Người Đã Mất Thụ Dụng Phẩm Vật Con Cháu Dâng Cúng Bằng Cách Nào ?

gioidinhhue

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
950
Điểm tương tác
47
Điểm
28
Địa chỉ
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
HỎI: Tôi được biết: "Trong thời gian thọ thân trung ấm, hương linh vẫn thụ dụng được tất cả những vật phẩm mà thân nhân dâng cúng thường là cơm, nước, hương, hoa nhưng chỉ hưởng mùi vị của thức ăn mà thôi” (Cúng cơm cho hương linh sau ngày chung thất). Nhưng tôi không hiểu vì sao thần thức của con người là vô hình còn các vật phẩm trên kể cả mùi hương đều là những dạng vật chất; vậy thì sao thần thức đó có thể thụ dụng được các mùi hương?


Sở dĩ chúng ta ngửi được là nhờ có khứu giác còn thân trung ấm hay thần thức là vô hình thì lấy cái gì để ngửi? Có người cho rằng sau khi đã qua đời, người chết vẫn còn ăn, gọi là thức thực. Nhưng thức vốn vô hình, nếu có thức thực thì cũng chỉ là "cảm” được những tâm niệm thương ghét, an ủi v.v... chứ không thể ăn được món ăn vật chất. Xin quý Báo giải đáp giúp tôi vấn đề thắc mắc trên. (MINH TÂM, Bình Lợi, Bình Chánh, TP.HCM; thocdtbk... @gmail.com)



ĐÁP: Bạn Minh Tâm và thocdtbk… thân mến!


Thực ra thì thân trung ấm là một dạng sống có thân thể với cấu trúc vật chất rất vi tế mà mắt thường của chúng ta không thể thấy được. Tùy theo biệt nghiệp của mỗi loài mà thụ thân trung ấm với hình dáng khác nhau. Ngoài ra, còn rất nhiều loài chúng sinh khác hiện hữu trong thế giới đan xen (Phàm Thánh đồng cư độ) với loài người như chư thiên Dục giới và Sắc giới có thân thể đẹp đẽ, trang nghiêm; các quỷ thần đều có hình dáng xấu xa hay dữ tợn tùy loài.
Bởi vì nghiệp duyên giới hạn của loài người, chỉ có một số người thấy được trời thần ma quỷ còn lại hầu hết thì không thấy nên chúng ta thường nói nôm na về họ là thế giới vô hình. Vô hình là vì chúng ta không thấy chứ chẳng phải không có gì hay đó chỉ là thế giới thuần tâm thức phi vật thể như các chúng sinh ở cõi Vô sắc giới. Đơn cử như có rất nhiều dạng vật chất vi tế vẫn đang hiện hữu quanh ta và liên hệ trực tiếp đến đời sống con người như các dạng năng lượng, các tia X, tử ngoại, hồng ngoại v.v… mà chúng ta chẳng khi nào thấy hay nắm bắt được.
Không những thân trung ấm cùng chư thiên và quỷ thần có thân thể và đầy đủ các giác quan mà giác quan của họ nhạy bén và thù thắng hơn loài người rất nhiều lần. Họ vẫn ăn uống bình thường, có khả năng nghe nhìn rất xa, di chuyển cực nhanh và hiểu được tâm niệm của loài người. Cho nên, các loài mà ta gọi thế giới vô hình vẫn thọ dụng các phẩm vật dâng cúng hay tự tìm kiếm một cách bình thường. Có điều, tùy theo nghiệp của mỗi loài mà có cách ăn uống, thụ dụng khác nhau.
Kinh Tăng Chi Bô IV (chương 10, phẩm Janussoni, phần Janussoni, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.595) ghi: “Thế Tôn ở tại trú xứ của Bà la môn Janussoni. Sau khi đi đến cung kính đỉnh lễ, hỏi thăm và ngồi xuống một bên, Bà la môn Janussoni bạch Thế Tôn:
Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi bố thí, làm các lễ cúng cho người chết. Mong rằng, bố thí này cho bà con huyết thống đã chết được lợi ích! Mong rằng, các bà con huyết thống đã chết, thụ hưởng bố thí này! Thưa Tôn giả Gotama, bố thí như thế có lợi ích gì cho các bà con huyết thống đã chết không? Các bà con huyết thống đã chết có được thọ hưởng bố thí ấy hay không?
Này Bà la môn, nếu có tương ưng xứ, thời có lợi ích; không có lợi ích nếu không có tương ưng xứ.
Ở đây, này Bà la môn, những người nào… sau khi thân hoại mạng chung sinh vào địa ngục, sinh vào loại bàng sinh, sinh cộng trú với loài người, sinh cộng trú với chư thiên. Những vị này, được nuôi sống và tồn tại với những món ăn ứng với cảnh giới của các vị ấy. Này Bà la môn, đây là không tương ưng xứ; trú ở những nơi ấy, các vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
Nhưng ở đây, này Bà la môn, người nào sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cõi ngạ quỷ. Vị ấy được nuôi sống và tồn tại với các món ăn tại đấy. Món ăn nào, các bạn bè, thân hữu, hoặc bà con, hoặc người cùng huyết thống muốn hướng cúng cho vị ấy; tại đấy, vị ấy sống với món ăn đó, tồn tại với món ăn đó. Này Bà la môn, đây là tương ưng xứ, trú nơi đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy”.
Như vậy, thần thức của thân trung ấm và các loài quỷ thần thọ dụng các phẩm vật mà loài người dâng cúng một cách bình thường vì đó là “tương ưng xứ” của họ.
Đối với vấn đề thức thực trong giáo lý Tứ thực, không nên hiểu là dùng tâm thức để thụ dụng thực phẩm. Vì thức thực là cái khả năng duy trì và tiếp nối mạng sống. Để hiểu thế nào là thức thực, cần biết rằng chúng ta là sự biểu hiện của thức, gồm có y báo và cíinh báo. Chính báo là con người gồm năm uẩn của ta và y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh ta. Vì hành nghiệp từ nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có chính báo này, với y báo này. Ciisnh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức. Khi nhận thức, tâm cũng giống như cơ thể đón nhận các món ăn. Món ăn đó gọi là thức thực.
Chúc các bạn tinh tiến!
 

gioidinhhue

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
950
Điểm tương tác
47
Điểm
28
Địa chỉ
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
<table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><tr> <td style="padding: 0px; background-color: rgb(255, 255, 255);" bgcolor="#ffffff">
Hỏi:Sau khi một người bị chết rồi, phần tâm thức sẽ trụ ở nơi nào? Và làm sao để biết chắc có sự tái sanh? Tôi đã có lần gặp ma rồi, vậy họ là hạng chúng sanh gì ?Chân thành cảm ơn.
Giác Hy
Đáp:Trước hết, chúng tôi xin gởi lời chúc tốt đẹp nhất đến Giác Hy. Tiếp theo, chúng tôi xin trình bày những vấn đề mà Giác Hy đã hỏi.1) Sau khi một người từ giã cõi đời, phần tâm thức của họ không trụ ở một nơi nào, tuỳ theo khuynh hướng của tâm (nghiệp) mà thần thức của người đó đi tái sanh ở cõi tương ứng. Ngay khi còn sống tâm thức của người đó cũng không trụ ở nơi nào, vì nó hằng tuôn chảy như thác nước (hằng chuyển như bộc lưu) như Duy Thức Tam Thập Tụng đã nêu rõ, thì làm sao khi chết thần thức của người đó tồn tại, hay kết ngưng ở một điểm nào. Có một trường hợp thần thức trú một chỗ, đó là khi thần thức nằm trong bụng mẹ, như trong Kinh thường trình bày. Vì một thai nhi được thành tựu, một trong các yếu tố là buộc phải có thức trú. Nếu thức của hài nhi đó không trú vào trong bụng mẹ thì bào thai đó không thể nào thành tựu.Theo Luận Tạng (Abhidhamma Pi.taka) của Phật giáo Nam Truyền, tâm tử (cuti citta) cũng chính là tâm sanh (patisandhi citta), nghĩa là khi con người lìa bỏ thân tứ đại này lập tức đi tái sanh, tìm kiếm một thân mới dưới hình thức khác. 2) Làm sao để biết chắc có sự tái sinh? Nhiều học thuyết thời Đức Phật đã chủ trương rằng sau khi chết là hết, không có đời sau như đã trình bày trong Kinh Sa-môn Quả (Sàma~n~naphala Sutta) thuộcTrường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya). Kinh này ghi lại tư tưởng của ngoại đạo Ajita Kesakambali cho rằng sau khi chết là hết, không hề có tái sanh luân hồi. Tư tưởng này cho đến thời cận đại cũng còn có nhiều tư tưởng gia cổ xuý. Nhưng học thuyết này đã bị Đức Phật cật lực phủ bác và cho đó là một học thuyết đưa con người đến đoạ xứ, ác thú, địa ngục, như Kinh Sa-môn Quả trình bày.Lại nữa, Kinh Tệ Túc (Pàyàsi Suttanta), số 23, cũng thuộc Trường Bộ Kinh trình bày cuộc trao đổi giữa một vị vua minh triết Pàyàsi và Thánh đệ tử đa văn Kumàra Kassapa của Đức Thế Tôn là làm thế nào để biết có luân hồi. Qua 12 thí dụ của tôn giả Pàyàsi Kassapa đã minh chứng và thuyết minh hùng hồn về sự tái sanh của tất cả hữu tình, mà vua Pàyàsi đã cố tình đưa đẩy không chấp nhận. Cuối cùng nhà vua đã thâm tín lời giảng dạy của tôn giả Kumàra Kassapa và quy y Tam Bảo.Giác Hy có thể xem thêm trong Kinh Na-tiên Tỳ Kheo ( Cao Hữu Đính dịch) để thấy Ngài Na-tiên (Nagasena) trả lời cho vua Mi-lin-đà (Milinda) như thế nào để chứng minh là tái sanh là chuyện có thật và nhà vua đã hoàn toàn bị chiết phục trước những lập luận và chứng minh đầy sức thuyết phục của Ngài Nagasena.Cũng xin giới thiệu thêm bài “Một Bằng Chứng Sống về Thuyết Tái Sanh”do Thầy Thích Nguyên Tạng dịch, được đăng trong Trang nhà Nguyên Tạng. 3) Như Giác Hy đã nói là Giác Hy đã gặp ma rồi, vậy họ là hạng chúng sanh gì ? Khái niệm “ma” trong dân gian Việt Nam, mặc dầu trong Kinh ít thấy được sử dụng, vì phần lớn các dịch giả Trung Quốc và Việt Nam đều chuyển ngữ chữ Peta trong Pàli hoặc Preta trong Sanskrit thành “ngạ quỷ” (quỷ đói) như tiếng Hán Việt, chứ không dịch chữ này thành “ma” ,“quỷ” như người Việt Nam thường gọi. Khái niệm “ma” và “quỷ”û, Việt Nam và Trung Quốc phân biệt khá rõ ràng. Những hạng chúng sanh sau khi chết mà không đi đầu thai ở cõi người hoặc các cõi khác mà phải đoạ vào hạng chúng sanh vất vưởng đói khát, nhưng không phá phách nhiều thì gọi là ma, còn cùng một loại trên mà có năng lực mạnh hơn và chuyên tâm hại người thì gọi là quỷ. Còn những hạng có công với quốc gia, với xã tắc, bỏ mình vì chiến trận, và hộ quốc an dân, hoặc trong đời sống có làm phước thiện, nếu không được đi đầu thai làm người hoặc trời, thì được phong thần cả. Trong Phật giáo, theo cách phân chia tổng quát, thì cả 3 hạng trên đều thuộc về Peta cả. Chúng ta thấy trong Ngạ Quỷ Sự , hoặc còn được dịch là Chuyện Ngạ Quỷ (Petavathu), trong đó trình bày nỗi khổ của loài quỷ đói, miêu tả các hình thái của thân ngạ quỷ và nêu lên các nguyên nhân tại sao chúng sanh bị đoạ vào loài Peta và cả 3 hạng này đều được đề cập. Cách phân loại chúng sanh ở cảnh giới nào cũng mang tính khái quát thôi. Thông thường, thế giới này được Đức Phật chia thành ba cõi (tam giới) hoặc sáu đường (lục đạo). Nhưng trong sáu đường đó, có các hạng chúng sanh gần như ngoại lệ, ví dụ: thế giới của Càn-thát-bà (Gandhabba) trong Kinh Xà-ni-sa và trong Kinh Đại Điển Tôn thuộc Trường Bộ Kinh cũng đề cập đến thế giới chư thiên này, nhưng chỉ là những nhạc công, hay nói cách khác chỉ là những người nô lệ của thế giới chư thiên khác, vì tính từ dưới lên trên thì chư thiên ở cõi Dục giới gồm có: Tứ Thiên Vuơng, Đao Lợi, Dạ-ma, Đâu-suất, Hoá Lạc và Tha Hoá Tự Tại, không hề thấy trong Kinh điển đề cập đến Càn-thát-bà như là một cảnh giới chư thiên độc lập. Do đó, việc phân loại chúng sanh thuộc cảnh giới nào cũng chỉ mang tính khái quát. Cũng tương tự, hạng thần ở cõi trần, vì tạo được một vài thiện sự nên cũng ở cõi trần mà hưởng phước dưới dạng một chúng sanh không phải cõi người và vì nghiệp thức chiêu cảm nên cấu trúc về xác thân và có những đặc điểm y như loài quỷ vậy, ví dụ biết được tâm niệm của người, mà họ khác loài quỷ ở chỗ phước đức mà thôi, do đó cũng xếp vào hạng Peta.Do đó, nếu ta dịch chữ Peta hoặc Preta thành ngạ quỷ (quỷ đói), e rằng không lột tả được hết nghĩa của của nó. Và, có người sẽ đặt vấn đề vậy thần sẽ được xếp vào hạng nào? Theo Pali-English Dictionary của T.W. Rhys Davids và William Stede, Peta các nghĩa sau: 1. Thần hồn của những người đã mất (souls of the departed); 2. Loài ma quỷ đau khổ (unhappy ghosts) và 3. Loài ma quỷ hạnh phúc (happy ghost). Trong đó, còn liệt kê nhiều kinh liên hệ đến cả 3 loại này. Do đó, nếu ta theo sát từ điển nói trên thì peta chỉ có nghĩa là: thần hồn của người đã mất, quá cố (dead, departed, the departed spirit) để chỉ chung cho các hạng sau khi chết không bị đoạ vào các địa ngục (niraya) hoặc không được tái sanh vào cõi A-tu-la (Asura), người (manussa) hoặc chư thiên (deva). Từ Điển Phật Học Hán Việt trình bày các hạng ma quái, quỷ mị, địa thần cũng xếp vào Peta hoặc Preta. Luận Thuận Chính Lý, quyển 31, có 3 loại quỷ: 1. Vô tài quỷ; 2. Thiểu tài quỷ; 3. Đa tài quỷ. Mỗi loại quỷ lại chia 3 hạng nữa thành cả thảy 9 loại. Trong Kinh Chánh Pháp Niệm, quyển 16, nêu tơi 36 loại quỷ. (Xem thêm Từ Điển Phật Học Hán Việt). Kinh Địa Tạng cũng liệt kê nhiều loại quỷ khác nhau, như Ác Mục quỷ vuơng (chúa quỷ mắt dữ), Đạm Huyết quỷ vuơng (chúa quỷ ăn huyết), Đạm Tinh Huyết quỷ vương (chúa quỷ ăn tinh chất), Đạm Thai Noãn quỷ vương ( chúa quỷ ăn thai trứng), Hành Bịnh quỷ vương (chúa quỷ gây bịnh tật), Nhiếp Độc quỷ vương (chúa quỷ trừ độc), v.v…(Phẩm một: Thần Thông Trên Cung Trời Đao Lợi). Như vậy, trường hợp Giác Hy nói là đã gặp “ma”, người viết cũng không thể xác định giúp cho Giác Hy đó là thuộc hạng Peta 1, 2 hoặc 3 như Pali-English Dictionary trình bày. Giác Hy tự mình có thể đoán họ là hạng nào, vì Giác Hy là người gặp và trong trường hợp nào. Dĩ nhiên chúng cũng không ngoài hạng ma, quỷ, thần như chúng ta vừa đề cập ở trên.Viết đến đây, chúng tôi nhớ đến câu chuyện của Khổng Tử, khi Quý Lộ (Tử Lộ) hỏi Khổng Tử về đạo thờ quỷ thần, Khổng Tử đáp “chưa biết đạo thờ người, sao biết được đạo thờ quỷ thần” (Vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ). Khi đó, Tử Lộ hỏi tiếp về trạng thái sau khi chết, Khổng Tử cũng đáp “sự sống còn chưa biết, làm sao biết được sự chết?” (vị tri sinh, yên tri tử ), (Luận Ngữ : Tiên Tần đệ thập nhất: 11). Bản thân người trả lời ở đây cũng thưa là còn nhiều điều chưa biết về thế giới quỷ thần, nhưng dựavào Kinh điển và các luận sớ cũng như theo kinh nghiệm riêng để đi đến kết luận là có thế giới quỷ thần, ma quái thật và nghiệp quả của chúng là như vậy. Thân chúc Giác Hy thân tâm thường an lạc và hằng tinh tấn trên con đường tốt đẹp mà Giác Hy có cơ duyên tiếp cận, học hỏi và tu tập
</td></tr></tr></tbody></table>
 
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên