Phật Pháp.

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
Đề Tựa
* * *
Phật pháp là phương pháp giúp chúng ta vượt qua những biến động của nội Tâm, đồng thời tạo điều kiện giúp chúng sinh tiêu mòn và đoạn tận những biến động của nội tâm được tiến hành từng phần từ thô đến tế. Như thế chúng ta mới có thể thoát khỏi những bất hạnh và giúp đỡ người khác bớt đi phần nào những bất hạnh…để cho cuộc sống bớt đi những gai, chông…cho vườn đời nở đầy hoa thơm và quả ngọt.
Cái cốt lõi của Phật pháp là Giải thoát. Chúng ta có thể đánh giá Phật pháp thông qua cái chìa khóa Giải thoát. Những gì được gọi là Phật pháp phải thật sự giúp chúng ta tháo gỡ những rối rắm của nội tâm…không chỉ bằng phương pháp trốn chạy mà phải tổng hợp được những phương pháp đối đầu trực diện và phương pháp tổng hợp tùy duyên.
• Phương pháp trốn chạy là biện pháp tiêu cực tạm thời, theo Giáo nghĩa Phật giáo gọi là Tiểu thừa Giáo pháp.
• Phương pháp đối đầu trực diện là phương pháp tích cực dấn thân, theo Giáo nghĩa Phật giáo gọi là Đại thừa giáo pháp.
• Phương pháp tổng hợp tùy duyên là phương pháp vận dụng tùy thuộc khả năng của chính mình, tùy thuộc nghiệp lực và trình độ của đối tượng chúng sinh mà vận dụng những phương pháp thích hợp…giúp chúng ta và chúng sinh tiêu mòn và đoạn tận khổ đau và bất hạnh.
Vì lý do này cho nên Phật pháp hình thành 5 cấp học là: Giới, Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến.
* Cấp học Giới là cấp học giới hạn trong suy nghĩ, giới hạn trong lời nói, giới hạn trong hành động, giới hạn trong Tịnh cảnh, giới hạn trong Tịnh giới, giới hạn trong Giáo pháp như: thường an trú trong Pháp thích hợp, tùy thuộc nghiệp lực và trình độ giác ngộ của chính mình. Các pháp quán ban đầu thường được xử dụng như: Quán bất tịnh, Quán bạch cốt, Quán Từ bi, Quán nhân duyên, Quán hơi thở…Đó là những pháp Quán để tạm thời vượt qua những biến động của nội tâm tùy loại như: Quán bất tịnh để trừ Sắc dục, Quán bạch cốt để trừ Tham dục, Quán Từ-bi để trừ Sân giận, Quán nhân duyên để trừ Si mê. Ngoài ra, để trừ tạp niệm…chúng ta có thể an trú trong hơi thở hoặc an trú trong thần chú…
Cấp học Giới chỉ kết quả ở những nơi không có quá nhiều biến động và phải liên tục an trú trong một pháp nào đó… cho nên cấp học này chưa phải là cấp học Viên mãn, vì còn mắc kẹt ở không gian Tĩnh lặng và còn mắc kẹt ở thời gian vì quá trình an trú…chưa liên tục.
* Cấp học Định là cấp học ổn định nội tâm: Cấp học Giới là cấp học móng nền, tạm thời giúp chúng ta ổn định nội tâm bằng cách đóng chặc 6 căn (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý) không cho tiếp xúc 6 trần (Hình sắc, Âm thanh, Mùi hương, Vị nếm, Đụng chạm, Sự vật…gọi chung là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Cho nên chỉ hạn chế được phần nào những biến động của nội tâm…vì chủng thức lưu trú đã được chúng ta nạp vào Tàng thức (Bộ nhớ) từ vô thỉ thông qua thức thứ 7 là Tiềm thức bảo thủ cố chấp…nó sẽ chổi dậy quậy phá chúng ta. Vì lý do này cho nên chúng ta phải bước vào cấp học Định…cấp học Định này sẽ giúp chúng ta đối phó với sự chổi dậy của Tiềm thức bằng cách nhận thức bản chất của từng sự vật.
Bản chất của Vạn sự là Hư huyễn, vì nó không tồn tại liên tục. Bản thân của Vạn vật cũng Hư huyễn, vì nó liên tục sinh diệt…không có nhất định một hình tướng nào. Vì lý do này cho nên hình thành cái gọi là Định như huyễn (Như huyễn Tam muội). Nhờ an trú vào Định Như Huyễn mà chúng ta vững vàng hơn khi phải tiếp cận những nơi có quá nhiều biến động. Tuy nhiên Định lực này nếu bị gián đoạn thì Tiềm thức sẽ khống chế Ý thức, làm cho Ý thức không có được khách quan trong nhận định…xúi giục chúng ta phóng túng buông lung: Chạy theo Danh vọng, Vật chất, Quyền lực, Sắc tướng, Tình cảm… Vì thế mà phải thọ lấy những quả báo bi thảm. Vì lý do này cho nên cấp học Định này cũng chưa phải là cấp học Viên mãn.
* Cấp học Huệ là cấp học chuyển Ý thức thành Diệu quan sát trí…để thấy được cái gốc của biến động là Thanh tịnh. Vì không còn chạy theo Trần cảnh cho nên Ý thức chạy vào bên trong, chủng thức lưu trú hình thành nội cảnh lưu trú trong Tâm thức…nếu chúng ta theo dõi nó một cách khách quan, thì chúng ta không chỉ nhớ được những gì đã xảy ra trong đời này mà chúng ta còn có thể nhớ được những gì đã xảy ra trong những đời kiếp về trước…Thật vậy, Thanh tịnh là gốc, Biến động là ngọn. Đây là nguyên lý “Cực Tịnh Sinh Động”. Nếu chúng ta không mắc kẹt trong cái gọi là Tịnh…thì cái gọi là Động sẽ không xuất hiện; vì Tịnh và Động là cặp song sinh, không tồn tại độc lập…
* Cấp học Giải thoát là cấp học xử dụng cái Thanh tịnh Huệ sẵn có trong chúng ta để nhìn Trần (Thế giới bên ngoài) và Thức (Thế giới bên trong Tâm thức) bằng cặp mắt khách quan…thì chúng ta sẽ không bị nội cảnh và ngoại cảnh khống chế, nhờ vậy mà chúng ta trút được gánh nặng sinh tử…không còn phải lang thang trong giấc đời Đại mộng. Tuy nhiên, nếu chúng ta còn mắc kẹt trong cái gọi là Giải thoát…thì cái Giải thoát này sẽ không liên tục phát huy tác dụng; vì lý do này cho nên, chúng ta cần phải thoát ly mọi Tri kiến: Không còn mắc kẹt trong bất kỳ một khái niệm nào. Đây là cấp học Giải thoát Tri kiến mà chúng ta cần phải thông qua mới có thể hoàn toàn thoát ly trường mộng, Viên mãn Bồ-đề.
* Cấp học Giải thoát Tri kiến là cấp học thoát ly mọi khái niệm: là Tri Bất Tri, là Kiến Bất Kiến.
Thế nào là Tri Bất Tri? Nếu chúng ta biết một cái gì mà chúng ta không mắc kẹt trong cái biết đó, không tự hào, không ta đây…không bị cái biết đó nó sai khiến, không cố lưu lại cái biết đó trong tâm; biết như thế…được gọi là Tri Bất Tri.
Thế nào là Kiến Bất Kiến? Nếu chúng ta nhìn thấy được một cái gì…mà chúng ta không mắc kẹt trong cái thấy đó, không tự hào, không ta đây…không bị “cái thấy” đó nó sai khiến, không cố lưu lại “cái thấy” đó trong tâm. Thấy như thế…được gọi là Kiến Bất Kiến.
Cấp học Giải thoát Tri kiến này giúp cho cái Thanh tịnh Huệ liên tục phát huy tác dụng, vì thế biến động của nội tâm sẽ tiêu mòn và đoạn tận: Viên mãn Bồ-đề, Trang nghiêm Giải thoát.
• Cái Thanh tịnh Huệ hoạt động như thế nào để tiêu mòn và đoạn tận những biến động của nội tâm?
Cái Thanh tịnh Huệ cho chúng ta biết rằng: Các pháp vốn không mang một tánh gì, không có một tướng gì, không phải là một cái gì cố định vì: Sông, biển, ao, hồ…đối với chúng ta chỉ là một trong những nơi thường có nước; nhưng đối với các loài cá, tôm…lại là nhà cửa, là đất nước, là quê hương của nó. Các loại như cây, gỗ…đối với chúng ta là vật liệu để làm ra các vật dụng như bàn, ghế, giường, tủ…nhưng đối với các loài như mối, mọt…thì cây, gỗ…lại là thức ăn của nó.
Mọi thứ trên đời này, tùy theo nghiệp lực hoặc tùy theo trình độ giác ngộ…mà mỗi chúng sinh có mỗi cái nhìn khác nhau; chúng ta không nên bảo thủ cố chấp, không nên háo danh háo thắng…chúng ta nên tháo gỡ tất cả những vướng mắc, không chạy theo ngoại cảnh và cũng không chạy theo thế giới nội tâm…thì những biến động của nội tâm sẽ đoạn tận. Tuy nhiên, nếu chúng ta còn mắc kẹt ở một khái niệm nào, thì các khái niệm tương quan và các khái niệm đối lập với nó sẽ đồng thời xuất hiện…
Các cấp học phải được thực hành từng bước, không thể thiếu; vì nó là những nấc thang căn bản giúp chúng ta tiếp thu tốt kiến thức của các cấp học tiếp theo. Tuy nhiên, nếu chúng ta kết hợp đồng thời Giới, Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến…thì kết quả nhanh hơn là thực hiện từng phần.
Cứu cánh của Phật pháp là đoạn tận những biến động của nội tâm, để Giải thoát những khổ đau không chỉ cho riêng chúng ta, mà phải đồng thời tạo điều kiện giúp cho những chúng sinh hữu duyên thoát khổ, được vui…bởi vì chúng ta và chúng sinh tuy hai mà chẳng phải hai: Chúng ta khổ, vì chúng ta có quá nhiều tham dục, nhưng nếu chúng sinh có quá nhiều tham dục thì cũng có thể đem đến cho chúng ta những khốn khổ phi lý, vì lý do này cho nên:
Thoát khổ riêng Ta, khổ mãi còn,
Tùy duyên cứu khổ chúng sinh chung,
Chúng sinh giác ngộ: Bờ kia đến,
Thì khổ riêng Ta mới chẳng còn.
Ngày 28 tháng 11năm 2010
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
Phật pháp (tiếp theo).

VŨ TRỤ, PHÁP GIỚI, CHÚNG SINH.
* * * * *
I. Thế nào là Vũ trụ?
- Vũ là không gian bao la vô cùng vô tận.
- Trụ là thời gian xuyên suốt từ vô thỉ đến vô chung.
* Vũ trụ là thuật ngữ bao gồm không gian rộng lớn vô cùng vô tận và thời gian xuyên suốt từ vô thỉ đến vô chung.
II. Thế nào là Pháp giới?
Pháp giới có nhiều nghĩa như: Giới hạn của các pháp, thế giới của các pháp, phạm vi hoạt động của các pháp, vùng ảnh hưởng Giáo pháp của một Đức Phật.
Thế nào là Pháp?
Những gì chúng ta nhìn thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân đụng chạm, ý tưởng tượng, cảm nhận…mà phân biệt một cách rõ ràng, không lầm lẫn với những thứ khác, đều được gọi là một pháp.
Ví dụ:
- Những pháp hữu vi hữu tướng như: Cái bàn, cái tủ…
- Những pháp hữu vi vô tướng như: Âm thanh, hương thơm, vị cay, ngọt…niềm vui, nỗi buồn, mừng, giận…
- Những pháp vô vi hữu tướng như: Hư không (Vì Hư không là tướng đối lập với Vạn hữu).
- Những pháp vô vi vô tướng như: Chân như (chân thật như vậy, không tồn tại bất kỳ một khái niệm nào).
• Theo Duy thức học thì các pháp được phân làm mấy loại và mấy thành phần?
Theo Duy thức học thì các pháp được phân làm 5 loại lớn, 5 loại này được chia thành 100 thành phần (hay 100 pháp).
5 loại lớn là:
* Tâm vương là “Tướng” của thức, thuộc về Tâm giới.
* Tâm sở là “Dụng” của thức, cũng thuộc về Tâm giới.
* Sắc pháp là “Ảnh tượng” của thức, thuộc về Sắc giới.
* Tâm bất tương ưng hành là “Phận vị của thức”. Nó không thuộc hẳn về Tâm mà cũng không thuộc về Sắc giới. Nó phải hội đủ 2 yếu tố là Tâm và Sắc…mới hình thành.
Ví dụ: Đắc thì phải có 2 yếu tố là chủ thể và đối tượng…
* Vô vi là “Tánh” của thức, gọi là Chân như.
1. Tâm vương có 8 pháp: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt na thức, A-lại-gia thức.
2. Tâm sở (tùy thuộc tâm vương) có 51 pháp:
- 5 Biến hành tâm sở (phổ biến khắp 8 thức) gồm: Xúc, Tác ý (khởi ý), Thọ, Tưởng, Tư (suy nghĩ).
- 5 Biệt cảnh tâm sở (Nó duyên cảnh khác nhau như Dục tâm sở chỉ duyên với cảnh mình ưa thích, Huệ tâm sở chỉ duyên với cảnh mình quan sát) gồm: Dục, Thắng giải (hiểu rõ), Niệm, Định, Huệ.
- 11 Thiện tâm sở là: Tín (lòng tin), Tàm (xấu hổ khi Miệng nói bậy và Thân làm bậy…), Quý (thẹn lòng khi Ý nghĩ điều bậy bạ…), Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh tấn (thanh lọc tạp niệm để tiến tới thanh tịnh) , Khinh an (nhẹ nhàng, an vui), Bất phóng dật, Hành xả (buông bỏ) và Bất hại.
- 6 Căn bản phiền não (Cội gốc của phiền não) là: Tham, Sân, Si, Mạn (Kiêu mạn), Nghi, Ác kiến (kiến chấp ác).
- 20 Tùy phiền não (Tùy phiền não là phiền não ngọn) là: Phẫn (Căm phẫn), Hận, Phú (che giấu lỗi lầm), Não (sầu não), Tật (đố kỵ), Xan (bỏn xẻn), Cuống (lừa đảo), Siễm (nịnh hót), Hại, Kiêu, Vô tàm, Vô quý, Trạo cử (lắc xắc), Hôn trầm (không phân biệt đúng sai), Bất tín, Giãi đãi (lười nhác), Phóng dật (phóng túng), Thất niệm (mất chánh niệm), Tán loạn, Bất chánh tri (biết không chân chánh).
- 4 Bất định (Tâm sở không nhất định là Thiện hay Ác) là: Hối (hối tiếc), Miên (mê đắm), Tầm (tìm tòi), Tư (suy nghĩ).
Tổng cộng: 5 + 5 + 11 + 6 + 20 + 4 = 51 Tâm sở.
3. Sắc pháp có 11 pháp (là pháp hữu vi sinh diệt) gồm: 5 Căn (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân) và 6 Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp).
4. Bất tương ưng hành có 24 pháp: Đắc (được), Mạng căn (gốc sinh mạng), Chúng đồng phần (chúng cùng số phận), Dị sanh tánh (những tập tánh phát sinh khác nhau), Vô tưởng định (định tâm không tưởng đến ngoại giới), Diệt tận định (định tâm quét sạch tạp niệm), Vô tưởng báo (quả báo không tưởng đến ngoại giới), Danh thân (tên gọi), Cú thân (câu nói), Văn thân (chữ viết), Sanh, Trụ (lưu lại), Lão, Vô thường, Lưu chuyển (di chuyển), Định vị (lành, dữ khác nhau), Tương ưng (duyên cả sắc pháp, tâm pháp và tâm sở pháp), Thế tốc (mau lẹ), Thứ đệ (trật tự), Thời (thời gian), Phương (không gian), Số (số lượng), Hòa hợp tánh (duyên hòa hợp), Bất hòa hợp tánh (duyên không hòa hợp).
5. Vô vi pháp có 6 pháp:
- Hư không vô vi (không biến động như hư không).
- Trạch diệt vô vi (dùng Huệ để vượt qua biến động).
- Phi Trạch diệt vô vi (biến động hết duyên thì không còn).
- Bất động diệt vô vi (biến động không còn khi xả niệm).
- Thọ tưởng diệt vô vi (không còn biến động khi tâm thức dừng lặng).
- Chân như vô vi (thật tánh thanh tịnh, không biến động).
Tổng cộng: 8 + 51 + 11 + 24 + 6 = 100 pháp.
• Thế nào là giới hạn của các pháp?
Ngoại trừ pháp chân như là pháp bất động, tất cả các pháp khác đều là những pháp biến động, vì nó là pháp sinh diệt, không tồn tại liên tục. Tuy hư không vô vi, Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi, Bất động diệt vô vi, Thọ tưởng diệt vô vi…bản chất không sinh diệt, nhưng phải có điều kiện cần thiết thì nó mới xuất hiện, vì thế cho nên nó không xuất hiện một cách liên tục…do đó, nó không phải là pháp bất biến. Tất cả các pháp Hữu vi hữu tướng, Hữu vi vô tướng và Vô vi hữu tướng đều có tuổi thọ khác nhau, tùy thuộc bản chất và điều kiện duyên sinh của nó.
• Thế nào là Thế giới của các pháp?
Thế giới của các pháp là môi trường thích hợp để cho các pháp tồn tại.
• Các pháp hoạt động trong phạm vi nào?
* Chân như hàm tàng các pháp, nhưng không đồng nhất với các pháp, nó là pháp bất biến, không tăng, không giảm, không dơ, không sạch, không mang bất kỳ một sắc thái nào.
* Hư không là pháp vô vi nhưng là pháp đối lập với vạn hữu cho nên nó tự lập tướng tùy thuộc vạn hữu. Mặc dù nó là pháp bất biến, nhưng tùy theo sự tăng giảm của vạn hữu mà chúng ta thấy có giảm, có tăng…
Ví dụ: Ngày xưa con người ít, nhà cửa lầu đài ít, cho nên chúng ta thấy Hư không hình như nhiều hơn; còn bây giờ, con người quá nhiều, nhà cửa lầu đài quá nhiều, cho nên chúng ta thấy Hư không hình như ít hơn…
* Các pháp Hữu vi hữu tướng là pháp sinh, diệt…cho nên phải có những điều kiện thuận hợp thì nó mới hoạt động. Chẳng hạn như: Vì muốn cho đời sống được nâng cao…cho nên, người ta sản xuất ra những vật dụng như: Tivi, tủ lạnh…
* Các pháp Hữu vi vô tướng cũng là pháp sinh diệt…cho nên, nó chỉ xuất hiện khi có điều kiện. Chẳng hạn như: Khi có ai đó xúc phạm ta…thì cái gọi là Sân mới xuất hiện.
• Ý nghĩa về vùng ảnh hưởng Giáo pháp của một Đức Phật như thế nào?
Vùng ảnh hưởng Giáo pháp của một Đức Phật có thể là một Đại thiên Thế giới, hai Đại thiên Thế giới, ba Đại thiên Thế giới hoặc vô lượng Đại thiên Thế giới…chẳng hạn như: Pháp giới của Phật Thích Ca là một Đại thiên Thế giới, được gọi là Thế giới Ta-bà; pháp giới của Phật A Di Đà là vô lượng Đại thiên Thế giới, được gọi là Tây phương Cực lạc Thế giới.
• Một Đại thiên Thế giới bao gồm bao nhiêu Thế giới?
Một Đại thiên Thế giới gồm có 1 tỷ Thái dương hệ, 1 tỷ cõi Địa ngục, 1 tỷ cõi Ngạ quỷ, 1 tỷ cõi Súc sinh, 1 tỷ cõi Atula, 1 tỷ cõi người, 1 tỷ cõi trời Dục giới, 1 tỷ cõi Sơ thiền Sắc giới, 1 triệu cõi Nhị thiền Sắc giới, 1 triệu cõi Tam thiền Sắc giới, 1 triệu cõi Tứ thiền Sắc giới, 1000 cõi Tứ định Vô sắc giới. Được tính như sau:
1 Thế giới (1Thái dương hệ) gồm: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Atula, Người, Trời Dục giới và Sơ thiền Sắc giới.
1000 Tiểu Thế giới là một Tiểu thiên Thế giới.
1000 Tiểu thiên Thế giới là một Trung thiên Thế giới.
1000 Trung thiên Thế giới là một Đại thiên Thế giới. Cho nên Đại thiên Thế giới gọi đủ là Tam thiên Đại thiên Thế giới bao gồm 1000 Trung thiên Thế giới, 1 triệu Tiểu thiên Thế giới và 1 tỷ Tiểu Thế giới.
III. Thế nào là chúng sinh?
Chúng sinh là danh từ gọi chung cho tất cả sinh vật tồn tại không liên tục, bao gồm: Chúng sinh hữu vi hữu tướng và chúng sinh hữu vi vô tướng như: Đất, đá, cỏ, cây…Địa ngục, Ngạ quỷ, Cầm thú, Atula, Người, Trời, Thinh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật khái niệm…ngoài ra còn có nội chúng sinh là Tạp niệm trong tâm của chúng ta. Chỉ có Như Lai Phật Thế Tôn mới không phải là chúng sinh, vì Như Lai Phật Thế Tôn tâm không còn biến động…cho dù Như Lai Phật Thế Tôn có thị hiện sinh tử đi nữa, tâm cũng không hề biến động…cho nên không bị trôi lăn trong sinh tử…
• Nói đến Độ tận chúng sinh là Độ những chúng sinh nào? Nội chúng sinh hay Ngoại chúng sinh?
Bao gồm cả Nội chúng sinh và Ngoại chúng sinh, nhưng cái cần phải độ trước tiên là Nội chúng sinh, là Tạp niệm đảo điên trong mỗi chúng ta, chúng ta cần phải vận dụng những phương pháp thích hợp để dẫn dắt nó, thuyết phục nó, để nó không quậy phá chúng ta nữa. Khi nó giác ngộ rồi thì nó sẽ không còn quậy phá chúng ta, như thế là tất cả chúng sinh ở trong tâm của chúng ta…nó đã thành Phật. Kinh nghiệm dẫn dắt, thuyết phục những chúng sinh cư trú trong tâm của chúng ta…sẽ giúp cho chúng ta có đủ kinh nghiệm để thuyết phục, dẫn dắt chúng sinh bên ngoài. Tuy nhiên kết quả hay không…là do sự nỗ lực của chính mỗi chúng sinh ấy.
Khi chúng ta đã độ tận chúng sinh trong tâm của chúng ta, thì tâm của chúng ta sẽ không còn biến động. Tuy nhiên, khi nào tâm chúng ta không còn an trú trong bất kỳ một pháp nào, cho dù có chuyện gì xảy ra hay không…bất kể là ở nơi nào và bất cứ lúc nào…nếu tâm chúng ta hoàn toàn không biến động thì những chúng sinh trong tâm chúng ta mới thật sự được độ tận, như thế chúng ta mới thật sự có đủ năng lực dẫn dắt chúng sinh bên ngoài. Nếu chưa được như thế…thì chúng ta phải tùy duyên hành Đạo: Không nên háo danh, háo thắng…mà phải sa ngã phi lý! Đời là trường học, chúng sinh là Thầy giáo của nhau, sẽ dạy cho nhau những bài học có giá trị nhất, để chúng sinh sớm được giác ngộ. Chúng ta chỉ đóng vai trò “Trợ giảng”…kết quả nhanh hay chậm, còn phải tùy thuộc nghiệp lực, nhân duyên và trình độ giác ngộ của chúng sinh đó; chúng ta không nên nôn nóng! Nếu nôn nóng thì chúng ta sẽ mất đi tánh trong sáng, khách quan…vì thế sẽ không nhìn thấy được căn tánh của mỗi chúng sinh và sẽ không vận dụng được những phương pháp thích hợp…cho nên sẽ không có được kết quả tốt. Như thế sẽ làm cho chúng ta mất đi lòng tin ở khả năng của chính mình, đồng thời làm cho chúng sinh mất đi lòng tin ở nơi chúng ta, đưa đến chán nản, tuyệt vọng, mất phương hướng…để rồi cuối cùng bị Thiên ma sai khiến…dẫn đến phóng túng, buông lung, gây tạo ác nghiệp…luống uổng một đời tu học. Chúng ta cần phải cảnh giác!
Chân Như Không Tánh
Ngày 29 tháng 11 năm 2010
(24 tháng 10 Canh Dần)
 

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
Phật pháp (tiếp theo).

TAM BẢO
* * *
I. Khái niệm: Thế nào là Tam bảo?
Tam bảo là 3 thứ quý nhất Thế gian là: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
II. Phân tích:
1. Thế nào là Phật bảo?
Vàng, bạc, kim cương…là những thứ quý của thế gian, nhưng chưa chắc nó đem đến cho chúng ta sự an ổn nơi tâm hồn. Ngược lại, nếu tâm chúng ta trong sáng thì chúng ta sẽ không bị bất kỳ một áp lực nào làm cho tâm chúng ta bất an, vì thế cho nên chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn. Vậy tâm trong sáng là quý nhất, mà tâm trong sáng (nhận biết không mắc kẹt ở một nơi nào) là Phật, cho nên tâm trong sáng là Phật bảo.
Phật bảo là tâm trong sáng có sẵn trong tất cả Chư Phật và tất cả chúng sinh, cho nên tâm trong sáng được gọi là: Đồng thể Phật bảo.
• Chư Phật có phải là Phật bảo hay không?
Chư Phật là Phật bảo, vì chư Phật có thể giúp cho tâm chúng ta được an ổn lâu dài. Chư Phật được gọi là Xuất thế gian Phật bảo.
• Hình tượng Phật có phải là Phật bảo hay không?
Nhìn thấy hình tượng Phật, chúng ta nhớ đến Phật, nhớ đến lời dạy của Phật và sống theo sự chỉ dạy của Phật; nhờ vậy mà tâm chúng ta trở nên trong sáng, cho nên chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn; vì lý do này cho nên hình tượng Phật cũng là Phật bảo. Hình tượng Phật là hình ảnh tượng trưng, nhắc nhở chúng ta nhiếp niệm tu hành; cho nên được gọi là Thế gian Phật bảo.
2. Thế nào là Pháp bảo?
Khi tiếp cận những nơi có quá nhiều biến động; nếu chúng ta giữ ý khách quan, thì chúng ta sẽ không bị ngoại cảnh, ngoại vật…chi phối, nhờ vậy mà chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn. Sự an ổn nơi tâm hồn là quý nhất, cho nên cái giúp cho tâm hồn được an ổn là ý khách quan…là quý nhất. Vậy ý khách quan là Pháp bảo. Ý khách quan có sẵn trong tâm của Chư Phật và tất cả chúng sinh, vì thế ý khách quan được gọi là Đồng thể Pháp bảo.
• Chánh pháp giải thoát có phải là Pháp bảo hay không?
Chánh pháp giải thoát là Pháp ly dục, là pháp giúp chúng ta thoát khỏi những hệ lụy của cuộc đời, để có được sự an ổn nơi tâm hồn; vì thế Pháp ly dục là pháp quý nhất. Cho nên Chánh pháp giải thoát là Pháp bảo Xuất thế.
• Kinh, Luật, Luận…có phải là Pháp bảo hay không?
Tuy Kinh, Luật, Luận…là những vật thể hữu vi sinh diệt, nhưng dựa vào đó, chúng ta rút ra được những bài học có giá trị, giúp chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn, cho nên Kinh, Luật, Luận cũng là thứ quý báu nhất thế gian. Vì thế, Kinh, Luật, Luận được gọi là thế gian Pháp bảo.
• Thế nào là Tăng bảo?
Chữ Tăng xuất phát từ Phạn âm Shanga, còn gọi là Tăng già, có nghĩa là Thanh tịnh, là trong sạch.
Tâm chúng ta có trong sạch hay không?
Như chúng ta đã biết: Tâm là cái hàm tàng các pháp nhưng không đồng nhất với các pháp; cho nên nó không dơ cũng không sạch. Nếu chúng ta suy nghĩ dơ bẩn, thì nó tạm thời bị dơ; nhưng nếu chúng ta suy nghĩ trong sạch, thì nó liền trong sạch. Nó như một cái gương soi, quay lòng gương về hướng nào thì những sự vật ở hướng đó ảnh hiện trong lòng gương soi; nhưng nếu chúng ta quay lòng gương soi hướng thẳng lên trời…thì không gian bao la hiện rõ trong lòng gương soi. Chiếu soi bao nhiêu cảnh vật…lòng gương soi cũng không đầy, không chiếu soi cảnh vật…lòng gương soi cũng không vơi, vì bản chất của lòng gương soi là rỗng sáng. Do rỗng sáng cho nên nó không nhận bất kỳ một thứ gì làm nó; nhờ vậy mà nó thường sạch trơn không tỳ vết. Tâm chúng ta cũng vậy, nhờ sạch trơn không tỳ vết, cho nên chúng ta thường cảm thấy an ổn sau một giấc ngủ an lành. Sự an ổn của tâm hồn là quý nhất, cho nên sạch trơn không tỳ vết là quý nhất; sạch trơn không tỳ vết là Thanh tịnh, là trong sạch, là Tăng. Vì cái thanh tịnh căn bản này có sẵn trong tâm của Chư Phật và tất cả chúng sinh nên có tên là Đồng thể Tăng bảo.
• Chư Đại Bồ-tát…có phải là Tăng bảo hay không?
Chư Đại Bồ-tát như: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền…là xuất trần Đại sĩ, thường tùy duyên phương tiện giúp chúng ta quay về với Tâm Thanh tịnh của chúng ta, để thoát khỏi những thống khổ, bi thương…Hơn nữa, Chư Đại Bồ-tát tâm thường thanh tịnh (mặc dù ý nghiệp chưa hoàn toàn được lọc sạch)…cho nên chư Đại Bồ Tát được gọi là Xuất thế Tăng bảo.
• Chư vị Tu sĩ thế gian có phải là Tăng bảo hay không?
Chư vị Tu sĩ thế gian, tuy tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh, nhưng hiện tại, chư vị dựa vào lời Phật dạy để thanh lọc những thói hư tật xấu, đồng thời tùy duyên phương tiện giúp người khác loại trừ những thói hư tật xấu, để thoát khỏi những khổ sở bi thương…để có được sự an ổn nơi tâm hồn. Cho nên Tu sĩ thế gian cũng là Thế gian Tăng bảo.
III. Nhận xét:
• Khi nghiên cứu Phật pháp đã có không ít người hoài nghi…vì tiểu sử của Phật Thích Ca theo Bắc sử và Nam sử…không khớp nhau.
Nếu chúng ta là những người Phật tử chân chánh…thì chúng ta không nên tin bất kỳ một điều gì, nếu chúng ta thấy là không hợp lý. Vì ở Kinh Pháp Cú có dạy rằng: Hãy thắp đuốc lên mà đi! Và ở Trường Bộ Kinh cũng bảo rằng: Nếu có ai đó, có quyền ban phước giáng họa…thì người đó còn hung dữ hơn chúng ta, không đáng để chúng ta tôn thờ!
Chúng ta không nên tin cuồng, chấp bướng…nhưng chúng ta cũng không nên bài xích bất kỳ một luận thuyết nào, vì cái gì là sự thật thì sẽ bất tử, còn cái gì không phải là sự thật thì sẽ bị đào thải theo thời gian.
• Từ khi Phật Thích Ca Niết-bàn đến nay đã 2554 năm (theo Bắc sử, tính đến thời điểm 2010), làm sao bảo đảm rằng Giáo điển không có phần hư cấu. Cho dù tuyệt đối không có phần hư cấu đi nữa, chúng ta cũng không nên tin cuồng…vì tùy thuộc trình độ giác ngộ của mỗi người, mà người thuật lại hoặc phiên dịch…tự hình thành Tam Tạng Kinh điển theo ý riêng của mỗi người. Vì lý do này cho nên trong Kinh Kim Cang, Phật Thích Ca cảnh báo chúng ta rằng: Như lai không có thuyết pháp độ chúng sinh, nếu người nào nói Như Lai có thuyết pháp độ chúng sinh, là hủy báng Như Lai.
Hiện tại, tuy Giáo điển có nhiều điểm không hợp lý, nhưng chúng ta không nên vì thế mà hoài nghi tất cả! Chúng ta hãy tinh lọc nó bằng cái chìa khóa Giải thoát và Giải thoát Tri kiến thì chúng ta sẽ phát hiện được Tinh hoa của nó. Nó sẽ là hành trang cần thiết giúp cho chúng ta bước vào vườn Phật Thánh…tiêu mòn và đoạn tận khổ đau, đồng thời tùy duyên phương tiện giúp đỡ chúng sinh thoát khổ được vui, Trang nghiêm Tịnh địa.
• Hiện tại, tuy Tăng chúng chưa được hoàn hảo, nhưng chúng ta không vì thế mà đánh mất niềm tin…Ngày xưa, khi Phật còn tại thế cũng đã có nhóm Lục quần Tỳ kheo chuyên quậy phá Tăng đoàn và chính đệ tử của Phật là Đề Bà Đạt Đa cũng đã bao phen âm mưu sát hại Phật; ngoài ra, ngoại đạo Tà giáo cũng đã bao lần âm mưu hại Phật và Tăng chúng… Thời nào cũng vậy, không thể nào tìm được cái tuyệt đối trong cái thế gian tương đối này! Trần gian là quán trọ, cho nên “ở mà không ở”. Tịnh độ mới là nơi trú ngụ lâu dài…chúng ta hãy nỗ lực đi tới! Đừng vì sự ô hợp của Tăng chúng mà chán nãn! Hãy xử dụng Thanh tịnh Huệ để soi sáng và quét sạch vật cản, đồng thời thanh lọc tạp niệm để trở về với quê hương nguồn cội Chân thường, Tĩnh lặng, An vui. Đây chính là cảnh giới Thường Tịch Quang Tịnh độ.
Tịnh độ không gần cũng không xa,
Gần xa chỉ tại ở lòng ta...
Không tranh, không chấp... là Tịnh độ,
Giành giật, bon chen... ấy Ta-bà,
Mười muôn ức cõi…xa vời vợi,
Dứt niệm phân tranh…là đến rồi!
Ai ơi, chớ có bôn ba nữa…
Quẳng gánh sầu lo…sẽ đến nơi!
IV. Kết luận:
• Đồng thể Tam bảo là Tam bảo trong tự tánh của chúng ta…lúc nào cũng bám sát chúng ta, tìm cách giúp chúng ta thoát ly điên đảo…để có được sự ổn định nơi tâm hồn, cho nên chúng ta đừng xem thường…để không phải trả bằng cái giá quá đắt, là luống uổng một kiếp con người!
• Xuất thế Tam bảo thường xuyên giúp đỡ chúng ta giác ngộ tu hành, nhưng chúng ta phải tự nỗ lực mới có kết quả.
• Thế gian Tam bảo hiện tại, tuy còn tạp chất, nhưng chúng ta không nên coi thường! Chúng ta không nên vì những tạp chất ấy mà đánh mất niềm tin! Chúng ta hãy cố gắng thanh lọc những tạp chất của chính mình, để phát hiện những Tinh hoa ẩn tàng trong Pháp bảo…dù chỉ chút ít, nhưng chúng ta cũng có được những bài học quý báu để bổ sung cho hành trình giải thoát khổ đau, kiến lập Niết-bàn bất ly sinh tử.
Chân Như Không Tánh
Ngày 30 tháng 11 năm 2010
(25 tháng 10 Canh Dần)
 

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
TAM BẢO
* * *
I. Khái niệm: Thế nào là Tam bảo?
Tam bảo là 3 thứ quý nhất Thế gian là: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
II. Phân tích:
1. Thế nào là Phật bảo?
Vàng, bạc, kim cương…là những thứ quý của thế gian, nhưng chưa chắc nó đem đến cho chúng ta sự an ổn nơi tâm hồn. Ngược lại, nếu tâm chúng ta trong sáng thì chúng ta sẽ không bị bất kỳ một áp lực nào làm cho tâm chúng ta bất an, vì thế cho nên chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn. Vậy tâm trong sáng là quý nhất, mà tâm trong sáng (nhận biết không mắc kẹt ở một nơi nào) là Phật, cho nên tâm trong sáng là Phật bảo.
Phật bảo là tâm trong sáng có sẵn trong tất cả Chư Phật và tất cả chúng sinh, cho nên tâm trong sáng được gọi là: Đồng thể Phật bảo.
• Chư Phật có phải là Phật bảo hay không?
Chư Phật là Phật bảo, vì chư Phật có thể giúp cho tâm chúng ta được an ổn lâu dài. Chư Phật được gọi là Xuất thế gian Phật bảo.
• Hình tượng Phật có phải là Phật bảo hay không?
Nhìn thấy hình tượng Phật, chúng ta nhớ đến Phật, nhớ đến lời dạy của Phật và sống theo sự chỉ dạy của Phật; nhờ vậy mà tâm chúng ta trở nên trong sáng, cho nên chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn; vì lý do này cho nên hình tượng Phật cũng là Phật bảo. Hình tượng Phật là hình ảnh tượng trưng, nhắc nhở chúng ta nhiếp niệm tu hành; cho nên được gọi là Thế gian Phật bảo.
2. Thế nào là Pháp bảo?
Khi tiếp cận những nơi có quá nhiều biến động; nếu chúng ta giữ ý khách quan, thì chúng ta sẽ không bị ngoại cảnh, ngoại vật…chi phối, nhờ vậy mà chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn. Sự an ổn nơi tâm hồn là quý nhất, cho nên cái giúp cho tâm hồn được an ổn là ý khách quan…là quý nhất. Vậy ý khách quan là Pháp bảo. Ý khách quan có sẵn trong tâm của Chư Phật và tất cả chúng sinh, vì thế ý khách quan được gọi là Đồng thể Pháp bảo.
• Chánh pháp giải thoát có phải là Pháp bảo hay không?
Chánh pháp giải thoát là Pháp ly dục, là pháp giúp chúng ta thoát khỏi những hệ lụy của cuộc đời, để có được sự an ổn nơi tâm hồn; vì thế Pháp ly dục là pháp quý nhất. Cho nên Chánh pháp giải thoát là Pháp bảo Xuất thế.
• Kinh, Luật, Luận…có phải là Pháp bảo hay không?
Tuy Kinh, Luật, Luận…là những vật thể hữu vi sinh diệt, nhưng dựa vào đó, chúng ta rút ra được những bài học có giá trị, giúp chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn, cho nên Kinh, Luật, Luận cũng là thứ quý báu nhất thế gian. Vì thế, Kinh, Luật, Luận được gọi là thế gian Pháp bảo.
• Thế nào là Tăng bảo?
Chữ Tăng xuất phát từ Phạn âm Shanga, còn gọi là Tăng già, có nghĩa là Thanh tịnh, là trong sạch.
Tâm chúng ta có trong sạch hay không?
Như chúng ta đã biết: Tâm là cái hàm tàng các pháp nhưng không đồng nhất với các pháp; cho nên nó không dơ cũng không sạch. Nếu chúng ta suy nghĩ dơ bẩn, thì nó tạm thời bị dơ; nhưng nếu chúng ta suy nghĩ trong sạch, thì nó liền trong sạch. Nó như một cái gương soi, quay lòng gương về hướng nào thì những sự vật ở hướng đó ảnh hiện trong lòng gương soi; nhưng nếu chúng ta quay lòng gương soi hướng thẳng lên trời…thì không gian bao la hiện rõ trong lòng gương soi. Chiếu soi bao nhiêu cảnh vật…lòng gương soi cũng không đầy, không chiếu soi cảnh vật…lòng gương soi cũng không vơi, vì bản chất của lòng gương soi là rỗng sáng. Do rỗng sáng cho nên nó không nhận bất kỳ một thứ gì làm nó; nhờ vậy mà nó thường sạch trơn không tỳ vết. Tâm chúng ta cũng vậy, nhờ sạch trơn không tỳ vết, cho nên chúng ta thường cảm thấy an ổn sau một giấc ngủ an lành. Sự an ổn của tâm hồn là quý nhất, cho nên sạch trơn không tỳ vết là quý nhất; sạch trơn không tỳ vết là Thanh tịnh, là trong sạch, là Tăng. Vì cái thanh tịnh căn bản này có sẵn trong tâm của Chư Phật và tất cả chúng sinh nên có tên là Đồng thể Tăng bảo.
• Chư Đại Bồ-tát…có phải là Tăng bảo hay không?
Chư Đại Bồ-tát như: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền…là xuất trần Đại sĩ, thường tùy duyên phương tiện giúp chúng ta quay về với Tâm Thanh tịnh của chúng ta, để thoát khỏi những thống khổ, bi thương…Hơn nữa, Chư Đại Bồ-tát tâm thường thanh tịnh (mặc dù ý nghiệp chưa hoàn toàn được lọc sạch)…cho nên chư Đại Bồ Tát được gọi là Xuất thế Tăng bảo.
• Chư vị Tu sĩ thế gian có phải là Tăng bảo hay không?
Chư vị Tu sĩ thế gian, tuy tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh, nhưng hiện tại, chư vị dựa vào lời Phật dạy để thanh lọc những thói hư tật xấu, đồng thời tùy duyên phương tiện giúp người khác loại trừ những thói hư tật xấu, để thoát khỏi những khổ sở bi thương…để có được sự an ổn nơi tâm hồn. Cho nên Tu sĩ thế gian cũng là Thế gian Tăng bảo.
III. Nhận xét:
• Khi nghiên cứu Phật pháp đã có không ít người hoài nghi…vì tiểu sử của Phật Thích Ca theo Bắc sử và Nam sử…không khớp nhau.
Nếu chúng ta là những người Phật tử chân chánh…thì chúng ta không nên tin bất kỳ một điều gì, nếu chúng ta thấy là không hợp lý. Vì ở Kinh Pháp Cú có dạy rằng: Hãy thắp đuốc lên mà đi! Và ở Trường Bộ Kinh cũng bảo rằng: Nếu có ai đó, có quyền ban phước giáng họa…thì người đó còn hung dữ hơn chúng ta, không đáng để chúng ta tôn thờ!
Chúng ta không nên tin cuồng, chấp bướng…nhưng chúng ta cũng không nên bài xích bất kỳ một luận thuyết nào, vì cái gì là sự thật thì sẽ bất tử, còn cái gì không phải là sự thật thì sẽ bị đào thải theo thời gian.
• Từ khi Phật Thích Ca Niết-bàn đến nay đã 2554 năm (theo Bắc sử, tính đến thời điểm 2010), làm sao bảo đảm rằng Giáo điển không có phần hư cấu. Cho dù tuyệt đối không có phần hư cấu đi nữa, chúng ta cũng không nên tin cuồng…vì tùy thuộc trình độ giác ngộ của mỗi người, mà người thuật lại hoặc phiên dịch…tự hình thành Tam Tạng Kinh điển theo ý riêng của mỗi người. Vì lý do này cho nên trong Kinh Kim Cang, Phật Thích Ca cảnh báo chúng ta rằng: Như lai không có thuyết pháp độ chúng sinh, nếu người nào nói Như Lai có thuyết pháp độ chúng sinh, là hủy báng Như Lai.
Hiện tại, tuy Giáo điển có nhiều điểm không hợp lý, nhưng chúng ta không nên vì thế mà hoài nghi tất cả! Chúng ta hãy tinh lọc nó bằng cái chìa khóa Giải thoát và Giải thoát Tri kiến thì chúng ta sẽ phát hiện được Tinh hoa của nó. Nó sẽ là hành trang cần thiết giúp cho chúng ta bước vào vườn Phật Thánh…tiêu mòn và đoạn tận khổ đau, đồng thời tùy duyên phương tiện giúp đỡ chúng sinh thoát khổ được vui, Trang nghiêm Tịnh địa.
• Hiện tại, tuy Tăng chúng chưa được hoàn hảo, nhưng chúng ta không vì thế mà đánh mất niềm tin…Ngày xưa, khi Phật còn tại thế cũng đã có nhóm Lục quần Tỳ kheo chuyên quậy phá Tăng đoàn và chính đệ tử của Phật là Đề Bà Đạt Đa cũng đã bao phen âm mưu sát hại Phật; ngoài ra, ngoại đạo Tà giáo cũng đã bao lần âm mưu hại Phật và Tăng chúng… Thời nào cũng vậy, không thể nào tìm được cái tuyệt đối trong cái thế gian tương đối này! Trần gian là quán trọ, cho nên “ở mà không ở”. Tịnh độ mới là nơi trú ngụ lâu dài…chúng ta hãy nỗ lực đi tới! Đừng vì sự ô hợp của Tăng chúng mà chán nãn! Hãy xử dụng Thanh tịnh Huệ để soi sáng và quét sạch vật cản, đồng thời thanh lọc tạp niệm để trở về với quê hương nguồn cội Chân thường, Tĩnh lặng, An vui. Đây chính là cảnh giới Thường Tịch Quang Tịnh độ.
Tịnh độ không gần cũng không xa,
Gần xa chỉ tại ở lòng ta...
Không tranh, không chấp... là Tịnh độ,
Giành giật, bon chen... ấy Ta-bà,
Mười muôn ức cõi…xa vời vợi,
Dứt niệm phân tranh…là đến rồi!
Ai ơi, chớ có bôn ba nữa…
Quẳng gánh sầu lo…sẽ đến nơi!
IV. Kết luận:
• Đồng thể Tam bảo là Tam bảo trong tự tánh của chúng ta…lúc nào cũng bám sát chúng ta, tìm cách giúp chúng ta thoát ly điên đảo…để có được sự ổn định nơi tâm hồn, cho nên chúng ta đừng xem thường…để không phải trả bằng cái giá quá đắt, là luống uổng một kiếp con người!
• Xuất thế Tam bảo thường xuyên giúp đỡ chúng ta giác ngộ tu hành, nhưng chúng ta phải tự nỗ lực mới có kết quả.
• Thế gian Tam bảo hiện tại, tuy còn tạp chất, nhưng chúng ta không nên coi thường! Chúng ta không nên vì những tạp chất ấy mà đánh mất niềm tin! Chúng ta hãy cố gắng thanh lọc những tạp chất của chính mình, để phát hiện những Tinh hoa ẩn tàng trong Pháp bảo…dù chỉ chút ít, nhưng chúng ta cũng có được những bài học quý báu để bổ sung cho hành trình giải thoát khổ đau, kiến lập Niết-bàn bất ly sinh tử.
Chân Như Không Tánh
Ngày 30 tháng 11 năm 2010
(25 tháng 10 Canh Dần)

TAM HOẶC
* * *
I. Khái niệm: Tam Hoặc là 3 cái mê muội, khiến chúng ta nô lệ cho danh, lợi, vật chất, quyền lực, sắc tướng, tình cảm…để phải luân chuyển trong sinh tử khổ. 3 cái mê muội đó là: Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc.
II. Phân tích:
1. Kiến Tư Hoặc: Kiến Tư Hoặc là mê lầm trong nhận định và mê lầm trong suy nghĩ.
Vì mê lầm trong nhận định cho nên chúng ta bị ngoại cảnh, ngoại vật…khống chế, do đó mà phải khổ sở, bi thương…
Vì mê lầm trong suy nghĩ cho nên chúng ta bị nội tâm khống chế, hành phạt…khiến chúng ta ăn không ngon, ngủ không yên…có khi dẫn đến bệnh thần kinh: Sống trong ảo cảnh…sống không ra sống, chết không ra chết…làm khổ chính mình và đem đến khổ sở, đày đọa…cho những người quan tâm đến mình.
Nếu chúng ta đóng cửa 6 Căn (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý) không cho tiếp xúc 6 Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) thì 6 Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức) sẽ không có cơ hội quậy phá chúng ta và cái suy nghĩ cố hữu của chúng ta cũng bớt đi nhiều áp lực, chúng ta sẽ dễ dàng Tham Thiền Nhập Định…vì vậy mà an vui sẽ được nhiều hơn.
6 Căn không tiếp xúc 6 Trần thì sẽ không bị 6 Trần khống chế; như thế là chúng ta đã vượt qua được cái gọi là “Thấy biết mê lầm trong Tam giới”, như thế là chúng ta đã đến được với quả vị Kiến Đạo Tu-đà-hoàn. Kiến Đạo Tu-đà-hoàn chưa vượt qua được những suy nghĩ mê lầm trong Tam giới, cho nên Tu-đà-hoàn cần phải thông qua 7 phần Bồ-đề để vượt qua những suy nghĩ mê lầm trong Tam giới; như thế mới đến được quả vị Alahán. Vì lý do này cho nên mới nói rằng: Kiến Đạo Tu-đà-hoàn cần 7 lần trở lại Dục giới mới đắc quả Alahán.
Tư-đà-hàm được gọi là Nhất lai (còn 1 lần trở lại Dục giới) vì Tư-đà-hàm đã vượt qua được những thấy biết mê lầm (Kiến Hoặc) trong Tam giới; nhưng chỉ vượt qua được 6 phẩm lo nghĩ mê lầm (Tư Hoặc) trong Dục giới, cho nên còn phải 1 lần trở lại Dục giới: Có nghĩa là Tư-đà-hàm đã xử dụng 7 phần Bồ-đề để vượt qua Tư Hoặc, nhưng chỉ mới đến chặng thứ 6 là Định, vì thế Tư-đà-hàm cần phải thực hành Hạnh xả (chặng sau cùng của 7 phần Bồ-đề), như thế mới đến được với quả vị Alahán.
Anahàm được gọi là Bất lai, vì vượt qua được những thấy biết mê lầm trong Tam giới; nhưng chỉ vượt qua được những suy nghĩ mê lầm trong Dục giới, cho nên không còn trở lại Dục giới, mà phải sinh về Tứ thiền Sắc giới ở cõi Bất Hoàn Thiên, còn gọi là Tịnh Cư Thiên (Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, Thiện hiện, Sắc cứu cánh). Ở Ngũ Tịnh Cư Thiên này, Anahàm được sự chỉ dạy của Thập Địa Bồ-tát là Pháp Vân Địa: Anahàm phải tu pháp Giáp Luân Thiền, là pháp Thiền trung gian của Tứ thiền để xả bỏ khái niệm Sắc giới và xả bỏ khái niệm giáp trên là Vô sắc giới, thì mới đến được quả vị Alahán. (Cần nên phân biệt rõ Giáp Luân Thiền và Tứ Thiền: Giáp Luân Thiền giúp Anahàm xả bỏ khái niệm Sắc giới và Vô sắc giới…cho nên thoát ly Tam giới; còn các cảnh giới khác của Tứ Thiền như: Phước Sinh, Phước Ái, Quảng Quả, Vô tưởng... chỉ xả được khái niệm Sắc giới; cho nên phải sinh về Vô sắc giới, chưa thoát ly được Tam giới).
Alahán vượt qua được hoàn toàn 88 cái thấy biết mê lầm (Kiến Hoặc) trong Tam giới và 81 phẩm lo nghĩ mê lầm (Tư Hoặc) trong Tam giới, cho nên hoàn toàn thoát ly Tam giới. Tuy nhiên pháp tu của Alahán là pháp tu trốn chạy, chứ không phải là pháp tu trực diện; vì thế khi không gặp được “thuận duyên, thuận cảnh” thì Alahán không vượt qua được những biến động của nội tâm; cho nên cái gọi là thoát ly Tam giới của Alahán chưa được liên tục…
Pháp tu đóng cửa 6 Căn không cho tiếp xúc 6 Trần để không phát sinh 6 Thức…là pháp tu tiêu cực của chúng Thinh văn, là pháp tu dựa vào giáo nghĩa phương tiện ban đầu được Phật Thích Ca giảng ở Vườn Nai (Lộc Uyển), chưa phải là giáo pháp hoàn chỉnh; vì thực tế chỉ ở cõi Tịnh độ của Phật Adiđà ở Tây phương và các cõi Phật khác… (ngoại trừ thế giới Ta-bà) mới không có những áp lực không tốt từ bên ngoài; vì ở Tây phương Tịnh độ không phải khổ vì cơm ăn áo mặc. Cảnh Tây phương Tịnh độ là cảnh vô tướng, thân phi thân: Không phải là thân vật chất, mà là thân thuần tịnh do niệm tịnh sinh ra, cho nên khi thấy đói khát…chỉ cần tưởng tượng thức ăn, vật uống…rồi tự thọ dụng (gọi là pháp thực), giống như trong giấc chiêm bao chúng ta thấy đói, rồi thấy ăn và cảm thấy no…Đây là cách ăn tâm lý. Hơn nữa, ở Tây phương Tịnh độ không có cái khổ vì phải nhờ vả người khác. Mọi người ai ai cũng có đủ Đạo lực để thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc… Ở Tây phương Tịnh độ, từ Đức Phật Adiđà đến các Đại Thánh như: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí và tất cả Thánh, Hiền…cho đến phàm phu đều bình đẳng trong đối xử, cho nên không có cảnh bon chen danh lợi, vật chất, quyền lực, sắc tướng, tình cảm…Mỗi người, ai nấy tự lo chu toàn bổn phận của mình là Tu tập…ngoài ra không còn có những mong cầu nào khác, cho nên không có nạn đấu tranh gây gổ…vì thế, không làm khổ cho chính mình và cũng không làm khổ những người khác. Còn ở Ta-bà ác trược này, không có nơi nào lý tưởng như vậy! Vì thế Alahán ở Ta-bà sẽ không thể nào đóng mãi 6 Căn (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý)… cho nên Alahán phải tiến thêm bước nữa là phải mở cửa 6 Căn và dùng 6 Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức) để thấy rõ 6 Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) để không bị 6 Trần khống chế: Chuyển 5 Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức) thành Thành Sở Tác Trí là Trí hành động thành tựu Giải thoát: Không mắc kẹt ở 5 Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc) khi tiếp xúc với 5 Trần. Chuyển thức thứ 6 là Ý thức thành Diệu Quan Sát Trí…để chỉ đạo 5 thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức) thoát ly sự khống chế của 5 Trần. Đồng thời Diệu Quan Sát Trí cũng phải Diệu Quan Sát nội tâm để không bị thức thứ 7 (Tiềm thức) khống chế…thì mới chuyển được Tiềm thức bảo thủ cố chấp này thành Bình Đẳng Tánh Trí, như thế thức thứ 8 (Tàng thức) mới chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí. Đây chính là hành trình đoạn Trần Sa Hoặc.
• 88 Thấy Biết mê lầm (Kiến Hoặc) được tính như sau:
Ở Dục giới:
- Khổ đế có 10 là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ (bị giới khống chế).
- Tập Đế có 7: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà kiến, Kiến thủ.
- Diệt Đế có 7: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà kiến, Kiến thủ.
- Đạo Đế có 8: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ.
Tổng cộng: 10 + 7 + 7 + 8 = 32 Kiến Hoặc
Ở Sắc giới và Vô sắc giới trừ Sân ở 4 Đế, vì cảnh giới chỉ có ái… không có dục nên không có Sân tướng.
(Sắc giới: 9 + 6 + 6 + 7 = 28, Vô sắc giới: 9 + 6 + 6 + 7 = 28)
Tổng cộng Tam giới có: 32 + 28 + 28 = 88 Kiến Hoặc.
• 81 phẩm Tư Hoặc (Lo nghĩ mê lầm) được tính như sau:
* Dục giới (hạ giới) có 9 phẩm tư hoặc (tham,sân, si, mạn) là:
Thượng phẩm Thượng Sinh
Thượng phẩm Trung Sinh
Thượng phẩm Hạ Sinh
Trung phẩm Thượng sinh
Trung phẩm Trung sinh
Trung phẩm Hạ Sinh
Hạ phẩm Thượng Sinh
Hạ phẩm Trung Sinh
Hạ phẩm Hạ Sinh

* Cõi Sắc (trung giới) có 36 phẩm (4x9=36) phẩm tư hoặc: Tham, si, mạn ( vì ở sắc giới chỉ có ái, không có dục nên không có sân; 4 thiền duyên 9 phẩm, hình thành 36 phẩm)
* Cõi Vô sắc (Thượng giới) có 36 phẩm (4x9=36)phẩm tư hoặc:Tham, si, mạn (vì ở Vô sắc giới chỉ có ái, không có dục nên không có sân; 4 định duyên 9 phẩm hình thành 36 phẩm)
Tổng cộng: 9 + 36 + 36 = 81 phẩm Tư Hoặc.
Phải vượt qua 88 Sử Kiến Hoặc và 81 phẩm Tư Hoặc mới đạt được quả vị Alahán. Nhưng thật sự Alahán chưa hoàn toàn thoát ly được, vì ở Ta-bà không có nơi nào Tĩnh lặng hoàn toàn. Vì lý do này cho nên nếu không bỏ xác, thì Alahán phải hồi nhập Ta-bà để chuyển Thức thành Trí…như thế mới Viên mãn Bồ-đề.
2. Trần Sa Hoặc: Trần Sa Hoặc là những mê lầm nhiều như cát bụi khi tiếp cận với thế giới bên ngoài. Đó là những áp lực từ cuộc sống như: Cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, bệnh tật, học hành, Sự nghiệp, Quyền lực, Sắc tướng, Tình cảm như: Tình thân, tình thương, tình bạn, tình thù và những quan hệ cố hữu như: Hiếu nghĩa, Đạo đức, Thầy trò, Cha mẹ, Anh em, Chồng vợ, Thân quyến, Xã hội, Đất nước, Dân tộc, Con người, Chúng sinh…khiến cho chúng ta từ mê lầm này đến mê lầm khác. Vì thế, chúng ta khó mà có thể tỉnh táo để thoát ly ma trận!
Để đoạn tận những mê lầm nhiều như cát bụi này, chúng ta cần phải lâm trần để thấy rõ được “Bộ mặt thật” của các pháp, thì các pháp mới không còn có cơ hội khuynh đảo chúng ta. Như thế chúng ta mới thoát khỏi áp lực của nội tâm và ngoại cảnh, mới sống yên vui và giúp người khác sống yên vui…đẩy lùi những khổ đau và bất hạnh. Pháp tu Tam Quán có thể giúp chúng ta thấy rõ được “Bộ mặt thật” của các pháp và giúp chúng ta ra khỏi áp lực của các pháp từ chỗ từng phần đến chỗ toàn phần.
• Thế nào là Tam Quán?
Tam Quán là 3 pháp Quán: Không Quán, Giả Quán và Trung Quán.
* Thế nào là Không Quán?
Không Quán là pháp Quán Sát cho chúng ta thấy được những cái mà lâu nay chúng ta lầm nhận là Tánh…đều không phải là Thật Tánh. Bây giờ chúng ta cùng nhau phân tích:
Có người bảo rằng: Tánh tôi thích hút thuốc, thích uống rượu, thích cờ bạc, thích đủ thứ…Sao nhiều Tánh quá vậy? Nếu nó thật sự là Tánh thì nó phải liên tục tồn tại. Nếu hút thuốc là Tánh thì ngày đêm 24 giờ…chỉ hút thuốc, không cần phải ăn uống gì thêm nữa. Thực tế điều đó có thể xảy ra hay không? Khi ta ăn cơm…cái Tánh thèm thuốc lá kia nó chạy đi đâu? Khi ta uống nước…cái Tánh uống rượu kia nó chạy đi đâu? Sao nhiều Tánh quá vậy!
Thật ra, những thứ mà lâu nay chúng ta quen nhận là Tánh…chỉ là những thói quen do chúng ta tập nhiễm từ đời này hoặc từ những đời sống trong những kiếp về trước. Nó không phải là Thật Tánh của chúng ta, vì nó không tồn tại liên tục. Cái Tánh của chúng ta phải là một cái gì hiện diện liên tục như “Sự Rỗng Sáng” chẳng hạn…cái Rỗng Sáng nó xuất hiện liên tục trong chúng ta, cho nên chúng ta mới có được “Sự Nhận Biết”…giống như “Sự Rỗng Sáng” của lòng gương soi: Do lòng gương soi Rỗng Sáng cho nên những gì đối diện trước lòng gương soi đều cho ảnh trong lòng gương soi, nhưng ảnh đó không gắn chặc trong gương, vì thế khi quay lòng gương soi qua hướng khác thì ảnh trước đó không còn trong lòng gương soi, và ảnh khác lại xuất hiện trong lòng gương soi. Tâm chúng ta cũng như gương soi kia: Hàm tàng các pháp nhưng không đồng nhất với các pháp. Tánh của chúng ta “Rỗng Sáng như lòng gương soi”, cho nên chúng ta mới nhận biết được Sự vật…nhưng sự nhận biết này “Đúng hay Sai” là do chúng ta có bị mắc kẹt hay không bị mắc kẹt trong cái được nhận biết. Nếu chúng ta bị mắc kẹt trong cái được nhận biết…thì cái được nhận biết sau đó sẽ bị trùng lập, cho nên dễ bị nhận lầm. Rõ ràng Thật Tánh của chúng ta là Rỗng Sáng! Biết được Thật Tánh của chúng ta là Rỗng Sáng…sẽ giúp cho chúng ta không nhận bất kỳ một cái gì làm Tánh, cho nên chúng ta không bị mắc kẹt ở một nơi nào, vì thế Chân Tánh là Tánh Rỗng Sáng sẽ phát huy tác dụng… giúp chúng ta có được những nhận định khách quan; do đó mà những cái thấy biết của chúng ta không còn mê lầm và suy nghĩ của chúng ta nhờ vậy mà lúc nào cũng trong sáng, khách quan…như thế là chúng ta đã vượt qua được Kiến Hoặc và Tư Hoặc: Không còn chạy theo ngoại cảnh, ngoại vật…và cũng không còn lang thang trong thế giới nội tâm. Như thế là chúng ta đã vượt qua được Thập Trụ: Thành tựu Trụ Vô Trụ. Nếu chúng ta đã thật sự vượt qua được Thập Trụ: Thành tựu Trụ Vô Trụ…thì chúng ta sẽ không còn bảo thủ cố chấp, vì đã không còn mê lầm trong nhận định và tư duy. Như vậy là chúng ta đã đi được một phần ba chặng đường, là vượt qua được cái gọi là Quá khứ Tâm. Như vậy là chúng ta đã tốt nghiệp cấp học Tiểu học, là cấp học: Giới hạn trong suy nghĩ, Giới hạn trong lời nói, Giới hạn trong hành động. Đây chính là cấp học Giới trong giáo nghĩa Phật giáo.
* Thế nào là Giả Quán?
Giả Quán là pháp Quán Giả: Là pháp Quán dựa vào thế giới bên ngoài (dựa vào Căn Thân và Ngoại cảnh) và dựa vào Tâm lý của thế giới bên trong…để phát hiện giả tướng của các pháp. Pháp Quán này tiến hành cụ thể thông qua sự: Sinh, Lão, Bệnh, Tử…của con người, thông qua hiện tượng: Sinh, Trụ, Hoại, Diệt…của cảnh vật và thông qua hiện tượng biến tác Sinh Diệt của Tâm lý.
• Thế nào là sự huyễn giả của kiếp con người?
Sinh ra rồi lớn, rồi già, rồi đau, rồi chết, rồi qua một đời. Hình hài của chúng ta từ khi chúng ta chưa sinh ra, đến khi cất tiếng khóc chào đời, đến khi trưởng thành, đến khi già cỗi, đến khi bệnh hoạn, đến khi chết và đến khi thân xác không còn…nó đã không ngừng thay đổi. Sở dĩ có sự thay đổi này là do những tế bào trong hình hài này từng giờ, từng phút, từng giây…nó đã không ngừng thay đổi.
Qua các thời kỳ, thân chúng ta đã không ngừng thay đổi. Hôm nay chúng ta tạm thời hiện diện; nhưng đến 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc 100 năm về sau…thân chúng ta có tồn tại hay không? Nếu có tồn tại thì hình dáng nó sẽ như thế nào? Chúng ta có thể hình dung được hay không?
Thân chúng ta…nó từ một nơi mịt mờ nào đó…theo duyên mà đến, tạm thời hiện diện qua các thời kỳ: Thơ ấu, trưởng thành, già, bệnh…để rồi cuối cùng phải từ giã cõi Đời, trở về cái nơi mịt mờ kia đó: Trở về nơi mà nó đã ra đi. Nó không phải là thứ bền chắc; nó được gọi là thân ta, nhưng thực tế nó không phải của ta! Nó là thứ giả tạm, huyễn hóa… được vay mượn từ 4 chất là: Đất, Nước, Lửa và Không khí. Vì thế, cuối cùng nó cũng phải được trả về nơi mà nó đã vay mượn. Cái được trả về trước tiên là hơi thở…trả về cho Không Khí, rồi đến hơi nóng được trả về cho Lửa, sau đó thân thể sình lên, vỡ ra, rỉ máu… đây là lúc nước vay mượn được trả về cho Nước; cuối cùng thân mục nát bón phân cho Đất, đây là lúc Đất vay mượn được trả về cho Đất. Rõ ràng, nó không phải là thứ bền chắc! Nó là huyễn giả, tại sao chúng ta mãi lo cung phụng, tô bồi cho nó…vì nó mà gây tạo ác nghiệp; để phải sinh tử luân hồi, khổ đau đày đọa.
• Còn Trần cảnh kia… nó có bền chắc hay không?
Từ khi có ý thức đến nay, chúng ta đã thấy rõ cảnh thế gian này…nó đã không ngừng thay đổi: Nào là cảnh phá núi, lấp biển, xây dựng lầu đài, thậm chí người nằm dưới đất cũng phải di cư…có chắc chắn gì đâu mà tranh giành, bám trụ…!
• Còn thế giới hôm nay thực tế ra sao?
Nào là gây hấn xâm lăng, bạo hành, khủng bố, núi lở, đất rung, sóng thần, lũ lụt…Nó đã cướp đi không ít sinh mạng và của cải. Nếu chúng ta không có được những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường, để chấm dứt bạo hành, để quét sạch Tham, Sân…thì nó sẽ cướp đi tất cả những gì mà chúng ta hiện có hôm nay, bất cứ lúc nào! Rõ ràng Danh Lợi, Vật chất, Quyền lực, Sắc tướng, Tình cảm…có được cũng chỉ là tạm thời; để rồi biến mất trong cõi mịt mờ, mông lung, hư ảo…bao nhiêu những thứ có được trên cõi Đời này đều là giả tạm, huyễn hóa…cố bám trụ làm gì cho thêm khổ!
• Còn những suy nghĩ trong tâm chúng ta thì sao? Nó có huyễn hóa hay không?
Chúng ta thử theo dõi nội tâm của chúng ta, nó có bình thường hay không? Không bình thường chút nào! Nó đã không ngừng thay đổi: Thoáng vui rồi lại đến buồn; Thương rồi lại ghét…ghét thương khó lường! Tâm tình rối rắm đa đoan; Sinh, Sinh…Diệt, Diệt…giả, chơn… lộn sòng; Ai người sáng suốt tinh thông; Khá mau thức tỉnh để không khổ sầu!
Rõ ràng tâm lý chúng ta cũng huyễn giả, vì thay đổi liên tục. Chúng ta cần phải cảnh giác để không bị nó phỉnh gạt… như thế, chúng ta mới có được sự an vui nơi tâm hồn; mới không khổ sầu vô cớ!
Nếu chúng ta thông đạt “Pháp Quán Giả” này…thì chúng ta sẽ không còn háo danh, háo thắng, không còn mong cầu bất kỳ một điều gì, không còn ham muốn bất kỳ một cái gì. Nhờ vậy mà chúng ta vượt qua được những biến động của nội tâm từ chỗ từng phần đến chỗ toàn phần và thành tựu được những quả vị từ Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Sơ địa đến Bát địa. Đến đây chúng ta đi được hai phần ba chặng đường, hoàn tất được cấp Trung học và Đại học, đó là cấp học Định và Huệ trong giáo nghĩa Phật giáo. Đây là hành trình vượt qua Hiện tại Tâm.
* Thế nào là Trung Quán?
Trung Quán là pháp Quán Trung Đạo: Dựa vào cái gọi là Thanh tịnh pháp thân để thành tựu cái gọi là Như Thị…đối với các pháp, với mục đích quét sạch mọi khái niệm…vì thế mà chúng ta cần phải tùy duyên hành đạo: Không mắc kẹt ở Không Quán để không tiêu cực chán Đời…nhưng cũng không mắc kẹt ở Giả Quán để không quá khích liều mạng một cách vô lý hoặc không chạy theo Thế gian, không buông lung hưởng thụ, không gây tạo ác nghiệp, để không mất hướng lạc đường…
Chúng ta vận dụng Không Quán và Giả Quán làm hai mũi tiến công để tiến sâu vào cuộc đời, để có thể phát hiện những mê lầm vi tế tiềm ẩn trong mỗi chúng ta…như thế chúng ta mới có thể vận dụng được những phương pháp thích hợp để tiêu mòn và đoạn tận nó, đồng thời có cơ hội để chúng ta chia xẻ kinh nghiệm cho những chúng sinh hữu duyên, để cho cuộc sống chúng sinh bớt đi phần nào bất hạnh. Đến khi nào những mê lầm vi tế được đoạn tận…thì chúng ta sẽ không còn bị khuynh đảo bởi bất kỳ một khái niệm nào. Lúc nầy Tâm chúng ta sẽ không còn biến động dù có gặp phải bất kỳ một sự cố gì. Như thế là chúng ta đã hoàn tất cấp học Cao học và cấp học thực hành sau Cao học. Đó là cấp học Giải thoát và cấp học Giải thoát Tri kiến trong giáo nghĩa Phật giáo. Đến đây, chúng ta mới thật sự đi hết một phần ba chặng đường còn lại và đến được Bửu Thành. Đây chính là cảnh giới Niết-bàn bất ly Sinh Tử.
3. Vô Minh Hoặc: Vô Minh Hoặc là những mê lầm vi tế, chỉ phát hiện được nó…khi chúng ta không còn an trụ trong bất kỳ một pháp nào và chúng ta phải thường xuyên tiếp cận những nơi có nhiều biến động. Những mê lầm vi tế này sẽ tiêu mòn và đoạn tận bằng pháp tu Trung Quán như đã giới thiệu ở phần Tam Quán.
Pháp tu Trung Quán giúp chúng ta tiêu mòn và đoạn tận những mê lầm vi tế và thành tựu các quả vị như: Thiện Huệ Địa, Pháp Vân Địa, Đẳng giác và Diệu giác.
III. Nhận xét:
• Có người bảo rằng: Đắc Alahán là ra khỏi Tam giới không còn bị Tam giới khuynh đảo. Điều này không đúng cho lắm! Vì: Nếu Alahán không liên tục an trụ trong Định Diệt Tận thì Tâm vẫn còn biến động, làm sao ra khỏi Tam giới được? Bằng chứng là Mục Kiền Liên đắc Alahán nhưng khi bị ngoại đạo vây đánh thì Tâm biến động, cho nên không vận dụng được Thần thông để thoát nạn.
• Mặc dù Alahán không chạy theo Tam giới, nhưng nếu không an trụ trong một pháp nào thì Alahán vẫn bị Tam giới khuấy động. Vì lý do này cho nên: Alahán thường Trầm không, thủ tịch, chán Đời, bạc nhược…thậm chí còn muốn trút bỏ xác thân để vào cảnh giới Niết-bàn Tịch Diệt.
• Thực tế nếu đã Vô sanh thì sẽ vượt qua được những biến động của nội tâm dù ở bất cứ nơi nào và tại bất kỳ thời điểm nào. Vì lý do này cho nên: Không có Alahán nào lại Bảo thủ Cố chấp, không có Alahán nào lại Háo danh, Háo thắng, không có Alahán nào Thích đủ thứ.
• Alahán chỉ vượt qua được cấp học Giới là Giới hạn được Thân nghiệp và Khẩu nghiệp…nhưng chưa vượt qua được Ý nghiệp ở những nơi có quá nhiều biến động. Vì thế Alahán chỉ mới đến được Hóa thành, chỉ mới đi được một phần ba chặng đường, còn phải vượt qua hai phần ba chặng đường nữa mới đến được Bửu Thành.
• Alahán chỉ thoát ly được Sinh tử của Thân nghiệp và Khẩu nghiệp, chưa thoát ly được Sinh tử của Ý nghiệp; vì thế Tâm vẫn còn biến động; Alahán chỉ vượt qua được biến động của nội tâm khi an trú trong Tịnh cảnh, Tịnh giới và Tịnh pháp.
• Thập Trụ vượt qua được cấp học Giới: Tốt nghiệp cấp Tiểu học.
• Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng vượt qua được cấp học Định: Tốt nghiệp cấp Trung học.
• Sơ Địa đến Bát Địa vượt qua được cấp học Huệ: Tốt nghiệp cấp Đại học.
• Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác vượt qua được cấp học Giải thoát: Tốt nghiệp cấp Cao học.
• Diệu Giác vượt qua được cấp học Giải thoát Tri kiến: Tốt nghiệp cấp học thực hành sau Cao học.
• Từ Bất động Địa đến Đẳng Giác vượt qua được Sinh tử của Thân nghiệp và Khẩu nghiệp, nhưng chỉ khống chế được Ý nghiệp ; cho nên chưa vượt qua được Sinh tử của Ý nghiệp, vì Tâm vẫn còn biến động. Vì lý do này cho nên có người nói rằng “Chư Bồ-tát thoát ly Sinh tử trong Tam giới, chỉ còn Sinh tử ngoài Tam giới”…Điều này không đúng cho lắm! Vì: Tâm biến động vì bản thân hay vì chúng sinh…nó cũng không hai. Nếu có ý thức về chúng sinh thì cái ý thức về Ta cũng đồng thời xuất hiện, cho nên vẫn bị Tam giới khuynh đảo. Vì hiểu sai chỗ này, cho nên một số người viện cớ vì chúng sinh mà coi thường nhân quả: Hành động quá khích, thậm chí buông lung phóng túng, gây tạo ác nghiệp… cho nên đa số đều đọa vào Ác Đạo, một số ít người có chút phước duyên thì đọa vào Atula Đạo: Nhập đồng, nhập cốt… mê-hoặc người khác…chúng ta cần phải cảnh giác! Không nên tin cuồng chấp bướng, chúng ta hãy dùng cái “chìa khóa Giải thoát và Giải thoát Tri kiến” mà thẩm định…
Tu là sửa chữa những sai lầm, sửa chữa những thói hư tật xấu…
Tu tập là bỏ ác, làm lành và tùy duyên phương tiện giúp đỡ chúng sinh với Tâm hoàn toàn trong sáng và Ý hoàn toàn khách quan…với mục đích duy nhất là giúp chúng ta và chúng sinh thoát khổ, được vui…
Tu mà không học là tu mù, tu quáng…có khi đem đến cho chúng ta và cho chúng sinh những bất hạnh phi lý!
Học mà không đến nơi đến chốn…thì rơi vào Tà kiến ngoại đạo: Tin cuồng, chấp bướng, gây tạo ác nghiệp, sa đọa Ác Đạo, luống uổng một đời!
• Vượt qua được những biến động của nội tâm…chưa phải là xuất ly Tam giới; khi nào Tâm hoàn toàn không còn biến động tại bất cứ nơi nào và ở bất kỳ thời điểm nào…mới được gọi là xuất ly Tam giới. Tất cả chư Bồ-tát và chư Thánh Nhị thừa…nếu không phải là Như Lai Phật Thế Tôn thị hiện…thì cũng chưa thật sự xuất ly Tam giới. Vì thế, chỉ có Như Lai Phật Thế Tôn thị hiện Nghịch hành mới không bị Tam giới khuynh đảo. Đừng học đòi Nghịch hạnh mà phải lãng phí một đời tu học!
IV. Kết luận: Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc…là những mê lầm từ thô đến tế. Chúng ta có thể vượt qua được bằng Nhất Tâm Tam Quán: Kết hợp đồng thời cả Không Quán, Giả Quán và Trung Quán. Được như thế thì chúng ta mới thoát ly được Sinh tử luân trầm, đồng thời chúng ta mới có đủ kinh nghiệm để dẫn dắt chúng sinh hữu duyên thoát ly trường mộng…Viên mãn Bồ-đề.
Chân Như Không Tánh
Ngày 01 tháng 12 năm 2010
(26 tháng 10 Canh Dần)
 

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
Vườn hoa Phật giáo có nhiều hoa...
Chớ có khoe khoang sắc với màu!
Đẹp xấu, hơn thua... đừng tưởng nhớ!!!
Là gì... nghìn trước với nghìn sau?
 

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
TAM THỪA GIÁO
* * *
I. Khái niệm: Tam thừa giáo là giáo pháp 3 thừa. Đó là: Tiểu thừa giáo, Đại thừa giáo và Phật thừa giáo.
II. Phân tích:
1. Thế nào là Tiểu thừa giáo?
Thừa là phương tiện. Tiểu thừa là phương tiện cở nhỏ . Tiểu thừa giáo là giáo pháp phương tiện cở nhỏ…nhằm Giải thoát khổ chỉ cho riêng ta. Tiểu thừa giáo pháp có hai hệ thống giáo pháp là: Pháp Tứ Đế và pháp Thập Nhị Nhân Duyên.
a. Thế nào là pháp Tứ Đế?
Pháp Tứ Đế là pháp tu của chúng Thinh Văn…hình thành từ 4 chân lý là: Chân lý nói về Khổ…gọi là Khổ Đế, chân lý nói về những nguyên nhân đưa đến cái khổ… gọi là Khổ Tập Đế, chân lý nói đến sự chấm dứt của cái khổ…gọi là Khổ Diệt Đế và chân lý nói đến những phương pháp để chấm dứt cái khổ gọi là Khổ Đạo đế.
• Khổ đế: Không thể nào phủ nhận được cái khổ của kiếp con người: khổ vì sinh kế để có cơm ăn, áo mặc, học hành; khổ vì già nua, sức lực yếu mòn phải dựa dẫm cháu con; khổ vì bệnh tật hành phạt thân tâm; khổ vì tử biệt, phải lìa bỏ người thân; khổ vì oan gia đối đầu, cựu thù gặp gỡ; khổ vì mong cầu không được như ý muốn; khổ vì phải xa cách người thân, ngày đêm mong nhớ; khổ vì ham sắc, ham tài, ham Danh lợi Quyền lực, ham vật chất phù hoa; khổ vì áp lực nội tâm không sao giải tỏa; khổ vì ảo tưởng xa vời, thâu đêm trằn trọc; khổ vì tính toán đủ điều: Vinh, nhục, hơn thua…5 canh hốt hoảng. Đời là biển khổ, đúng thật không sai!
• Khổ Tập Đế: là những nguyên nhân đưa đến cho chúng ta những khổ sở nhọc nhằn. Đó là những thói quen do lâu đời tập nhiễm, hoặc do hiện tại không thắng được lòng ham muốn mà gây tạo ác nghiệp. Nếu làm việc gì…chúng ta cũng cân nhắc: Không gây tạo ác nghiệp thì sẽ không có những quả báo khổ sở đọa đày. Đây là chân lý nói về nguyên nhân đưa đến những khổ sở nhọc nhằn.
• Khổ Diệt Đế: Nếu thật sự cái khổ xảy ra một cách liên tục thì chắc chắn rằng chúng ta sẽ không thể nào chịu nỗi. Vì sự tồn tại không liên tục của cái khổ…cho nên chúng ta biết chắc chắn rằng: những cái khổ này có thể tiêu mòn và đoạn tận…nếu chúng ta có được những phương pháp thích hợp cho từng loại khổ. Đây là chân lý nói về Sự Diệt Khổ.
• Khổ Đạo Đế: Là những phương pháp giúp chúng ta không gây tạo ác nghiệp, để không bị quả báo khổ sở luân trầm. Đó là 37 Phẩm Trợ Đạo (Xem Pháp Chánh Giác 2).
* Tu tập Pháp Tứ Đế chúng ta sẽ đạt được những quả vị nào?
- Nếu chúng ta không còn thấy biết mê lầm, không gây tạo ác nghiệp, thường ghi nhớ và thực hành 37 Phẩm Trợ Đạo…thì chúng ta đạt được quả Kiến Đạo Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn được gọi là Dự lưu (còn gọi là Nhập lưu) là dự vào dòng chảy của Đạo, nhập vào dòng chảy của Đạo…nên được gọi là kiến Đạo, là đã thấy được Đạo. Tu Đà Hoàn vì vượt qua được những thấy biết mê lầm trong Tam giới, nhưng chưa vượt qua được những suy nghĩ mê lầm trong Tam giới, cho nên Tu Đà Hoàn còn phải 7 lần trở lại Dục giới thì mới đạt đến quả vị Alahán. Có nghĩa là Tu Đà Hoàn phải an trụ trong 7 phần Bồ-đề là: Trạch pháp (lựa chọn pháp thích hợp như: Hơi thở, thần chú…), Niệm (ghi nhớ pháp đã lựa chọn), Tinh tấn (thường xuyên thực hành pháp mình đã chọn), Hỷ (hoan hỷ vì đã đẩy lùi được tạp niệm), Khinh an (Thân nhẹ nhàng, Tâm an vui), Định (Nội tâm được ổn định), Xả (không còn mắc kẹt trong bất kỳ một khái niệm nào). Như thế sẽ đạt đến quả vị Alahán.
- Nếu chúng ta vượt qua được những thấy biết mê lầm trong Tam giới và vượt qua được 6 phẩm lo nghĩ mê lầm trong Dục giới thì chúng ta còn một lần trở lại Dục giới là đắc quả Alahán. Đây là quả vị Tư Đà Hàm được gọi là Nhất lai (còn một lần trở lại Dục giới), có nghĩa là Tư Đà Hàm hiện tại đã thực hành 7 phần Bồ-đề, nhưng chỉ mới đến chặng thứ 6 là Định, vì thế Tư Đà Hàm cần phải thực hành một bước nữa là Xả…thì sẽ đạt đến quả vị Alahán.
- Nếu chúng ta đã vượt qua được những thấy biết mê lầm trong Tam giới và vượt qua được 9 phẩm mê lầm trong Dục giới thì chúng ta sẽ sinh về Sắc giới ở Tịnh Cư Thiên (còn gọi là Bất Hoàn Thiên, vì không còn trở lại Dục giới) như thế là chúng ta đã đạt được quả vị Anahàm (là Bất lai, là không còn trở lại Dục giới). Ở Tịnh Cư Thiên (còn gọi là Trời Ngũ Tịnh Cư) Anahàm phải tu tập Giáp Luân Thiền là pháp thiền trung gian xả bỏ khái niệm Sắc giới và Vô Sắc giới thì mới đắc được quả vị Alahán.
• Thế nào là Giáp Luân Thiền?
Tứ thiền chỉ xả khái niệm về Sắc giới cho nên Thiên chúng ở Tứ thiền là Phước Sinh, Phước Ái, Quảng Quả và Vô Tưởng đều phải sinh về Vô Sắc giới thiên. Còn Ngũ Tịnh Cư Thiên tu học dưới sự chỉ dạy của Bồ-tát Pháp Vân Địa, cho nên xả luôn cả khái niệm Sắc giới và khái niệm giáp trên là Vô Sắc giới…Đây là Giáp Luân Thiền.
- Khi vượt qua những thấy biết mê lầm trong Tam giới và vượt qua được những lo nghĩ mê lầm trong Tam giới…nghĩa là vượt qua được 88 Sử Kiến Hoặc và 81 phẩm Tư Hoặc thì chúng ta đạt được quả vị Alahán.
Alahán có nghĩa là Vô sinh, là không còn sinh sự, là không còn sinh khởi theo Nội pháp và Ngoại pháp, là không lang thang trong thế giới nội tâm và cũng không chạy theo thế giới bên ngoài…vì lý do này cho nên không có Alahán nào Bảo thủ cố chấp, không có Alahán nào Háo danh Háo thắng, không có Alahán nào Thích đủ thứ! Nhưng Định lực mà Alahán có được còn tùy thuộc môi trường Tĩnh lặng…vì thế Định lực này chưa liên tục…Do đó, Alahán phải tu Định mở rộng: Mở cửa 6 Căn tiếp xúc 6 Trần để chuyển 6 Thức thành 2 Trí là Thành Sở Tác Trí và Diệu Quan Sát Trí, như thế mới chuyển được Tiềm thức Bảo thủ Cố chấp thành Bình Đẳng Tánh Trí và chuyển Tàng Thức thứ 8 thành Đại Viên Cảnh Trí. Đây chính là quá trình chuyển Thức thành Trí để không bị Ngoại Trần và Nội Thức khống chế…như thế mới Viên mãn Bồ-đề.
b. Thế nào là pháp Thập Nhị Nhân Duyên?
Thập Nhị Nhân Duyên là pháp tu của chúng Duyên giác, hình thành 12 bước vừa là Nhân, vừa là Duyên, vừa là Quả…liên kết hình thành một vòng khép kín. Đó là Vô Minh Duyên Hành, Hành Duyên Thức, Thức Duyên Danh Sắc, Danh Sắc Duyên Lục Nhập, Lục Nhập Duyên Xúc, Xúc Duyên Thọ, Thọ Duyên Ái, Ái Duyên Thủ, Thủ Duyên Sinh, Sinh Duyên Lão Tử Ưu Bi Khổ…
Thật vậy, do mê lầm (Vô minh) mà hành động điên đảo (Hành), vì thế mà hình thành nghiệp thức (Thức), cho nên sau khi chết, cái nghiệp thức tùy nghiệp mà tái sinh (Danh Sắc: Danh là tên gọi thai nhi, Sắc là Sắc thân), Thai nhi phát triển hình thành 6 Căn (Lục nhập), do 6 Căn mà có được cảm xúc với Thế giới bên ngoài (Xúc), vì thế mà có sự cảm nhận (Thọ), từ đó phát sinh phân biệt, cái nào hợp với mình thì ưa thích (Ái), vì ưa thích mà cố giữ lấy (Thủ), vì cố giữ lấy nên cho đó là Sở hữu của mình (Hữu), vì cho nó là Sở hữu của mình nên sau khi chết lại tìm đến với nó (Sinh), có Sinh thì phải có Lão Tử Ưu Bi Khổ. Do (Lão Tử Ưu Bi Khổ) nên lại tiếp tục mê lầm (Vô minh) và lại bắt đầu cái vòng khép kín 12 nhân duyên kia đó.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể giải thích 12 nhân duyên như sau:
Do mê lầm, không biết phải quấy đúng sai…(Vô minh) nên tìm đủ cách để thỏa mãn khát vọng (Hành), vì thế mà hình thành nghiệp thức căn bản (Thức) rồi đưa đến quyết định và hoạch định phương án (Danh Sắc: Phương án là Danh, nội dung của phương án là Sắc). Khi thực hiện, vì gặp phải khó khăn nên 6 Căn chịu một áp lực vô cùng nặng nề (Lục nhập) không lúc nào yên tĩnh được (Xúc), vì thế tâm thức liên tiếp tiếp nhận những tín hiệu (Thọ), nên hình thành ảo giác (Ái) và không thể nào thoát ly được (Thủ), nên phải sống trong ảo cảnh (Hữu); vì thế mà phát sinh những hành động lạ lùng (Sinh), để rồi già cỗi và chết đi trong trạng thái ưu phiền Bi thương thống khổ…(Lão Tử Ưu Bi Khổ…), rồi lại tìm đến với cảnh giới tương tự với ảo cảnh ấy, mượn lấy hình hài, tiếp tục điên đảo mê lầm (Vô minh) và luân chuyển trong cái vòng khép kín ấy đến lũy kiếp mà vẫn không tìm được lối ra.
* Nếu trước khi làm việc gì…chúng ta cũng nghĩ đến hậu quả của nó (Minh Sát) thì chúng ta sẽ không hành động điên đảo, như thế chúng ta sẽ không bị quả báo thống khổ bi thương…và không bị luân chuyển trong cái vòng 12 nhân duyên khép kín.
Vậy Minh Sát là phương pháp để thoát ly cái vòng 12 nhân duyên khép kín. Khi thoát khỏi cái vòng lẫn quẫn 12 nhân duyên, là chúng ta đạt được quả vị Bích Chi Phật (Tích Tập Giác), là quả vị Tự giác nhân duyên để thoát khỏi mê lầm. Những ai khi ra đời không gặp Phật và không gặp Chánh pháp, nhìn thấy nhân duyên Sinh, Diệt…phát hiện lý Vô thường, không chạy theo thế giới bên ngoài và cũng không chạy theo thế giới bên trong…cũng đắc được quả Bích Chi Phật. Đây chính là quả vị của chúng Độc Giác.
Tuy nhiên, quả vị đạt được của chúng Duyên giác và Độc giác chưa liên tục, vì còn tùy thuộc Tịnh cảnh; cho nên quả vị Bích Chi Phật cũng chỉ như quả Alahán…Nếu không an trụ được trong Tịnh pháp thì vẫn bị Tam giới khuynh đảo. Để Viên mãn Bồ-đề, Bích Chi Phật cũng phải hồi nhập Sinh tử: Tiếp cận 6 Trần để chuyển 6 Thức thành 2 Trí (Thành Sở Tác Trí và Diệu Quan Sát Trí).
• Thế nào là Diệu Quan Sát Trí? Diệu Quan Sát Trí là trí quan sát vi diệu thấy rõ được “Bộ mặt thật” của các pháp, nhờ vậy mà không bị các pháp khống chế.
• Thế nào là Thành Sở Tác Trí? Thành Sở Tác Trí là trí nhận biết khách quan khi 5 Căn (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân) tiếp xúc với 5 Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc).
• Trí nhận biết khách quan này (Thành Sở Tác Trí) cụ thể như thế nào?
* Khi Mắt thấy Sắc tướng: Nhận biết rõ ràng, nhưng không mắc kẹt trong Sắc tướng, không chạy theo Sắc tướng, không lưu lại dấu vết…trong tâm. Như thế là Nhãn thức đã chuyển thành “Thành Sở Tác Trí”.
* Khi Tai nghe âm thanh: Nhận biết rõ ràng, nhưng không mắc kẹt trong âm thanh, không chạy theo âm thanh, không lưu lại dấu vết…trong tâm. Như thế là Nhĩ thức đã chuyển thành “Thành Sở Tác Trí”.
* Khi Mũi phát hiện được mùi thơm hoặc không thơm… nhận biết rõ ràng, nhưng không lưu lại dấu vết trong tâm, không tìm cầu, không cố né tránh…Như thế là Tỷ thức đã chuyển thành “Thành Sở Tác Trí”.
* Khi Lưỡi nếm vị gì…cũng phân biệt rõ ràng, nhưng không khen chê, ngon, dỡ…không cố tìm cầu món ngon, không lưu lại cảm giác trong tâm; khi nói chuyện cũng vậy: Biết cách nói tùy duyên; không làm cho người khác phiền lòng, tùy duyên nói lời thích hợp để người khác giác ngộ tu hành. Như thế là Thiệt thức đã chuyển thành “Thành Sở Tác Trí”.
* Khi Thân đụng chạm, tiếp xúc vật gì…đều nhận biết một cách rõ ràng, nhưng không tham đắm tìm cầu, không bực bội né tránh: Không ham giường cao, chiếu rộng…không cầu nệm ấm, chăn êm…sống đơn giản không đua đòi cao sang, vương giả…như thế là Thân thức đã chuyển thành “Thành Sở Tác Trí”.
• Còn như thế nào là Bình Đẳng Tánh Trí?
Nếu chúng ta không Bảo thủ cố chấp, không còn Háo danh Háo thắng, không còn ham muốn tìm cầu bất kỳ một thứ gì…lúc nào cũng đối xử bình đẳng với tất cả chúng sinh…chẳng hạn những loài bé nhỏ như: Muỗi, kiến…tuy hình hài khác với chúng ta, nhưng sinh mạng thì bình đẳng… vì thế chúng ta không nên vô cớ giết hại…Hơn nữa, tất cả chúng sinh đều có tánh Phật, vì thế chúng ta không nên đánh đập, hành phạt…nhất là không nên vì ngon miệng, béo thân…mà ăn thịt chúng sinh; dù chúng sinh ấy tự chết… cũng không nên ăn thịt chúng. Vì nhiều kiếp ở trong sinh tử tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc của nhau... chúng ta nỡ lòng nào ăn thịt quyến thuộc của mình! Được như thế là chúng ta đã chuyển Tiềm thức thành “Bình Đẳng Tánh Trí”.
• Tại sao Thinh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa được gọi là Tiểu Thừa?
Thinh Văn và Duyên Giác thích Trầm Không Thủ Tịch (đắm chìm trong cái Không, co cụm trong cái vắng vẻ Tịch Mịch…) nên chủ yếu dựa vào cảnh Tịnh để được yên thân. Chỉ vì mục đích lợi cho chính mình, không có mục đích giúp cho chúng sinh giác ngộ tu hành…vì thế Thinh văn, Duyên giác được gọi là chúng Tiểu thừa.
• Tại sao gọi là Thinh Văn?
* Thinh là âm thinh ngôn giáo, hoặc trực tiếp nghe được… hoặc gián tiếp tham cứu qua Tam Tạng Kinh điển.
* Văn là trực tiếp nghe Phật giảng, hoặc nghe người khác giảng lại.
* Giáo nghĩa Thinh văn là giáo nghĩa 3 Tạng phương tiện ban đầu được Phật giảng cho 5 anh em ông Kiều Trần Như ở vườn Nai (Lộc Uyển), là giáo nghĩa căn bản không thể thiếu, nhưng chưa phải là giáo nghĩa hoàn chỉnh.
• Tại sao gọi là Duyên Giác?
Duyên Giác là chúng giác ngộ thông qua pháp tu Thập nhị nhân duyên. Nếu không thông qua pháp Thập nhị nhân duyên, mà giác ngộ thông qua nhân duyên biến đổi, sinh diệt Vô thường…thì gọi là Độc giác.
2. Đại thừa giáo:
Đại thừa là phương tiện cở lớn vừa giác ngộ cho chính mình, vừa tạo điều kiện giúp chúng sinh giác ngộ.
Đại thừa giáo là giáo pháp mở rộng, là pháp tu tiếp cận chúng sinh, với mục đích phát hiện vi tế nghiệp để tiêu mòn và đoạn tận; đồng thời tạo điều kiện giúp chúng sinh hữu duyên giác ngộ tu hành. Giáo pháp Đại thừa chủ yếu dựa vào giáo nghĩa Lăng Nghiêm, Viên Giác, Bát Nhã.
* Giáo nghĩa Lăng Nghiêm cho chúng ta biết rằng: Tâm là cái hàm tàng các pháp, nhưng không đồng nhất với các pháp…cũng giống như gương sáng hàm tàng cảnh vật, nhưng không đồng nhất với cảnh vật…vì cảnh vật không gắn chặc trong gương. Giáo nghĩa này giúp chúng ta không nhận những cái ảnh chiếu trong Tâm làm Tâm, nhờ vậy cho nên cái Thanh tịnh liền xuất hiện. Khi cái Thanh tịnh xuất hiện thì Thanh tịnh Huệ liền khai mở: Giúp cho chúng ta không chạy theo Trần cảnh và cũng không cố lưu lại dấu vết của nó trong Tâm, vì thế chúng ta dễ dàng vượt qua những biến động của nội tâm. Như vậy là chúng ta vượt qua được Thập trụ: Thành tựu Trụ Vô Trụ.
* Giáo nghĩa Viên Giác cho chúng ta biết rằng: Thật Tánh của chúng sinh là Rỗng lặng; Nó Rỗng lặng nên Nó không phải là một cái gì! Cho nên chúng ta sẽ không nhận những thói quen tập nhiễm làm Tánh…vì thế chúng ta sẽ không dung túng cho những thói quen đó, nhờ vậy mà chúng ta vững vàng hơn…khi ở những nơi có quá nhiều biến động. Như thế là chúng ra đã vượt qua được Thập Hạnh: Thành tựu Hành Vô Hành.
* Giáo nghĩa Bát Nhã cho chúng ta biết rằng: Các pháp không có Định tướng…vì hình tướng các pháp thay đổi liên tục. Thực tế Sinh, Diệt…của các pháp cho chúng ta biết rằng: Bản chất các pháp vốn không sinh, không diệt…cho nên mới hiện tướng Sinh, Diệt…vì nếu thật Sinh thì không Diệt…nếu thật Diệt làm sao lại Sinh! Thực tế các pháp không Dơ… cũng không Sạch…vì nếu nó thật sự Dơ thì sẽ không thể nào Sạch. Nếu đã thật sự là Sạch thì sẽ không thể nào bị Dơ. Sạch, Dơ…chỉ là cảm nhận tạm thời thông qua một trung gian nào đó! Cũng như cái bình nếu đựng đồ Dơ thì chúng ta nói là bình Dơ, nhưng nếu rửa sạch cái bình đó rồi đựng đồ Sạch thì nó liền trở thành bình trong Sạch. Sở dĩ cái bình khi cho là Dơ, khi cho là Sạch...vì “Bản chất cái bình” vốn không Dơ cũng không Sạch. Cho đến Trí và Vô Trí, Đắc và Vô Đắc…cũng chỉ là những cặp song sinh đối đãi, không độc lập tồn tại. Vì thế, thật Trí phải lìa 2 tướng: Trí và Vô Trí…thật Đắc phải lìa 2 tướng: Đắc và Vô Đắc…như thế mới có được cái nhìn gọi là Như Thị đối với các pháp. Như vậy là chúng ta đã vượt qua được Thập Hồi Hướng, thành tựu cái gọi là Đắc Vô Đắc nhưng chưa liên tục.
Trên đây là 3 giáo nghĩa căn bản của Đại thừa, chúng ta phải thông qua thực hành mới có được kinh nghiệm thực tế; như thế mới vững vàng trong công tác Tự giác và Giác tha, thì Giác hạnh Viên mãn mới sớm thành tựu.
• Có sách phân biệt Đại Thừa Thông Giáo, Đại Thừa Biệt Giáo, Đại Thừa Viên Giáo. Vậy thế nào là Đại Thừa Thông Giáo? Thế nào là Đại Thừa Biệt Giáo? Thế nào là Đại Thừa Viên Giáo?
Tùy theo giáo nghĩa và tùy theo mức độ giác ngộ mà có những từ ngữ khác nhau để phân biệt, chẳng hạn như:
Pháp mở rộng chuyển tiếp từ Tiểu thừa đến Đại thừa…có sách gọi là Đại thừa Thông Giáo, có nghĩa là Đại thừa liên thông với Tiểu thừa.
Thật ra, phải gọi là Đại thừa Sơ Giáo mới đúng, vì Đại thừa là cấp học Đại học…cho nên Đại thừa Sơ Giáo là cấp học Định (nghiên cứu Giáo nghĩa Lăng Nghiêm), là năm học đầu tiên của cấp học Đại học Phật Giáo. Thực hành thuần thục giáo nghĩa Lăng Nghiêm là năm học thứ 2 của cấp Đại học Phật Giáo…có nghĩa là tốt nghiệp lý thuyết Lăng Nghiêm là năm thứ nhất của Đại học Phật giáo, tốt nghiệp thực hành giáo nghĩa Lăng Nghiêm là năm thứ hai của Đại học Phật Giáo. Hai năm học này gọi là Cao Đẳng Phật học. Tốt nghiệp Cao Đẳng Phật học này…chúng ta sẽ không còn bảo thủ cố chấp, cho nên chúng ta vượt qua được thập trụ Bồ-tát: Trụ Vô Trụ (không còn Bảo Thủ cố chấp…)
* Năm thứ 3 cấp Đại học Phật Giáo là cấp học Huệ…học tập và thực hành thuần thục Giáo nghĩa Viên Giác. Nếu chúng ta thông đạt Giáo nghĩa Viên Giác và thực hành thuần thục Giáo nghĩa này, thì chúng ta sẽ không còn háo danh háo thắng…vì biết được rằng chúng sinh và Chư Phật vốn bình đẳng (cùng có Đức Tánh Như Lai). Như vậy là chúng ta đã vượt qua được Thập Hạnh Bồ-tát: Hành Vô Hành, Hành Như Thị Hành (Không còn Háo Danh, Háo Thắng…).
* Năm thứ 4 cấp Đại học Phật Giáo là cấp học Huệ, chuyên nghiên cứu và thực hành thuần thục Giáo nghĩa Bát Nhã…mà các sách khác gọi là Đại thừa Biệt Giáo: Liễu ngộ thật tướng của các pháp…dành cho những người có căn tánh đặc biệt (Không còn Thích Đủ Thứ…). Như vậy là đã vượt qua được Thập Hồi Hướng: Thành tựu Đắc vô Đắc.
* Cấp học Cao học Phật Giáo là cấp học Giải Thoát dựa vào Giáo nghĩa Pháp Hoa…gọi là Phật thừa Sơ Giáo mà các sách khác gọi là Đại thừa Chung Giáo (Giáo lý Đại thừa sau cùng) là Pháp Hoa và Niết Bàn. Cấp học này phải trải qua 4 năm hoặc lâu hơn để thông đạt Giáo nghĩa Pháp Hoa và thực hành thuần thục 4 Thiền Pháp Hoa là: Khai mở Tri kiến Phật, thấy cái Tri kiến Phật, thấy rõ ràng cái Tri kiến Phật và thể hiện cái Tri kiến Phật. Như thế mới vượt qua được Thập Địa và bước vào ngôi vị Đẳng giác.
* Cấp học thực hành sau Cao học trong Giáo nghĩa Phật Giáo là cấp học Giải Thoát Tri kiến…dựa vào Giáo nghĩa Hoa Nghiêm. Cấp học này không xác định được thời gian, vì cấp học này là cấp học Viên mãn: Thoát ly khái niệm… thông qua 4 Thiền là: Lý vô ngại, Sự vô ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Cấp học này giúp chúng ta thành tựu Diệu Giác, Viên Mãn Bồ-đề. Đây chính là cấp học Phật Thừa Viên Mãn mà các sách khác gọi là Đại Thừa Viên Giáo.
• Đạo Phật là một “Học thuyết chặc chẽ thống nhất” từ thấp đến cao, từ Sơ cơ đến Viên mãn. Không thể đứng ở một góc độ nào mà bảo là Đạo Phật thế nọ…thế kia! Các cấp học cơ bản của Đạo Phật là: Giới, Định, Huệ, Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến.
* Cấp học Giới là cấp học căn bản: Dựa vào Tịnh cảnh, Tịnh pháp, Tịnh giới…chủ yếu thoát khổ cho riêng Ta…cho nên được gọi là cấp học Tiểu thừa. Đây là cấp học của chúng Thinh Văn và Duyên Giác…không thể thiếu!
* Cấp học Định là cấp học Đại Thừa Sơ Giáo: Cấp học này dùng Định Như Huyễn để vượt qua sự cám dỗ của Thế gian. Tùy duyên hành Đạo, từng bước phá trừ mê lầm điên đảo, đồng thời tạo điều kiện giúp người khác giác ngộ tu hành.
* Cấp học Huệ là cấp học Đại Thừa Thông Giáo: Đây là cấp học mà chúng ta cần phải thông qua mới lãnh hội được Giáo nghĩa Pháp Hoa, Niết Bàn và Hoa Nghiêm (có sách gọi đây là Đại Thừa Biệt Giáo).
* Cấp học Giải Thoát là cấp học Phật Thừa Sơ Giáo: Cấp học này dựa vào giáo nghĩa Pháp Hoa và Niết Bàn …giúp ta tỏ ngộ Tri Kiến Phật, tỏ ngộ Phật Tánh…để chúng ta sống theo sự chỉ đạo của cái Tri Kiến Phật và Phật Tánh.
* Cấp học Giải Thoát Tri Kiến là cấp học Phật thừa Viên Mãn: Cấp học này dựa vào Giáo nghĩa Hoa Nghiêm…để quét sạch những mê lầm vi tế và tùy duyên phương tiện dẫn dắt chúng sinh giác ngộ tu hành.
• Cấp học Bát Nhã và cấp học Pháp Hoa có gì khác nhau?
* Cấp học Bát Nhã giúp ta tỏ ngộ Chân không…để không mê lầm Nhân, Quả…Chân không là Chẳng không, Chẳng có… vì thế dễ bị mắc kẹt vào cái khái niệm Không, do vậy mà dễ nhận lầm là không Nhân, không Quả…Nếu có tác Nhân thì phải thọ Quả…đây là nghĩa Chẳng không. Nếu không tác Nhân thì không thọ Quả…đây là nghĩa Chẳng có. Vì lý do này cho nên: Người tu không nên mê lầm Nhân, Quả. Câu chuyện “con Chồn Cáo” ở núi Bách Trượng, mục đích nhắc nhở chúng ta không nên quên điều này!
* Giáo nghĩa Pháp Hoa cho chúng ta thấy cái Tri kiến Phật có sẵn trong mỗi chúng sinh. Cái Tri kiến Phật chính là cái Tri kiến trong sáng, khách quan…Nếu dựa vào cái Tri kiến trong sáng, khách quan…để hành Đạo thì chúng ta sẽ không bị mắc kẹt ở một nơi nào; vì thế chúng ta sẽ không bị mất phương hướng…tiến thẳng đến Cứu cánh Giải Thoát.
• Còn Kinh Hoa Nghiêm Viên Giáo thì sao?
Hoa Nghiêm Viên Giáo phải đặt móng nền trên Giáo nghĩa Pháp Hoa và Niết Bàn. Nếu không đặt nền tảng trên Pháp Hoa và Niết Bàn thì sẽ rơi vào quá khích…có khi rơi vào Ngoại Đạo Tà Giáo. Nếu rơi vào quá khích sẽ đi lạc vào Atula Đạo. Một khi rơi vào Atula Đạo thì khó mà thực hành Phật Đạo! Nếu rơi vào Ngoại Đạo Tà Giáo thì lãng phí một đời Tu học! Hãy khá cảnh giác!
3. Phật Thừa Giáo: Phật Thừa Giáo là Giáo nghĩa cứu cánh giúp chúng ta và chúng sinh thể hiện cái Phật sẵn có trong mỗi chúng sinh, gồm có Phật Thừa Sơ Giáo và Phật Thừa Viên Giáo.
a. Phật thừa Sơ Giáo là Giáo nghĩa Pháp Hoa (tham khảo Pháp Hoa Diệu Nghĩa – Chân Như Không Tánh).
b. Phật Thừa Viên Giáo dựa vào Giáo nghĩa Hoa Nghiêm và thực hành Giáo nghĩa Hoa Nghiêm phải dựa trên cơ sở Pháp Hoa và Niết Bàn mới không rơi vào quá khích, như thế mới không rơi vào Atula Đạo và không lạc vào Tà Giáo Ngoại Đạo.
III. Nhận xét: Tam Thừa Giáo Pháp là Giáo pháp hình thành trong quá trình Hành hóa của Phật, hệ thống Giáo lý khá chặc chẽ. Cũng như các cấp học Thế gian hiện nay là: Tiểu học, Trung học, Đại học, Cao học và cấp học thực hành sau Cao học. Hệ thống Giáo lý của Phật giáo cũng hình thành các cấp học là: Giới, Định, Huệ, Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến.
* Giới học là cấp học Tiểu Thừa: Đây là cấp học căn bản, không thể thiếu. Nếu căn bản Giới chưa đầy đủ: Không Giới hạn được trong suy nghĩ, trong lời nói, trong hành động…thì không an trú được trong Tịnh Giới, Tịnh Pháp…vì thế căn bản Định không hình thành…làm sao có thể tiếp thu được các Giáo nghĩa mở rộng!
* Định học là cấp học Định mở rộng không chỉ giới hạn trong Tịnh cảnh…là cấp học Đại Thừa Sơ Giáo: Hình thành Định Như Huyễn để không Trầm Không, Thủ Tịch.
* Huệ học là cấp học Đại Thừa Thông Giáo (có sách gọi là Đại thừa biệt giáo) là cấp học Huệ để hình thành Tuệ Balamật, để quét sạch các pháp đối đãi nhị nguyên…
* Giải Thoát học là cấp học Phật Thừa Sơ Giáo (có sách gọi là Đại thừa chung giáo): Hình thành Tri kiến Phật, là Tri kiến trong sáng, khách quan…
* Giải Thoát Tri Kiến học là cấp học Phật thừa Viên Mãn (có sách gọi là Đại thừa viên giáo)…hình thành hạnh Phật: Vận dụng quy luật của các pháp để biến các pháp thành phương tiện thích hợp…phục vụ chúng sinh, kiến lập Niết Bàn bất ly sinh tử.
Phải tuần tự tốt nghiệp các cấp học đã nói ở trên thì mới có đủ cơ sở để tiếp thu Giáo nghĩa của các cấp học kế tiếp. Nếu cưỡng cầu sẽ hỏng kiến thức…đi lạc vào Tà giáo, Ngoại Đạo…cần phải cảnh giác!
• Cấp học Tiểu thừa cũng Đắc quả Vô Sanh là Alahán và Bích Chi Phật, tại sao gọi là cấp học Giới không được gọi là cấp học Định?
Định của Nhị thừa (Thinh văn, Duyên giác) là Định trốn chạy…chứ không phải là Định trực diện…Alahán và Bích Chi Phật chỉ Đắc Định ở những nơi yên tĩnh, ở những nơi có nhiều biến động…thì không vượt qua được những biến động của nội tâm. Vì lý do này cho nên Alahán và Bích Chi Phật chỉ tốt nghiệp cấp học Giới…chưa tốt nghiệp được cấp học Định.
• Đại thừa Thông Giáo tu pháp gì mà đắc được cấp học Huệ? Đại thừa Thông Giáo (có sách gọi là Đại Thừa biệt giáo) dựa vào Giáo nghĩa Bát Nhã…tu Thiền Quy Nguyên: Lìa đối đãi nhị nguyên…cho nên khai mở được Thanh tịnh Huệ và tốt nghiệp cấp học Huệ.
• Phật Thừa Sơ Giáo tu pháp gì mà thành tựu được Giải Thoát? Phật thừa Sơ Giáo tu Thiền Pháp Hoa…nên thành tựu được Giải Thoát.
• Phật Thừa Viên Giáo tu pháp gì mà thành tựu Giải Thoát Tri Kiến? Phật Thừa Viên Giáo tu Định Hoa Nghiêm…nên thành tựu Giải Thoát Tri Kiến.
• Tại sao Tiểu Thừa Phật Giáo không công nhận giáo điển Đại thừa, Phật thừa? Tiểu thừa Phật Giáo không công nhận Giáo điển Đại thừa, Phật thừa…vì cho rằng: Giáo điển Đại thừa, Phật thừa…không do Phật nói. Điều này không có gì khó hiểu…vì học sinh Tiểu học là chúng Tiểu thừa không thể nào tiếp thu được Giáo nghĩa Đại thừa, Phật thừa…vì đó là Giáo nghĩa cấp Đại học, Cao học…cho nên Phật không dạy giáo lý Đại thừa, Phật thừa…cho chúng Tiểu thừa.
• Tiểu thừa Giáo nói rằng: Khi thành Đạo…Phật lưu lại Bồ-đề Đạo Tràng 21 ngày để hưởng thụ pháp vị Giải Thoát, có phải như vậy không?
* Điều này không đúng! Vì Phật nóng lòng tìm Đạo để cứu khổ chúng sinh…tại sao khi thành Đạo lại ích kỷ hưởng thụ 21 ngày như thế, có mâu thuẫn hay không?
* Sự thật 21 ngày ở Bồ-đề Đạo Tràng, Phật giảng Kinh Hoa Nghiêm cho chúng Bồ-tát và chúng Thiên, Long, Bát bộ…trong cõi vô hình. Người chưa Đắc Định…làm sao nghe thấy được!
• Lúc Phật Thích Ca thành Đạo…chưa có Tăng đoàn, chưa có Anan…làm sao Anan biết được mà thuật lại?
Khi nhận làm Thị giả cho Phật…một trong các điều kiện mà Anan yêu cầu Phật Thích Ca là: Những Giáo pháp mà Anan chưa được trực tiếp nghe giảng…thì Phật phải giảng lại cho Anan. Vì thế Anan có đủ cơ sở để thuật lại toàn bộ Giáo pháp của Phật Thích Ca.
• Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo…có gì khác nhau?
- Tạng Giáo: Dựa vào 3 Tạng Kinh, Luật, Luận ban đầu, khi Phật Thích Ca giảng ở vườn Nai, chỉ nói về nhân duyên Sinh, Diệt…đề cập đến vấn đề Thoát Khổ cho chính mình, chủ yếu dạy chúng Tiểu thừa là Thinh Văn và Duyên Giác, giáo nghĩa Đại thừa rất ít.
- Thông Giáo (Đại thừa Sơ Giáo): Giáo nghĩa liên thông Tiểu thừa và Đại thừa, nói về cái Thanh tịnh Tâm không sinh, không diệt… Chủ yếu dạy chúng Đại thừa.
- Biệt Giáo: Nói về Thanh tịnh Huệ…Vô Trí, Vô Đắc… Chủ yếu dạy chư Bồ-tát có căn Trí Đặc biệt.
- Viên Giáo: Nói về cái Thanh tịnh Giác…Chủ yếu dạy chư Bồ-tát căn Tánh lanh lợi Tối thượng.
Bốn giáo trên gọi là Hóa Pháp Tứ Giáo, là pháp môn tùy thuận căn tánh và trình độ giác ngộ…mà giáo hóa.
• Thế nào là Bát Giáo? Bát Giáo là Tứ Giáo Hóa Pháp và Tứ Giáo Hóa Nghi. Tứ Giáo Hóa Pháp như đã nói ở trên, còn Tứ Giáo Hóa Nghi có nghĩa là dùng Hóa pháp ở trên làm Nghi thức để khai thị cho chúng sinh.
Tứ Giáo Hóa Nghi là:
- Đốn Giáo: Là đối với những căn cơ cở lớn thì xử dụng Biệt Giáo như Bát Nhã…hoặc Viên Giáo như Hoa Nghiêm.
- Tiệm Giáo: Là đối với những căn tánh cở nhỏ thì xử dụng những pháp nhỏ như: Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên…
- Bí Mật Giáo: Là giáo pháp vô tướng…nói bằng hành vi, bằng mật ngữ, hoặc bằng tư tưởng…những người Đắc Định mới lĩnh hội được.
- Bất Định Giáo: Giáo pháp chung cho các loại trình độ, mỗi người tùy theo trình độ và nghiệp lực mà có sự lĩnh hội khác nhau. Giống như Trời mưa đều khắp nơi: Cây lớn có bộ rễ lớn nên hút nhiều nước, cây nhỏ có bộ rễ nhỏ nên hút được ít nước hơn.
Tứ Giáo Hóa Pháp… như những vị thuốc, còn Tứ Giáo Hóa Nghi… như những phương thuốc.
• Thế nào là Ngũ Thời Phán Giáo?
Ngũ Thời Phán Giáo là 5 loại Giáo pháp căn bản của “học thuyết Phật Giáo”, đó là: Hoa Nghiêm Viên Giáo, Tứ Đế Thập Nhị Nhân Duyên, Phương Đẳng (Giáo pháp mở rộng liên thông Tiểu thừa), Bát Nhã, Pháp Hoa Niết Bàn.
Hoa Nghiêm Viên Giáo giống như sữa tươi, Tứ Đế Thập Nhị Nhân Duyên…giống như váng sữa đóng trên mặt sữa (gọi là Lạc), Phương Đẳng giống như phần sữa ở dưới váng sữa (gọi là Sanh Tô), Bát Nhã giống như Sanh Tô đun chín (gọi là Thục Tô), Pháp Hoa Niết Bàn giống như Thục Tô đem chưng cất lại lần nữa (gọi là Đề Hồ). Đề Hồ xốp, ngọt và ngon nhất.
• Hiện tại Tu pháp nào nhanh nhất?
Tu Duy Thức là nhanh nhất.
• Duy Thức…Tu như thế nào?
Pháp Tu Duy Thức là chuyển Thức thành Trí…nhưng phải nắm vững Giáo nghĩa của các cấp học: Giới, Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến…nhất là phải biết cho thật rõ ràng…thế nào là Thanh tịnh Tâm, Thanh tịnh Tánh, Thanh tịnh Huệ, Thanh tịnh Trí, Thanh tịnh Giác, Thanh tịnh Hạnh…Nếu những căn bản này chưa vững thì chưa Tu Duy Thức được, vì Duy Thức học là môn Tâm lý học…cho nên khá phức tạp!
III. Kết luận:
• Tam Thừa Giáo hình thành liên tục các cấp học là Giới, Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến…không thể tách rời. Nếu tách rời thì sẽ mất gốc hoặc mất phương hướng…sẽ rơi vào Atula Đạo, hoặc lạc vào Ngoại Đạo, Tà Giáo.
• Nếu sinh ra đã liễu ngộ Đại Thừa hoặc Phật Thừa…thì nên tu kết hợp đồng thời: Giới - Định - Huệ - Giải thoát - Giải thoát Tri kiến…mới dễ dàng đến đích, vì gốc có chắc thì ngọn mới vững.
Chân Như Không Tánh
Ngày 02 tháng 12 năm 2010
(27 tháng 10 Canh Dần)
 

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
Đừng hỏi...

Trước là cúi lạy mười phương chư Phật, sau là kính mong Ngài luôn được mạnh khỏe bình an. muathularung chỉ có ít lời thôi cho nên không thể nói hết cái tâm ý của lòng ngưỡng mộ đối với Ngài.
Không biết Ngài hiện tạm trú phương nao? liệu có có cái duyên cho người sau ngưỡng mộ được gặp mặt. đây là lần thứ hai trong đời học Phật được nghe những lời chân thực kể từ khi bác Trừng Hải không vào nơi đây nữa. ở hai người có cùng sở học, lại cùng một pháp tu, chỉ khác nhau một chút văn phong mà thôi. Xin được Ngài chỉ giáo thêm . Nếu không chê người kém cỏi ,xin được chỉ dạy qua Email thì là điều ân đức mà muathularung đang ngóng chờ. Kính chúc Ngài mạnh khỏe.

phamvandung57@gmail.com

Mùa Thu Lá Rụng ơi!

Đừng hỏi xưa nay nó là gì...
Bởi vì nó chẳng phải chi chi!
Tùy duyên hành động không mắc kẹt...
Sẽ hết ưu phiền, hết thị phi!

Vi trần 2o14
 

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
Tổng luận Phật pháp...

TAM BẢO
* * *
I. Khái niệm: Thế nào là Tam bảo?
Tam bảo là 3 thứ quý nhất Thế gian là: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
II. Phân tích:
1. Thế nào là Phật bảo?
Vàng, bạc, kim cương…là những thứ quý của thế gian, nhưng chưa chắc nó đem đến cho chúng ta sự an ổn nơi tâm hồn. Ngược lại, nếu tâm chúng ta trong sáng thì chúng ta sẽ không bị bất kỳ một áp lực nào làm cho tâm chúng ta bất an, vì thế cho nên chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn. Vậy tâm trong sáng là quý nhất, mà tâm trong sáng (nhận biết không mắc kẹt ở một nơi nào) là Phật, cho nên tâm trong sáng là Phật bảo.
Phật bảo là tâm trong sáng có sẵn trong tất cả Chư Phật và tất cả chúng sinh, cho nên tâm trong sáng được gọi là: Đồng thể Phật bảo.
• Chư Phật có phải là Phật bảo hay không?
Chư Phật là Phật bảo, vì chư Phật có thể giúp cho tâm chúng ta được an ổn lâu dài. Chư Phật được gọi là Xuất thế gian Phật bảo.
• Hình tượng Phật có phải là Phật bảo hay không?
Nhìn thấy hình tượng Phật, chúng ta nhớ đến Phật, nhớ đến lời dạy của Phật và sống theo sự chỉ dạy của Phật; nhờ vậy mà tâm chúng ta trở nên trong sáng, cho nên chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn; vì lý do này cho nên hình tượng Phật cũng là Phật bảo. Hình tượng Phật là hình ảnh tượng trưng, nhắc nhở chúng ta nhiếp niệm tu hành; cho nên được gọi là Thế gian Phật bảo.
2. Thế nào là Pháp bảo?
Khi tiếp cận những nơi có quá nhiều biến động; nếu chúng ta giữ ý khách quan, thì chúng ta sẽ không bị ngoại cảnh, ngoại vật…chi phối, nhờ vậy mà chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn. Sự an ổn nơi tâm hồn là quý nhất, cho nên cái giúp cho tâm hồn được an ổn là ý khách quan…là quý nhất. Vậy ý khách quan là Pháp bảo. Ý khách quan có sẵn trong tâm của Chư Phật và tất cả chúng sinh, vì thế ý khách quan được gọi là Đồng thể Pháp bảo.
• Chánh pháp giải thoát có phải là Pháp bảo hay không?
Chánh pháp giải thoát là Pháp ly dục, là pháp giúp chúng ta thoát khỏi những hệ lụy của cuộc đời, để có được sự an ổn nơi tâm hồn; vì thế Pháp ly dục là pháp quý nhất. Cho nên Chánh pháp giải thoát là Pháp bảo Xuất thế.
• Kinh, Luật, Luận…có phải là Pháp bảo hay không?
Tuy Kinh, Luật, Luận…là những vật thể hữu vi sinh diệt, nhưng dựa vào đó, chúng ta rút ra được những bài học có giá trị, giúp chúng ta có được sự an ổn nơi tâm hồn, cho nên Kinh, Luật, Luận cũng là thứ quý báu nhất thế gian. Vì thế, Kinh, Luật, Luận được gọi là thế gian Pháp bảo.
• Thế nào là Tăng bảo?
Chữ Tăng xuất phát từ Phạn âm Shanga, còn gọi là Tăng già, có nghĩa là Thanh tịnh, là trong sạch.
Tâm chúng ta có trong sạch hay không?
Như chúng ta đã biết: Tâm là cái hàm tàng các pháp nhưng không đồng nhất với các pháp; cho nên nó không dơ cũng không sạch. Nếu chúng ta suy nghĩ dơ bẩn, thì nó tạm thời bị dơ; nhưng nếu chúng ta suy nghĩ trong sạch, thì nó liền trong sạch. Nó như một cái gương soi, quay lòng gương về hướng nào thì những sự vật ở hướng đó ảnh hiện trong lòng gương soi; nhưng nếu chúng ta quay lòng gương soi hướng thẳng lên trời…thì không gian bao la hiện rõ trong lòng gương soi. Chiếu soi bao nhiêu cảnh vật…lòng gương soi cũng không đầy, không chiếu soi cảnh vật…lòng gương soi cũng không vơi, vì bản chất của lòng gương soi là rỗng sáng. Do rỗng sáng cho nên nó không nhận bất kỳ một thứ gì làm nó; nhờ vậy mà nó thường sạch trơn không tỳ vết. Tâm chúng ta cũng vậy, nhờ sạch trơn không tỳ vết, cho nên chúng ta thường cảm thấy an ổn sau một giấc ngủ an lành. Sự an ổn của tâm hồn là quý nhất, cho nên sạch trơn không tỳ vết là quý nhất; sạch trơn không tỳ vết là Thanh tịnh, là trong sạch, là Tăng. Vì cái thanh tịnh căn bản này có sẵn trong tâm của Chư Phật và tất cả chúng sinh nên có tên là Đồng thể Tăng bảo.
• Chư Đại Bồ-tát…có phải là Tăng bảo hay không?
Chư Đại Bồ-tát như: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền…là xuất trần Đại sĩ, thường tùy duyên phương tiện giúp chúng ta quay về với Tâm Thanh tịnh của chúng ta, để thoát khỏi những thống khổ, bi thương…Hơn nữa, Chư Đại Bồ-tát tâm thường thanh tịnh (mặc dù ý nghiệp chưa hoàn toàn được lọc sạch)…cho nên chư Đại Bồ Tát được gọi là Xuất thế Tăng bảo.
• Chư vị Tu sĩ thế gian có phải là Tăng bảo hay không?
Chư vị Tu sĩ thế gian, tuy tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh, nhưng hiện tại, chư vị dựa vào lời Phật dạy để thanh lọc những thói hư tật xấu, đồng thời tùy duyên phương tiện giúp người khác loại trừ những thói hư tật xấu, để thoát khỏi những khổ sở bi thương…để có được sự an ổn nơi tâm hồn. Cho nên Tu sĩ thế gian cũng là Thế gian Tăng bảo.
III. Nhận xét:
• Khi nghiên cứu Phật pháp đã có không ít người hoài nghi…vì tiểu sử của Phật Thích Ca theo Bắc sử và Nam sử…không khớp nhau.
Nếu chúng ta là những người Phật tử chân chánh…thì chúng ta không nên tin bất kỳ một điều gì, nếu chúng ta thấy là không hợp lý. Vì ở Kinh Pháp Cú có dạy rằng: Hãy thắp đuốc lên mà đi! Và ở Trường Bộ Kinh cũng bảo rằng: Nếu có ai đó, có quyền ban phước giáng họa…thì người đó còn hung dữ hơn chúng ta, không đáng để chúng ta tôn thờ!
Chúng ta không nên tin cuồng, chấp bướng…nhưng chúng ta cũng không nên bài xích bất kỳ một luận thuyết nào, vì cái gì là sự thật thì sẽ bất tử, còn cái gì không phải là sự thật thì sẽ bị đào thải theo thời gian.
• Từ khi Phật Thích Ca Niết-bàn đến nay đã 2554 năm (theo Bắc sử, tính đến thời điểm 2010), làm sao bảo đảm rằng Giáo điển không có phần hư cấu. Cho dù tuyệt đối không có phần hư cấu đi nữa, chúng ta cũng không nên tin cuồng…vì tùy thuộc trình độ giác ngộ của mỗi người, mà người thuật lại hoặc phiên dịch…tự hình thành Tam Tạng Kinh điển theo ý riêng của mỗi người. Vì lý do này cho nên trong Kinh Kim Cang, Phật Thích Ca cảnh báo chúng ta rằng: Như lai không có thuyết pháp độ chúng sinh, nếu người nào nói Như Lai có thuyết pháp độ chúng sinh, là hủy báng Như Lai.
Hiện tại, tuy Giáo điển có nhiều điểm không hợp lý, nhưng chúng ta không nên vì thế mà hoài nghi tất cả! Chúng ta hãy tinh lọc nó bằng cái chìa khóa Giải thoát và Giải thoát Tri kiến thì chúng ta sẽ phát hiện được Tinh hoa của nó. Nó sẽ là hành trang cần thiết giúp cho chúng ta bước vào vườn Phật Thánh…tiêu mòn và đoạn tận khổ đau, đồng thời tùy duyên phương tiện giúp đỡ chúng sinh thoát khổ được vui, Trang nghiêm Tịnh địa.
• Hiện tại, tuy Tăng chúng chưa được hoàn hảo, nhưng chúng ta không vì thế mà đánh mất niềm tin…Ngày xưa, khi Phật còn tại thế cũng đã có nhóm Lục quần Tỳ kheo chuyên quậy phá Tăng đoàn và chính đệ tử của Phật là Đề Bà Đạt Đa cũng đã bao phen âm mưu sát hại Phật; ngoài ra, ngoại đạo Tà giáo cũng đã bao lần âm mưu hại Phật và Tăng chúng… Thời nào cũng vậy, không thể nào tìm được cái tuyệt đối trong cái thế gian tương đối này! Trần gian là quán trọ, cho nên “ở mà không ở”. Tịnh độ mới là nơi trú ngụ lâu dài…chúng ta hãy nỗ lực đi tới! Đừng vì sự ô hợp của Tăng chúng mà chán nãn! Hãy xử dụng Thanh tịnh Huệ để soi sáng và quét sạch vật cản, đồng thời thanh lọc tạp niệm để trở về với quê hương nguồn cội Chân thường, Tĩnh lặng, An vui. Đây chính là cảnh giới Thường Tịch Quang Tịnh độ.
Tịnh độ không gần cũng không xa,
Gần xa chỉ tại ở lòng ta...
Không tranh, không chấp... là Tịnh độ,
Giành giật, bon chen... ấy Ta-bà,
Mười muôn ức cõi…xa vời vợi,
Dứt niệm phân tranh…là đến rồi!
Ai ơi, chớ có bôn ba nữa…
Quẳng gánh sầu lo…sẽ đến nơi!
IV. Kết luận:
• Đồng thể Tam bảo là Tam bảo trong tự tánh của chúng ta…lúc nào cũng bám sát chúng ta, tìm cách giúp chúng ta thoát ly điên đảo…để có được sự ổn định nơi tâm hồn, cho nên chúng ta đừng xem thường…để không phải trả bằng cái giá quá đắt, là luống uổng một kiếp con người!
• Xuất thế Tam bảo thường xuyên giúp đỡ chúng ta giác ngộ tu hành, nhưng chúng ta phải tự nỗ lực mới có kết quả.
• Thế gian Tam bảo hiện tại, tuy còn tạp chất, nhưng chúng ta không nên coi thường! Chúng ta không nên vì những tạp chất ấy mà đánh mất niềm tin! Chúng ta hãy cố gắng thanh lọc những tạp chất của chính mình, để phát hiện những Tinh hoa ẩn tàng trong Pháp bảo…dù chỉ chút ít, nhưng chúng ta cũng có được những bài học quý báu để bổ sung cho hành trình giải thoát khổ đau, kiến lập Niết-bàn bất ly sinh tử.
Chân Như Không Tánh
Ngày 30 tháng 11 năm 2010
(25 tháng 10 Canh Dần)


• Thanh tịnh là Gốc, biến động là Ngọn…cũng giống như cây Đại thọ kia: Gió bão chỉ làm cho cành lá tả tơi, còn gốc rễ vẫn vững vàng như bàn thạch, gốc rễ sẽ vững vàng hơn nhiều…nếu cành lá không quá sum suê. Cũng vậy, nếu tham vọng ít hơn và không chú trọng đến hình thức thì biến động của nội Tâm sẽ ít hơn, như thế Thanh tịnh sẽ liên tục hơn. Thanh tịnh vốn là gốc rễ của chúng sinh, bởi chúng sinh thích leo cao nên mới lộn nhào vì phong ba, bão táp…
• Bồ-đề là Giác ngộ, tùy theo sự Giác ngộ sâu hay cạn mà phân làm 6 loại:
- Giác ngộ không thấy có Ta (Nhân vô ngã), nhưng thấy có Pháp (Pháp hữu ngã). Đây là Giác ngộ của Tiểu thừa Sơ giáo.
- Giác ngộ không thấy có Ta, không thấy có Pháp nhưng mắc kẹt trong cái Không. Đây là Giác ngộ của Tiểu thừa Chánh Giáo.
- Giác ngộ không thấy có Ta, không thấy có Pháp nhưng mắc kẹt trong cái Huyễn. Đây là Giác ngộ của Đại thừa Sơ Giáo (có sách gọi là Đại Thừa Thông Giáo, Đại Thừa liên thông với Tiểu Thừa).
- Giác ngộ không thấy có Ta, không thấy có Pháp nhưng mắc kẹt trong cái Trung. Đây là Giác ngộ của Đại thừa Thông Giáo (có sách gọi là Đại Thừa Biệt Giáo).
- Giác ngộ không thấy có Ta, không thấy có Pháp nhưng còn mắc kẹt trong cái Khái niệm Phật. Đây là Giác ngộ của Phật thừa Sơ Giáo (có sách gọi là Đại Thừa Chung Giáo, Giáo lý sau cùng của Đại Thừa).
- Giác ngộ không thấy có Ta, không thấy có Pháp và không còn mắc kẹt ở bất kỳ một khái niệm nào. Đây là Giác ngộ của Phật thừa Viên Giáo (có sách gọi là Đại Thừa Viên Giáo, Giáo lý viên mãn của Đại Thừa).
• Các cấp học ở thế gian hiện nay là Tiểu học, Trung học, Đại học, Cao học và cấp học thực hành sau Cao học. Hệ thống Phật học cũng hình thành 5 cấp học là Giới, Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến… bao gồm 3 Thừa là Tiểu thừa, Đại thừa và Phật thừa (Tối Thượng thừa).
* Tiểu thừa có 2 cấp học là Tiểu thừa Sơ Giáo và Tiểu thừa Chánh Giáo, đều là cấp học Giới: Là Giới hạn trong suy nghĩ, Giới hạn trong lời nói, Giới hạn trong hành động… Giới hạn trong Tịnh Giới, Tịnh Pháp, Tịnh cảnh… là cấp học căn bản không thể thiếu, cũng giống như cấp học căn bản của thế gian là cấp Tiểu học… không thể không thông qua!
* Đại thừa có 2 cấp học là Đại thừa Sơ và Đại thừa Thông Giáo.
- Đại thừa Sơ Giáo (có sách gọi là Đại Thừa Thông Giáo) là cấp học Định… vì cấp học này giúp chúng ta thành tựu Định Như Huyễn: Là Định mở rộng, không giống như Định của Tiểu thừa chỉ thành tựu trong Tịnh cảnh. Định Như Huyễn của Đại thừa Sơ Giáo thành tựu ở bất cứ nơi nào, không phân biệt là Tịnh cảnh hay Động cảnh.
- Đại thừa Thông Giáo (có sách gọi là Đại Thừa Biệt Giáo) là cấp học Huệ… vì cấp học này giúp chúng ta thành tựu Thanh tịnh Huệ ở bất cứ nơi nào không phân biệt là Tịnh cảnh hay Động cảnh.
* Phật thừa có 2 cấp học là Phật thừa Sơ Giáo và Phật thừa Viên Giáo:
- Phật thừa Sơ Giáo (có sách gọi là Đại Thừa Chung Giáo) là cấp học Giải thoát… vì cấp học này giúp chúng ta thành tựu Giải thoát nhờ vào Thanh tịnh Giác.
- Phật thừa Viên Giáo (có sách gọi là Đại Thừa Viên Giáo) là cấp học Giải thoát Tri kiến… vì cấp học này giúp chúng ta vượt qua tất cả mọi khái niệm, thành tựu Thanh tịnh Hạnh từ chỗ từng phần đến chỗ toàn phần: Viên mãn Bồ-đề, Trang nghiêm Giải thoát.
• Giáo nghĩa của các cấp học có liên quan chặc chẽ với nhau… không thể tách rời. Nếu chưa thông qua các cấp học hoặc bỏ học giữa chừng vì không tiếp thu được Giáo nghĩa… rồi tụ 5, tụ 3…phê phán Đạo Phật thế nọ! Đạo Phật thế kia! Hành động như thế không chỉ không lợi ích gì cho chính mình… mà còn “Vạch áo cho người xem lưng…” chứng tỏ mình không biết chút gì về Phật Pháp!
• Đạo Phật là Đạo Vô tranh. Đừng tranh cao thấp làm gì! Chân lý tự nó chiếu sáng… có cố ý phủ nhận nó, nó cũng không vì thế mà biến mất. Chân lý không phải là sở hữu của riêng ai! Vì Nghiệp lực và Trí lực khác nhau mà có những nhận định khác nhau về Chân lý. Chúng ta không nên bảo thủ cố chấp, không nên háo danh háo thắng… mới không phải đeo vào mắt mình cặp kính màu đen… mới sớm thoát khỏi đêm dài Sinh Tử.
• Thiền và Giáo tuy hai mà chẳng phải hai, cứu cánh của Thiền là Tâm không biến động, cứu cánh của Giáo là thể nhập Thanh tịnh Tâm. Tâm không biến động và thể nhập Thanh tịnh Tâm vốn không hai, phương pháp thực hành tuy khác nhau, nhưng cùng đến một nơi duy nhất là Thanh tịnh Tâm. Vì lý do này cho nên kết hợp Thiền với Giáo là vững vàng, không sợ sa hầm, sụp hố. Nếu chúng ta hành Thiền dựa theo kinh nghiệm của người đi trước thì hứa hẹn nhiều kết quả hơn là tự mình nỗ lực rồi rút ra kinh nghiệm… vì đời người quá ngắn ngủi, có khi phải mất cả cuộc đời mới đổi lấy được một bài học, như thế thật là đáng tiếc, trong khi chỉ cần đọc vài trang sách cũng có thể có được những bài học vô giá!
• Ở thời đại “Pháp nhược, Ma cường” này, chúng ta phải chọn cho mình một pháp tu an toàn, để không hối hận về sau. Thiền Tịnh và Thiền Tịnh Mật là hai pháp tu an toàn và dễ dàng kết quả, chúng ta cần phải nghiên cứu và thực hành.
* Thiền Tịnh: Là pháp tu kết hợp Thiền và Tịnh.
- Tịnh là Thanh Tịnh… là điểm đến, là Tây phương Tịnh Độ của Phật Adiđà.
- Thiền là phương pháp ổn định nội tâm, phương pháp ổn định nội tâm ở đây là tham cứu hai tiền thân quan trọng của Phật Adiđà. Đó là vua Vô Tránh Niệm và Pháp Tạng Tỳ Kheo.
 Vua Vô Tránh Niệm là niệm không tranh chấp, không so đo... nghĩa là Thân, Khẩu, Ý không tranh chấp, không so đo.
 Pháp Tạng là chỗ ra đi và cũng là chỗ trở về của các Pháp. Tỳ Kheo là Sa Môn, là Thanh tịnh. Cụm từ “Pháp Tạng Tỳ Kheo” cho chúng ta biết rằng: Thanh tịnh là gốc của muôn pháp.
 Vô Tránh Niệm Vương và Pháp Tạng Tỳ Kheo là hai yếu tố để hình thành Adiđà. Có nghĩa là nếu Thân, Khẩu, Ý… không tranh chấp (Thanh tịnh) thì Thanh tịnh Huệ xuất hiện… giúp cho chúng ta thấy được Thanh tịnh là Gốc của muôn pháp. Vì thế, chúng ta nên trở về quê hương Thanh tịnh bằng cách đừng tranh chấp, đừng so đo, đừng khởi Tâm ham muốn gì thêm nữa!
 Thường xuyên niệm danh hiệu Phật Adiđà, đồng thời Quán tưởng hình tượng Đức Phật Adiđà đứng trên trời Tây, quay mặt về hướng Đông. Quán tưởng hình tượng Phật Adiđà to lần, to lần… rồi phóng hào quang sáng rực. Nếu Quán khá lâu mà hào quang không tỏa sáng, thì chúng ta Quán mặt trời tỏa sáng… rồi tiếp tục Quán Phật Adiđà phóng Đại hào quang. Đi, Đứng, Ngồi, Nằm… chúng ta đều thực hành Quán tưởng… thì lâm chung chắc chắn sẽ vãng sinh Tây phương Tịnh độ của Phật Adiđà.
* Thiền Tịnh Mật: Dành cho những người có quá nhiều tạp niệm. Thiền Tịnh Mật là loại Thiền kết hợp với Tịnh và Mật. Thiền kết hợp với Tịnh giống như ở phần Thiền Tịnh… chỉ cần kết hợp thêm Mật ngôn (Thần chú) là hình thành pháp Thiền Tịnh Mật.
• Tại sao phải kết hợp thêm Mật ngôn (Thần chú)?
Khi trì chú chúng ta tập trung được nhân điện cực mạnh, hình thành tần số khá mạnh… có thể đánh bạt tất cả những tần số khác; vì thế, kết hợp Thiền Tịnh với Mật là vững vàng nhất.
• Thần chú thường phải gia trì là loại Thần chú nào?
Thần chú thường phải gia trì là Thần chú Thiên Thủ Thiên nhãn Vô ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni…(Chú Đại Bi).
• Tại sao Thần chú này được gọi là Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni?
Đà La Ni là Tổng Trì, là Thần chú, là Tập hợp, là Tổng hợp. Đại Bi Tâm là Tâm Đại bi. Vô Ngại là vô chướng ngại. Thiên Thủ Thiên Nhãn là ngàn tay, ngàn mắt… tượng trưng cho Thanh Tịnh Hạnh (ngàn tay) và Thanh Tịnh Huệ (ngàn mắt). Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni…có nghĩa là: Nếu trì Thần chú này đạt đến nhứt Tâm bất loạn…thì Thanh Tịnh Hạnh và Thanh Tịnh Huệ xuất hiện giúp cho Tâm Đại Bi của chúng ta phát huy tác dụng “Cứu khổ độ sinh” một cách tự tại vô ngại.
• Thần chú này do ai nói? Được nói trong trường hợp nào?
Thần chú này do Bồ-tát Quán Thế Âm nói khi Phật Thích Ca đến tạm trú ở Đạo tràng Bửu Trang Nghiêm trong Thạch Thiên Cung, bên cạnh ao nước trên đảnh núi Phổ Đà (Potalaka) ở bờ biển phía Nam Ấn Độ.
• Trì Thần chú này có chắc được ứng nghiệm như ý hay không?
Trì Thần chú này… nếu Tâm thuần Thiện, chí thành, không hoài nghi… thì sẽ được ứng nghiệm như ý.
• Cách thức trì Thần chú này như thế nào?
Trì liên tục mỗi khi Tâm biến động: Đi. Đứng, Ngồi, Nằm… đều trì được.
• Tây phương Tịnh Độ của Phật Adiđà có ai thấy được hay không?
Người có Tâm không loạn thì thấy được. Người bảo thủ cố chấp, háo danh háo thắng, thích đủ thứ… thì không thấy được.
• Hình thức Cầu siêu…có được kết quả hay không?
Hình thức hộ niệm lúc lâm chung và hình thức cúng Tuần Thất… là hình thức nhắc nhở người chết giữ Chánh niệm để sinh về Tịnh Độ. Nếu người chết giữ được Chánh niệm, không bị Trần Duyên trói buộc thì sẽ được Siêu Sinh Tịnh Độ.
• Tại sao sau khi chết… mỗi Tuần (7 ngày) phải cúng một lần?
Sau khi chết… tùy theo nghiệp nặng hay nhẹ mà có thể ra đi sớm hay muộn trong vòng 7 lần 7 là 49 ngày. Vì thế phải hộ niệm để nhắc người chết giữ vững Chánh niệm.
• Nếu sau 49 ngày chưa ra đi được… thì người chết ở đâu?
Sau 49 ngày mà chưa ra đi được… là do “Trần Duyên” cột quá chặc, cho nên vẫn ở lại cảnh giới con người để giải quyết cho xong mọi chuyện… rồi tùy nghiệp mà ra đi (thường là cảnh giới Atula).
• Một người cực ác lúc chết, người thân vì người chết mà Bố thí, Cúng dường… để hồi hướng cầu Siêu độ cho người chết… thì người chết đó… có được Siêu độ hay không?
Được Siêu độ hay không, tùy thuộc người chết khi đó… có Giác ngộ hay không. Có những người lúc sinh tiền Cực Ác và đã bị quả báo nhãn tiền… nên đã ăn năn Sám hối; vì thế khi chết được nghe Kinh…liền Giác ngộ, buông bỏ tất cả Trần Duyên, do đó mà được Siêu sinh Tịnh Độ.
• Khi sinh về Tịnh Độ rồi… những Ác nghiệp đã gây tạo lúc còn sống… có còn tiếp tục hành phạt nữa hay không?
Thỉnh thoảng có xuất hiện, nhưng nhờ Phật Adiđà, Chư Đại Bồ-tát như: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí và Chư Thượng Thiện Nhơn… quan tâm nhắc nhở, cho nên tất cả đều vượt qua được.
• Những Ác nghiệp ấy liệu có còn bị thọ báo Ác hay không?
Ở Tịnh Độ không có Địa ngục, Ngạ quỷ, Cầm thú… vì thế sẽ không thọ Ác báo ở đó. Những người sinh về Tịnh Độ… tất cả đều tiến tu dễ dàng, đến khi Đắc Đạo rồi sẽ tùy duyên mà “Hồi nhập Ta-bà” với hai mục đích là: Trả nợ trước kia và tùy duyên dẫn dắt chúng sinh Giác ngộ tu hành.
• Như vậy, sinh về Tịnh Độ giống như là “Đi du học”, có phải vậy không?
Đúng vậy, tu học ở Ta-bà không thuận tiện bằng tu học ở Tịnh Độ, cho nên phải tạm thời từ giã Ta-bà… sinh qua Tịnh Độ để tiếp tục tu hành.
• Tịnh Độ Tây phương có giống như Tịnh Độ Đâu Suất của Bồ-tát Di Lặc hay không?
Tịnh Độ Tây phương dễ tu hơn… vì ở đó không có hình tướng Nam Nữ… tất cả chúng sinh ở đó chỉ có duy nhất một Tướng Vô Tướng… vì thế, các nhu cầu ở đó đều tùy Tâm biến hiện… không phải mưu sinh khổ sở như ở Ta-bà. Ở Tịnh Độ Đâu Suất của Bồ-tát Di Lặc vẫn còn hình tướng Nam Nữ, hơn nữa nếu đi lạc vào Ngoại viện thì sẽ bị Dục lạc khuynh đảo… khó mà kiềm chế được!
• Khi Đắc Đạo ở Tịnh Độ… rồi hồi nhập Ta-bà để trả nợ cũ và dẫn dắt chúng sinh hữu duyên tu hành, liệu có dễ dàng kết quả hay không?
Nếu chưa Đắc Đạo thì việc vừa “Trả nợ chúng sinh” vừa “Tùy duyên dẫn dắt chúng sinh tu hành” thật là khó! Nhưng khi Đắc Đạo thì việc làm này không khó, vì lúc đó Phước Đức và Trí Tuệ đã đầy đủ.
• Chúng Tiểu Thừa mong cầu Niết Bàn Tịch Diệt, chúng Đại Thừa mong cầu thành Phật, còn chúng Phật Thừa có mong cầu điều gì hay không?
Chúng Đại Bồ tát tu theo Phật Thừa không mong cầu bất kỳ một điều gì, vì biết rằng tất cả chúng sinh đều có tánh Phật… cho nên không khinh cái Phật của chính mình và cũng không khinh cái Phật của chúng sinh, tùy duyên phương tiện giúp cho cái Phật của chính mình và cái Phật của chúng sinh phát huy tác dụng, tuyệt đối không bon chen Danh, Lợi, Quyền lực… không bảo thủ cố chấp, không háo danh háo thắng, không thích đủ thứ… cho nên không bị các lực phản dội khác làm mất phương hướng, vì thế lúc nào cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản… không mong cầu gì nữa!
• Khi hồi nhập Ta Bà có thân tướng như thế nào?
Thân tướng không nhất thiết phải như thế nào, tùy theo Tâm niệm chúng sinh mà thị hiện những thân tướng thích hợp để dẫn dắt chúng sinh.
• Niết Bàn Tịch Diệt của Tiểu thừa và Thường Tịch Quang Tịnh Độ có giống nhau hay không?
Không giống nhau vì Niết Bàn Tịch Diệt của Tiểu thừa chỉ có được ở những nơi Tĩnh lặng còn Thường Tịch Quang Tịnh Độ có thể kiến lập ở bất cứ nơi nào, không phân biệt cảnh Tịnh hay Động.
• Chúng Phật thừa không mong cầu thành Phật, liệu có đạt đến cứu cánh Bồ-đề Vô Thượng hay không?
Chúng Phật thừa tuy không cầu thành Phật nhưng lúc nào cũng tạo điều kiện để cho cái Phật của chính mình và cái Phật của chúng sinh hữu duyên phát huy tác dụng… nên dễ đạt đến cứu cánh Vô Thượng Bồ-đề. Chúng Đại thừa vì mong cầu thành Phật cho nên thường quá khích khi hành Đạo, vì thế không thể nào đạt đến cứu cánh Bồ-đề Vô Thượng!
Chân Như Không Tánh cẩn chí!
Ngày 25 tháng 12 năm 2010
(30 tháng 10 Canh Dần)
 

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
Bổ sung bài viết Phật pháp.

Nếu thấy có thừa năng lực thì cứ gánh vác (vạch kế hoạch để hành động nhưng phải biết dừng lại đúng lúc, đừng để bị sa lầy!); nếu thấy chưa có đủ năng lực thì nên né tránh (rèn luyện chiến thắng chính mình trước đã!). Vi trần (02/09/2014)
 

minhđịnh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
18 Thg 10 2011
Bài viết
1,036
Điểm tương tác
255
Điểm
63
Bổ sung bài viết Phật pháp.

Nếu thấy có thừa năng lực thì cứ gánh vác (vạch kế hoạch để hành động nhưng phải biết dừng lại đúng lúc, đừng để bị sa lầy!); nếu thấy chưa có đủ năng lực thì nên né tránh (rèn luyện chiến thắng chính mình trước đã!). Vi trần (02/09/2014)

Tinh thần này có phù hợp với bài viết ở trên của bác không nhỉ bác uudamhoahoi ? Năng lực chưa đủ là thế nào ? Năng lực đủ là thế nào ? Đợi cho đến lúc năng lực đủ thì biết bao lâu ?Hay là ta cố gắng làm việc trong khả năng của mình,phù hợp với khả năng của mình mới là đúng ?Ở trình độ Tiểu thừa thì làm việc Tiểu thừa,ở trình độ Đại thừa thì làm việc Đại thừa,ở trình độ Phật thừa thì làm việc Phật thừa...Ví dụ như việc bác đăng các bài viết này chẳng hạn,bác đã đủ năng lực để gánh vác chưa ?

(Tôi không có ý chỉ trích hay giễu cợt khi hỏi như vậy)

Thân.
 

uudamhoahoi

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
17 Thg 8 2014
Bài viết
118
Điểm tương tác
22
Điểm
28
Các thừa phái Phật giáo và hướng đi tổng hợp!

Tinh thần này có phù hợp với bài viết ở trên của bác không nhỉ bác uudamhoahoi ? Năng lực chưa đủ là thế nào ? Năng lực đủ là thế nào ? Đợi cho đến lúc năng lực đủ thì biết bao lâu ?Hay là ta cố gắng làm việc trong khả năng của mình,phù hợp với khả năng của mình mới là đúng ?Ở trình độ Tiểu thừa thì làm việc Tiểu thừa,ở trình độ Đại thừa thì làm việc Đại thừa,ở trình độ Phật thừa thì làm việc Phật thừa...Ví dụ như việc bác đăng các bài viết này chẳng hạn,bác đã đủ năng lực để gánh vác chưa ?

(Tôi không có ý chỉ trích hay giễu cợt khi hỏi như vậy)

Thân.

• Nguyên nhân phân hóa: Khi Phật còn tại thế, mặc dầu đã hình thành những mâu thuẫn nhưng đa số tông đồ Phật giáo chỉ hướng đến mục đích duy nhất là Tự giác, Giác tha, Giác hạnh Viên mãn; vì thế chưa xuất hiện sự phân hóa một cách rõ rệt. Sau khi Phật nhập diệt, vì bất đồng quan điểm về giáo nghĩa nên mầm phân hóa bắt đầu xuất hiện hình thành 2 bộ phái là Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ.
Đại chúng bộ tập hợp phần đông tu sĩ có khuynh hướng tiến bộ.
Thượng tọa bộ tập hợp các trưởng lão có khuynh hướng bảo thủ.
Từ 2 bộ phái này theo thời gian phân hóa thành những chi phái khác nhau và hình thành các hướng đi khác nhau, có khi mâu thuẫn lẫn nhau.
Sở dĩ có sự phân hóa này, vì phần đông tu sĩ thời đó đã bị tha hóa, nặng về hình thức, nên đã không xâu kết được giáo lý mà Phật đã giảng dạy khi còn tại thế. Mỗi người đứng ở mỗi góc độ khác nhau của giáo lý, nên đã nhận định về lời dạy của Phật dưới mỗi góc độ khác nhau, từ đó tranh cãi kịch liệt; ai cũng cho rằng hướng đi của mình là đúng nhất, nên đã không dung hòa nhau được và cuối cùng dẫn đến mâu thuẫn trầm trọng. Phật giáo Ấn-độ từ đó trở đi không còn là một khối thống nhất và giáo lý Phật giáo Ấn-độ từ đó trở đi không còn thuần nhất: Một số chi bộ phái bắt đầu phát triển theo hướng ngoại đạo do những tu sĩ trước kia xuất thân từ tín đồ ngoại đạo chủ trương; vì thế người học Phật từ đó trở đi khó mà phân biệt được đâu là tinh hoa Phật giáo và đâu là giáo lý được du nhập từ ngoại đạo. Mặc dầu sau đó có các vị tổ sư như: Mã Minh, Long Thọ… đã xương minh giáo nghĩa Đại thừa, nhưng cũng chỉ là bảo thủ Đại thừa và chê bai Tiểu thừa, vì thế đã thiếu tính thuyết phục: Không xâu kết được hệ thống giáo lý của Phật, không giải quyết được vấn đề cốt lõi, nên đã không giải quyết được những mâu thuẫn trong giáo lý một cách hợp lý; mỗi chi phái tiếp tục đi theo mỗi hướng đi riêng, công kích lẫn nhau một cách kịch liệt, gây nên những thảm cảnh khá đau lòng giữa những người con cưng của Phật.
• Các thừa phái Phật giáo: Con người vừa sinh ra không thể nào tự đứng vững và bước đi một cách đàng hoàng (ngoại trừ những trường hợp cá biệt). Học sinh mới bắt đầu đến trường không thể nào vào học cấp Đại học hay Cao học, mà phải trải qua các cấp học: Mẫu giáo, Tiểu học, Trung học, Đại học, Cao học và cuối cùng là cấp học thực hành sau Cao học. Cấp học Mẫu giáo có thể không cần phải thông qua, nhưng cấp căn bản Tiểu học, Trung học thì không thể không thông qua. Cũng vậy, chủ trương của các thừa giáo tuy khác nhau, nhưng cũng không ngoài các cấp học căn bản là: Giới, Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến.
Giới và Định là các cấp học căn bản của giáo lý Tiểu thừa, Huệ là cấp học căn bản của giáo lý Đại thừa, Giải thoát là cấp học căn bản của giáo lý Phật thừa Sơ giáo, Giải thoát tri kiến là cấp học căn bản của giáo lý Phật thừa Viên giáo (Chân thừa). Chúng ta có thể coi Giới là căn bản cần có ở cấp Tiểu học, Định là giáo lý cần có ở cấp Trung học, Huệ là giáo lý cần có ở cấp Đại học, Giải thoát là tinh hoa không thể thiếu ở cấp Cao học và Giải thoát Tri kiến là thật hạnh cần phải kiểm nghiệm sau cấp Cao học.
* Nếu vì lý do nào đó mà chúng ta mắc kẹt vào cái Có: Chạy theo vật chất, danh lợi, quyền lực… như thế là chúng ta tu theo ngoại đạo thừa.
* Nếu chúng ta mắc kẹt vào cái Không: Cố giữ Giới để được yên thân, không cần biết đến chi…chi nữa, như thế là chúng ta tu theo giáo nghĩa Tiểu thừa.
* Nếu chúng ta ngộ được Huyễn: Biết chắc chắn rằng sự tồn tại của vũ trụ và pháp giới chúng sinh chỉ ở một góc độ nào đó của không gian và thời gian, vũ trụ cùng chúng sinh trong pháp giới không tồn tại liên tục: Tùy duyên mà nó thích nghi hoặc biến hóa không thuần nhất… không thể nào nắm bắt được nó một cách chắc chắn, sớm muộn gì nó cũng phải lìa chúng ta và sớm muộn gì chúng ta cũng phải lìa nó, vì thế cho nên chúng ta sẽ không ngại dấn thân để viên tu phước trí. Chúng ta có thể tu phước bằng cách tùy duyên phương tiện giúp đỡ chúng sinh thoát ly thống khổ và chúng ta có thể tu trí bằng cách tiếp cận chúng sinh để có cơ hội phát hiện những mê lầm vi tế để điều chỉnh, sửa chữa; như thế mới có thể có đủ kinh nghiệm giúp chúng sinh ổn định nội tâm, vượt qua chướng nạn, khai mở chân thật Huệ: Không còn mắc kẹt trong cái gọi là thế gian và xuất thế gian. Như thế là chúng ta tu theo giáo nghĩa Đại thừa, nhưng cần phải cảnh giác: Nếu chúng ta mắc kẹt trong cái Có, chạy theo vật chất, bon chen danh lợi, củng cố quyền lực; như thế là chúng ta tu theo thừa giáo của ngoại đạo, không phải là môn đồ của Phật đạo.
* Nếu chúng ta phát hiện được cái Phật tàng ẩn đều khắp trong mỗi chúng sinh, chúng ta sống và hành động theo sự chỉ đạo của cái Phật đó, đồng thời tùy duyên thức tỉnh chúng sinh thức dậy cái Phật ấy, để cùng nhau kiến lập Phật xứ giữa lòng nhân gian phiền nhiễu; như thế là chúng ta tu theo giáo nghĩa Phật thừa.
* Nếu chúng ta thật sự không còn mắc kẹt ở bất kỳ một khái niệm nào, tùy duyên thức tỉnh chúng sinh hồi tâm hướng thiện; như thế là chúng ta tu theo giáo nghĩa Chân thừa.
• Hướng đi tổng hợp: Các thừa giáo dù Tiểu thừa, Đại thừa hay Phật thừa cũng chỉ là các thừa giáo phương tiện vì còn mắc kẹt ở các khái niệm đối đãi: Còn bơi bằng phao giữa biển đời mênh mông sóng gió; khi nào không cần phao mà vẫn bơi khỏe giữa biển đời mênh mông sóng gió này thì đó mới là mục tiêu cuối cùng cần phải đạt được.
Cũng vậy, Giải thoát tri kiến mới là mục tiêu cuối cùng cần phải thể hiện. Giải thoát Tri kiến là thoát khỏi sự chi phối của các khái niệm đối đãi, là không còn mắc kẹt ở bất kỳ một khái niệm nào, không còn an trú vào bất kỳ một phương tiện nào, thật sự hòa nhập vào cuộc đời để kiểm nghiệm chính mình, để có cơ hội phát hiện những mê lầm vi tế, để tìm phương đoạn tận những mê lầm vi tế ấy. Đây là pháp tu bổ sung cuối cùng, đây là cấp học sau Cao học; cấp học này không có thầy giáo: Chính chúng ta vừa là thầy giáo vừa là học trò. Chúng ta phải vận dụng tất cả những kiến thức của các cấp học để hoàn thành nhân cách Viên mãn (Giác hạnh Viên mãn). Vì lý do này, chúng ta có thể khẳng định rằng: Không phải khi lên đến cấp học trên cao… là có thể bỏ đi những kiến thức ở các cấp học dưới thấp, vì: Ở cấp học Sơ học chúng ta bắt đầu học các chữ cái và tập làm quen với các con số. Nếu học lên các cấp học cao hơn mà chúng ta quên đi những kiến thức về các chữ cái thì làm sao chúng ta có thể đọc thông viết thạo, hoặc nếu chúng ta không còn nhớ gì về các con số thì làm sao chúng ta có thể tính toán, làm sao chúng ta có thể giải phương trình, giải các bài toán khó hơn ở các lớp trên!
* Cũng vậy, Giới là cấp học căn bản; những người tu Phật, nếu không tự giới hạn được bản thân thì làm sao có thể vượt qua được chướng nạn trong hành trình hồi nhập, chẳng lẽ chúng ta cứ rút đầu trong cái vỏ ốc mãi mãi hay sao? Tùy hoàn cảnh, môi trường; tùy tình huống cụ thể nào đó mà chúng ta phải chấp trì Giới một cách nghiêm túc, hoặc phương tiện khai giới; nhưng Giới quan trọng là giới hạn chính mình, điều chỉnh chính mình thì không thể nào không thực hành đối với những người học Phật chân chính. Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến cũng vậy.
* Định là ổn định nội tâm để có được quyết định đúng hướng khi hành động. Chúng ta có thể ổn định nội tâm bằng các phương pháp như: Tụng kinh, niệm Phật, trì chú, nghiên cứu giáo lý, giảng pháp, kinh hành, Thiền hành, thực hành các công tác Phật sự; hoặc không để ý đến bất kỳ một khái niệm gì dù là nội tâm hay ngoại cảnh, dù là Hữu vi hay Vô vi, dù là tự nhiên hay siêu nhiên, dù là Giải thoát hay Chẳng Giải thoát, dù là Đạo hay Phi đạo…tức là ra khỏi tất cả mọi khái niệm đối đãi và cái gọi là khái niệm ra khỏi cũng không nên mắc kẹt vào.
* Huệ là sáng tỏ vấn đề, trực diện vấn đề, trực diện chân tánh và chân tướng của vạn pháp để nó không còn lừa phỉnh chúng ta, để chúng ta có thể vận dụng nó một cách hợp lý để khai mở chân thật Huệ; Huệ có thể phát sinh từ Định, nhưng cũng có thể là những kinh nghiệm thực dụng của chúng ta thông qua thực hành hoặc học tập kinh nghiệm của người khác thông qua Kinh sách hoặc trực tiếp tham học.
* Giải thoát chính là pháp Xả khi Định và Huệ đã đầy đủ.
- Nếu chúng ta còn có quá nhiều ham muốn, sân giận, si mê… mà chúng ta không sao kiềm chế được khi gặp sự cố; như thế là Định lực của chúng ta chưa có đủ thì chúng ta phải tu thêm Định, không nên tu Xả!
- Nếu chúng ta còn có quá nhiều hoài nghi thắc mắc và khi gặp phải sự cố… chúng ta lúng túng, không biết phải giải quyết ra sao, hoặc chúng ta có tìm được hướng giải quyết nhưng không có kết quả tốt; như thế là chúng ta chưa có đủ Huệ lực thì chúng ta phải tu thêm Huệ, không nên thực hành pháp Xả!
- Tuy nhiên chúng ta có thể tu kết hợp Định, Huệ, Xả mà chúng ta quen gọi là pháp tu tức Định tức Huệ tức Xả để xả bớt những rác thải đã tồn đọng trong tâm thức, đồng thời giúp chúng ta dễ dàng kiềm chế được thân tâm khi chúng ta tiếp cận thế gian; pháp tu này không quá cứng ngắt như 2 pháp tu Định, Huệ biệt tướng. Nó rất thực dụng trong hành trình hồi nhập, nó giúp chúng ta cô lập và đoạn tận những nghiệp thô tháo, đồng thời tiến đến tiêu mòn và đoạn tận những vi tế nghiệp khi chúng ta đã khai mở được chân thật Huệ (Kiềm chế được thân miệng ý khi tiếp cận thế giới bên ngoài sẽ giúp cho ý nghiệp tiêu mòn và đoạn tận).
* Giải thoát Tri kiến là Xả tất cả mọi Tri kiến, là Xả tất cả mọi khái niệm và chính cái khái niệm về Xả ấy cũng không tồn tại. Giải thoát là thực hành pháp Xả nhưng còn mắc kẹt trong khái niệm Xả, vì thế phải tiến hành Giải thoát Tri kiến là ly cả cái khái niệm Xả ấy, mới có thể cảm nhận được pháp vị chân thật của nó. Đây chính là cấp học sau Cao học (sau khi chúng ta đã thật sự liễu ngộ). Cấp học này không có thầy giáo, không có học trò và không có pháp học mà chỉ có pháp hành; trong đó chính chúng ta vừa là thầy giáo, vừa là học trò, dựa vào nội lực là Định lực và Huệ lực hợp nhất để đoạn tận những mê lầm vi tế. Đây chính là pháp xứng tánh tức Định tức Huệ tức Xả. Pháp xứng tánh tức Định tức Huệ tức Xả là pháp ứng dụng tự nhiên khi đã thực sự liễu ngộ. Nó tự điều chỉnh chúng ta chứ chúng ta không cố ý dụng lực; như một người lái xe thiện nghệ không cần phải cố nhớ những thao tác, nhưng khi gặp phải sự cố thì nó liền xuất hiện giúp chúng ta giải quyết sự cố một cách hiệu quả. Tức Định tức Huệ tức Xả xứng tánh là pháp hành tự nhiên không cần phải dụng lực khi chúng ta đã thật sự liễu ngộ, nó là pháp hành chân thật giúp chúng ta hoàn thành nhân cách Viên mãn, đồng thời có thể giúp chúng ta tùy duyên phương tiện thức tỉnh chúng sinh hữu duyên thoát ly trường mộng.
III. Kết luận: Pháp là phương thuốc quý giúp chúng ta chữa lành những chứng bệnh điên đảo. Bệnh điên đảo thật sự không còn khi những mê lầm vi tế đã được đoạn tận. Ngày nào những mê lầm vi tế còn tồn tại thì chúng ta còn phải tìm các phương thuốc pháp thích hợp để tiêu mòn và đoạn tận chúng. Để tiêu mòn và đoạn tận những nghiệp mê lầm vi tế này, chúng ta cần phải có hành trang căn bản là Giải thoát Tri kiến: Không còn mắc kẹt ở bất kỳ một Tri kiến nào, không còn mắc kẹt ở bất kỳ một khái niệm nào và chính cái gọi là không còn mắc kẹt đó cũng không nên mắc kẹt vào, như thế chúng ta mới phát hiện được những mê lầm vi tế; nó thường ẩn mình dưới những nhãn hiệu như: Độ chúng sinh, cứu khổ cứu nạn chúng sinh, xương minh Phật đạo v.v…
Tuy nhiên cấp học cuối cùng này phải đặt nền tảng trên các cấp học như: Giới, Định, Huệ, Giải thoát. Nếu các cấp học Giới, Định, Huệ chưa hoàn chỉnh thì cấp học Giải thoát làm sao có thể học nổi; cấp học Giải thoát nếu không học nổi thì làm sao lên học cấp học Giải thoát Tri kiến! Vì thế nếu chưa thật sự liễu ngộ thì chúng ta không nên thực hành Giải thoát Tri kiến, nhưng chúng ta cũng không nên bi quan mà dừng lại giữa chừng. Chúng ta cứ kiên trì thực hành pháp tức Định tức Huệ tức Xả thì sớm muộn gì chúng ta cũng liễu ngộ, lúc ấy pháp xứng tánh tức Định tức Huệ tức Xả sẽ hình thành và đưa chúng ta vào cấp học Giải thoát Tri kiến giúp chúng ta hoàn thành sứ mệnh Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn.
Chân Như Không Tánh - 2005

Ghi chú:
• Tức Định tức Huệ tức Xả: Pháp tu kết hợp Định, Huệ, Xả giúp chúng ta đạt được Giải thoát từng phần.
• Tức Định tức Huệ tức Xả xứng tánh là diệu dụng xứng tánh có tác dụng thanh lọc và điều chỉnh. Nó phát huy được tác dụng khi chúng ta đã thật sự liễu ngộ. Lúc đó chúng ta không còn khái niệm là tu hay không tu…nó là phản xạ tự nhiên giống như một người lái xe thiện nghệ không cần phải cố nhớ những thao tác, nhưng khi gặp sự cố thì phản ứng đối phó sự cố…tự nhiên xuất hiện.
• Tự giác: Tự mình tham học để giác ngộ.
• Giác tha: Giúp người khác giác ngộ.
• Giác hạnh Viên mãn: Giác và hạnh đều Viên mãn, biết và hành động đã được Viên mãn vì những mê lầm vi tế đều đã đoạn tận…nên mãi mãi không còn lầm đường lạc lối.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên