Trích : Sự nghiệp và hoằng hoá của H.T Tuyên Hoá
18- Am tranh không cháy.
Ba năm hành trì hiếu đạo bên ngôi mộ Mẫu Thân đã gần mãn. Vào một buổi hoàng hôn, người trong làng bỗng nhiên thấy một luồng ánh sáng phát ra từ túp lều của Ngài. Luồng hào quang cao đến ba mươi bộ sáng rực cả một vùng như ban ngày. Họ la lên:
- Lều của Bạch Hiếu Tử đã phát hỏa chắc sẽ có chuyện không may xảy ra cho Pháp sư Độ Luân.
Họ bèn cấp báo cho nhau rồi tức tốc chạy ra nghĩa trang mang theo những bình nước để cứu
hỏa, nhưng khi họ tới nơi, túp lều của Ngài vẫn bình an vô sự và Ngài thì vẫn an nhiên đang ngồi niệm Phật cạnh một ngọn đèn dầu nhỏ; ai nấy cũng cho là chuyện huyền diệu thật khó nghĩ bàn.
19- Mộng gặp Độ công (Thầy Độ Luân)
Mặc dù Ngài thủ hiếu trong một túp lều tranh nhỏ bên phần mộ Mẹ giữa vùng đất hoang vắng, vậy mà người đến cầu kiến Ngài không ngừng. Họ đều thỉnh cầu Quy y Tam Bảo vì hoặc được Ngài chữa lành bệnh, hoặc vì cảm mến oai nghi đức độ và hạnh thủ hiếu của Ngài. Lều tranh nhỏ dần biến thành ngôi miếu tự được dân làng tôn sùng nhất.
Sau khi mãn ba năm, Ngài đến ẩn cư tại Động Di Đà, phần núi Đông Bộ thuộc nhánh Trường Bạch, nơi đây cây cối rậm rạp nhiều chim muôn và dã thú không dấu chân người; thích hợp cho những vị hành tu khổ hạnh. Ngài miên mật tọa thiền và tu hạnh đầu đà, chỉ ăn rau dại uống nước suối, tự tại trong cảnh giới thoát trần này.
Thỉnh thoảng Ngài xuống núi mua nhang dầu và các vật dụng cần thiết. Lần nọ, trên đường đến phố Ngài đi ngang qua Trấn Lạp Lâm, Thôn Bối Âm Hà, dừng nghỉ tại nhà Quan Trạm Hải và người chú là Quan Trung Hỉ. Quan Trung Hỉ là một tà sư thường truyền mật pháp gọi là “Đạo Nhiếp Duyên.” Ông ta có trên bốn ngàn đệ tử. Ông nói với các đệ tử rằng ông có hằng trăm báu vật bán với giá một ngàn đồng mỗi cái, vì những báu vật này chỉ có danh mà không có thực nên Quan Trung Hỉ nói rằng:
- Thời cơ chưa tới cho nên bây giờ ta không giao cho các ngươi những báu vật này được. Đợi thời cơ thuận tiện lúc thế giới này thay đổi thì các ngươi sẽ thọ nhận những báu vật ấy.
Khi đúng năm mươi tuổi, ông Quan Trung Hỉ giác ngộ rằng sự giàu sang phú quý không thể nào bảo đảm cho mạng sống của ông; vì biết rằng mình sắp sửa qua đời và lo không kịp tu Đạo nên cùng người cháu lên đường tìm Minh nhãn Thiện tri thức, người có “mắt sáng” để hướng dẫn họ về thiền quán. Trong suốt ba năm, hai chú cháu đi lang thang khắp nơi tầm Sư học Đạo, họ đã viếng thăm nhiều danh Sư tại các Tu viện nổi tiếng, những Học giả tại các Trường lớn, những nhà tu khổ hạnh trong các sơn động, nhưng chẳng gặp được ai có thể dạy họ tu pháp thiền quán nên thất vọng đành bỏ cuộc và trở về nhà.
Vừa thấy Ngài, Quan Trạm Hải vội kéo người chú sang một bên hỏi:
- Chú ơi! Vị Sư này là ai vậy? Bộ chú có quen hay sao?
- Chú nghe tiếng vị Sư này từ lâu, Ngài chính là Pháp sư An Từ, thủ hiếu nơi mộ phần đó mà!
- Thật kỳ lạ! Đêm qua cháu mơ thấy Pháp sư đến đây và ngồi trên chiếc giường bằng gạch này. Cháu quỳ xuống thỉnh Ngài dạy cho chú cháu mình cách tu đạo. Ngài dạy cháu rằng: Lớp da trên thân cháu cần phải lột vứt đi thì mới có thể tu đạo được. Nói xong, Ngài bèn dùng tay kéo từ trên đầu cháu ra một miếng da và quăng xuống đất. Cháu mới phát hiện ra đó chính là miếng da heo. Ngài còn nói: Ngươi không ăn chay, và đã ăn thịt heo. Trong tương lai, ngươi sẽ chuyển kiếp thành một con heo. Cháu sợ điếng người và thưa rằng: Không, không! Con heo dơ dáy và ngu si lắm! Rồi cháu hoảng hốt giật mình thức dậy. Cháu vừa mơ đêm qua thì hôm nay Pháp sư này đã đến đây vậy không biết là điềm lành hay điềm dữ?
Người Chú kinh ngạc hỏi:
- Thật sao? Thật là cháu đã mơ như vậy phải không? Tất nhiên đó là một điềm tốt rồi. Pháp sư Độ Luân luôn cho việc hoằng dương Phật pháp lợi ích chúng sanh là trọng trách của mình và đối với chúng sanh Ngài tùy thời quán xét căn tánh ban giáo pháp. Chú đã từng đi lễ bái Ngài nhưng chưa bao giờ được gặp mặt. Nào ngờ hôm nay Ngài thân hành đến chắc vì chú hằng ngày kiên thành lễ Phật nên được cảm ứng.
Hai chú cháu quỳ trước mặt Ngài, cầu thỉnh Ngài ban cho yếu chỉ tu đạo, Ngài bèn giới thiệu nhiều thiện tri thức cho họ nhưng họ vẫn nài nỉ được làm đệ tử Ngài; vì còn đang là một chú Tiểu trẻ nên Ngài chưa muốn thu nhận đồ đệ. Sau cùng Ngài bảo họ:
- Thôi trước hết hãy tập ngồi kiết già rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau.
Sau đó họ tập ngồi thiền mỗi ngày, người cháu ngồi kiết già rất dễ dàng nhưng người chú gặp khó khăn vì xương xóc đã già nên cứng đơ. Ở miền Đông Bắc Trung Hoa, người miền núi có xương bánh chè rất lớn. Khi họ ngồi xếp bằng, đầu gối và xương bánh chè cách mặt đất đến ba mươi phân. Dù vậy nhưng ông chú vẫn nhất quyết kiên trì cố đè đầu gối xuống cho bằng được, và trong vòng bảy mươi ngày ông ta có thể ngồi kiết già được.
Khi Ngài trở lại thấy chân ông sưng vù, đau đến nỗi không thể bước qua được một cái rãnh nhỏ. Ngài bảo ông ta:
- Ông không nên tập ngồi kiết già. Ông còn tập không?
- Dạ thưa còn.
- Thôi đừng nên tiếp tục nữa.
- Ngài bảo sao? Tôi đã gần đất xa trời và nếu bây giờ tôi không tập thì còn chờ đến bao giờ? Vì vậy bất luận đau đớn thế nào đi nữa tôi cũng ráng ngồi kiết già cho bằng được. Nếu tôi chết, thì đó là một việc khác. Nhưng giờ đây tôi còn sống thì tôi cứ tập.
- Vậy thì tùy ý ông.
Một trăm ngày trôi qua, Ngài trở lại và thấy hai chân của ông chú không còn sưng nữa. Ngài hỏi:
- Chắc ông đã hết ngồi thiền rồi phải không?
Quan Trung Hỉ cười đáp:
- Bây giờ tôi có thể ngồi kiết già được rồi, và bất luận ngồi lâu bao nhiêu, tôi cũng không thấy đau nữa, còn chân của tôi thì cũng không còn sưng nữa.
- Giờ tôi sẽ dạy cho các vị phương pháp tu hành. Tại sao chúng sanh tu mà không đắc đạo? Chính vì vọng tâm quá nhiều. Nếu có vọng tâm thì chân tánh luôn bị nhiễu loạn, ắt sẽ khiến người ta dễ chấp vào sắc dục. Khi tâm đã vướng vào vòng ái dục, sự tham cầu vật chất nối liền phát sanh và tâm chứa đầy phiền não. Khi vọng tưởng khởi, phiền não sanh, khiến thân tâm ưu khổ không được tự tại.
Chúng sanh lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi không thoát ra được, nên Chân Đạo ngày một xa vợi. Biển khổ không bờ, nếu mình biết hồi đầu thời sẽ đến bờ giác cứu cánh Niết Bàn, hồi phục bổn lai diện mục của mình. Chủ yếu cần phải tỉnh giác trong mỗi niệm, như gà ấp trứng, mèo rình chuột, rồng giữ hạt châu thì tự nhiên chẳng bao lâu sẽ nhận được tin lành.
Dạy xong Ngài truyền Quy y và chỉ rõ cho hai chú cháu pháp tu TÂM.
Hai chú cháu được như ý nguyện vui mừng khôn tả, họ y theo lời dạy của Ngài tu trì không một chút lơ là hay biếng nhác. Vài năm sau Quán Trung Hỉ gọi tất cả người nhà lại và nói rằng:
- Ngày đó giờ đó tôi sẽ ra đi và điều mong ước cuối cùng của tôi là được gặp mặt Thầy tôi một lần cuối. Nhưng tôi không biết hiện nay Ngài ở đâu?
Rồi đến ngày đã định, ông ngồi kiết già ngay ngắn niệm Phật vãng sanh chẳng mảy may đau ốm chi. Đêm hôm đó nhiều người trong làng cùng có một giấc mơ giống nhau; họ mơ thấy có hai vị Đồng Tử mặc áo xanh, dẫn Quan Trung Hỉ bay về hướng Tây.
Sau đó trên đường đi theo Ngài đến khoảng đất trống người cháu bỗng sụp quỳ xuống nắm lấy tay áo Ngài và xin làm đệ tử. Ngài gỡ tay anh ta ra và định bỏ đi. Người thiếu niên quyết xin cho được, nói rằng: “Còn sẽ không đứng dậy cho đến khi được Thầy nhận làm đệ tử.”
Mặc dầu gia đình không giàu có nhưng mỗi Tết Quan Trạm Hải đều thành tâm dâng lên Sư phụ một chút lễ vật. Anh thật lòng hiếu kính không bao giờ quên ơn huệ Ngài đã giải thoát cái lốt heo của anh ta trong giấc mơ xưa kia.
xem day du tai day :
www.chuakimquang.com/vn/Gioi-Thieu/Bai-V...Am-Tranh-Khong-Chay/
18- Am tranh không cháy.

Ba năm hành trì hiếu đạo bên ngôi mộ Mẫu Thân đã gần mãn. Vào một buổi hoàng hôn, người trong làng bỗng nhiên thấy một luồng ánh sáng phát ra từ túp lều của Ngài. Luồng hào quang cao đến ba mươi bộ sáng rực cả một vùng như ban ngày. Họ la lên:
- Lều của Bạch Hiếu Tử đã phát hỏa chắc sẽ có chuyện không may xảy ra cho Pháp sư Độ Luân.
Họ bèn cấp báo cho nhau rồi tức tốc chạy ra nghĩa trang mang theo những bình nước để cứu
hỏa, nhưng khi họ tới nơi, túp lều của Ngài vẫn bình an vô sự và Ngài thì vẫn an nhiên đang ngồi niệm Phật cạnh một ngọn đèn dầu nhỏ; ai nấy cũng cho là chuyện huyền diệu thật khó nghĩ bàn.
19- Mộng gặp Độ công (Thầy Độ Luân)
Mặc dù Ngài thủ hiếu trong một túp lều tranh nhỏ bên phần mộ Mẹ giữa vùng đất hoang vắng, vậy mà người đến cầu kiến Ngài không ngừng. Họ đều thỉnh cầu Quy y Tam Bảo vì hoặc được Ngài chữa lành bệnh, hoặc vì cảm mến oai nghi đức độ và hạnh thủ hiếu của Ngài. Lều tranh nhỏ dần biến thành ngôi miếu tự được dân làng tôn sùng nhất.
Sau khi mãn ba năm, Ngài đến ẩn cư tại Động Di Đà, phần núi Đông Bộ thuộc nhánh Trường Bạch, nơi đây cây cối rậm rạp nhiều chim muôn và dã thú không dấu chân người; thích hợp cho những vị hành tu khổ hạnh. Ngài miên mật tọa thiền và tu hạnh đầu đà, chỉ ăn rau dại uống nước suối, tự tại trong cảnh giới thoát trần này.
Thỉnh thoảng Ngài xuống núi mua nhang dầu và các vật dụng cần thiết. Lần nọ, trên đường đến phố Ngài đi ngang qua Trấn Lạp Lâm, Thôn Bối Âm Hà, dừng nghỉ tại nhà Quan Trạm Hải và người chú là Quan Trung Hỉ. Quan Trung Hỉ là một tà sư thường truyền mật pháp gọi là “Đạo Nhiếp Duyên.” Ông ta có trên bốn ngàn đệ tử. Ông nói với các đệ tử rằng ông có hằng trăm báu vật bán với giá một ngàn đồng mỗi cái, vì những báu vật này chỉ có danh mà không có thực nên Quan Trung Hỉ nói rằng:
- Thời cơ chưa tới cho nên bây giờ ta không giao cho các ngươi những báu vật này được. Đợi thời cơ thuận tiện lúc thế giới này thay đổi thì các ngươi sẽ thọ nhận những báu vật ấy.
Khi đúng năm mươi tuổi, ông Quan Trung Hỉ giác ngộ rằng sự giàu sang phú quý không thể nào bảo đảm cho mạng sống của ông; vì biết rằng mình sắp sửa qua đời và lo không kịp tu Đạo nên cùng người cháu lên đường tìm Minh nhãn Thiện tri thức, người có “mắt sáng” để hướng dẫn họ về thiền quán. Trong suốt ba năm, hai chú cháu đi lang thang khắp nơi tầm Sư học Đạo, họ đã viếng thăm nhiều danh Sư tại các Tu viện nổi tiếng, những Học giả tại các Trường lớn, những nhà tu khổ hạnh trong các sơn động, nhưng chẳng gặp được ai có thể dạy họ tu pháp thiền quán nên thất vọng đành bỏ cuộc và trở về nhà.
Vừa thấy Ngài, Quan Trạm Hải vội kéo người chú sang một bên hỏi:
- Chú ơi! Vị Sư này là ai vậy? Bộ chú có quen hay sao?
- Chú nghe tiếng vị Sư này từ lâu, Ngài chính là Pháp sư An Từ, thủ hiếu nơi mộ phần đó mà!
- Thật kỳ lạ! Đêm qua cháu mơ thấy Pháp sư đến đây và ngồi trên chiếc giường bằng gạch này. Cháu quỳ xuống thỉnh Ngài dạy cho chú cháu mình cách tu đạo. Ngài dạy cháu rằng: Lớp da trên thân cháu cần phải lột vứt đi thì mới có thể tu đạo được. Nói xong, Ngài bèn dùng tay kéo từ trên đầu cháu ra một miếng da và quăng xuống đất. Cháu mới phát hiện ra đó chính là miếng da heo. Ngài còn nói: Ngươi không ăn chay, và đã ăn thịt heo. Trong tương lai, ngươi sẽ chuyển kiếp thành một con heo. Cháu sợ điếng người và thưa rằng: Không, không! Con heo dơ dáy và ngu si lắm! Rồi cháu hoảng hốt giật mình thức dậy. Cháu vừa mơ đêm qua thì hôm nay Pháp sư này đã đến đây vậy không biết là điềm lành hay điềm dữ?
Người Chú kinh ngạc hỏi:
- Thật sao? Thật là cháu đã mơ như vậy phải không? Tất nhiên đó là một điềm tốt rồi. Pháp sư Độ Luân luôn cho việc hoằng dương Phật pháp lợi ích chúng sanh là trọng trách của mình và đối với chúng sanh Ngài tùy thời quán xét căn tánh ban giáo pháp. Chú đã từng đi lễ bái Ngài nhưng chưa bao giờ được gặp mặt. Nào ngờ hôm nay Ngài thân hành đến chắc vì chú hằng ngày kiên thành lễ Phật nên được cảm ứng.
Hai chú cháu quỳ trước mặt Ngài, cầu thỉnh Ngài ban cho yếu chỉ tu đạo, Ngài bèn giới thiệu nhiều thiện tri thức cho họ nhưng họ vẫn nài nỉ được làm đệ tử Ngài; vì còn đang là một chú Tiểu trẻ nên Ngài chưa muốn thu nhận đồ đệ. Sau cùng Ngài bảo họ:
- Thôi trước hết hãy tập ngồi kiết già rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau.
Sau đó họ tập ngồi thiền mỗi ngày, người cháu ngồi kiết già rất dễ dàng nhưng người chú gặp khó khăn vì xương xóc đã già nên cứng đơ. Ở miền Đông Bắc Trung Hoa, người miền núi có xương bánh chè rất lớn. Khi họ ngồi xếp bằng, đầu gối và xương bánh chè cách mặt đất đến ba mươi phân. Dù vậy nhưng ông chú vẫn nhất quyết kiên trì cố đè đầu gối xuống cho bằng được, và trong vòng bảy mươi ngày ông ta có thể ngồi kiết già được.
Khi Ngài trở lại thấy chân ông sưng vù, đau đến nỗi không thể bước qua được một cái rãnh nhỏ. Ngài bảo ông ta:
- Ông không nên tập ngồi kiết già. Ông còn tập không?
- Dạ thưa còn.
- Thôi đừng nên tiếp tục nữa.
- Ngài bảo sao? Tôi đã gần đất xa trời và nếu bây giờ tôi không tập thì còn chờ đến bao giờ? Vì vậy bất luận đau đớn thế nào đi nữa tôi cũng ráng ngồi kiết già cho bằng được. Nếu tôi chết, thì đó là một việc khác. Nhưng giờ đây tôi còn sống thì tôi cứ tập.
- Vậy thì tùy ý ông.
Một trăm ngày trôi qua, Ngài trở lại và thấy hai chân của ông chú không còn sưng nữa. Ngài hỏi:
- Chắc ông đã hết ngồi thiền rồi phải không?
Quan Trung Hỉ cười đáp:
- Bây giờ tôi có thể ngồi kiết già được rồi, và bất luận ngồi lâu bao nhiêu, tôi cũng không thấy đau nữa, còn chân của tôi thì cũng không còn sưng nữa.
- Giờ tôi sẽ dạy cho các vị phương pháp tu hành. Tại sao chúng sanh tu mà không đắc đạo? Chính vì vọng tâm quá nhiều. Nếu có vọng tâm thì chân tánh luôn bị nhiễu loạn, ắt sẽ khiến người ta dễ chấp vào sắc dục. Khi tâm đã vướng vào vòng ái dục, sự tham cầu vật chất nối liền phát sanh và tâm chứa đầy phiền não. Khi vọng tưởng khởi, phiền não sanh, khiến thân tâm ưu khổ không được tự tại.
Chúng sanh lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi không thoát ra được, nên Chân Đạo ngày một xa vợi. Biển khổ không bờ, nếu mình biết hồi đầu thời sẽ đến bờ giác cứu cánh Niết Bàn, hồi phục bổn lai diện mục của mình. Chủ yếu cần phải tỉnh giác trong mỗi niệm, như gà ấp trứng, mèo rình chuột, rồng giữ hạt châu thì tự nhiên chẳng bao lâu sẽ nhận được tin lành.
Dạy xong Ngài truyền Quy y và chỉ rõ cho hai chú cháu pháp tu TÂM.
Hai chú cháu được như ý nguyện vui mừng khôn tả, họ y theo lời dạy của Ngài tu trì không một chút lơ là hay biếng nhác. Vài năm sau Quán Trung Hỉ gọi tất cả người nhà lại và nói rằng:
- Ngày đó giờ đó tôi sẽ ra đi và điều mong ước cuối cùng của tôi là được gặp mặt Thầy tôi một lần cuối. Nhưng tôi không biết hiện nay Ngài ở đâu?
Rồi đến ngày đã định, ông ngồi kiết già ngay ngắn niệm Phật vãng sanh chẳng mảy may đau ốm chi. Đêm hôm đó nhiều người trong làng cùng có một giấc mơ giống nhau; họ mơ thấy có hai vị Đồng Tử mặc áo xanh, dẫn Quan Trung Hỉ bay về hướng Tây.
Sau đó trên đường đi theo Ngài đến khoảng đất trống người cháu bỗng sụp quỳ xuống nắm lấy tay áo Ngài và xin làm đệ tử. Ngài gỡ tay anh ta ra và định bỏ đi. Người thiếu niên quyết xin cho được, nói rằng: “Còn sẽ không đứng dậy cho đến khi được Thầy nhận làm đệ tử.”
Mặc dầu gia đình không giàu có nhưng mỗi Tết Quan Trạm Hải đều thành tâm dâng lên Sư phụ một chút lễ vật. Anh thật lòng hiếu kính không bao giờ quên ơn huệ Ngài đã giải thoát cái lốt heo của anh ta trong giấc mơ xưa kia.
xem day du tai day :
www.chuakimquang.com/vn/Gioi-Thieu/Bai-V...Am-Tranh-Khong-Chay/