Thiền - chất liệu, nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>
thienr.jpg

<B>THIỀN
CHẤT LIỆU, NUÔI DƯỠNG
TRỊ LIỆU VÀ CHUYỂN HÓA</B>
Nhất Hạnh
Lá Bối in lần thứ nhất 2001.
<BR><B>THIỀN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền, nói cho đủ là <I>thiền na</I> (tiếng Phạn là dhyana), là phần thực tập nồng cốt của đạo Bụt. Thiền có mục đích giúp người hành giả đạt tới một cái thấy sâu sắc về thực tại, cái thấy này có khả năng giải phóng cho mình ra khỏi sự sợ hãi, lo âu, phiền muộn, chế tác chất liệu trí tuệ và từ bi, nâng cao phẩm chất của sự sống, đem lại cho mình và cho kẻ khác nhiều thảnh thơi và an lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bản chất của thiền là <I>niệm, định</I> và <I>tuệ</I>, ba nguồn năng lượng được chế tác trong khi thực tập. Ta thực tập thiền không phải chỉ trong tư thế ngồi (thiền ngồi, tiếng Hán Việt: <I>tọa thiền</I>) mà còn trong các tư thế khác như tư thế đi (thiền đi, tiếng Hán Việt: <I>hành thiền</I>), tư thế đứng, tư thế nằm, trong những lúc làm việc như giặt áo, bổ củi, gánh nước, tưới rau hoặc lái xe. Bất cứ trong tư thế nào, bất cứ đang làm gì và ở đâu mà trong thân tâm mình có được ba loại năng lượng ấy là mình đang thực tập thiền. Sự thực tập này, nếu được chỉ dẫn đúng mức, có thể đem lại sự thoải mái và an lạc ngay trong lúc thực tập. Thực tập thiền có tác dụng nuôi dưỡng và trị liệu cho cả thân và tâm, đem lại nguồn vui sống cho người thực tập và cho người xung quanh. Không phải chỉ đi vào chùa hoặc thiền viện mới thực tập được thiền. Sống trong xã hội, đi làm, chăm sóc gia đình, ta cũng có thể tập thiền được.
<p style="padding-left: 56px;"><B><I>NIỆM</I></B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niệm là nguồn năng lượng giúp ta ý thức được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, trong thân, tâm và trong hoàn cảnh. Tiếng Phạn là <I>smrti</I>. Nói cho đầy đủ là <I>chánh niệm (smyaksmrti)</I>. Những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại trong lãnh vực thân, tâm và hoàn cảnh thì nhiều lắm, ta không thể nhận diện được tất cả một lượt. Nhưng ta có thể nhận diện những gì nổi bật nhất, hoặc nhận diện những gì mà ta cần nhận diện nhất. Nếu ta để ý tới hơi thở vào và hơi thở ra và nhận diện được đấy là hơi thở và hoặc hơi thở ra, đó gọi là phép <I>niệm hơi thở</I>. Nếu ta để ý tới bước chân và nhận diện được từng bước chân ta đặt trên sàn nhà hoặc mặt đất, đó gọi là phép <I>niệm bước chân</I>. Ta có thể gọi đó là chánh niệm về hơi thở hoặc chánh niệm về bước chân. Niệm bao giờ cũng là niệm một cái gì, nghĩa là niệm luôn luôn có đối tượng của niệm. Nếu ta đang giận mà ta có ý thức được ta đang giận, đó gọi là <I>niệm cơn giận</I>. Trong lúc ta thực tập như thế, có hai loại năng lượng đang biểu hiện trong ta: năng lượng đầu là cái giận, năng lượng thứ hai là chánh niệm do ta chế tác bằng bước chân hoặc bằng hơi thở chánh niệm. Năng lượng thứ hai nhận diện và ôm ấp năng lượng thứ nhất. Nếu sự thực tập kéo dài năm bảy phút thì năng lượng chánh niệm sẽ đi vào trong năng lượng giận hờn, và sẽ có sự thuyên giảm và chuyển hóa. Năng lượng <I>niệm</I> mang theo nó năng lượng <I>định</I> (chú tâm) và năng lượng này có thể làm phát sinh năng lượng <I>tuệ</I> (tuệ giác) có thể chuyển hóa được cơn giận thành năng lượng của hiểu biết, chấp nhận, xót thương và hòa giải.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong đời sống hàng ngày tâm ta thường có khuynh hướng nhớ về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Thân ta có mặt nhưng tâm ta không có mặt. Chánh niệm là năng lượng giúp ta đưa tâm về lại với thân để ta có mặt trong giờ phút hiện tại. Có mặt như thế để có thể tiếp xúc với những nhiệm mầu của sự sống trong ta và chúng quanh ta. Theo tinh thần thiền, sự sống chỉ có mặt đích thực trong giây phút hiện tại. Bụt dạy: <I>"Quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, sự sống chỉ có thể được tiếp xúc trong giây phút hiện tại"</I> (Kinh Bhaddekaratta, Trung Bộ 131). Tiếp xúc được với những gì nhiệm mầu có mặt trong giây phút hiện tại là để được nuôi dưỡng và trị liệu. Nếu năng lượng chánh niệm đã trở nên vững vàng, ta có thể sử dụng nó để nhận diện và ôm ấp những nỗi khổ niềm đau của ta (như giận thù, tuyệt vọng, tham đắm, bạo động, ghen tuông v.v...) để có thể chuyển hóa chúng từ từ. An trú được trong hiện tại có thể đưa đến sự trị liệu mầu nhiệm: một phen an trú được trong hiện tại là ta có thể vượt thoát ra ngoài những nanh vuốt của sự tiếc thương và vương vấn về quá khứ hoặc những lo lắng và sợ hãi về tương lai, những năng lượng tiêu cực thường đưa tới các chứng bệnh tâm thần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có bốn lãnh vực làm đối tượng cho sự tu tập chánh niệm: thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý (danh từ chuyên môn là thân, thọ, tâm, pháp, <I>Tứ Niệm Xứ</I> - Kinh Niệm Xứ, Trung A Hàm 98).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năng lượng chánh niệm khi nhận diện <B><I>thân thể </I></B> (body) giúp ta trở về với thân thể với niềm ưu ái: trong khi theo dõi phép quán niệm hơi thở ta chiếu cố tới thân thể ta, giúp cho thân thể được buông thư (danh từ chuyên môn: an tịnh thân hành), phép thực tập này rất hữu hiệu để đối phó với sự căng thẳng của thần kinh và của cơ thể (stress). Ta có thể thực tập phép an tịnh thân hành trong tư thế nằm cũng như tư thế ngồi. Sự thực tập này giúp cho cơ thể tự trị liệu lấy một cách tự nhiên (Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Trung Bộ, 118). Trong trường hợp ta đang chữa trị bằng thuốc men thì phép an tịnh thân hành này có thể giúp cho ta bình phục mau chóng hơn, ít nhất là ba lần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thực tập phép niệm thân ta cũng sẽ biết ăn uống và tiêu thụ trong chánh niệm để đừng đưa vào cơ thể những thức ăn uống có độc tố gây nên tật bệnh. Thực tập niệm thân còn giúp ta đi, đứng, hành xử và làm việc một cách thảnh thơi và nâng cao phẩm chất của sự sống hàng ngày.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sự thực tập chánh niệm hướng về <B><I>cảm thọ</I></B> (feelings) giúp ta nhận diện những cảm thọ đăng có mặt: cảm thọ dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khổ thọ) và cảm thọ trung tính (xả thọ). Nếu đó là một cảm thọ dễ chịu, ta biết được là cảm thọ đó phát xuất từ đâu và sẽ có tác dụng lâu dài như thế nào vào thân, tâm, tác dụng nuôi dưỡng hoặc tàn phá. Nếu đó là một cảm thọ khó chịu, ta cũng biết được là nó đã phát xuất từ đâu, và năng lượng chánh niệm sẽ làm dịu lại cảm thọ đó và cuối cùng với năng lượng đinh và tuệ ta có thể chuyển hóa nó. Nếu cảm thọ ấy là trung tính thì với chánh niệm nó sẽ trở thành cảm thọ dễ chịu. Ví dụ: Khi nhức răng, ta có khổ thọ. Ta nghĩ nếu hết nhức răng ta sẽ có lạc thọ. Nhưng thường thường trong giờ phút không nhức răng mà ta chỉ có xả thọ. Ý thức về điều này, sẽ giúp ta chuyển xả thọ thành lạc thọ (sensation du bien-être, the feeling of well-being).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thực tập chánh niệm hướng về <B><I>tâm ý</I></B> giúp ta nhận diện được tất cả các hiện tượng tâm ý thường phát hiện trong tâm thức như vui, buồn, thương, ghét... Theo tâm học đạo Bụt, ta có năm mươi mốt loại hiện tượng tâm ý (còn gọi là tâm hành, cittasamskara), gồm có những tâm ý tích cực như thương mến, bao dung; những tâm ý tiêu cực như giận hờn, tuyệt vọng và những tâm ý bất định như tư duy, hối tiếc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhận diện là để tìm tới cội nguồn của những tâm hành ấy để để biết rõ bản chất chúng và để chuyển hóa chúng. Ví dụ: chứng trầm cảm (depression). Nhận diện trầm cảm với năng lượng chánh niệm, ta có cơ hội nhìn thấu bản chất và cội nguồn của nó để biết được những nguyên do xa gần đã làm cho nó có mặt. Với năng lượng của niệm, định và tuệ ta có thể khám phá ra được bản chất của khối trầm cảm. Dùng chánh niệm để chăm sóc trầm cảm, để đưa tâm ý tiếp xúc với những hiện tượng tươi mát có hiệu năng nuôi dưỡng và trị liệu, ta có thể làm thư nhẹ chứng trầm cảm. Dùng chánh niệm để dừng sử dụng, tiếp xúc và tiêu thụ những hình ảnh, âm thanh, và ý tưởng có công dụng đưa tới những sự căng thẳng, lo lắng và buồn phiền, không cho chứng trầm cảm được tiếp tục nuôi dưỡng bởi những độc tố đó, ta có thể chuyển hóa được trầm cảm. Hiện trên thế giới, nhất là ở Tây phương, đã có nhiều nơi áp dụng phép thực tập chánh niệm để đối trị các chứng đau nhức, trầm cảm và giải tỏa tình trạng căng thẳng trong thân tâm. Tại Trung Tâm Y Học trường đại học Massachussetts chẳng hạn, có giáo sư Jon Kabat-Zinn, một giáo sư y khoa giỏi về thiền chánh niệm đang điều khiển một chương trình trị liệu gọi là <I>The Program of the Stress Reduction Clinic</I>, chữa trị cho các chứng đau nhức, stress và tật bệnh khá hữu hiệu. Tại các phân khoa Y Học các trương đại học lớn như Harvard, UCLA, v.v... cũng có những cơ sở nghiên cứu và áp dụng thiền tập vào sự chữa trị tâm bệnh và thân bệnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tại trường đại học Y Khoa Harvard có Viện Tâm/Thân Y Khoa (Mind/Body Medical Instutite) do giáo sư Herbert Benson sáng lập và điều hành, cũng đang nghiên cứu, truyền dạy và áp dụng thiền trong việc chữa trị. Viện này đã liên tục hoạt động từ ba mươi lăm năm nay. Giáo sư Benson báo cáo: "Trong viện chúng tôi có nhiều nhà khoa học, y học, tâm lý học, giáo dục học và y tá đã từng được đào tạo với mức khác cao; các vị ấy sau khi hướng dẫn những cuộc nghiên cứu tìm tòi và thực nghiệm trong nhiều lãnh vực khác nhau đã công nhận rằng thiền tập có thể đem lại rất nhiều mặt trị liệu. Chúng tôi đã phát triển được những chương trình y tế có thể đem tới những phương thức chữa trị có hiệu năng làm thuyên giảm những triệu chứng bệnh hoạn do sự căng thẳng tâm trí tạo ra. Trên ba mươi năm qua, các phòng thí nghiệm của trường đại học Y Khoa
Harvard đã nghiên cứu một cách có hệ thống những lợi ích của sự hỗ tương ảnh hưởng giữa thân và tâm. Những cuộc nghiên cứu ấy đã chứng nghiệm rằng mỗi khi ta lặp lại liên tiếp nhiều lần một câu kinh, một câu thiền ngữ hay một âm thanh (linh chú, dharani) để cho trạng thái tán loạn của tâm ý không thể xâm nhập thì trong những lúc ấy sẽ có những biến chuyển sinh lý thuân lợi xảy ra: những biến chuyển này đi ngược chiều với những biến chuyển đã từng mang lại sự căng thẳng tâm trí. Những cuộc nghiên cứu ấy đã chứng minh rằng các biến chuyển do thiền tập dem lại rất có lợi lạc, bởi vì chúng có hiệu năng giúp đỡ cho sự chữa trị những triệu chứng như huyết áp cao, nhịp đập trái tim không đều, các chứng đau nhức kinh niên, chứng mất ngủ, chứng đánh mất khả năng sinh dục, những triệu chứng của bệnh ung thư và còn nhiều triệu chứng khác nữa<SUP><B>(*)</B></SUP>".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thực tập chánh niệm hướng về <B><I>đối tượng tâm ý</I></B> (objects of mind) nghĩa là tất cả những đối tượng của tri giác ta: (núi, sông, cây, cỏ, người, vật, xã hội v.v...) ta có cơ hội nhìn sâu để thấy được tự tính vô thường và liên hệ sinh khởi và tồn tại của mọi hiện tượng. Khi năng lượng của niệm, định, tuệ đã hùng hậu, ta đạt tới một cái thấy sâu sắc về thực tại và ta đạt tới tự do lớn, không còn vướng mắc vào sự sợ hãi, thèm khát, hận thù và tuyệt vọng. Bụt và các vị hiền thánh đã đạt tới cái thấy ấy cho nên họ có tự do lớn, gọi là giải thoát. Thực tập thiền chúng ta cũng đạt tới tự do, và dù tự do của ta tuy chưa lớn, nhưng chúng ta cũng đã tháo gỡ được nhiều tri giác sai lầm và thành kiến, do đó ta không còn khổ đau nhiều như trước mà lại có thể có nhiều an lạc trong sự sống hiện tại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niệm (smrti), Định (samadhi) và Tuê (prajna) là những năng lượng chế tác ra so sự thực tập thiền. Thiền học đã có mặt tại Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ ba với thiền sư Tăng Hội (thân phụ thầy là người nước Khương Cư (Sogdiane, Bắc Ấn Độ) qua Giao Châu buôn bán và thân mẫu thầy là người Việt). Thiền sư Tăng Hội được đào tạo tại Giao Châu và đến năm 255 đã sang Bành Thành (Nam Kinh bây giờ) kinh đô nước Đông Ngô để truyền bá thiền học. Ông đến nước Ngô trước ngày thầy Bồ Đề Đạt Ma tới nước Lương gần ba trăm năm. Nước ta từ xưa đến nay đã từng có nhiều vị thiền sư nổi tiếng (xem sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Nguyễn Lang, nhà xuất bản Lá Bối). Ngoài những thiền sư xuất gia, ta cũng lại có những thiền sư cư sĩ cự phách như Trần Cảnh (Trần Thái Tông, tác giả sách <I>Khóa Hư Lục</I>) và Tuệ Trung Thượng Sĩ (Trần Quốc Tung, anh cả của tướng Trần Hưng Đạo) v.v... Thiền đã là một viên đá nền tảng cho nền văn minh Việt Nam. Văn chương, triết lý và nếp sống đạo đức tâm linh người Việt chứa đựng nhiều yếu tố thiền. Thực tập thiền giúp ta xóa bỏ thái độ cố chấp, giáo điều, trở nên bao dung, độ lượng, biết hiểu, biết thương sâu sắc hơn và chuyển hóa được nhiều đau khổ trong tâm như thèm khát, vướng mắc, kỳ thị, hận thù, nhỏ nhen, ích kỷ, sợ hãi, tuyệt vọng... Người Tây phương từ cuối thế kỷ 20 đã bắt đầu chú ý tới thiền và rất đông người, nhất là giới trẻ và giới trí thức, đã tìm tới để học hỏi và thực tập thiền. Những tiện nghi vật chất không đủ để làm ra hạnh phúc. Những sầu khổ ưu tư và thắc mắc của ta chỉ có thể được giải đáp bằng một đời sống tâm linh. Đạo Bụt và sự thực tập thiền hiện đang đáp ứng cho đông đảo quần chứng về những nhu yếu đó. Đạo Bụt có khả năng đi đôi với tinh thần khoa học, hợp tác với khoa học trong lãnh vực khám phá những sự thực tâm linh, sinh học và vật lý học. Đạo Bụt rất chuộng thực nghiệm và Bụt Thích Ca thường <B>khuyên dạy đệ tử không nên mất thì gờ luận thuyết về những chuyện siêu hình</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các sách nên đọc: Sen Búp Từng Cánh Hé (thiền tập có hướng dẫn), Phép Lạ Của Sư Tỉnh Thức, Con Đường Chuyển Hóa, Những Bước Chân An Lạc, Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Thiền Hành Yếu Chỉ, Trái Tim Của Bụt, Đường Xưa Mây Trắng (nhà xuất bản Lá Bối, địa chỉ: 1037 E. Taylor, San Jose, CA. 95112, Hoa Kỳ, email: laboi@langmai.org)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(*) <I>Trích thư của giáo sư Herbert Benson viết cho thiền sư Nhất Hạnh ngày 25-72001</I>.</P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p style="padding-left: 56px;"><B><I>KẾT SỬ</I></B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kết sử (Phạn: Samyojana) là những gút thắt hoặc những khối đam mê, đè nén, sợ hãi, lo lắng v.v... đã kết tụ lại trong chiều sâu tâm thức (đạo Bụt gọi là tàng thức), có khả năng trói buộc và sai sử ta làm, nói và nghĩ những điều ta thật sự không muốn làm, nói và nghĩ. Kết sử được gieo trồng và nuôi lớn bằng nếp sống không chánh niệm hàng ngày. Chánh niệm có khả năng nhận diện chúng mỗi khi chúng phát hiện trên bề mặt của tâm thức (đạo Bụt gọi là ý thức). Những kết sử này đã được hình thành trong quá khứ, có khi dưới dạng thói quen (tập khí) được cha mẹ trao truyền lại trong gia sản di truyền. Ta không cần đi về quá khứ để tìm kiếm, không cần phải đào bới trong ký ức (như trong phân tâm liệu pháp) để tìm ra nguyên do của những rối nhiễu về tâm trí. Năng lượng chánh niệm có khả năng nhận diện những kết sử khi chúng phát hiện và nhìn sâu vào chúng, ta có thể thấy được cội nguồn của những rối nhiễu kia. Thiền pháp chánh niệm chú trọng tới giây phút hiện tại, thấy rằng nhìn sâu vào hiện tại ta có thể thấy được cả quá khứ và tương lai. Mười loại kết sử chính là: đam mê (tham), thù hận (sân), tri giác lầm lạc (si), tự cho mình là hơn người, kém người hay bằng người (mạn), nghi ngờ (nghi), cho rằng hình hài này là ta (thân kiến), nhận thức nhị nguyên (biên kiến), có những cái thấy sai lầm (tà kiến), cố chấp, không có khả năng buông bỏ nhận thức hiện tại để có thể vượt tới một nhận thức cao hơn (kiến thủ), và mắc kẹt vào các tư tưởng mê tín, dị đoan và hình thái nghi lễ (giới cấm thủ kiến).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sức khỏe và hạnh phúc của ta tùy thuộc rất nhiều tới sự chuyển hóa những kết sử nói trên.
<p style="padding-left: 56px;"><B><I>MẠN</I></B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền tập giúp ta thấy được tính tương quan, tương duyên của vạn vật: không có hiện tượng nào (người hay vật) có thể tự mình sinh khởi và tồn tại độc lập. Cái này phải nương vào cái kia mà sinh khởi và tồn tại. Đó là cái thấy duyên sinh, có khi gọi là <I>tương tức</I> hoặc <I>vô ngã</I>. Vô ngã nghĩa là không có một thực tại biệt lập và vĩnh hằng nào nằm trong lòng sự vật. Tất cả đều chuyển biến (vô thường) hàng giờ hàng phút. Cha và con chẳng hạn không phải là hai thực tại biệt lập: cha có trong con và con có trong cha, con là sự tiếp nối của cha về tương lai, cha là sự tiếp nối của con về nguồn cội. Hạnh phúc của con có liên hệ tới hạnh phúc của cha, nếu cha không có hạnh phúc thì hạnh phúc của con cũng không thể nào toàn vẹn. Vì cái này liên hệ tới cái kia, cái này nằm trong cái kia, không có cái kia thì cái này không có (thử hữu cố bỉ hữu, thử vô cố bỉ vô - Kinh Tạp A Hàm) cho nên bản thân của vạn hữu là vô ngã. Người có tuệ giác không thấy có những cái ta riêng biệt và độc lập. Trong giới tâm lý trị liệu, có mặc cảm mình thua kém người (low self-esteem) là một chứng bệnh. Trong thiền học, có mặc cảm hơn người hay có mặc cảm bằng người cũng vẫn còn là bệnh. Bởi vì cả ba thứ mặc cảm đều được xây dựng trên ý niệm về một cái ta riêng biệt. Cả ba thứ mặc cảm đều được gọi là <I>mạn</I> (ưu mạn, liệt mạn, đẳng mạn - Kinh Tam Di Đề, Tạp A Hàm, 1078). Những khổ đau do hờn giận, ganh tỵ, thù hận, tủi hổ v.v... gây ra chỉ có thể được hoàn toàn chuyển hóa khi ta dạt tới cái thấy vô ngã. Đây là nền tảng sự thực tập trị liệu của thiền.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p style="padding-left: 56px;"><B><I>TÀNG THỨC</I></B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền sư Thường Chiếu (đời Lý) dạy rằng nếu biết được đường lối vận hành của tâm thì sự thực tập thiền sẽ trở nên dễ dàng. Tâm lý học đạo Bụt rất phong phú. Duy Thức Tông của đạo Bụt nói tới tám thức: năm thức cảm giác, ý thức, mạt na thức và tàng thức. Mạt Na là năng lượng bám víu vào ý tưởng có một cái "ta" riêng biệt độc lập và thường tại, đối lập với những cái "không ta". Tàng thức (Alaya) là phần sâu thẳm nhất của tâm thức, chứa đựng tất cả những hạt giống (chủng tử, Phạn: Bija) của tất cả các tâm hành như buồn, vui, giận, ghét v.v... Những hạt giống này khi được tưới tẩm hoặc tiếp xúc thì phát hiện lên ý thức thành những vùng năng lượng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tàng thức giống như một mảnh vườn chứa đủ các loại hạt giống, còn ý thức thì giống như người làm vườn. Trong công phu thiền tập, ý thức làm việc nhưng tàng thức cũng làm việc âm thầm ngày đêm. Vô thức của tâm lý học Tây Phương chỉ là một thành phần của tàng thức. Nhận diện và chuyển hóa những kết sử nằm sâu trong tàng thức đưa tới sự giải thoát và trị liệu. Đó gọi là chuyển y (Asrayayparavritti) nghĩa là sự chuyển hóa thực hiện ngay ở cơ sở hạ tầng của tâm thức.
<p style="padding-left: 56px;"><B><I>SỰ LƯU THÔNG CỦA TÂM HÀNH</I></B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi những ước muốn, sợ hãi, uất ức bị dồn nén, sự lưu thông của các tâm hành có thể bị tắc nghẽn và nhiều biến chứng có thể xảy ra trong lãnh vực thân và tâm. Tuy bị dồn nén, chúng vẫn có tác dụng sai sử và ràng buộc ta, vì vậy chúng là những khối kết sử quan trọng. Ta có thói quen lẫn tránh chúng, làm như chúng không có mặt, và vì vậy để cho chúng không có cơ hội trồi lên hoặc phát hiện trên ý thức. Ta đi tìm sự quên lãng trong tiêu thụ. Ta không muốn trở về với ta, vì ta có cảm tưởng khi ta trở về với ta, ta sẽ phải đối diện với những nỗi khổ đau và những niềm thất vọng ấy. Ta muốn cho ý thức (phòng khách) được chiếm cứ để các nỗi khổ niềm đau (nằm dưới nhà kho) trong ta không có chỗ phát hiện. Vì vậy ta xem truyền hình, nghe truyền thanh, xem sách, đọc báo, nói chuyện, đánh cờ, bài bạc, uống rượu v.v... để tìm lãng quên. Có thể ta không ý thức rằng ta tiêu thụ, và "giải trí" như thế chỉ là để ý thức bên trên luôn bận rộn và để cho các kết sử bên dưới không có dịp trào lên. Đó là sự dồn nén, sự dồn nén này tạo ra tình trạng thiếu lưu thông của các tâm hành. Cũng như khi máu huyết không được lưu thông thì các triệu chứng tâm bệnh (và cả thân bệnh nữa) cũng bắt đầu xuất hiện. Vì vậy ta phải can đảm chấm dứt sự dồn nén, để các tâm hành ước muốn, sợ hãi hoặc uất ức được dịp phát hiện, nhân diện và chuyển hóa. Nếu không thực tập thiền, nếu không có năng lượng của chánh niệm thì ta không đủ sức làm việc này. Cho nên chế tác chánh niệm bằng thiền tập hàng ngày giúp ta nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau của ta. Nếu không có năng lượng chánh niệm thì ta không có khả năng đối diện và xử lý chúng, và ta sẽ bị chúng làm cho tràn ngập.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mỗi lần nhận diện và ôm ấp (chứ không phải đè nén và đàn áp) thì những năng lượng tiêu cực kia sẽ yếu bớt đi một chút, và năm bảy phút sau đó (có khi lâu hơn) chúng sẽ trở về tàng thức dưới dạng những hạt giống. Lần sau phát hiện, chúng cũng sẽ được nhận diện ôm ấp như thế và cũng sẽ trở về tàng thức. Như vậy, ta không còn sợ hãi chúng, đàn áp chúng, dồn ép chúng như thế và tình trạng lưu thông của tâm ý sẽ được thiết lập trở lại, và những biến chứng tâm lý về cơ thể kia sẽ không còn.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p style="padding-left: 56px;"><B><I>MŨI TÊN THỨ HAI</I></B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chánh niệm trước hết là khả năng <I>nhận diện đơn thuần</I> (merce recognition) về sự có mặt của một đối tượng, không phê phán, không xét xử, không tham đắm vào đối tượng ấy, cũng không chán ghét xua đuổi đối tượng ấy, và nhất là không xem thường hoặc không quan trọng hóa nó. Ví dụ: ta có một vùng đau nhức trong cơ thể. Ta chỉ nhận diện sự đau nhức ấy. Với năng lượng của định và tuệ, ta có thể thấy và hiểu được tầm quan trọng và nguyên do đích thực của vùng đau nhức ấy, và sự chữa trị sẽ được căn cứ trên tuệ giác mà niệm và định đem lại. Nếu ta lo lắng nhiều quá, nếu ta tưởng tượng nhiều quá, thì những lo lắng và những tưởng tượng ấy sẽ làm ta căng thẳng, và sự đau nhức sẽ tăng lên. Nó không phải là ung thư mà ta tưởng tượng nó là ung thư và ta có thể lo lắng và sầu não đến mất ngủ. Khổ đau vì thế tăng lên gấp bội và sẽ đưa tới một tình trạng nghiêm trọng hơn. Trong kinh Tạp A Hàm, Bụt đưa ra ví dụ về mũi tên: nếu một mũi tên thứ hai bay tới và cắm đúng ngay vào vết thương gây ra do mũi tên đầu thì sự đau nhức sẽ không nhân thành hai mà sẽ nhân thành mười. Vì thế ta đừng để cho một mũi tên thứ hai hay một mũi tên thứ ba (tưởng tượng và lo lắng) bay đến.
<p style="padding-left: 56px;"><B><I>TAI HỌA CỦA DỤC</I></B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo thiền quán, hạnh phúc chân thực là sự có mặt trong giây phút hiện tại, khả năng tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống có mặt trong giây phút ấy và khả năng hiểu biết, thương yêu chăm sóc và làm hạnh phúc cho những người xung quanh. Đeo đuổi theo những đối tượng của dục như tiền tài, danh vọng, quyền hành và sắc dục, người ta đã không tạo dựng được hạnh phúc chân thật mà còn tao ra nhiều khổ đau cho bản thân và cho kẻ khác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"> Có người đầy dẫy ham muốn và ngày đêm chạy theo dục là con người không có tự do, không có tự do thì không có thảnh thơi, không có hạnh phúc. Ít ham muốn (thiểu dục), bằng lòng với một nếp sống giản dị là lành mạnh (tri túc) để có thì giờ sống sâu sắc từng giây phút của sự sống hàng ngày và chăm sóc thương yêu cho những người thân, đó là bí quyết của hạnh phúc chân thật. Trong xã hội bây giờ, quá nhiều người đang đi tìm hạnh phúc trong đường hướng của dục, vì vậy chất lượng khổ đau và tuyệt vọng đã tăng trưởng rất nhiều.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh Ở Rừng (Samyutta Nikaya 194) nói tới dục như một chiếc bẫy. Bị sập vào bẫy dục, người ta sầu khổ mất hết tự do, và không thể nào có được hạnh phúc chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"> Sợ hãi và lo lắng cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự tạo tác khổ đau. Nếu ta có đủ tuệ giác để chấp nhận một nếp sống thiểu dục và tri túc thì ta sẽ không cần phải lo lắng và sợ hãi nữa. Chỉ nghĩ rằng ngày mai ta có thể mất công ăn việc làm và sẽ không thể có được lương bổng hàng tháng như bây giờ, nên ta thường trực sống trong sự lo lắng phập phồng. Do đó con đường tiêu thụ ít và có hạnh phúc nhiều, được xem như là con đường thoát duy nhất của nền văn minh hiện tại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sau đây là năm bài thiền tập có hướng dẫn rất dễ làm. Ta có thể tập thử để thấy tính chất thực tiễn của thiền. Bốn bài đầu có tác dụng nuôi dưỡng. Bài thứ năm có tác dụng trị liệu, tất cả được trích trong sách Sen Búp Từng Cánh Hé.
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Bài tập thứ nhất</B>:
<CENTER><TABLE BORDER CELLSPACING=2 BORDERCOLOR="#FF0000" <CELLPADDING=12 WIDTH=500>
<TD WIDTH=150 HEIGHT=100><BR><P align="justify">1. Thở vào, tâm tĩnh lặng
Thở ra, miệng mỉm cười
<BR>2. Thở vào, an trú trong hiện tại
Thở ra, giây phút đẹp tuyệt vời</TD>
<TD WIDTH=50 HEIGHT=100><P align="justify">(Vắn tắt)
Tĩnh lặng
Mỉm cười
<BR>Hiện tại
Tuyệt vời</TD></TABLE></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhiều người bắt đầu thực tập thiền bằng bài tập này. Có nhiều người dù đã thực tập bài tập này trong nhiều năm vẫn còn tiếp tục thực tập, bởi vì nó tiếp tục đem tới nhiều lợi lạc cho hành giả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thở vào, ta chú tâm tới hơi thở: hơi thở vào tới đâu ta cảm thấy tĩnh lặng tới đó, giống như khi ta uống nước mát; nước đi tới đâu thì ruột gan ta mát tới đó. Trong thiền tập, hễ tâm tĩnh lặng thì thân cũng tĩnh lặng, bởi vì hơi thở có ý thức đem thân và tâm về một mối. Khi thở ra ta mỉm cười, để thư giãn tất cả các bắp thịt trên mặt (có khoảng 300 bắp thịt trên mặt ta). Thần kinh ta cũng được thư giãn khi ta mỉm cười. Nụ cười vừa là kết quả của sự tĩnh lặng do hơi thở vào đem lại, mà cũng vừa là nguyên nhân giúp ta trở nên thư thái và cảm thấy sự an lạc phát hiện rõ ràng thêm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơi thở thứ hai đem ta về giây phút hiện tại, cắt đứt mọi ràng buộc với quá khứ và mọi lo lắng về tương lai, để ta có thể an trú trong giây phút hiện tại. Sự sống chỉ mặt trong giây phút hiện tại, vì vậy ta phải trở về giây phút ấy để tiếp xúc với sự sống. Hơi thở này giúp ta trở về sự sống chân thật. Biết mình đang sống và biết mình có thể tiếp xúc với tất cả mọi mầu nhiệm của sự sống trong ta và xung quanh ta, đó là một phép lạ. Chỉ cần mở mắt hoặc lắng nghe là ta tiếp nhận được những mầu nhiệm của sự sống. Vì vậy cho nên giây phút hiện tại có thể là giây phút đẹp nhất và tuyệt vời nhất, nếu ta thực tập sống tỉnh thức bằng hơi thở. Ta có thể thực tập hơi thở thứ nhất nhiều lần trước khi đi sang hơi thở thứ hai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài này có thể thực tập bất cứ ở đâu: trong thiền đường, trên xe lửa, trong nhà bếp, ngoài bờ sông, trong công viên, trong các tư thế đi, đứng, nằm, ngồi và ngay cả lúc đang làm việc.
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Bài tập thứ hai</B>:
<CENTER><TABLE BORDER CELLSPACING=2 BORDERCOLOR="#FF0000" <CELLPADDING=12 WIDTH=500>
<TD WIDTH=150 HEIGHT=100><P align="justify">1. Thở vào, biết thở vào
Thở ra, biết thở ra
<BR>2. Hơi thở vào càng sâu
Hơi thở ra càng chậm
<BR>3. Thở vào, ý thức toàn thân
Thở ra, buông thư toàn thân
<BR>4. Thở vào an tịnh toàn thân
Thở ra, lân mẫn toàn thân
<BR>5. Thở vào, cười với toàn thân
Thở ra, thanh thản toàn thân
<BR>6. Thở vào, cười với toàn thân
Thở ra, buông thả nhẹ nhàng
<BR>7. Thở vào, cảm thấy mừng vui
Thở ra, nếm nguồn an lạc
<BR>8. Thở vào, an trú hiện tại
Thở ra, hiện tại tuyệt vời
<BR>9. Thở vào, thế ngồi vững chãi
Thở ra, an ổn vững vàng</TD>
<TD WIDTH=50 HEIGHT=100><P align="justify">Vào
Ra
<BR>Sâu
Chậm
<BR>Ý thức
Buông thư
<BR>An tịnh
Lân mẫn
<BR>Cười
Thanh thản
<BR>Cười
Buông thả
<BR>Mừng vui
An lạc
<BR>Hiện tại
Tuyệt vời
<BR>Vững chãi
An ổn</TD></TABLE></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài này tuy dễ thực tập nhưng hiệu quả thì to lớn vô cùng. Những người mới bắt đầu thiền tập nhờ bài này mà nếm ngay được sự tịnh lạc của thiền tập. Tuy nhiên những người đã thiền tập lâu năm cũng vẫn cần thực tập bài này để tiếp tục nuôi dưỡng thân tâm, để có thể đi xa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở đầu</I> (vào, ra) là để nhận diện hơi thở. Nếu đó là hơi thở vào thì hành giả biết đó là hơi thở vào. Nếu đó là hơi thở ra thì hành giả biết đó là hơi thở ra. Thực tập như thế vài lần tự khắc hành giả ngưng được sự suy nghĩ về quá khứ, về tương lai và chấm dứt mọi tạp niệm. Sở dĩ được như thế là vì tâm hành giả đã để hết vào hơi thở để nhận diện hơi thở, và do đó tâm trở thành một với hơi thở. Tâm bây giờ không phải là tâm lo lắng hoặc tâm tưởng nhớ mà chỉ là <I>tâm hơi thở</I> (the mind of breathing).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ hai</I> (sâu, chậm) là để thấy được rằng hơi thở vào đã sâu thêm và hơi thở ra đã chậm lại. Điều này xảy ra một cách tự nhiên mà không cần sự cố ý của hành giả. Thở và ý thức mình đang thở (như trong hơi thở đầu) thì tự nhiên hơi thở trở nên sâu hơn, chậm hơn, điều hòa hơn, nghĩa là có phẩm chất hơn. Mà khi hơi thở đã trở nên điều hòa, an tịnh và nhịp nhàng thì hành giả bắt đầu có cảm giác an lạc trong thân và trong tâm. Sự an tịnh của hơi thở kéo theo sự an tịnh của thân và tâm. Lúc bấy giờ hành giả đã bắt đầu có pháp lạc, tức là có thiền duyệt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ ba</I> (ý thức toàn thân, buông thư toàn thân): hơi thở vào đem tâm về với thân và làm quen lại với thân. Hơi thở là cây cầu bắc từ thân sang tâm và từ tâm sang thân. Hơi thở ra có công dụng buông thư (relaxing) toàn thân. Trong khi thở ra hành giả làm cho các bắp thịt trên vai, trong cánh tay và trong toàn thân thư giãn ra để cho cảm giác thư thái đi vào trong toàn thân. Nên thực tập hơi thở này ít nhất là mười lần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ tư</I> (an tịnh toàn thân, lân mẫn toàn thân): bằng hơi thở vào, hành giả làm cho an tịnh lại sự vận hành của cơ thể (Kinh Niệm Xứ gọi là an tịnh thân hành); bằng hơi thở ra, hành giả tỏ lòng lân mẫn săn sóc toàn thân. Tiếp tục hơi thở thứ ba, hơi thở này làm cho toàn thân lắng dịu và giúp hành giả thực tập đem lòng tư bi mà tiếp xử với chính thân thể của mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ năm</I> (cười với toàn thân, thanh tịnh toàn thân): nụ cười làm thư giãn tất cả các bắp thịt trên mặt. Hành giả gởi nụ cười ấy đến với toàn thân như một giòng suối mát. Thanh thản là làm cho nhẹ nhàng và thư thái (easing). Hơi thở này cũng có mục đích nuôi dưỡng toàn thân bằng lòng lân mẫn của chính hành giả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ sáu</I> (cười với toàn thân, buông thả nhẹ nhàng): tiếp nối hơi thở thứ năm, hơi thở này làm cho tan biến tất cả những gì căng thẳng (tensions) còn lại trong cơ thể.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ bảy</I> (cảm thấy mừng vui, nếm nguồn an lạc): trong khi thở vào, hành giả cảm nhận nỗi mừng vui thấy mình còn sống, khỏe mạnh, có cơ hội săn sóc và nuôi dưỡng cơ thể lẫn tinh thần mình. Hơi thở ra đi với cảm giác hạnh phúc. Hạnh phúc luôn luôn đơn sơ và giản dị. Ngồi yên và thở có ý thức đó có thể là một thứ hạnh phúc rồi. Biết bao nhiêu người đang xoay như một chiếc chong chóng trong đời sống bận rộn hàng ngày và không có cơ hội nếm được pháp lạc này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ tám</I> (an trú hiện tại, hiện tại tuyệt vời): hơi thở vào đưa hành giả về an trú trong giây phút hiện tại. Bụt dạy rằng quá khứ đã đi mất, tương lai thì chưa tới, sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại. Trở về an trú trong hiện tại là thực sự trở về với sự sống, và chính trong giây phút hiện tại mà hành giả tiếp xúc được với tất cả những mầu nhiệm của cuộc đời. An lạc, giải thoát, Phật tính và niết bàn... tất cả đều chỉ có thể tìm thấy trong giây phút hiện tại. Hạnh phúc nằm trong giây phút hiện tại. Hơi thở vào giúp hành giả tiếp xúc với những mầu nhiệm ấy. Hơi thở ra đem lại rất nhiều hạnh phúc cho hành giả, vì vậy hành giả nói: hiện tại tuyệt vời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ chín</I> (thế ngồi vững chãi, an ổn vững vàng): hơi thở này giúp hành giả thấy được thế ngồi vững chãi của mình. Nếu thế ngồi chưa được thẳng và đẹp thì sẽ trở nên thẳng và đẹp. Thế ngồi vững chãi đưa đến cảm giác an ổn vững vàng trong tâm ý. Chính trong lúc ngồi như vậy mà hành giả làm chủ được thân tâm mình, không bị lôi kéo theo những thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có tác dụng làm đắm chìm.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Bài tập thứ ba</B>:
<CENTER><TABLE BORDER CELLSPACING=2 BORDERCOLOR="#FF0000" <CELLPADDING=12 WIDTH=500>
<TD WIDTH=150 HEIGHT=100><P align="justify">1. Thở vào, biết thở vào
Thở ra, biết thở ra
<BR>2. Hơi thở vào càng sâu
Hơi thở ra càng chậm
<BR>3. Thở vào, tôi thấy khỏe
Thở ra, tôi thấy nhẹ
<BR>4. Thở vào, tâm tĩnh lặng
Thở ra, miệng mỉm cười
<BR>5. An trú trong hiện tại
Giây phút đẹp tuyệt vời
</TD>
<TD WIDTH=50 HEIGHT=100><P align="justify">Vào
Ra
<BR>Sâu
Chậm
<BR>Khỏe
Nhẹ
<BR>Lặng
Cười
<BR>Hiện tại
Tuyệt vời</TD></TABLE></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài này có thể thực tập bất cứ ở đâu, trong thiền đường, ngoài phòng khách, ở dưới bếp hay trong toa xe lửa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơi thở đầu là để đưa thân và tâm về hợp nhất, đồng thời giúp ta trở về an trú trong giây phút hiện tại, tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm đang xảy ra trong phút giây ấy. Sau khi ta thở như thế trong vài ba phút, tự nhiên hơi thở ta trở nên nhẹ nhàng, khoan thai, êm hơn, chậm hơn, sâu hơn và cố nhiên ta cảm thấy rất dễ chịu trong thân cũng như trong tâm. Đó là hơi thở sâu, chậm thứ hai. Ta có thể an trú với hơi thở ấy lâu bao nhiêu cũng được. Rồi ta đi qua hơi thở khỏe, nhẹ. Ở đây ta ý thức được tính cách nhẹ nhàng (khinh an) và khỏe khoắn (tịnh lạc) của thân tâm, và thiền duyệt tiếp tục nuôi dưỡng ta. Thiền duyệt là cái vui của thiền định, thường được ví dụ cho thức ăn. Hơi thở tiếp theo là "lặng, cười" và "hiện tại, tuyệt vời" mà ta đã thực tập trong bài thứ nhất.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Bài tập thứ tư</B>:
<CENTER><TABLE BORDER CELLSPACING=2 BORDERCOLOR="#FF0000" <CELLPADDING=12 WIDTH=700>
<TD WIDTH=200 HEIGHT=100><P align="justify">1. Thở vào, tôi biết tôi thở vào
Thở ra, tôi biết tôi thở ra
<BR>2. Thở vào, tôi thấy tôi là bông hoa
Thở ra, tôi cảm thấy tươi mát
<BR>3. Thở vào, tôi thấy tôi là trái núi
Thở ra, tôi cảm thấy vững vàng
<BR>4. Thở vào, tôi trở nên mặt nước tĩnh
Thở ra, tôi im lặng phản chiếu trời mây, đồi núi
<BR>5. Thở vào, tôi trở nên không gian mênh mông
Thở ra, tôi cảm thấy tự do thênh thang</TD>
<TD WIDTH=50 HEIGHT=100><P align="justify">Vào
Ra
<BR>Là hoa
Tươi mát
<BR>Là núi
Vững vàng
<BR>Nước tĩnh
Lặng chiếu
<BR>Không gian
Thênh thang</TD></TABLE></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài này có thể được thực tập vào buổi đầu của tất cả các giớ thiền tọa, hoặc có thể được thực tập trong suốt buổi thiền tọa để nuôi dưỡng thân tâm, tĩnh lặng thân tâm và đạt tới buông thả tự do.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở đầu</I> có thể được thực tập nhiều lần cho đến khi ta đạt tới trạng thái thân tâm là một, nó kết hợp thân và tâm thành một khối nhất như.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ hai</I> đem lại sự tươi mát. Con người đáng lý phải tươi mát như một bông hoa, bởi chính con người là một bông hoa trong vườn hoa vạn vật. Chúng ta chỉ cần nhìn các em bé xinh xắn là thấy điều đó. Hai mắt trong là những bông hoa. Khuôn mặt sáng với vầng trán hiền lành là một bông hoa. Hai bàn tay là bông hoa... Chỉ vì lo lắng nhiều mà trán ta nhăn, chỉ vì khóc nhiều và trải qua nhiều đêm không ngủ nên mắt ta đục... Thở vào để phục hồi tính cách bông hoa của tự thân. Hơi thở vào làm sống dậy bông hoa của tự thân. Hơi thở ra giúp ta ý thức là ta có thể và đang tươi mát như một bông hoa. Đó là tự tưới hoa cho mình, đó là từ bi quán thực tập cho bản thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Hơi thở thứ ba</I> là núi vững vàng giúp ta đứng vững những lúc ta bị điêu đứng vì những cảm thọ quá mãnh liệt. Mỗi khi ta lâm vào các trạng thái thất vọng, lo lắng, sợ hãi hoặc giận dữ, ta có cảm tưởng đang đi ngang qua một cơn bão tố. Ta như một thân cây đang đứng trong cơn lốc. Nhìn lên ngọn, ta thấy cành lá oằn oại như có thể bị gẫy ngã hoặc cuốn theo cơn lốc bất cứ lúc nào. Nhưng nếu nhìn xuống thân cây và nhất là cội cây, biết rằng rễ cây đang bám chặt vững vàng trong lòng đất, ta sẽ thấy cây vững chãi hơn và ta sẽ an tâm hơn. Thân tâm ta cũng thế. Trong cơn lốc của cảm xúc, nếu ta biết dời khỏi vùng bão tố (tức là vùng não bộ) mà di chuyển sự chú ý xuống bụng dưới, nơi huyệt đan điền và thở thật sâu thật chậm theo bài tập là núi vững vàng ta sẽ thấy rất khác. Ta sẽ thấy ta không phải chỉ là cảm xúc của ta. Cảm xúc đến rồi đi và ta sẽ ở lại. Dưới sự trấn ngự của cảm xúc, ta có cản tưởng mong manh, dẽ vỡ, ta nghĩ ta có thể đánh mất sự sống của ta. Có những người không biết xử lý những cảm xúc mãnh liệt của họ: khi đau khổ quá thì thất vọng, sợ hãi hay giận hờn... Họ có thể nghĩ rằng phương pháp duy nhất để chấm dứt khổ đau là chấm dứt cuộc đời mình. Vì vậy nhiều người, trong đó có những người rất trẻ, đã đi tự tử.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu biết ngồi xuống trong tư thế hoa sen (kiết già) mà thực tập hơi thpr <ILlà núi vững vàng"</I>; họ có thể vượt thoát được giai đoạn khó khăn đó. Trong tư thế nằm ngửa ta cũng có thể thực tập hơi thở này. Ta có thể theo dõi sự lên xuống (phồng, xẹp) của bụng dưới và hoàn toàn chú tâm vào bụng dưới. Như vậy là ta đã đi ra khỏi và không trở lại vùng bão tố. Thực tập như thế cho đến khi tâm hồn lắng dịu và cơn bão tố đi qua. Tuy nhiên ta không nên đợi đến khi có tâm trạng khổ đau rồi mới thực tập và sẽ để cho cảm xúc trấn ngự và lôi kéo. Ta hãy thực tập hàng ngày để có thói quen tốt, và như thế mỗi khi có những cảm xúc khổ thọ đến, ta sẽ tự nhiên biết thực tập để xử lý và điều phục chúng. Ta có thể chỉ bày cho những người trẻ thực tập để giúp họ vượt thoát được những cơn cảm xúc quá mạnh của họ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Nước tĩnh lặng chiếu" là <I>hơi thở thứ tư</I> có mục đích làm tĩnh lặng thân tâm. Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt có dạy: <I>"Thở vào tôi làm tĩnh lặng tâm tư tôi"</I>. Đây chính là bài ấy, là hình ảnh hồ nước tĩnh lặng giúp ta thực tập dễ dàng hơn. Mỗi khi tâm ta không tĩnh lặng, tri giác ta thường sai lầm: những điều ta thấy, nghe và suy nghĩ không phản chiếu được sự thật, cũng như mặt hồ khi có sóng không thể nào phản chiếu được trung thực những đám mây trên trời. "Bụt là vầng trăng sáng, đi ngang trời thái không, hồ tâm chúng sanh lặng, trăng hiện bóng trong ngần" là ý ấy. Những buồn khổ và giận hờn của ta phát sinh từ tri giác sai lầm, vì vậy để tránh tri giác sai lầm, ta phải tập luyện cho tâm được bình thản như mặt hồ thu buổi sáng. Hơi thở là để làm việc ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Không gian thênh thang" là <I>hơi thở thứ năm</I>. Nếu ta có quá nhiều bận rộn và ưu tư, ta sẽ không có thanh thản và an lạc, vì vậy hơi thở này nhằm đem không gian về cho chúng ta, không gian trong lòng và không gian chung quanh ta. Nếu ta có nhiều lo toan và dự án quá thì ta nên bỏ bớt. Những đau buồn oán giận trong ta cũng vậy, ta phải tập buông bỏ. Những loại hành lý ấy chỉ làm cho cuộc đời thêm nặng. Nhiều khi ta nghĩ rằng, nếu không có những hành lý kia (có thể là chức tước, địa vị, danh vọng, cơ sở, người tay chân v.v...), ta sẽ không có hạnh phúc. Nhưng nếu ta xét lại ta sẽ thấy rằng hầu hết những hành trang đó đều là chướng ngại vật cho hạnh phúc của ta, liệng bỏ được chúng thì ta có hạnh phúc. Hạnh phúc của Bụt rất lớn. Có một hôm ngồi trong rừng Đại Lâm ở ngoại ô thành Vaisali, Bụt thấy một bác nông dân đi qua. Bác nông dân hỏi Bụt có thấy mười mấy con bò của bác không. Bác nói những con bò ấy đã xổng đi mất, và hai sào đất trồng cây vừng của bác năm nay cũng bị sâu ăn hết; bác bảo bác là kẻ khổ đau nhất trên đời, có lẽ bác phải tự tử. Bụt bảo bác đi tìm bò ngả khác. Sau khi bác nông dân đi rồi, Bụt quay lại tươi cười nhìn các thấy khất sĩ đang ngồi với Bụt. Bụt nói: "Các thầy có biết là các thầy có hạnh phúc và tự do không" Các thầy không có một con bò nào để mà mất cả". Thực tập hơi thở này giúp ta buông bỏ những con bò của ta, những con bò trong tâm cũng như những con bò ở ngoài.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Bài tập thứ năm</B>:
<CENTER><TABLE BORDER CELLSPACING=2 BORDERCOLOR="#FF0000" <CELLPADDING=12 WIDTH=100%>
<TD WIDTH=600 HEIGHT=100><P align="justify">1. Thở vào, tôi thấy tôi là em bé năm tuổi
Thở ra, tôi cười với em bé năm tuổi là tôi
<BR>2. Thở vào, tôi thấy em bé năm tuổi là tôi rất mong manh, rất dễ bị thương tích
Thở ra, tôi cười với em bé trong tôi với nụ cười hiểu biết và xót thương
<BR>3. Thở vào, tôi thấy cha tôi là một em bé năm tuổi
Thở ra, tôi cười với cha tôi như một em bé năm tuổi
<BR>4. Thở vào, tôi thấy em bé năm tuổi là cha tôi rất mong manh,rất dễ bị thương tích
Thở ra, tôi cười với em bé là cha tôi với nụ cười hiểu biết và xót thương
<BR>5. Thở vào, tôi thấy mẹ tôi là một em bé năm tuổi
Thở ra, tôi cười với mẹ tôi như một em bé năm tuổi
<BR>6. Thở vào, tôi thấy em bé năm tuổi là mẹ tôi rất mong manh, rất dễ bị thương tích
Thở ra, tôi cười với em bé là mẹ tôi với nụ cười hiểu biết và xót thương
<BR>7. Thở vào, tôi thấy những nỗi khổ của cha tôi hồi năm tuổi
Thở ra, tôi thấy những nỗi khổ của mẹ tôi hồi năm tuổi
<BR>8. Thở vào, tôi thấy cha tôi trong tôi
Thở ra, tôi cười với cha tôi trong tôi
<BR>9. Thở vào, tôi thấy mẹ tôi trong tôi
Thở ra, tôi cười với mẹ trong tôi
<BR>10. Thở vào, tôi hiểu được những nỗi khó khăn của cha tôi trong tôi
Thở ra, tôi nguyện chuyển hóa cho cả cha tôi và tôi
<BR>11. Thở vào, tôi hiểu được những nỗi khó khăn của mẹ tôi trong tôi
Thở ra, tôi nguyện chuyển hóa cho cả mẹ tôi và tôi</TD>
<TD WIDTH=400 HEIGHT=100><P align="justify">Thấy em bé
Cười với em bé
<BR>Em bé rất mong manh, rất dễ bị thương tích
Cười hiểu biết và xót thương
<BR>Cha như em bé năm tuổi
Cười với cha như em bé năm tuổi
<BR>Em bé là cha rất mong manh, rất dễ bị thương tích
Cười với cha với nụ cười hiểu biết và xót thương
<BR>Mẹ như em bé năm tuổi
Cười với mẹ như em bé năm tuổi
<BR>Em bé là mẹ rất mong manh, rất dễ bị thương tích
Cười với mẹ với nụ cười hiểu biết và xót thương
<BR>Cha khổ hồi năm tuổi
Mẹ khổ hồi năm tuổi
<BR>Cha trong tôi
Cười với cha trong tôi
<BR>Mẹ trong tôi
Cười với mẹ trong tôi
<BR>Khó khăn của cha trong tôi
Chuyển hóa cả hai cha con
<BR>Khó khăn của mẹ trong tôi
Chuyển hóa cả hai mẹ con</TD></TABLE></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài tập này đã giúp cho nhiều người trẻ thiết lập lại được liên lạc tốt đẹp giữa bản thân và cha mẹ, đồng thời chuyển hóa được những nội kết được hun đúc từ tấm bé.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có những người không thể nghĩ đến cha hoặc mẹ mà không có niềm oán hận và sầu khổ trong lòng. Hạt giống thương yêu luôn luôn có sẵn trong lòng cha mẹ và trong lòng những người con, nhưng vì không biết tưới tẩm những hạt giống ấy và nhất là vì không biết hóa giải những nội kết đã được gieo trồng và không ngừng phát triển trong tâm cho nên cả hai thế hệ đều thấy khó khăn trong việc chấp nhận lẫn nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong bước đầu, hành giả quán tưởng mình là một em bé năm tuổi. Vào tuổi đó, ta rất dễ bị thương tích. Một cái trừng mắt nghiêm khắc, một tiếng nạt, hoặc một tiếng chê cũng có thể gây thương tích và mặc cảm trong ta. Khi cha làm khổ mẹ hoặc mẹ làm khổ cha hoặc khi cha mẹ làm khổ nhau, hạt giống khổ đau được gieo vào và được tưới tẩm trong lòng em bé. Cứ như thế lớn lên, em bé sẽ mang nhiều nội kết khổ đau và sống với sự oán trách cha hoặc mẹ hoặc cả hai. Thấy được mình là một em bé dễ bị thương tích như thế, ta sẽ thấy tội nghiệp cho ta, ta sẽ thấy xót thương dâng lên thấm vào con người của mình. Ta cười với em bé năm tuổi bằng nụ cười của từ bi, của xót thương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sau đó, hành giả quán tưởng cha hoặc mẹ mình là em bé năm tuổi. Thường thì ta chỉ có thể thấy cha ta là một người lớn, nghiêm khắc, khó tính, chỉ biết sử dụng uy quyền để giải quyết mọi việc. Nhưng ta biết rằng trước khi thành người lớn, ông cũng đã từng là một chú bé con năm tuổi, cũng mong manh dễ bị thương tích như ta. Ta thấy cậu bé ấy cũng đã từng khép nép, nín im thin thít mỗi khi cha cậu nổi trận lôi đình. Ta thấy cậu bé ấy cũng đã là nạn nhân của sự nóng nảy, cau có và gắt gỏng của cha cậu ấy, tức là ông nội của ta. Nếu cần, ta có thể tìm tập ảnh gia đình ngày trước để khám phá lại hình ảnh của cậu bé năm tuổi ngày xưa tức là cha ta, hay cô bé năm tuổi ngày xưa tức là mẹ ta. Trong thiền quán ta hãy làm quen và mỉm cười thân thiện với cậu bé hoặc cô bé ấy, ta thấy được tính cách mong manh và dễ bị thương tích của họ. Và ta cũng sẽ thấy xót thương trào lên. Khi chất liệu xót thương được ứa ra từ trái tim ta, ta biết rằng sự quán chiếu bắt đầu có kết quả. Thấy được và hiểu được thì thế nào ta cũng sẽ thương được. Nội kết của ta sẽ được chuyển hóa dần với sự thực tập này. Với sự hiểu biết, ta bắt đầu chấp nhận. Và ta sẽ có thể dùng hiểu biết và tình thương của ta để trở về giúp cha hoặc mẹ để chuyển hóa. Ta biết ta có thể làm được việc này bởi vì sự hiểu biết và lòng xót thương đã chuyển hóa ta và ta đã trở nên dễ chịu, ngọt ngào, có thêm nhiều bình tĩnh và kiên nhẫn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kiên nhẫn và bình tĩnh là dấu hiệu của sự có mặt đích thực của tình thương.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">July 25, 2001
<p style="padding-left: 56px;">Venerable Thich Nhat Hanh
Maple Forest Monastery
Morgan Hill Road
South Woodstock, VT 05071
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dear Venarable Thich Nhat Hanh,
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">On behalf of the Mind/Body Medical Institute, I write to invite you to be the first recipient of the Mind/Body/Spirit Award. This award will be conferred at the Spirituality and Healing in Medicine Conference to be held in Boston on December 14, 2001. The conference is being sponsored by the Mind/Body Medical Institute and the Department of Continuing Medical Education, Harward Medical School.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">This award was created to honor an invidual whose work and life exemplity the integration of mind, body and spirit. The Institute would like to honor you because you embody these attributes through the work you have done throughout the world as a teacher and humanitarian. Notable guests at past Institute events have included His Holiness the Dalai Lama, Sir John Templeton, Dr. Robert Coles, Goldie Hawn, Dr. Thomas Moore, Yo Yo Ma, and Jane Alexander.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">The Mind/Body Medical Institute, at the Beth Israel Deaconess Medical Center and Harward Medical School, has evolved from over 35 years of work in the field of mind/body medicine, which is the scientific application of approaches that include relaxation-reponse training in medication, stress management, nutrition, exercise, and spirituality. This multi-disciplinary approach addresses the total person and empowers them to achieve responsible self-care. I was instrumental in establishing the field of mind/body medicine over thirty years ago coinciding with the publication of my number one best selling book. The Relaxation Response.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">The Institute's staff of highly trained scientists, physicians, psychologists, nurses, and educators have conducted groundbreaking research in a variety of areas validating the healing aspects of meditation. We have developed clinical programs to deliver the most up-to-date medical care for symptom reduction for medical conditions caused or made worse by stress.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">For more than 30 years, laboratories at the Harward Medical Shool have systematically studies the benefits of mind/body interactions. The research established that when a person engages in a repetitive prayer, word, sound or phrase and when intrusive thoughts are passively disregarded, a specific set of physiological changes occures. These changes are the opposite ofthose induced by stress. Our research has shown that the physiological changes brought about through meditation are beneficial to numerous medical conditions that include hypertension, cardiac rhythm irregularities, many forms of chronic pain, insomnia, infertility, the symptoms of cancer and numerous other conditions.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">The example you have set through your work and commitment to improving the quality life through your mindfulness teachings are helping to bring about the much-needed changes in the world. I look forward you to discussing this invitation in more detail should you accept this award.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">With best wishes, I remain
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sincerely yours,
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Herbert Benson, MD
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Enclosures.</P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên