nguyenvanhoc2006

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH TÔNG THÔNG

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói “Người nhiều Ái Dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất phải bị cháy tay”. Thiên Thần dâng Ngọc Nữ để thử Phật, muốn xem đạo ý Ngài ra sao. Phật nói : “Cái bao da chứa đồ dơ kia đến đây làm gì. Hãy đi đi ! Ta chẳng dùng đến”. Vị Thiên Thần rất kính trọng, thưa hỏi ý đạo. Phật dạy cho, liền đắc quả Tu Đà Hoàn.

Lại còn Kinh Duy Ma Cật có đoạn : “Ông Xá Lợi Phất hỏi Thiên Nữ : “Sao cô chẳng chuyển thân nữ ?”

“Thiên nữ đáp : “Từ mười hai năm nay, tôi tìm cầu hình tướng người nữ mà chẳng thể được. Vậy thì phải chuyển cái gì ? Ví như một nhà huyễn thuật, tạo ra một người nữ huyễn. Như có người hỏi cô ấy : “Sao cô không chuyển thân nữ đi ?” Người ấy hỏi có đúng không ?”

“Xá Lợi Phất trả lời : “Không đúng ! Huyễn không có tướng nhất định, thì có gì mà chuyển”.
“Thiên Nữ nói : “Tất cả Chư Phật cũng lại như thế. Hết thảy đều không có định tướng, tại sao lại hỏi không chuyển thân nữ ?”

“Liền đó, Thiên Nữ dùng thần thông biến Ông Xá Lợi Phất thành Thiên Nữ và Thiên Nữ thì hóa thân thành như Xá Lợi Phất; rồi hỏi rằng : “Sao ông chẳng chuyển thân nữ ?”

“Ông Xá Lợi Phất trong hình tướng thân nữ đáp rằng : “Không hiểu sao tôi lại biến thành thân nữ ?”

“Thiên Nữ nói : “Nếu Ông Xá Lợi Phất có thể chuyển thân nữ này, thì hết thảy người nữ cũng có thể chuyển. Như Xá Lợi Phất chẳng phải là người nữ mà lại hiện thân nữ, tất cả người nữ lại cũng như thế, tuy hiện thân nữ mà chẳng phải là người nữ. Thế nên, đức Phật nói rằng : “Tất cả các pháp chẳng phải nam, chẳng phải nữ”.

“Thiên Nữ liền thu lại thần lực, Ông Xá Lợi Phất trở lại như cũ.

“Thiên Nữ bảo : “Này, Ông Xá Lợi Phất, sắc tướng thân nữ bây giờ ở đâu ?”

“Xá Lợi Phất nói : “Sắc tướng thân nữ không có ở đâu mà không đâu chẳng có”.

“Thiên Nữ nói : “Tất cả các pháp lại cũng như thế, không có ở đâu mà không đâu chẳng có”.

Ôi ! Thần lực của Thiên Nữ có thể chuyển Ông Xá Lợi Phất, còn chú Tiên Phạm Thiên chẳng thể hủy phá Giới Thể của Ông Anan. Nghĩa hai đoạn kinh có thể so sánh cho rõ ràng vậy.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH : Anan thấy Phật, cúi lạy buồn khóc, căm hận mình từ vô thủy đến nay một bề nghe rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực. Tha thiết xin Phật dạy cho những Pháp Xa Ma Tha (Chỉ), Tam Ma (Quán), Thiền Na (Thiền, Chỉ Quán Viên Tu) vi diệu, là những phương tiện tu hành đầu tiên nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành Bồ Đề.
Lúc ấy, lại có hằng sa Bồ Tát, Đại A La Hán và Bích Chi Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe lời Phật dạy, lui về chỗ ngồi, yên lặng lãnh thọ Thánh chỉ.


THÔNG rằng : Ông Anan phát ra lời hỏi đây, là cái xương sống của toàn bộ kinh. Từ đầu đến cuối, Thế Tôn trả lời không bỏ sót chỗ nào. “Xa Ma Tha” gọi là Chí Tĩnh(46), là Không Quán. “Tam Ma Bát Đề” gọi là Lực Dụng Biến Hóa (Như Huyễn), là Giả Quán. “Thiền Na” là Tịch Diệt, nghĩa là chẳng giữ cái huyễn hóa cũng chẳng trụ tướng Tịnh, tức là Trung Quán. Kinh Viên Giác nói :

“Tịch tỉnh Xa Ma Tha, như kính soi muôn tượng. Như Huyễn Tam Ma Đề, như mầm giống dần dần tăng trưởng. Thiền Na là Tịch Diệt, như tiếng vang trong chuông. Ba loại diệu Pháp Môn gọi là Giác Tùy Thuận, nhờ chúng mà mười phương Như Lai cùng chư Đại Bồ Tát được thành đạo. Viên chứng được cả ba thứ là rốt ráo Niết Bàn”.

Ông Anan một bề nghe nhiều học rộng, chứ nếu vẫn tu tập ba Pháp Môn này thì đâu còn phải hỏi. Nay ông bị huyễn thuật ắt là trước đây các công phu Quán Hạnh, Thiền Định đều chẳng được gì, nên mới nghĩ mười phương Như Lai hẳn phải có điều vi diệu về các thứ này. Xét một chữ “Diệu”, tợ hồ phảng phất thoáng thấy : nào phải mượn đến sự tu hành khó nhọc lao khổ ! Chỉ vì chẳng biết cái phương tiện ban đầu hết là do Ngộ Nhập đó vậy.

Kinh Viên Giác cũng có nói “Chỉ trừ bậc Đốn Giác, thì không theo Pháp Môn”. Vốn có một Pháp Môn Đốn Ngộ, chỉ lấy việc Thấy Tánh (Kiến Tánh) làm Tông. Cho nên, nếu thấy được Tánh, thì Vô Tâm đối với Chỉ, Quán mà Chỉ Quán tự có sẵn. Không thấy Tánh, tuy hằng ngày có tu Chỉ Quán cũng khó địch với cảnh ma. Chỉ có “Thấy Tánh” mới được “Diệu” vậy. Đoạn kinh sau có nói đến Diệu Minh Chân Tâm, Biển Diệu Trang Nghiêm, Diệu Minh Minh Diệu... đều để trả lời cho ý nghĩa của chữ Diệu, mà chấm dứt bằng bài kệ :

“Gọi đó : Diệu Liên Hoa
Kim Cương Vương, Bảo Giác
Như huyễn Tam Ma Đề
Khẩy tay, vượt Vô Học
Pháp này là Vô Thượng
Một đường trực nhập Niết Bàn
Của mười phương chư Phật”.

Pháp Đốn Ngộ này, chẳng phải các loại Chỉ Quán, Thiền Định tầm thường có thể so sánh.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Thuở xưa, Ngài Tuyết Phong ba lần tham yết Tổ Đầu Tử(47), chín lần thưa hỏi Tổ Động Sơn(48), cũng đã là bậc đa văn. Kế thế Tổ Đức Sơn rồi, cùng Tổ Nham Đầu đến núi Ngao Sơn ở Lễ Châu. Gặp lúc tuyết rơi, Tổ Đầu mỗi ngày chỉ lo ngủ, còn Ngài Tuyết Phong cứ một mạch tọa thiền.

Một hôm, Ngài kêu lớn rằng : “Sư huynh, Sư huynh ! Dậy đi chớ !”

Tổ Nham Đầu rằng : “Làm cái gì ?”

Ngài đáp : “Đời này chẳng lo xong thì gặp cái lão Văn Thù ấy sẽ bị lão trói đấy. Ngày nay đã đến đây, vậy mà chỉ lo ngủ”.

Tổ Nham Đầu hét to : “Cây cột phướng, ngủ đi ! Hằng ngày cứ ngồi như ông Thổ Địa trong làng rồi sau nầy đi làm nam nữ ma mị nhà người !”

Ngài tự chỉ vào ngực mà nói : “Tôi đây trong cái ấy chưa yên, chẳng dám tự dối mình”.

Tổ Nham Đầu nói : “Tôi sắp nói rằng ngày sau ông sẽ hướng lên đỉnh núi trơ trụi trên tảng đá kết thảo am, xiển dương đại giáo, sao ông lại nói như thế ?”

Ngài nói : “Tôi ở trong ấy quả thật không yên”.

Tổ Nham Đầu(49) nói : “Nếu ông thật như thế, thì cứ theo chỗ thấy của ông, mỗi mỗi nói ra hết đi. Đúng, tôi sẽ chứng minh cho. Không đúng, tôi sửa sang đẽo gọt cho”.

Ngài nói : “Mới đầu, tôi đến tham yết Ngài Giám Quan(50), nghe buổi giảng nêu lên cái nghĩa Sắc Không, bèn có chỗ vào”.

Tổ Nham Đầu nói : “Chuyện ấy đã ba mươi năm rồi, rất kỵ nêu lại !”
Ngài nói : “Lại thấy bài kệ của Tổ Động Sơn :

“Rất kỵ tìm nơi khác
Mỗi mỗi càng cách xa
Y nay chính là ta
Ta giờ chẳng phải y”.

(Thiết kỵ tùng tha mích
Điều điều dữ ngã sơ
Cừ kim chính thị ngã
Ngã kim bất thị cừ).

Tổ Nham Đầu nói : “Nếu cho là như thế thì tự cứu cũng chẳng xong”.
Ngài lại nói : “Sau đến hỏi Ngài Đức Sơn(51) : “Việc xưa nay trong Tông Thừa người tu học có được phần nào chăng ?” Tổ Đức Sơn đánh cho một gậy, mà rằng: “Nói gì vậy ?” Khi ấy, tôi như thùng vỡ đáy”.

Tổ Nham Đầu hét to : “Ông há chẳng nghe nói, “Từ cửa mà vào ắt chẳng phải là của báu nhà mình” sao ?”

Ngài hỏi : “Ngày sau như thế nào mới phải ?”

Tổ Nham Đầu đáp : “Ngày sau mà muốn hoằng dương đại giáo, mỗi mỗi đều từ trong ngực mình tuôn ra. Ngày sau hãy cùng ta mà trùm trời trùm đất đi”.
Ngài Tuyết Phong nghe xong đại ngộ, bèn làm lễ, mừng rỡ la lên rằng : “Sư huynh ơi, hôm nay mới đúng là Ngao Sơn(52) thành đạo”.
Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay. Đâu phải cứ một bề ngồi thiền mà có được thứ thoại đầu này !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
PHẦN THỨ HAI : PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I

CHỈ BÀY CHÂN TÂM


MỤC MỘT :
GẠN HỎI CÁI TÂM

I- NGUYÊN DO CỦA THƯỜNG TRỤ VÀ LƯU CHUYỂN.

KINH : Phật bảo Ông Anan : “Ông với Ta đồng phái, tình như anh em ruột. Khi ông mới phát tâm, thì ở trong Phật Pháp, thấy tướng tốt gì mà bỏ được những ân ái sâu nặng của thế gian?”
Ông Anan bạch Phật : “Tôi thấy ba mươi hai tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly. Thường tự suy nghĩ : tướng ấy không thể do Dục Ái sanh ra. Vì sao ? Thứ dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn, làm sao sanh được thân vàng chói trong sạch sáng ngời như vậy, nên tôi khao khát ngưỡng mộ xuống tóc mà theo Phật”.

THÔNG rằng : Ông Anan nhờ có cái suy nghĩ này làm gốc rễ cho tâm đạo ban đầu, nên khi gặp huyễn thuật, chẳng có quá đỗi hoa mắt mê loạn, dù đã vào nhà dâm mà chưa phá hủy Giới Thể. Nhưng chỉ lấy ba mươi hai tướng tốt mà thấy Như Lai, không khỏi dùng Sắc mà thấy, lấy Tiếng mà cầu, nên còn trong tà giải, đối với Chân Pháp Thân của Phật còn xa xôi lắm. Thiền sư Tùy Châu Pháp Vi thượng đường(53) rằng: “Cái Pháp Thân không có hình tướng, chẳng thể dùng âm thanh tìm cầu. Diệu đạo tuyệt hết lời nói, đâu phải lấy văn tự mà hiểu. Cho dù siêu Phật, vượt Tổ vẫn còn rơi vào thềm bực. Dù cho có nói diệu, bàn huyền rốt cuộc cũng treo môi răng. Cần phải : chỗ công đức chẳng hưởng chút công lao, hình ảnh vết tích chẳng còn lưu lại; cây khô hang lạnh(54) rốt thảy vô tri; người huyễn ngựa gỗ, tình thức đều không. Chừng ấy mới thỏng tay vào chợ, chuyển thân loài khác. Không thấy đạo, thì : “Nơi đất vô lậu nào ở được. Đành về cát lạnh khói sương nằm””.

Đối với chỗ này tỏ hiểu thì nào phải đợi thấy cái thân vàng chói trong sạch mới gọi là Như Lai ư ?
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH : Phật dạy : “Lành thay, Anan ! Các ông phải biết : tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sống chết nối nhau, đều do không biết cái Chân Tâm Thường Trụ(55), Thể Tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà lại dùng các Vọng Tưởng. Các tưởng này chẳng chân thật, nên mới có sự chuyển động trôi lăn.

THÔNG rằng : Ông Anan ân cần, tha thiết thưa hỏi Pháp Môn Vi Diệu Xa Ma Tha, Tam Ma, Thiền Na là những phương tiện ban đầu nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành Chánh Giác. Chính là muốn biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Tánh Thể trong sạch sáng suốt, là cái Bản Thể Bất Diệt không bị xoay chuyển luân hồi. Ông đã nói “Tướng ấy chẳng phải do Ái Dục sanh ra”, là đã hiểu rõ rằng Dục Ái nhơ nhớp, Vọng Tưởng tạp loạn chính là cái gốc rễ Sanh Tử từ vô thủy đến giờ.

Cho nên Phật mới khen rằng “Lành thay !” Cái Chân Tâm Thường Trụ, vốn không sanh ra và diệt mất. Vừa khởi vọng tưởng liền nhập luân hồi. Không phải chỉ có Dục Ái nặng nề, nghiệp dữ đa mang đều chẳng phải chơn, mà bậc Thanh Văn, Duyên Giác chưa hết lòng chấp trước thì cũng đều là Vọng. Vọng tưởng hết sạch thì Tánh Thể sáng suốt, vốn tự Vô Sanh, làm sao mà có luân chuyển. Toàn cả bộ kinh đều phát minh ý chỉ này. Cho nên, biết cái Chân Tâm Thường Trụ, tức là Thấy Tánh, Thấy Tánh thì Vô Sự vậy.

Ngài Linh Vân(56) thượng đường dạy : “Hỡi các nhân giả, hễ có dài có ngắn là chẳng có Thường. Hãy xem bốn mùa hoa cỏ, hoa nở lá rơi. Xưa nay trời người bảy nẻo, Đất Nước Gió Lửa, thành hoại chuyển vần, nhân quả nối nhau, ba đường ác khổ, mảy lông cọng tóc chưa từng thêm bớt, chỉ có cái gốc CỦA thần thức là thường còn. Hạng Thượng Căn gặp bạn lành soi sáng, ngay đây là Giải Thoát, trước mắt là đạo tràng. Bực Trung, bực Hạ si mê ám độn, chẳng soi suốt được, mê chìm trong ba cõi, luân chuyển tử sinh. Đức Thích Tôn vì họ, tất cả Trời người, mà dạy dỗ chứng minh, tỏ bày con đường Vô Thượng. Các ông lại am hiểu chăng ?”

Có vị tăng hỏi : “Làm sao để ra khỏi Sanh Lão Bệnh Tử ?”

Ngài đáp :
“Núi xanh nguyên chẳng động
Mặc tình mây qua lại”.
(Thanh sơn nguyên bất động
Phù vân nhậm khứ lai).

Câu này đủ để chú thích đoạn kinh trên. Không thể thêm bớt một chữ.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH : “Nay ông muốn học đạo Bồ Đề Vô Thượng, phát minh Chơn Tánh thì phải lấy Tâm Ngay Thẳng (Trực Tâm) mà trả lời chỗ Ta hỏi. Mười phương Như Lai đồng một con đường mà ra khỏi Sanh Tử đều là bởi Tâm Ngay Thẳng. Tâm mà nói là Ngay Thẳng, tức là từ địa vị đầu tiên cho đến cuối cùng, suốt trong khoảng giữa, cứ như thế, một mực không có những tướng quanh co".

THÔNG rằng : Hiệp Luận nói : “Ở đây, đặc biệt nói là Chân Phát Minh Tánh, vậy thì cũng có Vọng Phát Minh Tánh sao ? Có chứ. Làm sao để phân biệt ? Đáp : Vô tâm tùy mặc xoay vần mà khắp biết, vốn mầu nhiệm sáng soi mà hằng vắng lặng, ấy là Chân Phát Minh Tánh”. Chỗ nói “Mười phương Như Lai đều cùng một đường mà ra khỏi Sanh Tử đều do Trực Tâm” là thế. Còn nghịch với thời tiết, bỏ lỡ nhân duyên, lấy vọng tưởng mà gắng gượng hiểu biết, là Vọng Phát Minh Tánh. Chỗ nói “Dùng các vọng tưởng, vọng tưởng này chẳng chân thật nên có luân hồi” chính là thế. Vốn là một Thể, nhưng bởi vì không có tự tánh, không có thời gian, nên tùy chỗ dùng mà có sai khác đó thôi. Tùy mặc xoay vần, hằng hằng vắng lặng mà Hay Biết, ắt hợp với Bổn Tánh(57) nhiệm mầu. Nghịch thời lỡ duyên mà Biết, ắt hợp với Trần Cảnh hư vọng.

Ngài Mã Minh(58) dạy : “Cái Bổn Tánh vốn trong sạch, bởi vì Vô Minh bất giác mà hiện ra tướng tâm ô nhiễm. Tuy có tâm ô nhiễm, Bổn Tánh vẫn thường sáng suốt trong sạch. Cái tướng của tâm ô nhiễm là vô minh đang hiện hành. Còn Bổn Tánh sáng sạch là cái Trí Thể Bất Động”.

Có vị tăng hỏi Tổ Vân Am : “Luận Tạp Hoa nói : Cái vô minh đang hiện hành tức là Như Lai Bất Động Trí. Điều này thật khó tin, làm sao hiểu được ?”

Khi ấy có một đồng tử đang quét đất.
Tổ Am bèn gọi. Đồng tử quay đầu lại.
Tổ Am nói : “Chẳng phải là Bất Động Trí đó sao ?”
Lại hỏi : “Cái Phật Tánh của ngươi như thế nào ?”
Đồng tử nhìn qua trái, qua phải, như không vậy rồi bỏ đi.
Tổ Am nói : “Chẳng phải là vô minh hiện hành đó sao ?”

Chân Phát Minh Tánh ấy, như ánh sáng của hạt minh châu, thường tự soi hạt châu. Còn Vọng Phát Minh Tánh thì ví như phương Đông trời sắp sáng, trong khoảng lờ mờ, có chút bóng sắc. Kinh Dịch nói “Chỗ mờ tối hỗn tạp mà sáng”, là gần giống vậy.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH : “Anan, nay Ta hỏi ông : “Đương khi ông do ba mươi hai tướng của Như Lai mà phát tâm thì ông lấy cái gì mà thấy và cái gì ưa thích ?”

THÔNG rằng : Đây là chỗ từ từ dẫn dụ trước hết của Thế Tôn. Đức Thế Tôn há chẳng biết rằng “Sự Thấy thuộc về con mắt, ưa thích thuộc về cái tâm” hay sao ? Nhưng cái “Thấy Có” đó, là cái Thấy về hình tướng hữu vi. Cái “Có chỗ ưa thích” ấy, là cái ưa về hình tướng hữu vi. Nên hỏi ai thấy, ai yêu, cốt để Anan ngay lúc ấy nhận ra và nắm lấy con người thực xưa nay của mình vậy. Nếu có thể hồi quang phản chiếu, tìm cầu cái Thấy ấy, chợt hiểu Bất Khả Đắc, hết thảy ưa muốn vốn chưa từng có gốc rễ, tức thì nhập ngay vào Định Thủ Lăng Nghiêm. Thế chẳng khoái sao ? Về sau, nhà Thiền hay dùng cái cơ chốt này.

Có nhà sư hỏi Tổ Bá Trượng(59) : “Như sao là Phật ?”
Tổ Trượng hỏi : “Ông đó là ai ?”
Đáp : “Tôi đây vậy”.
Tổ Trượng rằng : “Ông biết cái Tôi đó chăng ?”
Đáp : “Rõ ràng vậy”.
Tổ Trượng bèn dựng đứng cây phất tử(60) lên, rằng: “Ông lại thấy chăng ?”
Đáp : “Thấy”.
Tổ Trượng bèn chẳng thốt lời nào.

Chỗ hỏi của vị tăng là Phật, mà Tổ Trượng lại chẳng nói gì đến Phật, chỉ ở Chỗ Thấy của vị tăng mà nhắc nhở. Một tắc này, rõ ràng bày tỏ được cái khuôn mẫu của Lăng Nghiêm.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH : Anan bạch Phật : “Thưa Thế Tôn, sự ưa thích đó là dùng cái tâm và con mắt của tôi. Do mắt thấy tướng tốt của Như Lai, tâm sinh ưa thích, nên tôi phát tâm nguyện lìa bỏ sanh tử”.
Phật bảo Ông Anan : “Như chỗ ông nói, thật do tâm và con mắt mà có ưa thích. Nếu không biết tâm và mắt ở đâu, thì chẳng dẹp được trần lao. Ví như bậc quốc vương bị giặc xâm lăng, phát binh đánh dẹp, thì binh ấy cần nhất phải biết chỗ ở của kẻ giặc. Khiến ông bị luân hồi, thì tâm và mắt là thủ phạm. Nay ta hỏi ông : “Tâm và mắt ấy hiện ở chỗ nào ?”


THÔNG rằng : Chỗ hỏi của Thế Tôn là riêng tỏ về chỗ Hướng Thượng Nhất Lộ (61). Nói “Lấy cái gì mà thấy, lấy ai ưa thích”, rõ ràng là chỉ thẳng mặt trăng. Chỗ đáp của Ông A Nan chưa rời khỏi thường tình, chỉ biết hợp theo Trần mà chẳng biết hợp với Giác. Xoay lưng lại với Giác mà hiệp theo Trần, là lỗi của ai ? Sáu Giặc (sáu Căn) làm môi giới, tự cướp lấy của báu nhà mình. Cho nên, chỗ Ông Anan nói “Tâm và Mắt”, chỉ là Căn và Thức, lôi kéo theo trần lao, lưu chuyển cùng sanh tử. Cái Thường Trụ Chân Tâm(62) như vua trong nước, vì bị giặc xâm lấn, nên vốn trong sạch mà gọi là dơ, vốn sáng soi mà gọi là mờ ám. Tâm và mắt thật là lũ giặc của Chân Tánh vậy. Do đó, phải thấu đến cùng sào huyệt của chúng mà diệt trừ. Nghịch dòng trôi lăn, giữ tròn Chân Tánh, Lục Dụng (sáu Thức) chẳng hiện hành, mà phát ra sự sáng rỡ trong sạch vốn có, sáu Căn đồng dùng thay lẫn cho nhau, con mắt thịt do cha mẹ sanh ra thấy suốt mười phương, thì còn đâu các lỗi bị lưu chuyển nữa !

Thiền sư Tử Hồ Tung có đêm la lớn : “Có cướp ! Có cướp !”
Đệ tử choàng dậy tranh nhau đuổi bắt. Ngài chụp lại một người, nói rằng : “Bắt được một tên rồi”.
Người đệ tử ấy nói : “Không phải đâu, chính là tôi đây”.
Ngài buông ra nói rằng : “Chính là(63)”.
Chỉ bởi vì chẳng chịu nhận lấy đó thôi !
Cho nên, nếu chịu nhận lấy thì giặc cướp tức là con cái. Chẳng thể kham lấy, con cái trở lại làm giặc. Đoạn thuyết thoại này đối với chuyện vị quốc vương đem binh trừ giặc, thật là một phen hý lộng, riêng cho bực có mắt đó thôi.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
II- CHẤP TÂM Ở TRONG THÂN

KINH : Ông Anan bạch với Phật : “Thưa Thế Tôn, tất cả mười loài chúng sanh ở thế gian đều cho cái Thức Tâm Hay Biết là ở trong thân. Thiết nghĩ, thì con mắt như hoa sen xanh của Như Lai cũng ở trên mặt Phật. Nay tôi thấy con mắt vật chất của tôi cũng ở trên mặt tôi. Như vậy thì cái Thức Tâm thật ở trong Thân”.

Phật bảo Ông Anan : “Hiện nay ông ngồi trong giảng đường của Như Lai. Ông hãy xem rừng Kỳ Đà ở đâu ?”

- Thưa Thế Tôn, giảng đường cao lớn thanh tịnh này ở trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà hiện thật ở ngoài giảng đường.

- Anan, nay ông ở trong giảng đường, thì ông thấy cái gì trước tiên ?

- Thưa Thế Tôn, tôi ở trong giảng đường, trước hết là thấy Như Lai, sau đó là đại chúng, rồi nhìn ra ngoài thấy vườn rừng.

- A Nan, do đâu ông thấy được vườn rừng ?

- Thưa Thế Tôn, do các cửa giảng đường mở rộng, nên tôi ở trong này mà thấy được ra ngoài xa.


Thông rằng : Phù Căn Tứ Trần (64) cũng giống như sáu Căn, đây chỉ về Nhãn Căn mà thôi. Đất, Nước, Lửa, Gió : Tánh chúng xưa nay vốn trong sạch; mà Tướng của Đất, Nước, Lửa, Gió mỗi mỗi đều dao động như bụi bặm, gọi là Trần. Khi sáu Căn tạo thành thì nương theo tứ Trần này : sáu Căn chìm vào trong, bốn Đại trôi nổi ở bên ngoài, cho nên gọi là Phù Căn Tứ Trần. Với cả mười loài, Thức Tâm đều ở trong, mắt ở trên mặt thì không nói cũng biết rồi. Con mắt của Như Lai ở trên mặt, nhưng không dám xác quyết Thức Tâm là ở trong, vì Như Lai đã rời lìa cái Thức rồi, vì cái Pháp Thân thì tròn đầy không có trong hay ngoài vậy. Anan nói ra thật đắn đo, mà người dịch cũng cẩn thận. Thế Tôn muốn bày rõ cái nghĩa “Tâm chẳng ở trong”, nên trước hết lấy giảng đường, rừng vườn, cửa nẻo làm ví dụ. Giảng đường ví như trong thân, vườn rừng ví như ngoại vật, cửa nẻo ví như lục căn. Nếu Ông Anan là người tỏ suốt, thấy được con người đích thực của Anan, vốn chẳng thuộc giảng đường, chẳng thuộc vườn rừng, chẳng thuộc cửa nẻo, thì ông sẽ đến đi tự tại, không làm gì có trong có ngoài. Nếu chấp chặt tâm này, lầm lạc cho là ở trong Sắc Thân, lấy tạng phủ làm nhà nhốt kín, lấy sáu căn làm cửa nẻo, ôm lấy ngoại cảnh làm vườn rừng, rồi nghĩ rằng ngoài những thứ đó thì không có chỗ an thân. Một mai, nhà hư cửa nát, cảnh đổi, cái Thấy tiêu vong, thì còn chỗ nào để an được. Thế Tôn tuy nương theo chỗ bình thường biện biệt thứ tự trong ngoài, cũng chỉ rõ ràng sắc thân vốn như huyễn, chẳng phải là chỗ để bám chấp được. Như giảng đường, cửa cái, cửa sổ đối với ta chẳng có tương can gì.
Ngài Trí Huy Thiền sư trước khi tịch có bài kệ :

“Ta có một căn nhà
Xây lợp bởi mẹ cha
Tám mươi năm lui tới
Gần đây rõ sắp hoại
Sớm liệu dời nơi khác
Nào có chuyện ghét thương
Đợi lúc kia sập nát
Đây kia không ngăn ngại”.

(Ngã hữu nhất gian xá
Phụ mẫu vị tu cái
Vãng lai bát thập niên
Cận lai giác tổn hoài
Tảo nghị di biệt xứ
Sự thiệp hữu tắng ái
Đãi tha tồi hủy thời
Bỉ thử vô phòng ngại).

Rồi ngồi kiết già mà đi. Đó là thương ghét đều quên, đến đi không trở ngại, cái Năng Kiến (65) đã tiêu vong thì còn nói gì đến chuyện trong ngoài nữa.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH : Khi ấy, Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, đưa cánh tay sắc vàng xoa đầu Ông Anan, dạy ông và đại chúng rằng : “Có Pháp Tam Ma Đề, tên là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, gồm đủ muôn hạnh. Mười phương Như Lai, đều do một pháp môn là con đường Diệu Trang Nghiêm ấy mà siêu xuất. Nay ông hãy lóng nghe nghĩ kỹ !”
Ông Anan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy.


THÔNG rằng : Một pháp môn siêu xuất này rõ ràng chỉ ra con đường Đốn Ngộ cốt ở chỗ chuyển Thức thành Trí. Tinh thuần dùng Kim Cang Càn Huệ mới có thể nói là con đường đạo Chân Thật. Sau này, trong kinh có nói : “Diệu Pháp này, vô lượng Chư Phật trong Hằng sa kiếp đời quá khứ, nhờ khai ngộ cái tâm này mà được đạo Vô Thượng. Thức Ấm tận hết, thì ngay đây các Căn của ông có thể dùng thay cho nhau được (66). Từ trong chỗ dùng thay nhau đó mà có thể thấu vào Kim Cương Càn Huệ của Bồ Tát. Cái Tâm thuần nhất tròn sáng ở trong phát chiếu ra, như ngọc lưu ly trong sạch, ngậm mặt trăng quý báu ở trong. Như vậy rồi vượt lên hàng Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hành, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm, đến chỗ tu hành của Kim Cương Thập Địa Bồ Tát, đến địa vị Đẳng Giác Tròn Sáng, nhập vào cái Biển Trang Nghiêm Mầu Nhiệm của Như Lai, tròn đầy cái Đạo, quy về trong cái Vô Sở Đắc”.

Đầu đuôi ứng nhau, tất lấy việc siêu xuất Thức Ấm làm cái quy tắc rốt ráo. Đức Thế Tôn thấu suốt rằng sự tiếp nối nhau của sanh tử thế gian chỉ là sự tiếp nối nhau của mỗi mỗi vọng tưởng, mê mờ chẳng hề biết quay trở lại. Thức Ấm hết ráo, đó là Chân Tâm Thường Trụ, hiện bày trước mắt, Thể Tánh trong sạch sáng soi, cùng Phật không khác. Cho nên, phá được Thức Ấm, tức nhập Đốn Môn. Ông Anan tuy thông minh học rộng, rốt cuộc chẳng ra khỏi thức tình phân biệt. Thức tình chưa trừ, chỉ là ở chỗ “Có đắc”. Mà chứng Bồ Đề, chỉ ở tại chỗ “Không đắc”. Cho nên, phần sau của kinh, nơi bảy chỗ hiển bày cái Tâm, Ông Anan mỗi mỗi cứ lấy chỗ “Có đắc” mà tự trói, còn Thế Tôn thì thảy thảy đều lấy chỗ “Không đắc” mà quét sạch. Kinh Lăng Già nói : “Có tướng để đắc là Thức, không có tướng để đắc là Trí”. Đây thật là Đốn Môn liền chứng Bồ Đề vậy.

Đức Nhị Tổ Thần Quang (67), chặt tay trước mặt Sơ Tổ Đạt Ma cầu xin pháp môn An Tâm.
Tổ nói : “Đem cái tâm lại đây ta an cho !”
Ngài Thần Quang thưa : “Con tìm hết rồi, rốt là không thể được (68) !”
Sơ Tổ nói : “Ta an tâm cho ông rồi đó”.
Nếu Ông Anan có thể tin được bảy chỗ trưng bày tâm đều bất khả đắc, thì y bát đâu có riêng truyền cho Ông Ca Diếp !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH : Phật bảo Ông Anan : “Như lời ông nói: ở giảng đường, do cửa mở rộng nên ông thấy được vườn rừng ở xa. Liệu có chúng sanh nào ở trong giảng đường, không thấy Như Lai mà lại thấy được ngoài giảng đường không ?”

Ông Anan thưa : “Thưa Thế Tôn, ở trong giảng đường không thấy Như Lai mà lại thấy được rừng suối bên ngoài, thật không có lẽ đó”.

Phật dạy : “Anan, ông cũng như thế. Cái tâm linh của ông, hết thảy đều rõ biết. Nếu hiện nay cái tâm rõ biết đó của ông thật ở trong thân, thì trước hết nó phải rõ biết trong thân thể. Vậy có chúng sanh nào, trước thấy bên trong thân rồi sau mới thấy những vật ở bên ngoài không ? Dầu không thấy được tim, gan, tì, vị nhưng móng tay mọc, tóc dài ra, gân chuyển, mạch nhảy, đúng ra phải rõ, sao lại không biết ? Đã không biết bên trong, làm sao biết được bên ngoài ? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay rõ biết đó trụ ở thân, không có lẽ nào như vậy”.


THÔNG rằng : Do mắt thấy mà tâm biết, chẳng rời căn trần, do bởi phía trong mà biết phía ngoài, đó là cái thấy bình thường thế tục. Đức Thế Tôn bèn ở nơi cái thấy thường tình mà bác bỏ rằng “Đã không biết phía trong làm sao ở phía trong ?” Tuy người có Trí cũng phải khuất phục bởi lý luận này. Thật ra, tim gan tì vị, không gì mà chẳng biết rõ. Móng tóc gân mạch, không gì mà chẳng hay. Nếu không hay biết, thì hóa ra chỉ là một vật ù lì vậy sao ?
Ngài Phó Đại Sĩ (69) có bài kệ :

“Đêm đêm ôm Phật ngủ
Sáng sáng cùng Phật dậy
Đứng ngồi vẫn theo nhau
Nói nín đồng vừa vặn
Mảy tơ chẳng lìa nhau
Tương tự như hình, bóng
Muốn biết chỗ Phật ở
Lời nói âm thanh đó”.

(Dạ dạ bảo Phật miên
Triêu triêu hoàn cọng khởi
Khởi tọa trấn tương tùy
Ngữ mặc đồng cư chỉ
Túng hào bất tương ly
Như thân ảnh tương tự
Dục thức Phật khứ xứ
Chỉ giá ngữ thanh thị).

Theo lời nói này đây, thì nói rằng “Cái tâm rõ biết ở trong Thân” cũng chẳng phải là không đúng !

Ngài Vân Môn(70) nói rằng : “Luận Bảo Tạng nói “Trong trời đất, giữa vũ trụ, có một vật báu, ẩn tại Non Hình (thân thể). Cầm lồng đèn hướng vào trong Phật điện, đem ba cửa đến để trên lồng đèn, để làm gì?”

Ngài tự thay thế mà nói : “Theo vật, ý dời”.

Lại nói : “Mây nổi sấm động”.

Ngài Tuyết Đậu (71) tụng rằng :

Xem đi,
Bến cổ ai kia nắm cần câu
Mây trùng trùng, nước mênh mông
Trăng sáng, bông lau, anh tự thấy !.

Đoạn công án này nói cái Năng Tri Tỏ Biết và cái Bổn Giác Tròn Sáng rất dễ lẫn lộn, cũng tương tợ như trăng sáng và bông lau, nên cần soi xét phân biệt. Nếu soi xét phân biệt ra được, thì không chỉ lồng đèn và lộ trụ (72), mà còn đốn triệt được Tâm Tông của Tổ Vân Môn, và cái vật báu trong thân cũng cùng với Tăng Triệu (73) khế hợp.. Đâu phải là bọn ma mị tinh hồn giỡn cợt tầm thường có thể mượn lời mà nói được.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
III- CHẤP TÂM Ở NGOÀI THÂN

KINH : Ông Anan cúi đầu bạch Phật : “Tôi nghe lời Phật dạy như vầy, mới rõ tâm tôi thật ở ngoài thân. Tại sao như thế ? Ví như đèn thắp trong phòng, trước hết phải chiếu trong phòng, sau mới do cửa chiếu sáng ngoài sân. Tất cả chúng sanh không thấy bên trong thân mà chỉ thấy bên ngoài, cũng như ngọn đèn, để ở ngoài phòng, không thể chiếu sáng trong phòng. Nghĩa ấy rõ ràng, chắc là không lầm, chưa biết có đúng với liễu nghĩa của Phật hay không ?”

Phật bảo Ông Anan : “Vừa rồi, các tỳ kheo theo Ta đi khất thực trong thành Thất La Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Ta đã thọ trai rồi, giờ ông hãy xem trong chúng tỳ kheo, khi một người ăn thì các người khác có no không ?”

Ông Anan bạch Phật : “Thưa Thế Tôn, không. Vì rằng các tỳ kheo tuy là A La Hán nhưng thân xác khác nhau, làm sao một người ăn mà các vị kia no được”.

Phật bảo Ông Anan : “Nếu cái tâm tỏ hiểu, thấy biết của ông thật riêng ở ngoài thân, thì thân và tâm ở ngoài nhau, chẳng dính líu gì với nhau. Vậy thì cái gì tâm biết thì thân không thể hay, cái gì thân hay thì tâm không thể biết. Nay Ta đưa tay nhu nhuyễn lên cho ông xem, khi mắt ông thấy thì tâm ông có phân biệt không ?”

Ông Anan bạch Phật : “Thưa Thế Tôn, đúng vậy”.

Phật bảo Ông Anan : “Nếu thân và tâm cùng hay biết một lúc thì làm sao tâm lại ở ngoài thân ? Vậy, phải biết rằng ông nói cái tâm rõ biết trụ ở ngoài thân, thật không thể có điều ấy”.


THÔNG rằng : Chỗ thấy của Ông Anan chưa chân thật nên không tránh khỏi việc theo lời mà sanh ra sự hiểu biết. Cái tri giải sanh ra theo lời nói ấy chính là chỗ ở của thức tình. Đức Thế Tôn cốt nhổ dứt cái thức căn nên mỗi mỗi đều chặt bỏ, khiến cho Ông Anan không có chỗ để bám víu. Đấy mới thật là giống như quốc vương đi dẹp giặc, biết chỗ của giặc mà diệt trừ.

Ông Anan cho rằng cái tâm ở ngoài thân, là đúng với chỗ liễu nghĩa của Phật, chẳng phải là không có kiến thức đâu. Bởi vì cái tâm ấy, ngầm ẩn nơi Trời thì là Trời, ngầm ẩn nơi Đất bèn là Đất, cùng khắp vũ trụ, rộng trải nhiều đời, chứ đâu phải ràng buộc mãi trong một thân này. Thế nên ông mới nói “Tỉnh ngộ biết cái tâm tôi thật ở ngoài thân”. Lại thêm “Nghĩa ấy rõ ràng, chắc là không lầm”.

Đức Thế Tôn lấy ví dụ “Người khác ăn tất chẳng phải ta no”, để chỉ rằng nếu cái tâm ở ngoài thì có quan hệ gì đến thân ta. Cái thân mạng là hình tướng, nên ăn chẳng thể tương thông, làm sao người này ăn người kia no được. Còn cái tri giác là thần nhiệm, trong ngoài nào có trở ngại được. Chỉ vì Ông Anan chấp chặt “Tâm ở ngoài”, như một vật sáng, chỉ chiếu bên ngoài mà không thể chiếu bên trong. Thế thì ngoài thân là tâm, còn trong thân chẳng phải là tâm sao ! Nếu tâm ở ngoài thân, thì thân không thể biết : như người khác ăn, ta chẳng thấy no. Nhưng mắt thấy cái gì, tâm liền phân biệt ngay cái ấy, thế thì cái tâm ấy lại chẳng thường ở trong ư ? Cho nên nói ở ngoài là sai lầm.

Ngài Tào Sơn(74) một hôm nghe tiếng chuông, bèn nói : “Ối chà, ối chà !”

Có nhà sư hỏi : “Hòa Thượng làm sao thế ?”

Ngài bảo : “Đánh trúng tâm ta”.

Nhà sư không có chỗ đối lại.

Ngài Ngũ Tổ Giới nói thay rằng : “Làm tâm của thằng giặc hoảng hồn(75) !”

Ngài Phó Đại Sĩ có bài kệ :

“Xóm làng các Phật, tại thế giới
Bốn biển núi sông, sanh đầy khắp
Phật với chúng sanh đồng một Thể
Chúng sanh là giả danh của Phật
Như cần thấy Phật : xem ba quận
Rừng ruộng, nhà vườn, ở khắp nơi
Hoặc ở không trung bay quanh quẩn
Hoặc cho sông núi tiếng vang lừng
Hoặc kết bạn bè đi khắp xứ
Hoặc lại cô đơn bước một mình
Hoặc khiến ban ngày xuôi ngược chạy
Hoặc khiến ban đêm đi gác canh
Hoặc đen, hoặc đỏ, rồi hoặc trắng
Hoặc tía, hoặc hồng với vàng, xanh
Hoặc to hoặc nhỏ mà mới dưỡng
Hoặc trẻ hoặc già lúc xưa sanh
Hoặc có cây đàn trên lông cánh
Hoặc mang đèn đóm ở thắt lưng
Hoặc giữa hư không bay loạn xạ
Hoặc sanh cây cỏ mặc tung hoành
Hoặc vô ngôn hạnh mà ra cửa
Hoặc vào hang đất tạm ký sanh
Hoặc xoi lỗ cây làm quê quán
Hoặc kết cỏ cây làm thành, ổ
Hoặc dệt võng lưới làm đường thôn
Hoặc nằm đất đá làm thềm ốc
Chư Phật Bồ Tát đều như thế
Cái ấy tên là Xá Vệ thành”.

Nơi này mà khế chứng(76) thì nói cái tâm Giác Liễu Năng Tri trụ ở ngoài thân cũng không phải là chẳng trúng vậy !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
IV- CHẤP TÂM NÚP SAU CON MẮT

KINH : Ông Anan bạch Phật : “Thưa Thế Tôn, như lời Phật dạy : vì không thấy bên trong thân, nên tâm không ở trong thân. Vì thân và tâm cùng biết một lần, không thể rời nhau nên tâm không riêng ở ngoài thân được. Nay tôi suy nghĩ, biết tâm ở một chỗ!”

Phật bảo : “Chỗ ấy ở đâu ?”

Ông Anan bạch Phật : “Cái tâm Hay Biết ấy đã không biết bên trong mà lại thấy bên ngoài. Theo như tôi xét nghĩ, thì nó nấp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai con mắt, con mắt tuy là có vật úp vào nhưng không bị trở ngại, con mắt ấy vừa thấy thì liền phân biệt được ngay. Cái tâm hay biết của tôi không thấy bên trong là vì tâm ấy ở nơi con mắt; nhưng lại thấy bên ngoài rõ ràng không ngăn ngại, vì tâm nấp sau con mắt”.

Phật bảo Ông Anan : “Theo chỗ ông nói : tâm nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly. Vậy thì người kia đang khi lấy chén lưu ly úp vào hai mắt, trông thấy núi sông thì có trông thấy chén lưu ly không ?”

- Thưa Thế Tôn, đúng thế, người ấy đương khi lấy chén lưu ly úp vào hai con mắt thật có thấy chén lưu ly.

Phật bảo Ông Anan : “Nếu tâm ông nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly, thì khi trông thấy núi sông sao không trông thấy con mắt ? Nếu thấy con mắt, thì con mắt cũng là ngoại cảnh, không thể mắt liền thấy mà tâm liền biết được. Nếu không thấy được con mắt, thì sao lại nói rằng tâm nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly ? Vậy, nên biết rằng ông nói cái tâm Hay Biết nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly, thật không đúng vậy”.


THÔNG rằng : Luận Bát Thức Quy Củ nói “Kẻ ngu khó phân biệt được Căn và Thức”. Vậy thì Căn và Thức khó phân biệt từ xưa rồi. Nếu nói Căn chẳng phải là Thức thì Căn tự là Căn, Thức tự là Thức. Thức thường thấy cái Căn. Nếu nói Căn tức là Thức, thì người chết kia, con mắt cũng hiện còn, tại sao chẳng thấy. Cho nên biết rằng năm Căn chỉ là vật sắc trong suốt soi cảnh vật mà thôi, còn Thức thì hiểu biết phân biệt. Chủng Tử và Hiện Hành của hai thứ huân tập chẳng giống nhau. Năm Căn tức là sắc pháp, là Tướng Phần của Thức Thứ Tám, đủ cả hai nghĩa Chấp (Giữ) và Thọ (Lãnh), có tánh vô ký và trắng sạch suốt. Năm Thức thuộc về tâm pháp, tức là Kiến Phần của Thức Thứ Tám, đủ cả ba Tánh (Thiện, Ác, Vô Ký), hay hiểu biết rõ ràng gọi là Tánh Cảnh thuộc về Hiện Lượng, nên Luận nói “Tánh Cảnh, Hiện Lượng thông ba tánh”. Đến Thức Thứ Sáu mới có Phân Biệt, thuộc về Tỷ Lượng(77), Phi Lượng(78). Đây là chỗ phân biệt giữa Căn và Thức.

Ông Anan nói rằng “Căn ấy vừa thấy liền phân biệt ngay” là đúng. Nhưng nói tiếp “Cái tâm nấp ở trong Căn như chén lưu ly úp lên mắt”, thì sai. Vì, nếu quả như khi chén lưu ly úp lên mắt, thì mắt thấy núi sông cũng thấy được chén lưu ly, cũng thế, tâm khi thấy núi sông, cũng phải thấy con mắt. Nay tâm chẳng thấy con mắt, tức là rõ ràng tâm chẳng phải ngầm ẩn trong con mắt. Ví dụ để so sánh của ông chẳng chân thật, chính thuộc Phi Lượng. Xét chỗ chỉ bày của Ông Anan thì cái tâm Tri Giác chỉ là sáu Thức Phân Biệt vậy. Sáu Thức này do đâu khởi ra ? Đó là do sự truyền tống, chuyển đưa của Thức Thứ Bảy và do sự hàm tàng, chứa giữ của Thức Thứ Tám.
Dầu cho sự phân biệt dễ bỏ, mà Hành Ấm khó trừ. Dầu cho Hành Ấm dễ tiêu, mà chủng tử khó chuyển hóa.

Nay đối với sáu Thức Phân Biệt mà Ông Anan còn chưa biết chỗ ở của chúng, huống hồ lại biết được cái Thức Thứ Bảy và Thức Thứ Tám ? Chỗ ở còn không biết, nói gì đến chuyện đem binh đi đánh dẹp ?

Kinh này mới đầu phá hang ổ của sáu Thức, nên mới có bảy chỗ trưng bày của Tâm. Sau cùng công kích các cơ quan đầu não của Thức Thứ Tám, cho đến lúc Thức Ấm hết sạch. Đây là đại lược việc chuyển Thức thành Trí. Văn sau của kinh nói rằng “Tuy để được Sáu tiêu (79) hết, dường còn chưa mất cái Một (80)”. Đến khi Một, Sáu đều tiêu, rồi không chỗ dựa, mới nhìn lại cái đoạn “Nấp trong con mắt giống như lấy chén lưu ly mà úp” này, lại không phát ra một tiếng cười lớn hay sao ! Tuy nhiên, nếu khéo thí dụ, thì không gì mà chẳng được !.

Xưa, Trung Ấp Hồng (81) thiền sư, có Ngài Ngưỡng Sơn đến tạ ơn truyền Giới, xong rồi hỏi rằng : “Cái nghĩa Phật Tánh như thế nào ?”

Tổ Ấp đáp : “Tôi sẽ nói một ví dụ cho ông : giống như cái nhà có sáu cửa sổ, trong ấy có nhốt một con khỉ lớn, ở ngoài có con khỉ lớn kêu rằng : “Đười ươi”, thì con ở trong liền ứng đáp. Y vậy, cả sáu cửa đồng kêu vang, đồng ứng đáp”.

Ngài Ngưỡng Sơn (82) lễ tạ rồi đứng lên thưa rằng : “Nhờ ơn Hòa Thượng thí dụ, không gì chẳng rõ. Lại còn có một sự : nếu con khỉ ở trong mê ngủ, con khỉ lớn ở ngoài muốn cùng gặp nhau, thì làm sao ?”

Tổ Ấp bước xuống khỏi chỗ ngồi, nắm tay Ngài Ngưỡng Sơn nhảy múa mà nói : “Đười ươi cùng ông gặp nhau rồi đó. Ví như con tò vò làm tổ trên lông nheo con muỗi, hướng về ngã tư đường mà hô hoán rằng : “Đất rộng người thưa, tương phùng ấy ít”.

Tổ Vân Cư (83) Tích nói rằng : “Khi ấy mà Trung Ấp không được một lời nói ấy của Ngưỡng Sơn, thì làm gì có Trung Ấp !”

Tổ Trung Thọ Trù nói : “Có người nào định được đạo lý này chăng ? Nếu định chẳng được thì chỉ là kẻ bắt tay chơn của tinh hồn làm trò hý lộng. Nghĩa Phật Tánh ở tại chỗ nào ?”

Thiền sư Huyền Giác (84) nói : “Nếu chẳng phải là Ngưỡng Sơn, làm sao được thấy Trung Ấp. Hãy nói đâu là chỗ Ngưỡng Sơn được gặp Trung Ấp ?”

Tổ Thiên Đồng tụng rằng :

Nhà tuyết ngũ vùi năm sắp hết
Cửa rêu đêm chẳng mở, thâm u
Vườn rừng khô lạnh xem biến đổi
Gió xuân thổi dậy luật Đồng Khôi (85).

Bài tụng này rõ ràng ca ngợi chỗ ngủ của Ngài Ngưỡng Sơn, chẳng đọa vào sự khô chết. Đó tức là chỗ Ngài Trung Ấp và Ngưỡng Sơn gặp nhau, quả là cái cảnh giới Một, Sáu điều tiêu, nhưng cái chuyện “Vườn rừng biến thái như luật Đồng Khôi” với lại “Tay chân tinh hồn” thì khác nhau biết bao !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
V- CHẤP NHẮM MẮT THẤY TỐI LÀ THẤY BÊN TRONG THÂN

KINH : Ông Anan bạch Phật : “Thưa Thế Tôn, nay tôi lại nghĩ như vầy : trong thân thể chúng sanh nầy, tạng phủ ở bên trong, khiếu huyệt ở ngoài, có tạng thì tối, có khiếu thì sáng. Nay tôi trả lời với Phật rằng : mở mắt thấy sáng, gọi là thấy bên ngoài. Nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy thế nào ?”

Phật bảo Ông Anan : “Đương khi ông nhắm mắt thấy tối, thì cái cảnh tối ấy là đối với con mắt hay không đối với con mắt”. Nếu đối với mắt thì cái tối ở trước mắt sao lại thành ở trong thân ? Còn cái tối đó thành ở trong thân thì khi ở trong phòng tối, không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng hay của đèn, thì cái gì ở trong nhà tối đó đều là phủ tạng của ông hết hay sao ? Còn nếu cái tối không đối với Mắt, thì làm sao thành ra có thấy ? Nếu cho rằng rời cái thấy sáng bên ngoài thì thành ra cái thấy tối đối với bên trong, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong thân, thì khi mở mắt thấy sáng sao lại không thấy cái mặt ? Nếu không thấy cái mặt thì cái thấy tối đối với bên trong cũng không thành được. Còn như thấy được cái mặt, thì cái tâm Hay Biết ấy và con mắt đều ở giữa hư không, sao lại thành ở trong thân được ? Nếu tâm và con mắt ở giữa hư không thì tất nhiên không phải là thân thể của ông, vì không lẽ hiện nay Như Lai thấy mặt ông cũng là thân của ông hay sao ? Và như thế thì con mắt của ông đã biết mà thân của ông lại chẳng biết. Thế là theo lời nói chấp trước của ông, thân và mắt ở riêng như thế đều có Tánh Biết, thì ông lại có hai Tánh Biết, rồi chính một thân ông sẽ thành hai đức Phật hay sao ? Vậy, phải biết rằng ông nói thấy tối gọi là thấy bên trong thân, thật không có lẽ ấy”.

THÔNG rằng : Ông Anan chỉ vì nghi vướng vào lời nói “Chẳng thể thấy bên trong” mà sanh ra bao nhiêu là suy đoán. “Nấp sau con mắt” đã chẳng phải, thì “Cái thấy tối xoay vào trong” lại đúng hay sao ? Cái “Thấy tối” này lại càng suy ra nhiều suy tính hơn. Ông Anan tuy chưa tỏ lời mà Đức Thế Tôn mỗi mỗi đem ra phá sạch. Ban đầu là hỏi cái cảnh tối đó là đối với mắt hay không đối với mắt. Nếu đối với mắt thì thành cảnh ở ngoài, còn nếu không đối với mắt thì chẳng thấy được, thì cái tối đó không thể gọi là ở trong vậy. Đã cho là cái Thấy của “Năng Kiến” là do nhìn trở lại chứ không nhờ con Mắt, thì nếu nhắm mắt nhìn vào trong thấy tối, ắt mở mắt quay lại nhìn cũng có thể thấy mặt. Mặt không thấy được, làm sao thấy được cái tối, vậy thì cái Thấy ấy không thể thấy bên trong. Nếu lại dùng tâm thức im lặng suy xét, đây là tạng phủ, đây là mặt mày, mà gọi là cái Thấy, thì cái tâm Nhãn ấy, chẳng phải ở tại hư không sao ?

Nếu cho là Tâm, mắt vốn ở tại hư không, có thể thấy mặt mày của mình, thì thân của Như Lai cũng là thân của ông sao ? Nếu cho rằng cái Thấy của Như Lai là cái Thấy của ông, thân Như Lai là thân của ông thì một thân Anan có thể thành hai vị Phật sao ?

Từ cái chỗ “Thấy bên trong” này mà sanh ra bao nhiêu là suy tính. Cái “Thấy đối với bên trong” đã chẳng thể thành, thì thấy tối không thể gọi là “Thấy bên trong” được. Tuy nhiên, cái Năng Kiến ấy nó vốn tự tối, vậy thì ai thấy đó ?

Ngài Vân Môn hạ lời : “Người người tự có quang minh cả. Khi xem chẳng thấy, tối thui thui. Thế nào là quang minh của người người ?”

Tự trả lời thay rằng : “Kho bếp ba cửa”.
Lại nói : “Việc tốt chẳng bằng không”.
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Tự chiếu bày độc sáng
Vì ông thông một đường
Hoa tàn cây không bóng
Khi xem ai chẳng thấy
Thấy, chẳng thấy
Cỡi ngược trâu, hề, vào Phật điện”.

(Tự chiếu liệt cô minh
Vi quân thông nhất tuyến
Hoa tạ thụ vô ảnh
Khán thời thùy bất kiến
Kiến bất kiến
Đảo kỵ ngưu hề nhập Phật điện).

Nếu hiểu được chỗ “Cỡi ngược trâu vào Phật điện”, thì nói “Thấy tối tức là thấy bên trong” cũng không phải là không đúng !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
VI- CHẤP TÂM HỢP VỚI CHỖ NÀO THÌ LIỀN CÓ Ở CHỖ ẤY

KINH : Ông Anan bạch Phật : “Tôi thường nghe Phật chỉ dạy tứ chúng : Do tâm sanh nên thảy thảy pháp sanh. Do pháp sanh nên thảy thảy tâm sanh”. Nay tôi suy nghĩ thì cái Thể Suy Nghĩ đó thật là tâm tánh của tôi, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó, chứ không phải ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa”.

Phật bảo Ông Anan : “Nay ông nói rằng : do Pháp sanh nên các thứ tâm sanh, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó. Cái tâm ấy nếu không có tự thể thì không thể hợp được, chứ nếu không có tự thể mà vẫn hợp được thì Giới Thứ Mười Chín cùng Trần Thứ Bảy hợp lại được hay sao ? Nghĩa ấy không đúng.

“Còn nếu có tự thể thì khi ông lấy tay tự gãi thân ông, cái tâm biết gãi của ông ở trong thân ra hay từ ngoài vào ? Nếu từ trong thân ra, thì phải thấy trong thân. Còn nếu từ ngoài vào, thì trước hết phải thấy cái mặt”.

Ông Anan bạch Phật : “Thấy là con Mắt, còn tâm thì Biết chứ không Thấy như con Mắt, nói tâm thấy là không đúng nghĩa”.

Phật dạy : “Nếu con mắt thấy được, thì khi ông ở trong phòng, cái cửa có thấy được không ? Lại những người chết rồi vẫn còn con Mắt, lẽ ra phải thấy được vật, mà nếu thấy được vật thì sao gọi là chết ?

“Anan, lại nếu cái tâm hay biết của ông phải có tự thể thì có một thể hay có nhiều thể ? Nay tâm ở nơi thân ông, thể ấy cùng khắp cả mình hay không cùng khắp ? Nếu tâm có một thể thì ông lấy tay gãi một chi, lẽ ra cả tứ chi đều biết, mà nếu đều biết thì lại không biết gãi ở chỗ nào. Nếu biết chỗ gãi thì cái thuyết một thể của ông tự nhiên không thành. Nếu như có nhiều thể thì thành ra nhiều người, còn biết cái thể nào là thể của ông. Nếu cái thể ấy là cùng khắp thì lại như trước kia, không biết được chỗ gãi. Còn nếu như không cùng khắp thì khi ông chạm trên đầu, đồng thời cũng chạm dưới chân, hễ đầu có biết, lẽ ra chân phải không biết, nhưng hiện nay ông lại không phải như thế”.
“Vậy, nên biết rằng “Hễ hợp với chỗ nào, tâm liền ở chỗ đó”, thật không có lẽ ấy”.


THÔNG rằng : Chạm đầu : đầu biết, chạm chân : chân biết, há chẳng phải là “Hễ hợp với chỗ nào, tâm liền tùy có ở chỗ đó” hay sao ? Nhưng nếu thế thì ở chỗ không hợp, thì tâm hoàn toàn không có. Đó chẳng phải là tà kiến “Đoạn, Thường” hay sao ? Đức Thế Tôn hẳn không vô cớ trách rầy chuyện này.

Chỉ ở nơi một chữ “Hợp” mà biện rõ chỗ sai lầm. Hợp tức phải là có tự thể. Nếu không có tự thể, nghĩa Hợp không thành. Cũng như không có Trần Thứ Bảy, tất không có Giới Thứ Mười Chín. Còn nếu có tự thể, thì thể này đã chẳng phải từ ngoài vào, lại cũng chẳng phải từ trong ra. Cái tâm thể ấy là một thể hay nhiều thể ? Ở nơi thân con người, nó là thể biến khắp hay là thể không biến khắp ? Lấy tay gãi một chi, thì cái Biết tùy do gãi mà có, nếu cái Biết ấy là một thể thì phải ở khắp nơi, còn nếu là nhiều thể thì thành ra nhiều người ! Cái Biết ấy nếu có ở khắp nơi thì khi gãi không rõ chỗ gãi; còn nếu không ở khắp nơi thì khi gãi lại có chỗ không biết. Có bốn điều trên đều chẳng phải, tức là cái tự thể không định được, vậy do đâu mà hợp ? Nói là “Tùy chỗ mà hợp” ấy, thì hợp với một thể ư ? Hợp với nhiều thể ư ? Hợp với thể biến khắp ư ? Hợp với Thể chẳng biến khắp ư ? Hợp với kia thì bỏ đây, hợp với đây thì bỏ kia. Vả chăng phải một, chẳng phải nhiều, chẳng phải khắp, chẳng phải không khắp, mà cuối cùng chẳng có thể hợp. Đã không thể hợp, làm sao thấy “Cái tùy theo mà có” ?

Đức Thế Tôn tuy biện biệt cái sai lầm của thuyết “Hễ hợp với chỗ nào, tâm liền tùy có ở chỗ đó”, nhưng cũng chỉ bày cái diệu mầu của Chân Tâm vô thể. Vô thể ắt vô hiệp, Tâm Cảnh chẳng đến nhau, ngay đây Giải Thoát(86), vốn tự Vô Sanh. Thế thì làm sao nói được “Pháp sanh thì thảy thảy tâm sanh” ? “Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh” cùng với ý chỉ “Tam Giới Duy Tâm” không khác, nên không cần phải biện luận. “Pháp sanh thì thảy thảy tâm sanh” thì tâm vốn Vô Sanh, nhân Cảnh mà có soi chiếu, cũng tự là không bệnh.

Nhưng Ông Anan dẫn lời dạy của Phật để chứng minh là “Hợp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó”, thì ấy là cái tâm theo sóng đuổi sóng, chẳng phải cái tâm hiện cảnh mà tịch diệt vậy. Nên ngộ được cái tâm vô thể thì sự hiện cảnh không làm ngăn ngại, nên duyên khởi mà Vô Sanh là vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Giáp Sơn (87) : “Khi dẹp Trần thấy Phật thì sao ?”
Tổ Sơn rằng : “Chính liền vung kiếm ! Nếu không vung kiếm, ngư ông nghỉ ổ !”
Nhà sư đem hỏi Tổ Thạch Sương (88) : “Dẹp Trần thấy Phật thì như thế nào ?”
Tổ Sương đáp : “Hắn không quốc độ, chỗ nào gặp hắn ?”
Nhà sư trở về nói lại y vậy cho Tổ Giáp Sơn.
Tổ Sơn thượng đường nói rằng : “Cái bày vẽ của môn đình(89) chẳng như lão tăng. Thấu lý, luận sâu còn cách Thạch Sương trăm bước !”
Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

Phất thanh kiếm lớn tẩy binh oai
Dẹp loạn công đầu ấy là ai ?
Một sớm, khí trần thanh (trọng) bốn biển
Rủ y (áo), trời đất tự vô vi.

Ngài Đơn Hà tụng rằng :

Một câu khế lý, ngọc reo vang
Nội ngoại long lanh, mắt lạnh tràn
Cõi Vô Lậu ấy dừng chẳng được
Trong bóng trăng hoa khó thấy thay !

Một tắc này đây, “Dẹp trần thấy Phật”, mà tự mình còn chẳng thấy, huống là hợp với trần mà tìm Phật, tìm Giác thì thật là quá sức điên đảo ! Tuy nhiên, một mặt trăng hiện khắp tất cả mặt nước. Tất cả mặt trăng dưới nước thu nhiếp vào một mặt trăng. Thì sự “Tùy chỗ mà hợp” lo gì chẳng có !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
VII- CHẤP TÂM Ở CHẶNG GIỮA

KINH : Ông Anan bạch Phật : “Thưa Thế Tôn, trong khi Phật nói Thực Tướng với các vị Pháp Vương Tử như Ngài Văn Thù, Thế Tôn cũng nói rằng “Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài”. Theo tôi suy nghĩ : tâm ở trong thân, sao lại không thấy bên trong; tâm ở bên ngoài thân thì thân và tâm sao lại không cùng biết. Không biết bên trong nên tâm không thể ở bên trong. Thân và tâm cùng biết nên nói tâm ở ngoài là không đúng lý. Nay thân và tâm cùng biết, lại không thấy bên trong thân, nên tâm phải ở chặng giữa !”

Phật bảo Ông Anan : “Ông nói “Ở chặng giữa”, thì cái Giữa ấy chắc không lẫn lộn và không phải không có chỗ. Nay ông nhận định cái Giữa ấy chỗ nào, ở nơi cảnh hay ở nơi thân ? Nếu ở nơi thân mà ở một bên thì không phải là ở giữa, còn nếu ở giữa thân thì cũng là ở trong thân rồi. Nếu cái giữa ấy ở nơi cảnh thì có thể nêu ra được hay không nêu ra được ? Không nêu ra được thì cũng như không có, còn nếu nêu ra được thì lại không định được. Vì sao ? Ví như có người lấy một cây nêu, nêu một chỗ làm cái Giữa, thì phương Đông nhìn qua, cái nêu lại ở phương Tây, phương Nam lại thấy thành phương Bắc. Cái Giữa nêu ra đã lẫn lộn thì tâm phải tạp loạn”.

Ông Anan bạch Phật : “Cái Giữa của tôi nói chẳng phải là hai thứ ấy. Như Đức Thế Tôn đã nói : Nhãn Căn duyên nơi Sắc Trần sanh ra Nhãn Thức. Nhãn Căn có phân biệt, Sắc Trần vô tri, Nhãn Thức sanh ở giữa thì tâm ở tại đó”.

Phật dạy : “Nếu tâm ông ở giữa Căn và Trần, thì cái thể của tâm ấy gồm cả hai bên hay không gồm cả hai bên ? Nếu gồm cả hai bên thì vật và tâm thể xen lộn, vật thì vô tri khác với tâm thể tỏ biết, thành ra hai bên đối địch lẫn nhau, lấy cái gì làm cái ở giữa ? Gồm cả hai cũng không được, vì như thế thì chẳng phải là biết hay không biết, tức là không có thể tánh, lấy cái gì làm cái tướng ở giữa ?

“Vậy, nên biết rằng ông nói cái tâm là ở chặng giữa, thật không có lẽ ấy”.


THÔNG rằng : Đến đây, Ông Anan mới bày tỏ ra là Thức sanh ở chính giữa. Nói rằng sáu Thức phân biệt ở giữa Căn và trần, so với cái thuyết núp trong con mắt thì có căn cứ hơn. Nhưng chỗ gọi là ở giữa đó, đã không ở trong lại chẳng ở ngoài, chỉ do Căn và Cảnh giao nhau, từ giữa đó mà có cái Thức phân biệt, bèn cho là tâm. Thật ra, không biết rằng ba thứ Căn, Trần, Thức nương nhau mà thành lập, như những cành lau gác lên nhau, vốn không có tự tánh. Nay xác định nó mà nói là ở giữa, vậy nếu cái giữa đó có vị trí thì gồm cả Căn và Trần hay không gồm ? Nếu gồm, thì Căn biết mà Trần lại vô tri, sự đối địch lập ra mà cái ở giữa không thành. Nếu không gồm, thì chẳng phải biết, chẳng phải không biết, không có tự thể nên cái ở giữa cũng không thành. Vậy cái giữa ở đâu ? Nên nói tâm ở chặng giữa là sai vậy.

Nếu luận về Chân Tâm, thì cũng gồm cả hai, cũng chẳng gồm cả hai. Sao gọi là gồm cả hai ? Trong Như Lai Tạng, vốn có đủ cả Kiến Phần và Tướng Phần. Như sau này, kinh nói : Tánh của Sắc là Chân Không (90), Tánh Không là Chân Sắc, thế thì làm sao có sự lộn xộn, tạp loạn được. Sao gọi là không gồm cả hai ? Vì, đó là Cái Linh Quang độc sáng, vượt khỏi Căn Trần, thì Căn không có chỗ gặp, nào từng không thể tánh sao ? Như tin được rằng cái tâm này chẳng phải biết cũng chẳng phải không biết, vốn không tự tánh, cũng không có cái Tướng ở chính giữa, mới biết rõ sâu xa Cái Chính Giữa là ra sao.

Vị quốc vương xứ Đông Ấn sau khi thỉnh Tổ Thứ Hai Mươi Bảy là Ngài Bát Nhã Đa La thọ trai xong, bèn hỏi rằng : “Mọi người đều chuyển (91) kinh, chỉ có thầy tại sao không chuyển ?”
Tổ đáp : “Bần đạo thở vào chẳng ở trong ấm, giới; thở ra chẳng dính dáng với các duyên. Thường chuyển kinh ấy trăm ngàn vạn ức quyển, chứ chẳng phải một hai quyển đâu !”

Vua bèn lễ bái.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Trâu mây giỡn nguyệt sáng miên man
Ngựa gỗ chơi xuân chẳng buộc ràng
Dưới mày ngọc lạnh xanh đôi mắt
Nào phủng da bò (92) mới khán kinh”.

Lại tụng tiếp :

“Rõ ràng tâm siêu muôn kiếp trống
Anh hùng ra sức phá vòng vây
Trời nhiệm lời yếu chuyển linh cơ
Hàn Sơn quên mất đường xưa lại
Thập Đắc song song nắm tay về”.

Đây là thói nhà (93) của Tổ Sư, chẳng lập hai bên, không an trụ trung đạo, đạo lớn rỗng suốt nhiệm mầu, chân tông không bám chấp, chính là Thứ Nhất. Cho nên, đó chẳng phải là chỗ sáu Thức, Căn và Trần đến được. Như hai Ngài Hàn Sơn, Thập Đắc : đi, đến tự tại, thong dong, nhàn nhã, trong lòng dạ tuyệt không còn một mảy tơ Tình Thức, đủ để cùng Tổ Thứ Hai Mươi Bảy tương kiến.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
VIII- CHẤP TÂM KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU TẤT CẢ

KINH : Ông Anan bạch Phật : “Thưa Thế Tôn, trước đây, tôi thấy Phật với bốn đại đệ tử là Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất cùng chuyển Pháp luân, Phật thường dạy : cái Tâm Tánh Hiểu Biết Phân Biệt cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chính giữa, đều không ở chỗ nào cả, tất cả không dính bám, tạm gọi là tâm. Nay tôi không dính bám, thì gọi là tâm chăng ?”

Phật bảo Ông Anan : “Ông nói “Cái tâm Tánh Hiểu Biết Phân Biệt đều không ở đâu tất cả”. Vậy các vật tượng thế gian như hư không và các loài dưới nước, trên đất, bay, chạy, nghĩa là tất cả sự vật mà ông cho là không dính bám đó, là có hay không có ? Không có, thì đồng với lông rùa sừng thỏ, có gì để gọi là không dính bám ? Đã có cái không dính bám thì không thể gọi là không. Không có tướng thì tức là không, chẳng phải không mà lại có tướng. Có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính bám được ?
Vậy, nên biết rằng ông nói cái không dính bám vào đâu tất cả là tâm hiểu biết, thật không có lẽ đó”.


THÔNG rằng : Cái không dính bám của Ông Anan dẫn ra đó, chưa từng chẳng phải. Nhưng hiểu cho rõ hai chữ “Tất cả”, thì cái “Vô Trước” ấy là đối với Cảnh mà có. Cảnh mà có thì có vô trước, còn cả hai đều không có, thì hóa ra đoạn diệt ! Nói sao cũng mâu thuẫn. Nếu tất cả vật tượng đều không có, thì còn có chỗ nào nữa để mà không dính bám ? Mà đã có Cái không dính bám thì vật tượng không thể nói là không có ! Nếu không có Tướng không dính bám, thì mới có thể nói là không có tất cả vật tượng. Có Sự không dính bám, tức là có Tướng rồi. Có tướng không dính bám, tức là có tâm ở đó rồi. Tâm đó ở Chỗ không dính bám thì sao lại gọi là “Đều không ở chỗ nào cả”. Tâm đã có chỗ ở thì sao lại nói là “Không dính bám” ? Trước thì ở nơi cái Năng để làm rõ cái Sở, chẳng thể gọi là không có. Tiếp sau, là dùng cái Sở để làm rõ cái Năng; cái Tướng đã có ắt phải có cái hiện hữu, nên cái nghĩa Vô trước không thành được.

Xưa, Nghiêm Dương tôn giả hỏi Tổ Triệu Châu (94): “Một vật chẳng có đem lại thì như thế nào ?”
Tổ Châu rằng : “Buông bỏ đi”.
Ông Nghiêm rằng : “Một vật chẳng có đem lại, thì buông bỏ cái gì ?”
Tổ Châu nói rằng : “Thế thì vác lên mà đi !”
Tôn giả nghe xong, đại ngộ.
Ngài Hoàng Long (95) tụng rằng :

“Một vật chẳng mang lại
Hai vai vác chẳng nổi
Vừa nghe, rõ lỗi mình
Trong lòng vui không xiết
Độc ác đã quên rồi
Rắn cọp là tri kỷ
Rỗng rang ngàn trăm năm
Gió mát chưa ngừng thổi”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

Chẳng ngờ tế hạnh trước trao tay
Từ rõ lòng quê, thẹn gõ đầu
Phá thoát, ngang lưng rìu cán mục
Rửa trong (sạch) phàm cốt, với tiên chơi”.

Bài tụng này thì Vô Trước cũng không, nên tự do, tự tại. Phần nhiều đều ở nơi cảnh, thì thấy có Vô Trước, lìa Cảnh tức là không Vô Trước. Ở nơi Tánh thấy Vô Trước, thì cái Vô Trước đó tức là Tự Tánh. Dầu còn chỉ một cái ý Vô Trước, bèn là hỏng hết vậy.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
MỤC HAI : CHỈ RÕ TÁNH THẤY

I. CẦU ĐI ĐẾN CHỖ CHÂN THẬT

KINH : Bấy giờ, Ông Anan ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo phải, đầu gối phải chấm đất, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng : “Tôi là em nhỏ nhất của Như Lai, nhờ Phật thương yêu, nay tuy đã xuất gia, còn ỷ lại nơi lòng thương của Phật. Vì thế, học rộng nghe nhiều mà chưa được quả Vô Lậu, không chiết phục nổi chú Ta Tỳ La, theo chỗ nó chuyển mà chìm nơi nhà dâm. Nguyên do vì không biết đường đến nơi Chân Tế (Phật Tánh Tự Tâm). Cầu xin Thế Tôn Đại Từ thương xót, chỉ bày cho chúng tôi con đường Chánh Định, cũng khiến cho những kẻ không tin trừ bỏ ác kiến”.
Thưa như vậy xong, rạp cả mình xuống đất, cùng tất cả đại chúng hết lòng mong nghe lời Phật dạy.


THÔNG rằng : Xét chỗ thấy của Anan lúc ấy dường chưa thể đè bẹp thức tình để đến chỗ trong lặng không dao động, chỉ vì chưa được Vô Lậu (96). Mới đầu thì cho cái tâm Giác Liễu Năng Tri là có vật, nên mới nói “Ở trong, ở ngoài, ở nơi Căn”. Đến khi đã biết là chẳng phải vật, nhưng còn cho là có Thức, nên mới nói là “Tùy chỗ Hiệp mà có”, “Thức sanh ở chặng giữa”. Đến lúc cái Tri, cái Thức đều tiêu hết, rồi mới tin là “Chẳng có dính bám (Vô Trước)”. Nhưng đã có cái ý “Không dính bám” thì cũng đã dính bám rồi vậy. Nhưng tất cả không có dính bám mới chỉ đoạn trừ được cái Thức Thứ Bảy, chứ chưa đến cái địa vị lặng lẻ. Mà dù có đến được địa vị lặng lẻ, thì vẫn còn ngồi trong hang ổ của Thức Thứ Tám, chỗ ngoại đạo gọi là Minh Đế(97). Nếu con đường tu Định chỉ là phương tiện bờ mé của việc chuyển Thức thành Trí, mà Thánh giải còn tuyệt chẳng dung chú niệm, huống gì là lại bám lấy phàm tình để bị kéo lôi ? Cho nên, tình phàm ý Thánh đều hết, thì Chân Thường hiển lộ, mới gọi là Chân Tế. Thấu suốt Chân Tế mới không bị dâm thuật chuyển đảo. Chẳng phải chỉ tự mình hiểu biết hẳn hoi đầy đủ chỗ Tịch Tịnh(98) mà còn giúp cho hết thảy phàm phu chưa đủ lòng tin phá trừ được ác kiến vậy.

Ngài Đoan Sư Tử đọc Lăng Nghiêm có bài tụng :

“Bảy chỗ bày Tâm, tâm chẳng thỏa
Ngơ ngác Anan không liếc tới
Hiện mà bày được, thấy vô tâm
Ấy chính trong bùn rửa đất cục”.

Có thể nói là bực có con mắt đầy đủ.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
II. PHÓNG QUANG NÊU RA TÁNH THẤY VIÊN MÃN SÁNG SUỐT

KINH : Bấy giờ từ mặt Đức Thế Tôn phóng ra các thứ hào quang, ánh sáng rực rỡ như trăm nghìn mặt trời. Khắp các thế giới của chư Phật, sáu thứ chấn động. Các cõi nước nhiều như vi trần của mười phương hiện ra trong một lúc. Oai thần của Phật khiến các thế giới hợp lại thành một thế giới. Trong thế giới này, tất cả các vị Bồ Tát hiện có đều an trụ ở nước mình chấp tay nghe lời Phật dạy.

THÔNG rằng : Phóng quang động địa, xưa cho là cảnh giới không thể nghĩ bàn, nhưng cũng có thể hiểu được. Các đạo gia, tinh thần đầy đủ, vững chắc, thì trong đêm tối, mắt vẫn có sáng tỏ mà không vật gì chẳng thấy. Huống hồ Đức Thế Tôn nhiều kiếp thành tựu, thì hào quang chẳng có chói lọi rực rỡ sao ? Hạng cầu đảo vận động nguyên khí có thể kêu mây mưa xuống, huống là Pháp Thân thanh tịnh của Thế Tôn không bờ không bến thì khắp các thế giới của chư Phật chẳng chấn động sao ? Thế Tôn dựng cây cờ Pháp lớn, tất trước tiên phải có chỗ tỏ bày. Chỗ nói là “Khiến tất cả các thế giới hợp lại thành một cõi” là đã ẩn cái ý Hội Vọng quy Chơn vậy. Nếu là hạng thượng căn(99) lợi trí thì thấy ánh sáng như thế, nhìn sự việc như thế, liền được Bổn Tâm, chứng Vô Sanh Nhẫn.

Thiền sư Viên Chiếu (100) lên tòa giảng, nói rằng : “Hãy xem ! Ánh sáng tốt lành rực rỡ, chiếu sáng cả Đại Thiên thế giới. Trăm ức vi trần cõi nước, trăm ức đại hải, trăm ức núi Tu Di, trăm ức mặt trời, mặt trăng, trăm ức bốn Châu thiên hạ, cho đến cõi Phật vi trần đều ở trong ánh sáng phát hiện ra cùng một lúc. Các nhân giả ! Có thấy chăng ? Nếu thấy được, thì chính các ông đang tự thân ở trong ánh sáng tốt lành ấy. Không thấy được, đừng nói là ánh sáng tốt lành chẳng có chiếu soi. Hãy tham !”

Ai ai cũng đều có ánh sáng này. Vì sao Tổ Viên Chiếu thấy còn mọi người chẳng thấy ? Đó là ngộ với chẳng ngộ vậy. Pháp Tánh vốn khắp cả, vọng trần chẳng ngăn cách được. Cái Trí Cảnh vốn tròn đầy, thức tình nào ngăn ngại được. Nếu ngộ Tự Tâm, bèn biết hết thảy, đấy đều là việc trong nhà.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
III. HAI THỨ CĂN BẢN

KINH : Phật bảo Ông Anan : “Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay, đủ thứ điên đảo, mầm giống Nghiệp tự nhóm lại như chùm quả ác xoa. Những người tu hành không thành được Bồ Đề Vô Thượng, đến nỗi riêng thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành ngoại đạo, Chư Thiên, Ma Vương, hay bà con quyến thuộc của Ma. Tất cả đều do không biết hai loại căn bản, lầm lộn tu tập, cũng như nấu cát mà muốn thành món ngon, dầu trải qua số kiếp nhiều như bụi, rốt cũng chẳng được.

“Thế nào là hai loại căn bản ? Anan, một là, Cội Gốc (Căn Bản) của Sanh Tử vô thủy. Tức là ông hiện giờ và các chúng sanh dùng cái tâm Bám Níu Theo Duyên (Tâm Phan Duyên) mà làm Tự Tánh. Hai là, cái Thể bản lai thanh tịnh Bồ Đề Niết Bàn vô thủy. Tức là cái Chân Tâm vốn sáng soi của ông hiện giờ, hay sanh các duyên nhưng ông lại duyên theo các tướng duyên đó mà bỏ quên nó. Vì các chúng sanh bỏ quên cái Vốn Tự Sáng này nên tuy trọn ngày sử dụng nó mà chẳng tự biết, uổng oan lạc vào sáu nẻo.


THÔNG rằng : Bảy chỗ bày cái tâm, đều là chẳng phải, vì dùng Tâm Phan Duyên làm tự tánh.

Ông Anan cũng biết cái tâm này chưa được Vô Lậu, không chiết phục nổi chú Ta Tỳ La, mà còn bị nó chuyển. Ông nói : “Nguyên do là vì không biết chỗ vào Chân Tế, là cũng đã lờ mờ trộm thấy cái Thể trong sạch của Bồ Đề Niết Bàn (Niết Bàn là Tịch Diệt), nên xin Phật chỉ bày. Do đó, Thế Tôn phân tích rõ ràng mà dạy cho. Trước, Phật đã dạy : Dùng các vọng tưởng, các tưởng này chẳng chân thật, nên mới bị luân chuyển. Điều đó, ở đây Ngài dạy : Dùng Tâm Phan Duyên mà làm Tự Tánh, đó là cái gốc rễ của sanh tử từ vô thủy đến nay vậy. Trước, Phật dạy: Đều chẳng biết cái Chơn Tâm chẳng sanh chẳng diệt, tánh nó chẳng ô nhiễm, thể nó vốn sáng suốt. Tức ở đây là : Bồ Đề Niết Bàn, vốn thể nó trong sạch, đó là gốc rễ chẳng sanh chẳng diệt xưa nay vậy.

Xoay chuyển nơi sống chết : Hoặc, Nghiệp, Khổ ba thứ này sanh ra, đồng nhau tụ hợp giống như chùm trái ác xoa. Không những Thiên Ma, ngoại đạo chắc chắn ở trong luân hồi, mà ngay cả Thanh Văn Duyên Giác tu tập lầm lộn, đều gọi là điên đảo.

Tại sao thế ? Vì lấy Sanh Diệt làm Nhân Địa tu hành vậy. Mà cái Nguyên Minh vốn sáng soi, sinh ra các duyên thì vốn tự chẳng sanh chẳng diệt, chỉ vì duyên theo cái Sở mà bỏ quên nó.

Như đoạn sau, kinh nói rằng “Tánh Nguyên Minh ấy chiếu mà sanh ra cái Sở. Cái Sở đã riêng lập thì Tánh Chiếu Soi bị bỏ quên”, thì ý chỉ cũng giống đoạn này. Đấy tức là nguyên do sanh ra các vọng tưởng, mà đã lạc vào vọng tưởng, bèn mất đi Bản Tánh. Quên mất cái Nguồn Gốc Sáng Suốt này, nên rơi vào các nẻo, mà không thành Bồ Đề Vô Thượng.

Có vị khách làm Thượng Thơ ra mắt Tổ Trường Sa.
Tổ Sa gọi : “Thượng Thơ !”
Vị này lên tiếng dạ.
Tổ Sa nói : “Đã chẳng phải là bổn mạng Thượng Thơ đó sao ?”
Thượng Thơ rằng : “Chẳng thể lìa bỏ. Nhưng nay vừa đối diện, lại riêng có chủ nhân thứ hai rồi”.
Tổ Sa nói : “Gọi Thượng Thơ là Chí Tôn được không ?
Nói rằng : “Như thế, suốt cả khi không đối, đã không phải là chủ nhân của đệ tử sao ?”

Tổ Sa nói : “Chẳng phải chỉ khi đối hay không đối, mà từ đời vô thủy đến nay, đó là cái Căn Bản sanh tử của ông vậy”.

Lại tụng rằng :

“Cái người học đạo chẳng biết Chân
Chỉ bởi xưa nay nhận Thức Thần
Gốc rễ tử sanh, từ vô thủy
Kẻ si lại gọi Bổn Lai Nhơn”.

(Học đạo chi nhơn bất thức Chơn
Chỉ vị tùng lai nhân Thức Thần
Vô thủy kiếp lai sanh tử bổn
Si nhơn hoán tác Bổn Lai Nhơn).

Như vậy thì chủ nhơn xưa nay, do đâu mà biết ???

Phẩm Xuất Hiện của kinh Tạp Hoa nói : “Phật tử, không có chúng sanh nào mà không vốn đủ Trí Huệ Như Lai, chỉ vì bám giữ lấy vọng tưởng điên đảo mà chẳng chứng(101) được. Nếu lìa vọng tưởng, thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí, tự hiển bày trước mắt”.
Ngài Thiên Đồng tụng :

“Trời che đất chở, nên khối, thành hòn
Khắp pháp giới nhưng không bờ mé
Chẻ lân hư mà không ở trong
Nuốt trọn huyền vi
Nào phân sau, trước.
Phật, Tổ đến đây trả nghiệp miệng
Hỏi lấy Nam Tuyền, Vương Lão Sư (102)
Người người ăn chỉ rau, một cọng”.

Đã là chuyện ai ai cũng có, sao chẳng thể cùng chứng Bồ Đề mà đến nỗi riêng thành Thanh Văn, Duyên Giác ?

Kinh Viên Giác nói : “Tất cả chúng sanh vọng thấy có lưu chuyển. Chán ghét lưu chuyển, lại vọng thấy có Niết Bàn. Do vậy mà chẳng nhập vào cái Giác vốn trong sạch. Chẳng phải Giác cản chống lại người-nhập. Vì, chỉ có người-nhập, chẳng phải cái Giác có sự nhập”.
Nhưng, biết chọn giữ lấy cái Căn Bản Không Sanh Không Diệt, ngoài sự đại triệt ngộ, thì không thể.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top