chính sự cố gắng ổn định tâm lại gây ra những trở ngại
Nội tâm tĩnh lặng (bài của thầy Viên Minh)
Bạn đã mỏi mòn tìm kiếm thú vui bên ngoài, sao không lặng lẽ trở về cảm nhận niềm an lạc sẵn có bên trong? An lạc đó luôn luôn hiện hữu, chỉ cần trở lại là thấy, nhưng bạn đã bỏ rơi vào quên lãng vì mãi lăng xăng tìm kiếm viển vong. Tuy nhiên, khi được an lạc, bạn chớ khởi tâm chiếm hữu lâu dài, vì lập tức bạn rơi vào cái bẫy của bản ngã, thời gian, và đau khổ. Chẳng khác nào bấy lâu bạn tìm cách sở hữu những lạc thú trần gian! Biết bao giờ mới chấm dứt được khát vọng của kẻ mong cầu cái hữu hạn, mà bỏ quên cái vượt khỏi thời gian?
Thế giới loài người thuộc về Cõi Dục, vì hầu hết sinh hoạt đời sống của chúng ta dựa trên mối tương hệ giữa giác quan và ngoại cảnh. Mối tương hệ này phát sinh cảm giác, cảm xúc, tri giác, tư tưởng, kinh nghiệm, kiến thức, và tất cả những phản ứng tâm-sinh-vật lý. Nói chung là bản năng, tình cảm và lý trí, mà phần lớn diễn ra trong vô thức nhiều hơn có ý thức. Do đó những tích lũy nội kết này ngày càng đa dạng, phong phú, nhưng cũng làm cho kho chứa vô thức của chúng ta trở nên quá phức tạp đến độ khó có thể thăm dò.
Phần lớn chúng ta hành động, nói năng, suy nghĩ một cách vô thức. Và lắm khi tưởng chừng như chúng ta hành động có ý thức, chủ động và quyết đoán, nhưng thật ra chúng ta hành động như một con rối đang bị sai khiến bởi những xung động vô thức. Có thể chúng ta biết mình làm gì nhưng chỉ là cái biết mơ hồ, mông muội, phát xuất từ vô minh, thất giác mà hậu quả là chúng ta đã gây ra nhiều khổ đau phiền muộn cho mình và người. Loại ý thức này thực ra chỉ là mặt nổi rất nhỏ so với mặt chìm rộng lớn của vô thức, cũng giống như “phần trên mặt nước của một tảng băng so với phần chìm dưới nước”. Huống chi ý thức thường là chủ quan, bị giới hạn bởi ý niệm, kiến thức, quan niệm, thành kiến v.v… nên khó mà thấy biết trung thực. Chỉ khi nào tánh biết thoát khỏi những sự ngăn che này may ra ý thức mới được hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng.
Tâm phát ra tư tưởng, tư tưởng tạo ra xung lực thúc đẩy hành động. Khi nội tâm không thanh tịnh trong sáng thì hành động của chúng ta sẽ bị dẫn dắt bởi những khuynh hướng tâm lý không lành mạnh. Bị thúc đẩy bởi những xung lực đó chúng ta sẽ hành động như một robot đã được lập trình.
Kết quả là, hành động lăng xăng sẽ làm tiêu tán năng lực. Lực bị phân tán làm cho tư tưởng xáo trộn. Tư tưởng bất an khiến nội tâm dao động, bối rối, phân vân, nghi hoặc. Một nội tâm như vậy không thể nào thanh tịnh trong sáng được. Làm sao tâm đầy tham, sân, phóng túng, thụ động, dao động, căng thẳng và bất an có thể chú tâm vào một công việc nào để hoàn thành hữu hiệu?
Vì vậy, tĩnh tại không những cần yếu cho thực hành thiền định, mà trong bất kỳ lãnh vực hoạt động nào, dù là phương diện tay chân hay trí óc. Thiếu định tĩnh hay chú tâm chúng ta không thể lái xe an toàn hay lý luận, tư duy v.v… nhất quán và hiệu quả được.
Khi các giác quan hướng ra bên ngoài và bị chi phối bởi ngoại cảnh, thì tâm chúng ta sẽ bị khuấy động bởi những thái độ phản ứng như ưa, ghét, vọng động, lười chán, nghi ngờ. Đó là những trở ngại khiến nội tâm xao động.
Nhưng đôi lúc chính sự cố gắng ổn định tâm lại gây ra những trở ngại cho tâm. Vì cố gắng này có thể phát xuất từ lòng tham, đó là trở ngại thứ nhất. Ý muốn ổn định tâm đối lập với tâm bất an sinh ra bất mãn hay sân hận: trở ngại thứ hai. Sự mâu thuẩn này gia thêm bất an và dao động, đó là trở ngại thứ ba. Rồi nỗ lực trấn an tình trạng dao động này làm cho tâm mệt mỏi, hôn trầm, đó là trở ngại thứ tư. Kết quả là tâm bạn thường bị phân vân lưỡng lự làm sao có thể an bình tĩnh lặng được?
Vậy tĩnh lặng là gì? Đó là trạng thái khi tâm thoát khỏi những trở ngại làm cho tâm xáo trộn. Nói cách khác, những trở ngại sẽ tự biến mất khi tâm hội đủ những yếu tố tĩnh lặng:
1) Tâm thoát khỏi trạng thái thờ ơ, thụ động, lười chán, buồn ngủ có thể dễ dàng hướng đến bất kỳ đối tượng nào, nếu cần, một cách chính xác.
2) Tâm thoát khỏi tình trạng phân vân hay lưỡng lự có thể đủ tự tin để ổn định trên đối tượng đã được xem xét kỹ lưỡng.
3) Tâm thoát khỏi sự căng thẳng, bực bội, nóng nảy hay sân hận sẽ lập tức cảm thấy hoan hỷ với chính nó hay bất cứ đối tượng thiền nào.
4) Tâm thoát khỏi sự dao động, phóng tâm, tán loạn với những suy nghĩ miên man về quá khứ, vị lai, sẽ tự cảm thấy an lạc và vừa lòng với bất kỳ hoàn cảnh nào.
5) Tâm thoát khỏi trạng thái ham muốn giác quan có thể hoàn toàn an chỉ nhất tâm bên trong, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ đối tượng nào bên ngoài.
Tuy nhiên, có nhiều mức độ và chủng loại tĩnh lặng khác nhau:
1) Về phương diện tính chất có ba loại tâm tĩnh lặng:
- Tĩnh lặng sát-na (Sát-na định): Đó là sự chú tâm nhanh hơn tia chớp vừa đủ để bắt kịp một đối tượng luôn biến đổi nhanh chóng. Loại định này sẵn có một cách tự nhiên nhưng khi thiếu chú tâm hoặc chú tâm thái quá thì nó biến mất. Nó chớp tắt như ánh sáng con đom đóm tương ứng với tiến trình sinh diệt của một hiện tượng. Tuy nó nhanh như chớp mắt nhưng vẫn có ưu điểm đặc thù của nó mà chúng ta không thể tìm thấy trong các loại tĩnh lặng khác.
- Tĩnh lặng tùy nghi (Tuỳ thời định): Đây là sự trầm tĩnh nhờ chánh niệm trong mọi lúc, mọi nơi. Chúng ta cũng có thể gọi nó là sự bình lặng tại đây và bây giờ, vì trong khi làm một việc gì: ngồi, đi hay rửa mặt, tâm không lang thang nơi khác mà chỉ trọn vẹn với diễn trình của hành động. Loại định này thoạt nhìn dường như không kiên cố, nhưng thực ra đó mới chính là định vô ngại, cho dù hoàn cảnh nào.
- Tĩnh lặng nhất tâm (An chỉ định): Đây là trạng thái tập trung khi tâm xa lìa ngoại cảnh và an trú trên một đối tượng cố định duy nhất bên trong.
Nội tâm tĩnh lặng (bài của thầy Viên Minh)
Bạn đã mỏi mòn tìm kiếm thú vui bên ngoài, sao không lặng lẽ trở về cảm nhận niềm an lạc sẵn có bên trong? An lạc đó luôn luôn hiện hữu, chỉ cần trở lại là thấy, nhưng bạn đã bỏ rơi vào quên lãng vì mãi lăng xăng tìm kiếm viển vong. Tuy nhiên, khi được an lạc, bạn chớ khởi tâm chiếm hữu lâu dài, vì lập tức bạn rơi vào cái bẫy của bản ngã, thời gian, và đau khổ. Chẳng khác nào bấy lâu bạn tìm cách sở hữu những lạc thú trần gian! Biết bao giờ mới chấm dứt được khát vọng của kẻ mong cầu cái hữu hạn, mà bỏ quên cái vượt khỏi thời gian?
Thế giới loài người thuộc về Cõi Dục, vì hầu hết sinh hoạt đời sống của chúng ta dựa trên mối tương hệ giữa giác quan và ngoại cảnh. Mối tương hệ này phát sinh cảm giác, cảm xúc, tri giác, tư tưởng, kinh nghiệm, kiến thức, và tất cả những phản ứng tâm-sinh-vật lý. Nói chung là bản năng, tình cảm và lý trí, mà phần lớn diễn ra trong vô thức nhiều hơn có ý thức. Do đó những tích lũy nội kết này ngày càng đa dạng, phong phú, nhưng cũng làm cho kho chứa vô thức của chúng ta trở nên quá phức tạp đến độ khó có thể thăm dò.
Phần lớn chúng ta hành động, nói năng, suy nghĩ một cách vô thức. Và lắm khi tưởng chừng như chúng ta hành động có ý thức, chủ động và quyết đoán, nhưng thật ra chúng ta hành động như một con rối đang bị sai khiến bởi những xung động vô thức. Có thể chúng ta biết mình làm gì nhưng chỉ là cái biết mơ hồ, mông muội, phát xuất từ vô minh, thất giác mà hậu quả là chúng ta đã gây ra nhiều khổ đau phiền muộn cho mình và người. Loại ý thức này thực ra chỉ là mặt nổi rất nhỏ so với mặt chìm rộng lớn của vô thức, cũng giống như “phần trên mặt nước của một tảng băng so với phần chìm dưới nước”. Huống chi ý thức thường là chủ quan, bị giới hạn bởi ý niệm, kiến thức, quan niệm, thành kiến v.v… nên khó mà thấy biết trung thực. Chỉ khi nào tánh biết thoát khỏi những sự ngăn che này may ra ý thức mới được hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng.
Tâm phát ra tư tưởng, tư tưởng tạo ra xung lực thúc đẩy hành động. Khi nội tâm không thanh tịnh trong sáng thì hành động của chúng ta sẽ bị dẫn dắt bởi những khuynh hướng tâm lý không lành mạnh. Bị thúc đẩy bởi những xung lực đó chúng ta sẽ hành động như một robot đã được lập trình.
Kết quả là, hành động lăng xăng sẽ làm tiêu tán năng lực. Lực bị phân tán làm cho tư tưởng xáo trộn. Tư tưởng bất an khiến nội tâm dao động, bối rối, phân vân, nghi hoặc. Một nội tâm như vậy không thể nào thanh tịnh trong sáng được. Làm sao tâm đầy tham, sân, phóng túng, thụ động, dao động, căng thẳng và bất an có thể chú tâm vào một công việc nào để hoàn thành hữu hiệu?
Vì vậy, tĩnh tại không những cần yếu cho thực hành thiền định, mà trong bất kỳ lãnh vực hoạt động nào, dù là phương diện tay chân hay trí óc. Thiếu định tĩnh hay chú tâm chúng ta không thể lái xe an toàn hay lý luận, tư duy v.v… nhất quán và hiệu quả được.
Khi các giác quan hướng ra bên ngoài và bị chi phối bởi ngoại cảnh, thì tâm chúng ta sẽ bị khuấy động bởi những thái độ phản ứng như ưa, ghét, vọng động, lười chán, nghi ngờ. Đó là những trở ngại khiến nội tâm xao động.
Nhưng đôi lúc chính sự cố gắng ổn định tâm lại gây ra những trở ngại cho tâm. Vì cố gắng này có thể phát xuất từ lòng tham, đó là trở ngại thứ nhất. Ý muốn ổn định tâm đối lập với tâm bất an sinh ra bất mãn hay sân hận: trở ngại thứ hai. Sự mâu thuẩn này gia thêm bất an và dao động, đó là trở ngại thứ ba. Rồi nỗ lực trấn an tình trạng dao động này làm cho tâm mệt mỏi, hôn trầm, đó là trở ngại thứ tư. Kết quả là tâm bạn thường bị phân vân lưỡng lự làm sao có thể an bình tĩnh lặng được?
Vậy tĩnh lặng là gì? Đó là trạng thái khi tâm thoát khỏi những trở ngại làm cho tâm xáo trộn. Nói cách khác, những trở ngại sẽ tự biến mất khi tâm hội đủ những yếu tố tĩnh lặng:
1) Tâm thoát khỏi trạng thái thờ ơ, thụ động, lười chán, buồn ngủ có thể dễ dàng hướng đến bất kỳ đối tượng nào, nếu cần, một cách chính xác.
2) Tâm thoát khỏi tình trạng phân vân hay lưỡng lự có thể đủ tự tin để ổn định trên đối tượng đã được xem xét kỹ lưỡng.
3) Tâm thoát khỏi sự căng thẳng, bực bội, nóng nảy hay sân hận sẽ lập tức cảm thấy hoan hỷ với chính nó hay bất cứ đối tượng thiền nào.
4) Tâm thoát khỏi sự dao động, phóng tâm, tán loạn với những suy nghĩ miên man về quá khứ, vị lai, sẽ tự cảm thấy an lạc và vừa lòng với bất kỳ hoàn cảnh nào.
5) Tâm thoát khỏi trạng thái ham muốn giác quan có thể hoàn toàn an chỉ nhất tâm bên trong, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ đối tượng nào bên ngoài.
Tuy nhiên, có nhiều mức độ và chủng loại tĩnh lặng khác nhau:
1) Về phương diện tính chất có ba loại tâm tĩnh lặng:
- Tĩnh lặng sát-na (Sát-na định): Đó là sự chú tâm nhanh hơn tia chớp vừa đủ để bắt kịp một đối tượng luôn biến đổi nhanh chóng. Loại định này sẵn có một cách tự nhiên nhưng khi thiếu chú tâm hoặc chú tâm thái quá thì nó biến mất. Nó chớp tắt như ánh sáng con đom đóm tương ứng với tiến trình sinh diệt của một hiện tượng. Tuy nó nhanh như chớp mắt nhưng vẫn có ưu điểm đặc thù của nó mà chúng ta không thể tìm thấy trong các loại tĩnh lặng khác.
- Tĩnh lặng tùy nghi (Tuỳ thời định): Đây là sự trầm tĩnh nhờ chánh niệm trong mọi lúc, mọi nơi. Chúng ta cũng có thể gọi nó là sự bình lặng tại đây và bây giờ, vì trong khi làm một việc gì: ngồi, đi hay rửa mặt, tâm không lang thang nơi khác mà chỉ trọn vẹn với diễn trình của hành động. Loại định này thoạt nhìn dường như không kiên cố, nhưng thực ra đó mới chính là định vô ngại, cho dù hoàn cảnh nào.
- Tĩnh lặng nhất tâm (An chỉ định): Đây là trạng thái tập trung khi tâm xa lìa ngoại cảnh và an trú trên một đối tượng cố định duy nhất bên trong.