- Tham gia
- 19/4/18
- Bài viết
- 783
- Điểm tương tác
- 212
- Điểm
- 43
Miêu tả tổng quát về 8 tầng thiền định, gồm 4 tầng Sắc giới và 4 tầng Vô Sắc giới, 8 tầng thiền định này gọi chung là thiền Hiệp thế hay là Đáo đại (thiền của phàm nhân) chứ không phải là thiền Siêu thế (thiền của bậc Thánh). Bậc Thánh (4 Thánh quả) có thể đắc cả thiền Hiệp thế và thiền Siêu thế, hoặc chỉ đắc thiền Siêu thế mà thôi.
PHẦN A – TÌM HIỂU SƠ LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ 8 TẦNG THIỀN ĐỊNH
Khi một người tu đắc được tầng thiền đầu tiên là Sơ thiền Sắc giới thì tâm thức sẽ có đủ 5 chi thiền: Tầm (hướng tới đề mục), Tứ (tập trung, bám sát đề mục), Hỷ (vui thích với đề mục), Lạc (cảm thấy thân thể thoải mái nhẹ nhàng khi có tâm ưa thích đề mục), Định (sự tập trung viên mãn trong tầng thứ nhất của thiền định). Càng lên cao hơn, các chi thiền sẽ lần lượt bị mất đi để nhường lại ưu thế cho chi thiền căn bản của các tầng bậc cao, lý giải theo Vi diệu pháp:
- Lý thuyết cách vào 4 tầng thiền Sắc giới còn gọi là Tứ Định:
Giai đoạn bắt buộc phải kinh nghiệm trước khi vào Sơ thiền, đó là Cận định:
Trước khi đắc Sơ thiền Sắc giới thì phải qua giai đoạn đắc Cận định: lấy đề mục Ánh sáng màu Trắng (hoặc Hơi thở) làm căn bản, chú tâm vào đó và cố gắng quên hết ngoại cảnh, cho tới khi ánh sáng đề mục (gọi là Quang tướng) được rực lên, tâm có vui, thân thoải mái, tạm thời quên hết ngoại cảnh, đó là Cận định. Cận định còn gọi là Định Dục giới, cho quả hoá sanh vào 2 cõi cao nhất của cõi Dục giới là Hoá Lạc thiên và Tha hoá tự tại thiên do sức mạnh của 4 chi thiền: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Khả năng tập trung mạnh mẽ nhưng thỉnh thoảng còn bị ngoại cảnh ảnh hưởng đó là yếu tố Nhất tâm, sau này nếu tiếp tục tu tập yếu tố Nhất tâm sẽ phát triển thành chi Định, tức là Sơ thiền.
Về lý thuyết thì trước mỗi tầng thiền cao hơn Sơ thiền đều có Cận định của tầng thiền đó (vd: cận nhị thiền, cận tam thiền…), nhưng trong thực tế thì sức mạnh quen thuộc định tâm vào đề mục (topic) càng mạnh thì không cần trải qua giai đoạn Cận định trước các tầng thiền cao hơn.
Nếu bạn chết với trạng thái này sẽ cho quả tái sanh vào 2 cõi trời cao nhất của cõi Dục giới này là Hoá Lạc Thiên và Tha Hoá Tự Tại Thiên. Nếu bạn dừng ở mức này, hoặc người có căn tánh Vô Tham và Vô Sân (người Nhị nhân) mà không có thêm nhân Vô Si trong tâm Hộ kiếp (người Tam nhân) thì chỉ tới mức Cận định này mà không thể tiến lên Sơ Thiền được, chỉ có người Tam nhân mới có thể chứng Sơ Thiền và các bậc thiền cao hơn. Tuy nhiên hãy tu tập chuyên cần, hết tâm lực thì mới biết là Nhị nhân hay Tam nhân. Cho dù kiếp này là Nhị nhân nhưng sự tích cực tu thiền sẽ cho quả tái sanh vào các cõi trời cao, tại đó sẽ chuyển hoá Nhị nhân thành Tam nhân.
Tâm Hộ kiếp còn gọi là Hữu phần (Bắc truyền tách ra làm 2 tâm Tạng thức hay là A lại da thức và Mạc na thức).
Điểm nhận dạng của Cận định là:
- Tâm chú ý đề mục rõ ràng, không u ám, không bị buồn ngủ phá vỡ.
- Ít bị dao động do ngoại cảnh và vọng tưởng thô thiển đã bị loại trừ, vọng tưởng vi tế thỉnh thoảng vẫn xuất hiện làm tâm chú ý chao động nhẹ.
- Đã thấy ánh sáng xuất hiện trong tâm, bạn sẽ thấy bạn ngồi trong một căn phòng ánh sáng trắng rộng lớn không có giới hạn (đây là kinh nghiệm của bản thân không cứ đúng cho mọi người). Ánh sáng này tuy trong sạch, sáng suốt nhưng tâm trí bạn vẫn chưa hoàn toàn an trú trong đó lâu được.
- Nếu bạn vội rời bỏ chú ý Hơi thở mà chú ý ánh sáng thì sẽ mất ánh sáng và bạn mất luôn tâm chú ý, vì ánh sáng là quả của tâm chú ý Hơi thở. Trường hợp tướng ánh sáng (Quang tướng) của Cận định là Quang tướng vẫn còn yếu đuối và quá rộng lớn nên chưa có sức mạnh thu hút tâm chú ý của bạn, tức là không có một địa điểm cụ thể để an trú được lâu dài.
- Âm thanh bên ngoài dù rất khẽ như tiếng động của chiếc lá khô rơi xuống đất cũng trở nên to lớn như tiếng bom nổ sát bên tai bạn, bạn có thể giật bắn người khi nghe những âm thanh nhỏ bé đó. Cận Định dễ bị âm thanh lớn, nhỏ phá vỡ.
- Những cảm xúc tình yêu, tình dục, sân hận, thèm khát, ham thích, nói chuyện phiếm, ăn nhiều, ngủ nhiều tạm thời không hiện diện trong tâm thức của bạn sau khi bạn xả thiền do oai lực của 4 chi thiền và yếu tố Nhất tâm đã hạn chế những tham dục thô thiển ấy phát sanh trong tâm của bạn. Tuy nhiên, thời gian bạn thoát khỏi những ảnh hưởng ấy rất ngắn, nếu bạn không tiếp tục tu thiền nữa thì khi sức mạnh của Cận định mất, bạn sẽ bị chúng ảnh hưởng trở lại, lần này chúng mạnh hơn lần trước khi bạn ngồi thiền như lò xo bị nén thì bung ra rất mạnh.
- Khi bạn muốn thấy, muốn biết điều gì trong quá khứ hoặc tương lai gần chừng 1 tháng trở lại, thì bạn có thể hướng tâm về những điều ấy, và bạn sẽ tự biết trong tâm qua hình thức tư tưởng, còn gọi là Tưởng tri tức là sự hiểu biết của sự suy tưởng, năng lực của tâm sở Tưởng nên có đúng có sai, chứ không phải năng lực thần thông của người đã chứng và trú Tứ thiền chỉ có đúng không có sai, vì thần thông chính là tâm sở Trí trong thiền định. Tâm sở Tưởng ghi nhớ đề mục và so sánh đối chiếu với cái đã học đã biết nên có đúng có sai, còn tâm sở Trí thì thấy rõ biết rõ đúng theo bản chất của vấn đề nên không có sai lầm.
- Nếu trì chú thì giai đoạn này sẽ phát huy những năng lực pháp thuật dễ dàng, giai đoạn này nếu không trì giới nghiêm túc dễ bị hoang tưởng, giả cảnh, ma chướng dẫn tới điên loạn (tẩu hoả nhập ma).
1. Sơ thiền: Tiếp tục lấy đề mục Ánh sáng làm căn bản, chú tâm vào đó và quên hết ngoại cảnh, cho tới khi ánh sáng rực lên hơn nữa, tâm thật vui, thân thật thoải mái, không còn nhớ ngoại cảnh, lúc này chi Định đã hình thành bằng chứng là không còn bị ngoại cảnh ảnh hưởng, 5 căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều không còn tiếp xúc với các cảnh của chúng nữa (cảnh sắc, cảnh âm thanh, cảnh mùi hương, cảnh vị, cảnh xúc chạm), mà chỉ còn Ý căn lúc này hoàn toàn rõ biết đối tượng đang rực sáng trong tâm thức, đó là trạng thái Sơ thiền.
2. Nhị thiền: Sau một thời gian quen thuộc với Sơ thiền, người tu có ý nhàm chán với Sơ thiền muốn hướng tới hương vị an lạc tinh tế hơn của Nhị thiền. Vị ấy nhập trở lại Sơ thiền bằng đề mục Ánh sáng trắng như trước để lấy sức mạnh định tâm trong một thời gian ngắn nhất định rồi xả Sơ thiền bằng cách nghĩ tới trạng thái Hỷ lạc của Nhị thiền là cao hơn thú vị hơn, rồi tập trung tới đề mục Ánh sáng trở lại, cho tới khi thấy ánh sáng đề mục trở nên sáng chói hơn nhưng có vẻ sáng dịu hơn ở tầng Sơ thiền do đã quen thuộc với quang tướng ở tầng thiền trước. Quen thuộc với quang tướng đề mục ở tầng Sơ thiền trước đây, nghĩa là 2 chi Tầm và Tứ đã bị bỏ mất bởi vì tâm định lúc này đã có nền tảng của Sơ thiền, đã quen thuộc đề mục cũ, cũng không cần phải để ý quan sát nhiều đến đề mục nữa, giống như người đã quen chạy xe đạp thì không cần phải tập chạy cho vững mà chỉ cần lấy trớn một chút là chạy được ngay. Lúc này tâm Hỷ (vui thích) trở nên thật mạnh mẽ, chiếm hết tâm tư, nội tâm tràn ngập niềm vui, hoàn toàn quên bỏ ngoại cảnh và ấn tượng cũ của tầng thiền trước, đó là Nhị thiền.
3. Tam thiền: tương tự như cách đắc Nhị thiền. Sau khi nhập trở lại và xả Nhị thiền ra, nghĩ tới sự An lạc của Tam thiền là tinh tế hơn Hỷ lạc của Nhị thiền, tập trung đề mục trở lại, cho tới ánh sáng chói sáng hơn trước và êm dịu tinh tế hơn trước, tâm thấy An lạc thoải mái vô cùng, thấm đẫm hết thân tâm, đó là Tam thiền.
4. Tứ thiền: Tương tự như đắc Tam thiền. Sau khi nhập trở lại và xả Tam thiền ra, hướng tới sự an tĩnh tinh tế hơn không bị xao động do có nhiều hỷ, lạc, hướng tới sự tĩnh lặng trong tâm thức, tập trung trở lại đề mục, cho tới khi ánh sáng rực rỡ hơn xuất hiện, tinh tế, êm dịu hơn bao trùm cả tâm thức, lúc ấy nội tâm trở nên vắng lặng, trong suốt, đó là Tứ thiền.
PHẦN A – TÌM HIỂU SƠ LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ 8 TẦNG THIỀN ĐỊNH
Khi một người tu đắc được tầng thiền đầu tiên là Sơ thiền Sắc giới thì tâm thức sẽ có đủ 5 chi thiền: Tầm (hướng tới đề mục), Tứ (tập trung, bám sát đề mục), Hỷ (vui thích với đề mục), Lạc (cảm thấy thân thể thoải mái nhẹ nhàng khi có tâm ưa thích đề mục), Định (sự tập trung viên mãn trong tầng thứ nhất của thiền định). Càng lên cao hơn, các chi thiền sẽ lần lượt bị mất đi để nhường lại ưu thế cho chi thiền căn bản của các tầng bậc cao, lý giải theo Vi diệu pháp:




- Lý thuyết cách vào 4 tầng thiền Sắc giới còn gọi là Tứ Định:
Giai đoạn bắt buộc phải kinh nghiệm trước khi vào Sơ thiền, đó là Cận định:
Trước khi đắc Sơ thiền Sắc giới thì phải qua giai đoạn đắc Cận định: lấy đề mục Ánh sáng màu Trắng (hoặc Hơi thở) làm căn bản, chú tâm vào đó và cố gắng quên hết ngoại cảnh, cho tới khi ánh sáng đề mục (gọi là Quang tướng) được rực lên, tâm có vui, thân thoải mái, tạm thời quên hết ngoại cảnh, đó là Cận định. Cận định còn gọi là Định Dục giới, cho quả hoá sanh vào 2 cõi cao nhất của cõi Dục giới là Hoá Lạc thiên và Tha hoá tự tại thiên do sức mạnh của 4 chi thiền: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Khả năng tập trung mạnh mẽ nhưng thỉnh thoảng còn bị ngoại cảnh ảnh hưởng đó là yếu tố Nhất tâm, sau này nếu tiếp tục tu tập yếu tố Nhất tâm sẽ phát triển thành chi Định, tức là Sơ thiền.
Về lý thuyết thì trước mỗi tầng thiền cao hơn Sơ thiền đều có Cận định của tầng thiền đó (vd: cận nhị thiền, cận tam thiền…), nhưng trong thực tế thì sức mạnh quen thuộc định tâm vào đề mục (topic) càng mạnh thì không cần trải qua giai đoạn Cận định trước các tầng thiền cao hơn.
Nếu bạn chết với trạng thái này sẽ cho quả tái sanh vào 2 cõi trời cao nhất của cõi Dục giới này là Hoá Lạc Thiên và Tha Hoá Tự Tại Thiên. Nếu bạn dừng ở mức này, hoặc người có căn tánh Vô Tham và Vô Sân (người Nhị nhân) mà không có thêm nhân Vô Si trong tâm Hộ kiếp (người Tam nhân) thì chỉ tới mức Cận định này mà không thể tiến lên Sơ Thiền được, chỉ có người Tam nhân mới có thể chứng Sơ Thiền và các bậc thiền cao hơn. Tuy nhiên hãy tu tập chuyên cần, hết tâm lực thì mới biết là Nhị nhân hay Tam nhân. Cho dù kiếp này là Nhị nhân nhưng sự tích cực tu thiền sẽ cho quả tái sanh vào các cõi trời cao, tại đó sẽ chuyển hoá Nhị nhân thành Tam nhân.
Tâm Hộ kiếp còn gọi là Hữu phần (Bắc truyền tách ra làm 2 tâm Tạng thức hay là A lại da thức và Mạc na thức).
Điểm nhận dạng của Cận định là:
- Tâm chú ý đề mục rõ ràng, không u ám, không bị buồn ngủ phá vỡ.
- Ít bị dao động do ngoại cảnh và vọng tưởng thô thiển đã bị loại trừ, vọng tưởng vi tế thỉnh thoảng vẫn xuất hiện làm tâm chú ý chao động nhẹ.
- Đã thấy ánh sáng xuất hiện trong tâm, bạn sẽ thấy bạn ngồi trong một căn phòng ánh sáng trắng rộng lớn không có giới hạn (đây là kinh nghiệm của bản thân không cứ đúng cho mọi người). Ánh sáng này tuy trong sạch, sáng suốt nhưng tâm trí bạn vẫn chưa hoàn toàn an trú trong đó lâu được.
- Nếu bạn vội rời bỏ chú ý Hơi thở mà chú ý ánh sáng thì sẽ mất ánh sáng và bạn mất luôn tâm chú ý, vì ánh sáng là quả của tâm chú ý Hơi thở. Trường hợp tướng ánh sáng (Quang tướng) của Cận định là Quang tướng vẫn còn yếu đuối và quá rộng lớn nên chưa có sức mạnh thu hút tâm chú ý của bạn, tức là không có một địa điểm cụ thể để an trú được lâu dài.
- Âm thanh bên ngoài dù rất khẽ như tiếng động của chiếc lá khô rơi xuống đất cũng trở nên to lớn như tiếng bom nổ sát bên tai bạn, bạn có thể giật bắn người khi nghe những âm thanh nhỏ bé đó. Cận Định dễ bị âm thanh lớn, nhỏ phá vỡ.
- Những cảm xúc tình yêu, tình dục, sân hận, thèm khát, ham thích, nói chuyện phiếm, ăn nhiều, ngủ nhiều tạm thời không hiện diện trong tâm thức của bạn sau khi bạn xả thiền do oai lực của 4 chi thiền và yếu tố Nhất tâm đã hạn chế những tham dục thô thiển ấy phát sanh trong tâm của bạn. Tuy nhiên, thời gian bạn thoát khỏi những ảnh hưởng ấy rất ngắn, nếu bạn không tiếp tục tu thiền nữa thì khi sức mạnh của Cận định mất, bạn sẽ bị chúng ảnh hưởng trở lại, lần này chúng mạnh hơn lần trước khi bạn ngồi thiền như lò xo bị nén thì bung ra rất mạnh.
- Khi bạn muốn thấy, muốn biết điều gì trong quá khứ hoặc tương lai gần chừng 1 tháng trở lại, thì bạn có thể hướng tâm về những điều ấy, và bạn sẽ tự biết trong tâm qua hình thức tư tưởng, còn gọi là Tưởng tri tức là sự hiểu biết của sự suy tưởng, năng lực của tâm sở Tưởng nên có đúng có sai, chứ không phải năng lực thần thông của người đã chứng và trú Tứ thiền chỉ có đúng không có sai, vì thần thông chính là tâm sở Trí trong thiền định. Tâm sở Tưởng ghi nhớ đề mục và so sánh đối chiếu với cái đã học đã biết nên có đúng có sai, còn tâm sở Trí thì thấy rõ biết rõ đúng theo bản chất của vấn đề nên không có sai lầm.
- Nếu trì chú thì giai đoạn này sẽ phát huy những năng lực pháp thuật dễ dàng, giai đoạn này nếu không trì giới nghiêm túc dễ bị hoang tưởng, giả cảnh, ma chướng dẫn tới điên loạn (tẩu hoả nhập ma).
1. Sơ thiền: Tiếp tục lấy đề mục Ánh sáng làm căn bản, chú tâm vào đó và quên hết ngoại cảnh, cho tới khi ánh sáng rực lên hơn nữa, tâm thật vui, thân thật thoải mái, không còn nhớ ngoại cảnh, lúc này chi Định đã hình thành bằng chứng là không còn bị ngoại cảnh ảnh hưởng, 5 căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều không còn tiếp xúc với các cảnh của chúng nữa (cảnh sắc, cảnh âm thanh, cảnh mùi hương, cảnh vị, cảnh xúc chạm), mà chỉ còn Ý căn lúc này hoàn toàn rõ biết đối tượng đang rực sáng trong tâm thức, đó là trạng thái Sơ thiền.
2. Nhị thiền: Sau một thời gian quen thuộc với Sơ thiền, người tu có ý nhàm chán với Sơ thiền muốn hướng tới hương vị an lạc tinh tế hơn của Nhị thiền. Vị ấy nhập trở lại Sơ thiền bằng đề mục Ánh sáng trắng như trước để lấy sức mạnh định tâm trong một thời gian ngắn nhất định rồi xả Sơ thiền bằng cách nghĩ tới trạng thái Hỷ lạc của Nhị thiền là cao hơn thú vị hơn, rồi tập trung tới đề mục Ánh sáng trở lại, cho tới khi thấy ánh sáng đề mục trở nên sáng chói hơn nhưng có vẻ sáng dịu hơn ở tầng Sơ thiền do đã quen thuộc với quang tướng ở tầng thiền trước. Quen thuộc với quang tướng đề mục ở tầng Sơ thiền trước đây, nghĩa là 2 chi Tầm và Tứ đã bị bỏ mất bởi vì tâm định lúc này đã có nền tảng của Sơ thiền, đã quen thuộc đề mục cũ, cũng không cần phải để ý quan sát nhiều đến đề mục nữa, giống như người đã quen chạy xe đạp thì không cần phải tập chạy cho vững mà chỉ cần lấy trớn một chút là chạy được ngay. Lúc này tâm Hỷ (vui thích) trở nên thật mạnh mẽ, chiếm hết tâm tư, nội tâm tràn ngập niềm vui, hoàn toàn quên bỏ ngoại cảnh và ấn tượng cũ của tầng thiền trước, đó là Nhị thiền.
3. Tam thiền: tương tự như cách đắc Nhị thiền. Sau khi nhập trở lại và xả Nhị thiền ra, nghĩ tới sự An lạc của Tam thiền là tinh tế hơn Hỷ lạc của Nhị thiền, tập trung đề mục trở lại, cho tới ánh sáng chói sáng hơn trước và êm dịu tinh tế hơn trước, tâm thấy An lạc thoải mái vô cùng, thấm đẫm hết thân tâm, đó là Tam thiền.
4. Tứ thiền: Tương tự như đắc Tam thiền. Sau khi nhập trở lại và xả Tam thiền ra, hướng tới sự an tĩnh tinh tế hơn không bị xao động do có nhiều hỷ, lạc, hướng tới sự tĩnh lặng trong tâm thức, tập trung trở lại đề mục, cho tới khi ánh sáng rực rỡ hơn xuất hiện, tinh tế, êm dịu hơn bao trùm cả tâm thức, lúc ấy nội tâm trở nên vắng lặng, trong suốt, đó là Tứ thiền.
Sửa lần cuối: