbnail.php

12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư đã chấn động tam thiên đại thiên thế giới. Bất luận là xuất gia hay tại gia nếu chuyên tâm trì niệm, chiêm ngưỡng và lễ bái hoặc nhớ nghĩ đến hình tượng của Ngài đều có thể vượt qua tất cả chướng duyên trong cuộc sống, được thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm, đem lại niềm an vui tự tại cho chính mình và tha nhân.
Cứ mỗi độ Xuân về, những mầm xanh đâm chồi nẩy lộc, tỏa ngát trong không gian tĩnh lặng hòa vào hương sắc nhộn nhịp của ngày đầu Tết Nguyên Đán. Theo truyền thống Phật giáo, vào ngày mồng tám đầu năm, lễ hội Dược Sư được tổ chức thường niên, các chùa thường “khai đàn Dược Sư” hay còn gọi là “lễ Cầu an”.
Hàng xuất gia cũng như tại gia đều chuyên tâm cầu nguyện “Thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc”.
Đặc biệt, có 49 ngọn nến thắp lên tượng trưng cho ánh sáng trí tuệ, đó là ánh sáng mầu nhiệm của đức Phật Dược Sư Lưu Ly, soi sáng đến cho nhân loại.
Dược Sư tiếng Phạn là , gọi đủ là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai hay còn gọi là Đại Y Vương Phật, Y Vương Thiện Thệ. Ngài là giáo chủ nước Tịnh Lưu Ly ở phương Đông, đã phát ra 12 thệ nguyện để cứu chữa bệnh tật cho chúng sanh vô minh ám độn. Đó là:
Nguyện thứ nhất: Nguyện thân ta và hết thảy các loài hữu tình đều có hào quang rực rỡ.
Nguyện thứ hai: Nguyện có quang minh rộng lớn, uy đức vời vợi để khai nguồn thông suốt cho tất cả chúng sanh.
Nguyện thứ ba: Nguyện cho chúng sanh không thiếu thốn, tùy theo lòng mong cầu mà được toại nguyện.
Nguyện thứ tư: Nguyện cầu hết thảy chúng sanh đều theo Đại thừa liễu nghĩa.
Nguyện thứ năm: Nguyện cho tất cả chúng sanh tu hành phạm hạnh thanh tịnh, giữ gìn đầy đủ Tam tụ tịnh giới.
Nguyện thứ sáu: Nguyện hết thảy chúng sanh đầy đủ thiện căn, trang nghiêm sáng suốt.
Nguyện thứ bảy: Nguyện cho tất cả chúng sanh thân tâm thường an lạc, chứng quả Vô sanh.
Nguyện thứ tám: Nguyện cho tất cả chúng sanh chuyển nữ thành nam đủ tướng trượng phu, tu chứng đạo Vô thượng.
Nguyện thứ chín: Nguyện cho các loài hữu tình được giải thoát mọi ràng buộc của Thiên ma ngoại đạo, tà kiến, ác kiến, dẫn dắt, thu nhiếp họ trở về chánh kiến.
Nguyện thứ mười: Nguyện cho tất cả chúng sanh giải thoát các tai nạn bất thường, giặc cướp, lấn hiếp của ác ma.
Nguyện thứ mười một: Nguyện cho chúng sanh bị đói khát được ăn uống ngon lành và no đủ. Sau đó đức Phật ban cho Pháp vị để dựng nên quả đức an vui.
Nguyện thứ mười hai: Nguyện hết thảy chúng sanh bị nghèo cùng khốn đốn đều được đầy đủ, đồ dùng quý báu trang nghiêm “Sở nguyện tùy tâm, sở cầu như ý”.

Thật vậy, 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư đã chấn động tam thiên đại thiên thế giới. Bất luận là xuất gia hay tại gia nếu chuyên tâm trì niệm, chiêm ngưỡng và lễ bái hoặc nhớ nghĩ đến hình tượng của Ngài đều có thể vượt qua tất cả chướng duyên trong cuộc sống, được thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm, đem lại niềm an vui tự tại cho chính mình và tha nhân. Phải chăng, đây là nền tảng khởi nguyên để đạt đến hạnh nguyện của người xuất gia tầm cầu giải thoát. Vậy hạnh nguyện độ sanh là gì?
Theo Từ điển Phật học Hán Việt, Hạnh nguyện dịch âm là Hành nguyện có nghĩa là hành động của thân và ý nguyện của tâm. Trong Thanh Long sớ quyển Hạ nói “Do Hành và Nguyện nương tựa vào nhau, cả hai đều tu không lệch bên nào”. Hay còn gọi là Hành nguyện cụ túc, có nghĩa là đầy đủ cả nguyện và hành. Vậy, Hạnh nguyện được giải thích tương đối súc tích, mang ý nghĩa sâu sắc và tính thực tiễn hiển bày. Ở đây, độ sanh là chỉ chung cho tất cả mọi loài, từ hữu tình cho đến vô tình chúng sanh, tất cả đều có thể vượt qua khổ ải luân hồi. Cũng có nghĩa là tế độ chúng sanh, độ thoát chúng sanh, dìu dắt chúng sanh từ nơi mê mờ đến ánh sáng rực rỡ bằng các phương tiện thiện xảo của chư Phật và Bồ-tát. Bởi vì, khổ là một thực trạng tâm lý mà chúng sanh phải thọ nhận, cũng là một thách thức cho bao thế hệ đã đi qua. Do đó, bằng ánh sáng trí tuệ, chúng ta phải tìm ra phương thức đoạn trừ nó. Hơn nữa, khổ đau là một yếu tố phổ cập bao hàm và ẩn chứa một ý nghĩa triết lý sâu xa, không phải chỉ biểu lộ chán đời hay bi quan mà còn là trạng thái đau khổ từ vật chất đến tinh thần.
Chúng ta sẽ từng bước tìm hiểu để nhận thức tường tận về đức Phật Dược Sư trên bình diện tâm linh cũng như củng cố niềm tin đúng với chánh lý.

TIN VÀO CÔNG NĂNG CỨU ĐỘ QUA ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ
Mười hai đại nguyện của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khiến cho tất cả các loại hữu tình cầu gì cũng được. Bởi vì, 12 thệ nguyện là biểu thị cho công năng thực hành hạnh cứu khổ, hàm nhiếp cả Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) của chư Phật và Bồ-tát. Nếu nói về thần lực hành đạo thì đức Phật Dược Sư cũng có thể hóa thân làm Bồ-tát để cứu độ chúng sanh thoát khỏi mọi tai ách. Đặc biệt, Ngài chữa trị các căn bệnh tâm lý. Có người khi gặp tai nạn hay bệnh chứng khó qua khỏi cơn nguy biến liền niệm danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai hay đứng chấp tay quán tưởng hình tượng của Ngài liền được hóa giải mọi khổ đau. Từ đó, nếu chúng ta tu tập 12 hạnh nguyện trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi… mỗi mỗi đều nhất tâm, tất nhiên sẽ cảm nhận một cách vi diệu trong từng ý niệm tỉnh giác của tâm thức. Và từng ý niệm đó tác động đến cơ thể để vượt qua mọi tật bệnh. Ngày nay, khoa học đã công nhận “Nhân điện” là một phương thức trị bệnh. Họ có thể nhận thiên khí vào cơ thể con người, sau đó kết hợp năng lượng sẵn có để có thể chẩn trị mọi chứng bệnh. Thế nên, chúng ta là đệ tử của Phật sao không dùng pháp môn niệm Phật để điều hòa hơi thở và chữa trị những căn bệnh tự thân. Đối với những hành giả tu tập, trên lộ trình chứng đắc quả vị Vô thượng, tất nhiên cần phải thể nhập một cách hoàn hảo về 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư. Vì Ngài là biểu thị cho chân lý và nhân cách hoàn mỹ, là Bậc giác ngộ thành tựu Phật quả, làm giáo chủ ở cõi Tịnh Lưu Ly.

Đức Phật Thích-ca dạy: “Ở phương Đông có một thế giới đặc biệt, đời sống an lạc và hạnh phúc tương đương với thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà ở phương Tây. Này Mạn-thù-thất-lợi! Trong khi thực hành Bồ-tát đạo Ngài đã phát ra 12 đại nguyện làm cho tất cả chúng sanh có chỗ sở cầu đều toại nguyện.” Như thế, 12 thệ nguyện này có mãnh lực rất lớn đối với người tại gia cũng như xuất gia, nếu tu tập, trì tụng kinh Dược Sư hoặc niệm danh hiệu Ngài đều có thể vượt qua tất cả nguy hiểm như bị giam cầm lao ngục, bệnh tật liên miên… đều được an vui tự tại. Cho nên, Hòa thượng Thích Nhất Hạnh có dạy: “Đối với hàng xuất gia trong lúc tu tập, nếu bị sai lạc thì Ngài gia hộ cho chúng ta tu hành chơn chánh, không bị tà ma ngoại đạo quấy nhiễu. Hoặc đối với những người phạm giới phá trai, nếu chí thành cầu nguyện đức Phật Dược Sư thì sẽ được khôi phục lại giới thể, phát huy những hạnh lành, tu hành tinh tấn, chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề.”

Vậy, hạnh nguyện là món ăn tinh thần của mỗi hành giả, bởi vì chúng ta thường quan niệm “Sống phải có ý nghĩa, tu phải có hạnh nguyện.” Điều đó chứng tỏ rằng, trong việc mong cầu hạnh phúc an vui, người đệ tử Phật không thể thiếu hiểu biết, niềm tin và hạnh nguyện cũng như những gì thuộc về tâm linh. Phật giáo vẫn thừa nhận người tu hành chơn chánh sẽ được Thiên long, Bát bộ, Hộ pháp, Thiện thần hộ niệm, nhưng muốn đạt thành quả Phật thì phải áp dụng 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư trong đời sống tự thân. Những công đức hành trì đó có thể tự trị các bệnh tật.

CÔNG ĐỨC ĐỌC TỤNG VÀ TRÌ CHÚ DƯỢC SƯ
Trong cuộc sống bình nhựt, người xuất gia cũng như tại gia, nếp sống tâm linh ảnh hưởng rất lớn đối với tự tâm của mỗi người. Nếu hằng ngày chúng ta trì niệm, đọc tụng hoặc xưng danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì sẽ được ứng nghiệm ngay trong hiện tại. Đặc biệt, chú Dược Sư mang một ý nghĩa rất quan trọng khi chúng ta hành trì, vì không những vượt qua mọi khổ ách, mà sau khi mạng chung còn được sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly, dần dần tu chứng đạt được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Duyên khởi của thần chú Dược Sư, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy cho Mạn Thù Thất Lợi Bồ-tát trong kinh Dược Sư Bổn nguyện công đức: “Này Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi chưa chứng được đạo quả Bồ-đề, do sức bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu tình gặp phải các thứ bệnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, thương hàn, v.v…”. Vì muốn những bệnh khổ ấy được tiêu trừ và lòng mong cầu của chúng hữu tình được mãn nguyện, nên Ngài liền nhập định tên là “Định diệt trừ tất cả các khổ não cho chúng sanh.” Khi Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồng ánh sáng lớn, trong luồng ánh sáng ấy nói chú Đại Đà-la-ni: “namo bhagavate bhaiṣaijya guru vaidurya prabharājāya tathāgataya arhate samyaksambuddhāya tadyathā: om bhaiṣaijye bhaiṣaijye bhaiṣaijya samudgate svāhā”

Phiên âm: “Nam-mô Bạc-già-phạt-đế, bệ-sát-xã, lũ-lô-thích-lưu-ly, bát-lặc-bà, hắc-ra-xà-giả, đát-tha yết-đa-da, a-ra-ha-đế tam-miệu tam-bồ-đề-da, đát-điệt-tha. Án, bệ-sát-thệ, bệ-sát-thệ, bệ-sát-xã, tam-một-yết-đế tóa-ha!! ”
Như vậy, công đức đọc tụng, hành trì chú Dược Sư rất vi diệu. Chúng ta có thể gặt hái những thành quả tốt đẹp ngay trong hiện tại. Bởi vì, đó là những âm thanh của chư Phật nói ra, có ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp điệu rung chuyển của làn sóng quang minh trong tâm thức chúng sanh. Từ đó, niềm tin được vững chắc, chú nguyện được viên mãn, chính là nhờ công đức bất khả tư nghì của bản nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Nhất là lúc lâm chung, chỉ cần nghe danh hiệu của Ngài liền có tám vị Bồ-tát đủ sức thần thông đến hướng dẫn sanh về thế giới Cực Lạc Tây phương, hoa báu trang nghiêm.

ẢNH HƯỞNG CUỘC SỐNG TINH THẦN TÍN NGƯỠNG
Phàm là con người ai cũng muốn sống một cuộc đời hạnh phúc an lành, cho dù là bần nông hay trí thức. Nhưng đường đời có bao giờ thuận theo ý muốn của con người. Do vậy, những vấn đề trong cuộc sống khó có thể giải quyết được, chắc chắn họ sẽ tìm đến tôn giáo. Điều đó có nghĩa là trong cuộc sống, tinh thần tín ngưỡng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh của mỗi cá nhân. Đa phần, niềm tin bị hạn chế bởi những người đặt nặng vật chất lên trên đời sống tinh thần. Vì thế, mặc dù hằng ngày có trì niệm, đọc tụng kinh Dược Sư, nhưng hiệu quả rất thấp, đó là vì họ không thành tâm thành ý. Mỗi hạnh nguyện có một công năng đặc thù, nếu trong đời này, bất cứ hành giả nào khi có tín tâm rồi nên phát nguyện sanh về cõi Tịnh Lưu Ly của đức Phật Dược Sư. Sự phát nguyện này, đòi hỏi hành giả phải ứng dụng 12 lời nguyện vào cuộc sống để phát huy công đức lành của tự tâm, đưa tâm mình thể nhập chân lý tuyệt đối.
Như vậy, niềm tin tín ngưỡng tác động đến hiện thực cuộc đời qua 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư. Thực sự, nó ảnh hưởng rất sâu sắc và vô cùng quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của người đệ tử Phật. Những hạnh nguyện đó ví như những viên thuốc đặc trị tâm bệnh của chúng sanh và cũng là chân giá trị bất hủ. Bởi vì, sự hành trì hiện tại vẫn mang lại hữu ích cho hành giả tu tập “Bản nguyện công đức của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.”

HÌNH ẢNH BIỂU TRƯNG VÀ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC

files.php

Theo hình tượng hiện nay, chân dung đức Phật Dược Sư được tín ngưỡng xưa nay có tóc xoắn ốc, tay trái cầm bình thuốc, tay trái phải kiết Ấn thí vô úy. Hai bên có hai vị Bồ-tát làm thị giả đó là Bồ-tát Nhật Quang và Bồ-tát Nguyệt Quang. Đây là hình tượng được gọi là Dược Sư Tam Tôn.
Về hình tượng tóc xoắn ốc là một trong những tướng tốt của đức Phật, tay cầm bình thuốc biểu thị cho ý nghĩa đức Phật Dược Sư có vô lượng công đức, báu vật và diệu pháp mầu nhiệm để giúp hành giả tu tập, chuyển hóa tự thân. Điều đặc biệt ở đây là tay phải Ngài kiết Ấn vô úy. Vô úy chính là không sợ hãi, hình ảnh đó với mục đích giúp cho chúng sanh có niềm tin vững chắc để thiết lập sự bình yên cho thân và tâm.
Hai vị Bồ-tát đứng hầu đức Phật Dược Sư là biểu trưng cho Căn bản trí (Nhật Quang Biến Chiếu) và Hậu đắc trí (Nguyệt Quang Biến Chiếu). Điều đó, xác định mọi phương tiện mà Ngài vận dụng đều phát xuất từ hai trí này. Hơn nữa, Lưu Ly là chỉ cho một trong bảy báu vật, đó là loại đá quý màu xanh. Màu xanh là biểu thị lòng từ bi và sự sống. Thế nên đức Phật Dược Sư là tổng thể, bao hàm mọi hình ảnh, có tác dụng khai phóng tâm thức hành giả. Từ ý nghĩa trên có thể khẳng định rằng mỗi chúng ta là mỗi đức Phật Dược Sư, nếu phát huy tận cùng công đức trí tuệ và diệu pháp nhiệm mầu của bản tâm.

Như vậy, từ hình ảnh biểu trưng đã làm nổi bật giá trị hiện thực. Đức Dược Sư Như Lai đã trang nghiêm tự thân và cõi nước của Ngài bằng 12 đại nguyện. Từ khi phát tâm, lập nguyện cho đến ngày chứng đắc quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác là cả quá trình hành Bồ-tát đạo. Đây là kết quả của sự nỗ lực, tinh tấn không ngừng trong việc tu tập, ban vui cứu khổ cho chúng sanh nhiều đời.

Ở đây, dựa trên 12 đại nguyện, chúng ta thấy đức Phật Dược Sư đã xây dựng mô hình Tịnh độ, trong đó lấy chúng sanh làm trung tâm để hoàn thiện bổn nguyện. Do đó, nội dung của mỗi lời nguyện đều nói lên mục đích cứu khổ chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng để Bồ-tát thực hiện viên mãn về hạnh nguyện. Hơn nữa, sự thành tựu của mỗi vị Phật, ngoài yếu tố hạnh nguyện, mục đích còn phải cụ thể hóa bằng hành động. Chính hành động lợi mình, lợi người là điều kiện căn bản để trang nghiêm cho báo thân Phật (Chánh báo) và cõi nước (Y báo) đạt đến hoàn bị.
Trên cơ sở đó, sự tôn kính lễ bái đi đôi với việc thực hành 12 đại nguyện sẽ giúp chúng ta xây dựng cõi nước trang nghiêm thanh tịnh như Ngài. Điều đó, hành giả phải hoàn thiện trên hai mặt nghiêm tịnh tự thân và trang nghiêm cõi nước. Về tự thân, chúng ta phải giữ gìn Tam tụ tịnh giới, thực tập thiền định, phát huy trí tuệ vô lậu để chuyển hóa những ý niệm tham muốn, hờn giận, si mê, ích kỷ, ghen ghét, chấp ngã, chấp pháp, v.v… trở về tự tánh sáng suốt, bình đẳng, thanh tịnh. Sự chuyển hóa đó cần phải thực hiện với tâm vô trú, vô hành. Đây cũng là cách kiến tạo thế giới Tịnh độ ngay trong lòng mình. Song song với việc hoàn thiện tự thân, hành giả còn phải tu tập hạnh Bồ-tát trên cơ sở 12 đại nguyện, lấy chúng sanh làm đối tượng, hướng dẫn họ đạt đến an lạc và giải thoát; Làm được điều này cũng có nghĩa là kết duyên quyến thuộc với chúng sanh, cùng sống chan hòa với ánh đạo, biến cõi Ta-bà thành cõi Phật.

Ngày nay, có những quan niệm, khuynh hướng và hành động đẩy nhân loại đến vực thẳm tương tàn, tương sát… nhất là nạn chiến tranh, khủng bố, thù hận, bệnh tật đang hoành hành. Là người Phật tử tại sao chúng ta không đem 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư ứng dụng trong đời sống tự thân cũng như xã hội, giúp họ một hướng đi đích thực, kiến tạo nền hòa bình, tự do và thịnh vượng?

Đức Phật Dược Sư là bậc Đạo sư đầy đủ diệu pháp, diệu dược, có khả năng hóa giải mọi khổ đau cho chúng sanh. Qua 12 hạnh nguyện cũng như sự thành tựu viên mãn về thế giới Tịnh Lưu Ly của Ngài, đã dạy cho chúng ta nhiều bài học vô giá, mang tính thực tiễn cao trên con đường tu tập và hành Bồ-tát đạo.

[/NEN]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên