P

Tịnh Quang của Lạc

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 18%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
152
Điểm tương tác
13
Điểm
18
TỊNH QUANG CỦA LẠC



THỰC HÀNH ĐẠI ẤN

TRONG

KIM CƯƠNG THỪA PHẬT GIÁO



Tác giả: Geshe Kelsang Gyatso



Việt dịch: Thích Giác Không

NỘI DUNG





Lời nói đầu



Giới thiệu và mở đầu

Các kinh mạch, Khí và Giọt

Nội Hỏa

Tịnh Quang và bốn Hỷ

Chín hòa trộn và hai Ấn

Giới thiệu về Bản tính của Tâm trí

An trú tĩnh lặng

Thiền về Tính không

Thân Huyễn

Tịnh quang và Hợp nhất

Đại Ấn kết quả

Hồi hướng





Phụ lục: Ý nghĩa tóm lược của văn bản

Các Sadhana

Các chữ được quán tưởng
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 18%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
152
Điểm tương tác
13
Điểm
18
LỜI CẢM ƠN


Năm 1980, Geshe Kelshang Gyatso Rinpoche đã ban một bản chú giải mở rộng về Kim Cương Thừa Đại Ấn cho những học viên may mắn của Trung Tâm Văn Thù ở Ulverston, Anh. Chúng tôi cầu nguyện rằng thông qua việc nghiên cứu những chỉ dẫn giống như cam lộ này cùng nỗ lực đưa chúng vào thực hành chân thành, chúng tôi có thể bằng cách nào đó bắt đầu đền đáp lòng tốt vô hạn của Người hướng dẫn tinh thần và Đạo sự kim cương quý giá nhất của chúng tôi.

Không chỉ thỏa mãn với việc truyền đạt giáo lý, với lòng từ bi vô hạn của mình, Geshe Kelshang đã làm việc chặt chẽ với người phiên dịch và một nhóm biên tập để chuẩn bị cuốn sách vô song này, chưa từng có cuốn nào như vậy trên thế giới, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tác giả.

Chúng tôi cũng xin cảm ơn Tenzin Norbu, biên dịch viên, và Chris Koib, Jonathan Landaw, và tất cả các học viên khác của Trung Tâm Văn Thù đã giúp biên tập bản gốc. Bây giờ, với việc xuất bản ấn bản thứ hai, chúng tôi cũng xin cảm ơn Gen Thubten Gyatso, người đã làm việc chặt chẽ với Geshe Kelsang trong việc cập nhật thuật ngữ và phù hợp với các ấn phẩm gần đây hơn, và trong việc chuẩn bị nội dung cuốn mơi ba gồm bản dịch văn bản gốc do tác giả biên soạn. Cuối cùng, chúng tôi cũng xin cảm ơn Lucy James, Tsultrim Kelsang, Ingrid Barton, Kelsang Chokyi, Kelsang Wangmo, và tất cả các thành viên khác của Văn phòng biên tập ấn phẩm Tharpa đã giúp chuẩn bị bản thảo cuối cùng để xuất bản.



Roy Tyson,

Giám đốc Trung Tâm Văn Thù,

Tháng 5, năm 1992

LỜI NÓI ĐẦU


Tôi viết cuốn sách này chủ yếu vì lợi ích của những người thực hành Pháp ở phương Tây với hy vọng rằng nó sẽ gián tiếp mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Về cách biên soạn, tôi đã dựa trên kinh nghiệm nhỏ nhoi mà tôi có được thông qua lòng tốt của vị đạo sư thánh thiện, người mà tôi đã nhận được hướng dẫn về giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu của Mật Tông. Ngoài ra, tôi đã lấy tài liệu từ Ngọn Đèn Soi Sáng Năm Giai Đoạn của Je Tsongkhapa, chứa đựng tinh hoa giáo lý mật tông của Je Tsongkhapa và cũng từ bình luận của Je Tsongkhapa về Sáu Yoga của Naropa. Tôi cũng tham khảo văn bản gốc của Pachen Lama đời đầu về Đại Ấn. Con Đường Chủ Đạo của các Đấng Chiến Thắng, và phần tự bình luận của ông, Đèn Tái Chiếu Sáng, cũng như các văn bản Đại Ấn của Kachen Yeshe Gyaltsan và Keutsang, và nhiều tác phẩm xác thực khác về Mật Tông. Vì tôi đã kết hợp giáo lý của những bậc thầy vĩ đại như vậy nên có một số lý do để hy vọng rằng cuốn sách này sẽ mang lại lợi ích đáng kể.

Để c giác ngộ thanh tịnh về Đại Ấn mà chỉ đọc những hướng dẫn này là không đủ. Trước hết, chúng ta phải tu luyện trong các giai đoạn của con đường chung đối với vả Kinh điển và Mật điển bằng cách dựa vào các văn bản như Con đường vui vẻ của may mắn tốt lành, và thực hành các pháp sơ bộ khác nhau để loại bỏ chướng ngại và tích lũy công đức. Khi đã có một số kinh nghiệm về từ bỏ, bồ đề tâm, và trí tuệ chứng ngộ tính không, chúng ta cần nhận được quán đỉnh Vô Thượng Thượng Dù Già Mật Tông từ một Đạo Sư Kim Cương đủ tiêu chuẩn, rồi cố gắng giữ các giới nguyện và cam kết cho thật thanh tịnh. Sau đó, chúng ta nên tu luyện trong các thực hành của giai đoạn phát sinh, và, khi có một số kinh nghiệm về những điều này, chúng ta nên thỉnh cầu một vị thầy Kim Cương đủ tiêu chuẩn hướng dẫn chúng ta về Kim cương thừa Đại Ấn. Nếu sau đó chúng ta đưa những hướng dẫn này vào thực hành với niềm tin và trí tuệ, chúng ta chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ về Sự Hợp Nhất của Đại Ấn.

Tầm quan trọng của việc gắn kết với các thực hành sơ bộ này và việc vun đắp động lực trong sạch trước khi cố gắng tu luyện Kim cương thừa Đại Ấn đã được các bậc thầy vĩ đại của mọi truyền thống Phật giáo Tây Tạng nhấn mạnh. Điều quan trọng nhất là chúng ta không tham gia vào các thực hành này với động cơ không trong sáng, mong muốn lợi ích cá nhân, danh tiếng tốt hoặc tương tự, bởi vì, như Đấng Chiến Thắng Kim Cương Trì đã cảnh báo trong các Mật điển, hậu quả của những hành vi như vậy sẽ chỉ là đau khổ, chẳng hạn như bệnh tất, tuổi thọ ngắn, che chướng tinh thần và tái sinh vào các cõi thấp hơn. Do đó, ngay từ đầu chúng ta nên vun bồi động lực trong sáng của bồ đề tâm và gắn kết với các thực hành Kim cương thừa Đại Ấn với ý định ở thành một vị Phật vì lợi ích của toàn thể chúng sinh.



Geshe Kelsang Gyaltso,

Trung tâm Văn Thù,

1982
 

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 18%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
152
Điểm tương tác
13
Điểm
18
GIỚI THIỆU VÀ CÁC THỰC HÀNH SƠ BỘ


Thật vui mừng khi có cơ hội giải thích phương pháp thực hành Kim cương thừa Đại Ấn theo truyền thống Đại Thừa. Giải thích này sẽ được đưa ra dưới ba tiêu đề chính:

1. Giới thiệu về các con đường chung

2. Nguồn gốc của dòng truyền sở hữu những hướng dẫn này

3. Giải thích thực tế về những hướng dẫn của dòng truyền này



GIỚI THIỆU VỀ CÁC CON ĐƯỜNG CHUNG


Trong Nhập Bồ Tát Hạnh, Shantideva nói:

Bằng cách dựa vào hình dáng con người như chiếc thuyền này

Chúng ta có thể vượt qua đại dương đau khổ

Vì một con thuyền như vậy sẽ khó tìm lại được

Đây không phải là lúc để ngủ, đồ ngốc!


Luân hồi giống như đại dương bao la làm nảy sinh những cơn sóng, nên sự tái sinh trong luân hồi làm phát sinh đau khổ. Hiện tại, chúng ta có thân người quý giá, đó là con thuyền tốt nhất để vượt qua đại dương luân hồi nguy hiểm này. Nếu lãng phí cuộc sống quý giá này mà không tận dụng hết lợi thế của nó, chúng ta sẽ cực kỳ ngu ngốc. Chúng ta sẽ giống như một nhà thám hiểm phải chờ đợi rất lâu để tìm được một chiếc thuyền đưa đến hòn đảo châu báu nhưng cuối cùng khi tìm được một chiếc, anh ta lại ngủ quên thay vì tận dụng cơ hội ngay lập tức. Anh ta cảm thấy thật ngu ngốc khi thức dậy và phát hiện ra con thuyền được mong đợi lâu nay đã bị cuốn trôi và rằng anh vẫn không có phương tiện để đi đến hòn đảo! Tương tự, vào lúc này chúng ta đã tìm thấy một thân thể con người giống như chiếc thuyền có thể đưa chúng ta đến hòn đảo giác ngộ trọn vẹn, hay phật quả. Nếu thay vì tận dụng thân thể này, chúng ta lại lãng phí nó vào những hoạt động vô nghĩa của cuộc sống này, thì đó sẽ lại điều bi thảm nhất. Sẽ không dễ dàng để tìm được một cơ hội như vậy trong tương lai.

Mục tiêu cao nhất của con người là đạt được giác ngộ hoàn hảo, trạng thái an lạc tối thượng trong đó mọi chướng ngại che khuất tâm trí được loại bỏ và mọi phẩm chất tốt đẹp như trí tuệ, từ bi và phương tiện thiện xảo đã được triển khai đầy đủ. Tuy vậy, chúng ta không thể đạt được mục tiêu tối hậu này chỉ bằng cách chờ đợi; mà cần sử dụng các phương pháp thích hợp để đưa chúng ta đến đó.

Những phương pháp để đạt được an lạc của giác ngộ viên mãn là gì? Đó là con đường của Kinh và Mật; không có phương pháp thứ ba. Trong hai phương pháp này, các kỹ thuật được tiết lộ trong Mật thừa vượt trội hơn những kỹ thuật được tiết lộ trong Kinh thừa. Mật tông không chỉ là con đường tối thượng dẫn đến giác ngộ viên mãn mà còn cực kỳ hiếm có. Như Je Tsongkhapa đã nói, giáo lý của Mật tông thậm chí còn hiếm hơn cả chư Phật bởi vì, mặc dù một ngàn vị Phật sáng lập sẽ xuất hiện trong Hiền kiếp Cát tường này, nhưng chỉ có vị thứ tư (Thích Ca), vị thứ mười một và vị cuối cùng sẽ dạy các con đường của Mật Tông.

Hiện tại, chúng ta có cơ hội tuyệt vời để thực hành giáo lý hiếm hoi và lợi ích này, vì vậy điều quan trọng là chúng ta phải phát triển một ý định mạnh mẽ để thực hành chúng thuần thục. Nếu giáo lý Đại Thừa biến mất khỏi thế giới này, chúng ta sẽ không có cơ hội để trở thành một vị phật. Do đó, trong khi vẫn có thể tiếp cận những giáo lý quý giá này, chúng ta nên chuyên tâm thực hành và cố gắng tích lũy một số kinh nghiệm về chúng.

Nguyên nghĩa của Mật Chú như sau: “Bí mật” chỉ ra rằng những phương pháp này nên được thực hành kín đáo. Nếu phô bày các thực hành của mình, chúng ta sẽ thu hút nhiều chướng ngại và lực lượng tiêu cực. Điều này giống như một người nào đó nói chuyện công khai và vô tư về viên ngọc quý mà người đó sở hữu, kết quả là, thu hút sự chú ý của những tên trộm. “Mantra” nghĩa là “bảo vệ tâm trí.” Chức năng của Mật Chú là cho phép chúng ta tiến triển nhanh chóng qua các giai đoạn của con đường đạo bằng cách bảo vệ tâm trí của mình tránh khỏi những hình tướng và quan niệm tầm thường.

Các thực hành và kinh văn của Mật tông cũng được gọi là Kim cương thừa, trong đó “kim cương” nghĩa là “bất hoại”, còn “thừa” nghĩa là “cỗ xe”. Trong bối cảnh này, “kim cương” ám chỉ tính không thể chia tách giữa phương pháp và trí tuệ, trong đó phương pháp là đại lạc tự phát, còn trí tuệ là hiểu biết không nhầm lẫn về tính không. Phương pháp là nguyên nhân cho Báo Thân của một vị Phật, còn trí tuệ là nguyên nhân cho Pháp Thân. Sự hợp nhất của phương pháp và trí tuệ là hợp nhất của đại lạc và tính không tự nhiên là duy nhất chỉ có ở Mật Tông, và là cách nhanh nhất để đạt được hai thân của một vị Phật.

Je Tsongkhapa giải thích rằng một thực hành Mật Tông đích thực phải có bốn thuộc tính, gọi là “bốn thanh tịnh trọn vẹn”. Đó là: thanh tịnh trọn vẹn của nơi chốn, thanh tịnh trọn vẹn của thân thể, thanh tịnh trọn vẹn của các thú vui, và thanh tịnh trọn vẹn của hành động. Việc thực hành bốn thanh tịnh trọn vẹn này không được tiết lộ trong giáo lý Kinh điển, mà chỉ có thể tìm thấy trong Mật điển. Mật điển khác Kinh điển ở chỗ thực hành đưa kết quả tương lai vào con đường hiện tại. Ví dụ, mặc dù chúng ta vẫn chưa đạt đến giác ngộ, khi thực hành Mật điển, chúng ta cố gắng ngăn chặn những hình tướng và quan niệm tầm thường về môi trường của mình và thay vào đó, quán tưởng môi trường xung quanh mình như một mandala của một Thần bản tôn. Tương tự, chúng ta thoát ly diện mạo thông thường của thân thể, các thú vui và hành động của mình, và thay vào đó, làm phát sinh mình như vị Thần bản tôn, quán tưởng các thú vui của mình như của một vị Phật và thực hiện những hành động giác ngộ. Bằng cách thực hành như vậy, chúng ta có thể đạt được Phật quả rất nhanh chóng. Bốn thực hành này là thiết yếu cho cả giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu của Mật tông, nhờ đó chúng tạo thành nền tảng cho những giáo lý được trình bày trong sách này, chẳng hạn như các hướng dẫn về nội hỏa (tummo).

Mật tông có bốn cấp độ: Hành động, Thực hiện, Yoga và Vô thượng Yoga. Cấp Hành động chủ yếu nhấn mạnh vào các hành động bên ngoài. Cấp Thực hiện nhấn mạnh ngang nhau vào cả hành động bên ngoài và bên trong. Cấp Yoga chủ yếu nhấn mạnh vào các hoạt động bên trong, còn cấp Vô thượng là cấp độ mật tông cao nhất.

Cả bốn cấp độ Mật tông đều chuyển hóa đại lạc thành con đường đạo, nhưng phương pháp chuyển hóa khác nhau tùy theo cấp độ thực hành. Trong cấp Hành động, thiền sinh tạo ra lạc bằng cách nhìn vào một nữ thần được quán tưởng, rồi sau đó chuyển hóa lạc đó thành con đường. Trong cấp Thực hiện, thiền sinh tạo ra lạc bằng cách trao đổi nụ cười với nữ thần, trong cấp Yoga bằng cách nắm tay nữ thân, vân vân. Trong cấp Vô thượng, thiền giả tạo ra lạc bằng cách ôm ấp phối ngẫu quán tưởng, còn ở các giai đoạn nâng cao, bằng cách gắn kết với phối ngẫu thực sự, sau đó chuyển hóa lạc đó thành con đường đạo. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng rất khó để sử dụng lạc như một phương pháp để đạt được giác ngộ, nhưng nếu có thể làm như vậy, chúng ta thực sự đạt được một thành tựu to lớn. Như đại thành tựu giả Saraha vĩ đại đã nói: “Mọi người đều phấn khích khi ân ái nhưng rất ít người có thể chuyển hóa lạc đó thành con đường đạo.”

Nhìn chung, Phật giáo dạy rằng dính mắc là một ảo tưởng cần phải tránh, và cuối cùng là từ bỏ, nhưng trong Mật tông có một phương pháp để chuyển hóa dính mắc thành con đường. Tuy nhiên, để thực hành phương pháp này, chúng ta phải rất khéo léo. Trong thực hành này, chúng ta sử dụng sự dính mắc để tạo ra đại lạc, rồi sau đó sử dụng tâm trí đại lạc đó để thiền về tính không. Chỉ khi làm được điều này thì đó mới là chuyển hóa dính mắc. Bản thân sự dính mắc không thể được sử dụng trực tiếp như một con đường vì nó là một ảo tưởng, và ngay trong Mật tông cuối cùng nó cũng phải bị từ bỏ. Trong thực hành Mật tông đích thực, an lạc được tạo ra từ thiền định dính mắc về tính không và do đó vượt qua mọi ảo tưởng, bao gồm cả bản thân sự dính mắc. Việc này tương tự như cách ngọn lửa sinh ra khi cọ xát hai miếng gỗ vào nhau, cuối cùng sẽ thiêu rụi miếng gỗ mà từ đó nó phát sinh.

Đối với những người thiếu kỹ năng, hoặc có tâm trí chưa được tu luyện, những thực hành chuyển hóa như vậy là không thể. Vì lý do này, các Yogi và thiền giả vĩ đại trong quá khứ đã nói rằng để đạt được giác ngộ của Mật điển, tâm trí của một người trước tiên phải được kiểm soát bằng cách tu luyện trong các giai đoạn Kinh điển của con đường. Nếu không xây dựng nền tảng vững chắc này thì hoàn toàn không có cách nào để đạt được kinh nghiệm thanh tịnh của Mật tông.

Tiết lộ những hướng dẫn này của Mật tông có thể nguy hiểm cho cả Đạo sư và đệ tử, nếu một trong hai người chưa đủ điều kiện. Ít nhất, cả hai phải có động cơ thích hợp. Một vị Thầy chỉ nên tiết lộ những phương pháp này vì lòng nhiệt thành lớn lao muốn truyền bá thánh Pháp vì lợi ích của người khác. Tiết lộ những phương pháp này vì bám chấp vào hạnh phúc của kiếp này, mong muốn có được danh vọng, quà tặng, vân vân, sẽ là nguyên nhân để tái sinh vào địa ngục sâu nhất.

Cũng sẽ rất nguy hiểm cho đệ tử khi nhận được các quán đỉnh và chỉ dẫn của Mật tông nếu người đó không có gắng giữ các thệ nguyện và cam kết; chỉ mong muốn tăng danh tiếng, tài sản, vân vân; hoặc chỉ muốn thu thập thông tin cho mục đích học thuật. Bất cứ điều nào trong số này, hoặc những động cơ thế tục tương tự, sẽ chẳng mang lại gì ngoài đau khổ trong tương lai.

Do đó, điều quan trọng là cả Đạo sư và đệ tử đều có tâm trí được kiểm soát và động lực hoàn hảo. Mặc dù chúng ta có thể tự gọi mình là phật tử và quy y tam bảo mỗi ngày. Nhưng chỉ riêng những việc này thôi thì không đủ tiêu chuẩn để thực hành Mật tông. Chúng ta cũng cần phát sinh động lực cao cả nhất, tâm bồ đề quý giá, và cống hiến hết mình để mang lại lợi ích cho người khác. Vì vậy, bất cứ khi nào thiền theo Mật tông, chúng ta nên bắt đầu bằng cách phát sinh bồ đề tâm trong khi đọc lời cầu nguyện sau:

Vì lợi ích của toàn thể chúng sinh

Tôi sẽ uống cam lộ của hướng dẫn này

Tôi có thể đạt được Phật quả ngay trong kiếp này

Thông qua con đường sâu sắc của Mật tông.


Sau đây là phần giới thiệu về Đại Ấn nói chung và văn bản này nói riêng. Mahamudra là một thuật ngữ tiếng Phạn gồm có hai phần: “maha” nghĩ là “vĩ đại”, còn “mudra” nghĩa là “ấn”. Trong hệ thống kinh điển Mahamudra, đại ấn ám chỉ tính không. Trong kinh Vua của sự tập trung, đức Phật nói:

Bản tính của mọi hiện tượng là đại ấn.

Ở đây, “bản tính” ám chỉ bản chất tối hậu của mọi hiện tượng, đó là tính không của chúng, hoặc thiếu vắng sự tồn tại cố hữu. Tính không này được gọi là “đại ấn” vì các hiện tượng không bao giờ thoát khỏi trạng thái thiếu vắng sự tồn tại cố hữu. Nhìn chung, tất cả Phật tử đều khẳng định bốn quan điểm:

1. Mọi thứ sinh ra đều tạm thời

2. Mọi thứ bị ô nhiễm đều là bản tính của khổ

3. Mọi hiện tượng đều vô ngã

4. Chỉ có niết bàn là an bình

Vì những quan điểm này là không thể bác bỏ, chúng được gọi là “bốn ấn”. Trong số này, ấn thứ ba được gọi là “đại ấn”. Vì tính không là bản tính của mọi hiện tượng nên nó được gọi là “ấn”, và vì sự giác ngộ trực tiếp về tính không cho phép chúng ta hoàn thành mục tiêu lớn là giải thoát hoàn toàn khỏi những đau khổ của luân hồi, nó cũng được gọi là “đại”.

Trong văn bản này, thiền Mahamudra được giải thích không theo hệ thống Kinh điển, mà theo giai đoạn thành tựu của Tối thượng Du Già Mật tông. Trong hệ thống này, “đại” ám chỉ đại lạc tự phát, còn “ấn” ám chỉ tính không. Do đó, trong Mật tông, Mahamudra là sự hợp nhất của đại lạc tự phát và tính không.

Theo Mật tông, Đại Ấn được chia thành hai giai đoạn: Đại Ấn nhân và Đại Ấn quả. Nhân và dành cho con đường dẫn đến giác ngộ trọn vẹn, vì vậy Đại Ấn nhân được thực hành trước khi đạt đến Phật quả. Đại Ấn quả là sự hợp nhất của Không Học Nữa, đó là trạng thái thực sự của Phật quả.

Đại Ấn nhân được chia thành hai giai đoạn liên tục: sự hợp nhất của lạc và không, và sự hợp nhất của hai chân lý. Sự hợp nhất đầu tiên xảy ra khi tâm trí chủ thể của đại lạc nhận ra tính không là đối tượng của nó. Đối tượng, tính không, là giống nhau trong cả Kinh và Mật; điểm khác biệt là tâm trí nhận ra tính không này. Chính tâm trí chủ thể của đại lạc làm cho thiền của Mật vượt trội hơn thiền của Kinh. Nhận ra tính không bằng tâm trí đại lạc tự nhiên là phương pháp nhanh nhất để đạt được giác ngộ trọn vẹn.

Cần lưu ý rằng đại lạc tự nhiên của giai đoạn thành tựu trong Mật tông không giống như khoái lạc thông thường được trải nghiệm ở đỉnh cao của quan hệ tính dục. Đại lạc tự nhiên chỉ được trải nghiệm khi, thông qua sức mạnh thiền định, chúng ta khiến các luồng khí đi vào, trú ngụ và hòa tan trong trung mạch và kết quả là giọt trắng tan ra và chảy trong trung mạch. Sử dụng đại lạc tự nhiên để giác ngộ tính không là thực hành cốt lõi của các bậc thầy Mật tông vĩ đại của Ấn Độ thời cổ như Saraha, Nagarjuna, Tilopa, Naropa, và Maitripa; và của các bậc thầy Tây Tạng vĩ đại nhuhw Marpa, Milarepa, Gampopa, và Je Tsongkhapa. Như trong quá khứ, cũng như ngày nay, con đường tối thượng của thiền giả Mật tông để đạt đến giác ngộ đầy đủ là sự hợp nhất của đại lạc tự nhiên và tính không

Giai đoạn thứ hai của Đại Ân nhân là sự hợp nhất của hai chân lý: chân lý thông thường và chân lý tối hậu. Trong bối cảnh này, thân huyễn thanh tịnh được gọi là chân lý thông thường, còn tịnh quang là chân lý tối hậu. Việc tụ hợp đồng thời hai chân lý này trong dòng tương tục của một người gọi là Đại Ấn của sự hợp nhất hai chân lý. Đây là Đại Ấn chín quả của Đại Ấn hợp nhất lạc và không. Vì vậy, Đại Ấn nhân bao gồm cả nhân và quả. Thông qua sức mạnh của việc hoàn thành Đại Ấn nhân hai giai đoạn này, chúng ta sẽ đạt được Đại Ấn quả, hay phật quả đích thực vốn sở hữu bảy phẩm chất ưu tú của sự hợp nhất với phối ngẫu. Đến đây kết thúc giải thích về các con đường chung của Mật tông.



NGUỒN GỐC CỦA DÒNG TRUYỀN SỞ HỮU HƯỚNG DẪN NÀY


Tất cả các pháp thiền có trong văn bản này đều đến từ đấng chiến thắng Kim Cang Trì và những bậc thầy mật tông vĩ đại của Ấn Độ thời cổ. Các kỹ thuật này được truyền từ các thầy Ấn Độ đến các thầy Tây Tạng và đến các thầy hiện tại trong một dòng truyền không gián đoạn từ thầy đến trò.

Mặc dù thiền Đại Ấn được thực hành bởi các thầy Ấn Độ thời cổ, hệ thống riêng của Đại Ấn được trình bày ở đây là một dòng truyền “khép kín” được truyền lại bởi đấng chiến thắng Kim Cang Trì cho đức phật trí tuệ Văn Thù, người sau đó truyền trực tiếp cho Je Tsongkhapa. Do đó, Tsongkhapa là vị thầy đầu tiên của loài người trong dòng truyền riêng này.

Các vị đạo sư thuộc dòng truyền khép kín của Kim cương thừa Đại Ấn như sau:

Kim Cương Trì

Văn Thù

Je Tsongkhapa

Togdan Jampal Gyatso

Baso Chokyi Gyaltsan

Drubchen Dharmavajra

Gyalwa Ensapa

Khadrub Sangye Yeshe

Panchen Losang Chokyi Gyaltsan

Drubchen Gendun Gyaltsan

Drungpa Tsondru Gyaltsan

Konchog Gyaltsan

Panchen Losang Yeshe

Losang Trinlay

Drubwang Losang Namgyal

Kachen Yeshe Gyaltsan

Phurchog Ngawang Jampa

Pachen Palden Yeshe

Khadrub Ngawang Dorje

Ngulchu Dharmabhadra

Yangchan Drubpay Dorje

Khadrub Tendzin Tsondru

Dorjechang Phabongkha Trinlay Gyatso

Yongdzin Dorjechang Losang Yeshe

Dorjechang Kelsang Gyatso Rinpoche

Gần đây, dòng truyền này được nắm giữ bởi Trinlay Gyatso, được biết đến rộng rãi hơn với tên Phabongka Rinpoche, là hiện thân của bản tôn Heruka của mật tông. Vị lama vĩ đại này giống như mặt trời của Pháp, soi sáng ý nghĩa ẩn giấu của cả Kinh và Mật. Ông đã giao dòng truyền thừa Đại Ấn cho người con trai tâm đạo của mình, Yongdzin Trijang Dorjechang, và chính nhờ lòng tốt và thẩm quyền của Người Hướng Dẫn Tinh Thần thánh thiện này mà văn bản hiện tại được hình thành.

Lời nguyện cầu tới các Đạo sư của dòng truyền Đại Ấn ở trong Phụ Lục III. Nếu thực sự quan tâm đến việc nghiên cứu và thực hành các pháp thiền được giải thích trong cuốn sách này, chúng ta cần nhận được gia trì từ các vị thầy của dòng truyền Đại Ấn bằng cách dâng một mandala và đọc lời cầu nguyện này. Do việc thực hành thành công phụ thuộc phần lớn vào sự gia trì và cảm hứng của các vị Hướng dẫn Tâm linh, nên người học viên thông thái sẽ không bỏ qua lời khuyên này.
 

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 18%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
152
Điểm tương tác
13
Điểm
18
GIẢI THÍCH THỰC TẾ

VỀ CÁC HƯỚNG DẪN CỦA DÒNG TRUYỀN NÀY



Những hướng dẫn này được đưa ra dưới ba tiêu đề:

1. Các thực hành sơ bộ

2. Thực hành chính

3. Các giai đoạn kết thúc



CÁC THỰC HÀNH SƠ BỘ​

Để thực hành thành công các pháp tu Đại Ấn, chúng ta phải hoàn thành hai phần các pháp sơ bộ:

1. Các thực hành sơ bộ chung

2. Các thực hành sơ bộ riêng



CÁC THỰC HÀNH SƠ BỘ CHUNG


Những thực hành này chuẩn bị cho chúng ta những kỹ thuật cao cấp hơn của mật tông. Chúng thanh lọc những chướng ngại và ô nhiễn khác nhau của thân, khẩu, ý và do đó loại bỏ những trở ngại có thể cản trở việc thực hành thành công. Chúng cũng giúp tạo ra một kho năng lượng tích cực, hay công đức, tạo điều kiện cho sự chứng ngộ trong các thực hành cao cấp hơn được chín muồi trong tâm trí chúng ta.

Quá trình thanh lọc và tích lũy công đức này có thể được so sánh với cách một người nông dân chuẩn bị một cánh đồng để canh tác, trước tiên loại bỏ đá và cỏ dại có thể cản trở sự phát triển, rồi sau đó nuôi dưỡng bằng nước, phân bón, vân vân. Sự chuẩn bị như vậy đảm bảo một vụ mùa bội thu, cũng vậy, việc thực hành đúng các pháp sơ bộ đảm bảo cho thiền mật tông thành công.

Có bốn pháp sơ bộ chung:

1. Hướng dẫn về quy y và phát bồ đề tâm, cánh cổng vào Phật pháp và Đại thừa

2. Hướng dẫn cúng dường mandala, cánh cổng để tích lũy công đức

3. Hướng dẫn thiền quán và trì tụng Kim Cương Tát Đỏa, cánh cổng để thanh lọc tiêu cực và sa đọa

4. Hướng dẫn Guru Yoga, cánh cổng để nhận được gia trì

Nếu giải thích về bốn pháp này ở đây thì văn bản này sẽ trở nên quá dài. Những ai thực sự quan tâm đến thực hành Đại Ấn thì nên tham khảo các giải thích chính xác về các thực hành này, chẳng hạn như giải thích được đưa ra trong Hướng dẫn tới Tịnh độ Dakini, và có ý thức áp dụng các hướng dẫn này.

CÁC THỰC HÀNH SƠ BỘ KHÔNG PHỔ BIẾN

Như đã đề cập trước đó, có hai phần thiền trong Tối thượng Du Già Mật tông: giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu. Các kỹ thuật của Đại Ấn Mật thuộc về giai đoạn thành tựu. Giai đoạn này là các pháp sơ bộ không phổ biến, đi sau các yoga khác nhau của giai đoạn phát sinh. Có một thực hành giai đoạn phát sinh liên quan đến mỗi vị thần bản tôn của Tối thượng Mật. Những điều này được giải thích chi tiết trong Đại luận về các giai đoạn của Con đường Mật tông của Je Tsongkhapa và trong Đại dương Thành tựu của Khadrubje.

Có nhiều điều hơn thế ở giai đoạn phát sinh của Mật tông ngoài việc chỉ đơn thuần là phát sinh bản thân như một vị thần bản tôn cụ thể. Để một thực hành trở thành một thực hành của giai đoạn phát sinh thực sự, chúng ta phải phát sinh bản thân như một vị thần kết hợp với yoga đưa ba thân vào con đường. Nếu chúng ta muốn thực hành Đại Ấn Mật nhưng không thể nghiên cứu các văn bản được đề cập ở trên, trong đó các yoga này được giải thích chi tiết, thì ít nhất chúng ta cần nhận được hướng dẫn ngắn gọn về giai đoạn phát sinh từ một vị thầy Mật tông đủ tiêu chuẩn. Để nhận được những hướng dẫn như vậy và đưa chúng vào thực hành, trước tiên chúng ta phải nhận được quán đỉnh thích hợp của Tối thượng Mật.

Ví dụ, nếu đã nhận được quán đỉnh của Heruka, chúng ta nên thực hành giai đoạn phát sinh của nghi quỹ Heruka, chẳng hạn sadhana như Con đường nhanh chóng, trong phụ lục III, trước khi đi vào Đại Ấn. Nếu không thể thực hiện được, ít nhất chúng ta nên cố gắng thực hành theo phương pháp cực kỳ cô đọng sau đây.

Bắt đầu bằng cách ngồi trên bồ đoàn và đọc ba lần:

Tôi sẽ nương tựa vĩnh viễn

Vào Phật, Pháp, Tăng

Vì lợi ích của toàn thể chúng sinh

Tôi sẽ trở thành Heruka


Sau đó quán tưởng:

Toàn bộ thế giới và cư dân của chúng tan thành ánh sáng xanh, rồi tan vào tôi. Thân thể tôi dần tan thành ánh sáng đồng thời từ dưới và trên, dần dần trở nên nhỏ hơn và nhỏ hơn cho đến khi nó tan thành chữ HUM màu xanh lam ở tim tôi. Chữ HUM sau đó dần tan từ dưới lên thành nada. Cuối cùng, ngay cả nada cũng biến mất, tan thành tịnh quang không.

Vào lúc này, chúng ta nghĩ mạnh mẽ rằng tâm trí của chúng ta và tâm trí của Heruka hòa lẫn không thể phân biệt được, giống như nước hòa lẫn với nước. Chúng ta tập trung vào Pháp Thân tịnh quang này và phát sinh niềm kiêu hãnh thiêng liêng bằng cách nghĩ rằng:

Đây là tôi, tôi là Pháp Thân.

Đây là thiền ngắn gọn về việc đưa cái chết vào con đường của Pháp Thân. Nó chủ yếu có chức năng ngăn ngừa các hình tướng bình thường, tịnh hóa cái chết thông thường, làm chín muồi tịnh quang của giai đoạn thành tựu và gieo hạt giống để thành tựu pháp thân thực sự của một vị Phật.

Bây giờ quán tưởng:

Từ trạng thái tính không của pháp thân, tâm trí tôi ngay lập tức biến thành một chùm ánh sáng xanh lam nhỏ,chiều cao của một cánh tay, đứng trên một bồ đoàn mặt trời ở giữa một bông sen tám cánh có nhiều mằu sắc phong phú.

Nghĩ rằng:

Bây giờ tôi đã thành một Thân Hỷ Lạc (báo thân)

Và chúng ta phát triển niềm kiêu hãnh thiêng liêng của việc là Thân Hỷ Lạc. Đây là pháp thiền ngắn gọn về việc đưa trạng thái trung ấm vào con đường của Thân Hỷ Lạc. Nó chủ yếu hoạt động để thanh lọc trạng thái trung ấm thông thường, khiến cho thân huyễn của giai đoạn thành tựu chín muồi, và gieo hẹt giống để thành tựu Thân Hỷ Lạc thực sự của một vị phật.

Tiếp tục:

Ngay lập tức, tâm trí tôi, dưới dạng một luồng ánh sáng xanh lam, biến thành Heruka, màu xanh lam với một mặt và hai tay, cầm chày kim cương và chuông, ôm Vajravahari.

Nghĩ rằng:

Bây giờ tôi đã trở thành Hóa Thân

Và chúng ta phát triển niềm kiêu hãnh thiêng liêng của việc là Hóa Thân. Đây là thiền ngắn gọn về việc đưa tái sinh vào con đường Hóa Thân. Nó chủ yếu có chức năng thanh lọc sự tái sinh thông thường, để làm chín muồi các thực hành giai đoạn thành tựu về việc hòa trộn Hóa Thân, và gieo hạt giống để hoàn thành Hóa Thân thực sự của đức phật. Lúc này, chúng ta có thể thiền về thân của Heruka hoặc chúng ta có thể tụng mật chú của ngài. Nếu chọn cách sau, chúng ta tập trung vào chữ HUM ở tâm luân mình rồi quán tưởng vòng mật chú xoay quanh nó khi trì tụng.

Không có thực hành giai đoạn phát sinh nào ngắn gọn hơn pháp này. Chỉ nên thực hành thiền Đại Ấn sau đây nếu chúng ta đã thực hiện ít nhất một lần pháp này trước đó. Nếu có một vị thần bản tôn riêng tư khác, chẳng hạn như Vajrayogini hoặc Yamantaka, chúng ta vẫn có thể thực hành giai đoạn phát sinh ngắn gọn này với những thay đổi tương ứng về vị thần, màu sắc, pháp khí, vân vân.
 

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 18%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
152
Điểm tương tác
13
Điểm
18
KINH MẠCH, KHÍ VÀ GIỌT



THỰC HÀNH CHÍNH


Như đã giải thích trong phần giới thiệu về con đường chung của Mật tông, có ba phần trong thực hành Đại Ấn:

1. Cách thực hành Đại Ấn là sự hợp nhất của lạc và không

2. Cách thực hành Đại Ấn là sự hợp nhất của hai chân lý

3. Cách thực hành Đại Ấn là sự hợp nhất của Không Học Nữa, trạng thái sở hữu bảy phẩm chất ưu tú của việc kết hợp với phối ngẫu.



CÁCH THỰC HÀNH ĐẠI ẤN

LÀ SỰ HỢP NHẤT CỦA LẠC VÀ KHÔNG​



Đây là thực hành đầu tiên của Đại Ấn nhân, được trình bày thành hai phần:

1. Giải thích phương pháp phát sinh ra chủ thể nhận thức, đại lạc tự phát

2. Giải thích phương pháp nhận ra chính xác đối tượng nhận thức, tính không



GIẢI THÍCH PHƯƠNG PHÁP PHÁT SINH

CHỦ THỂ NHẬN THỨC, ĐẠI LẠC TỰ PHÁT


Có hai phương pháp phát sinh đại lạc tự nhiên:

1. Thâm nhập vào các điểm chính xác trên thân thể mình

2. Thâm nhập vào các điểm chính xác trên thân người khác



THÂM NHẬP CÁC ĐIỂM CHÍNH XÁC TRÊN THÂN MÌNH​

Phần này có bốn mục:

1. Xác định mười cánh cửa mà khí có thể đi vào trung mạch

2. Lý do vì sao khí có thể đi vào trung mạch bằng cách thâm nhập các điểm chính xác qua các cánh cửa này

3. Giải thích các chức năng khác nhau của chúng

4. Giải thích rõ ràng về các giai đoạn thiền về nội hỏa (tummo)



XÁC ĐỊNH MƯỜI CÁNH CỬA

MÀ KHÍ CÓ THỂ ĐI VÀO TRUNG MẠCH​

Chúng ta cần biết mười cảnh cửa mà quá đó các luồng khí có thể đi vào trung mạch vì không thể phát sinh đại lạc tự nhiên nếu không đưa các luồng khí vào trung mạch, và mười cửa này là những cánh cửa duy nhất mà các luồng khí có thể đi vào trung mạch.

Ngoại trừ lúc chết và trong lúc ngủ, các luồng khí thường sẽ không đi vào trung mạch trừ khi chúng ta thực hành thiền định đúng cách. Do đó, để có thể thiền về tính không với tâm đại lạc, hành giả mật tông phải phát sinh đại lạc tự nhiên bằng cách cố ý đưa các luồng khí vào trung mạch thông qua bất kỳ cửa nào trong mười cánh cửa bằng lực tập trung nhất điểm.

Trung mạch bắt đầu từ điểm giữa hai lông mày và chạy lên theo hình vòng cung đến đỉnh đầu. Từ đó, nó đi xuống theo một đường thẳng đến đỉnh cơ quan sinh dục. Mười cửa dọc theo trung mạch như sau:

1. Đỉnh trên của trung mạch: điểm giữa hai lông mày

2. Đỉnh dưới: đỉnh cơ quan sinh dục

3. Trung tâm của luân xa đỉnh đầu: nằm trên đỉnh hộp sọ

4. Trung tâm của luân xa cổ họng: nằm gần phía sau họng

5. Trung tâm luân xa tim: nằm giữa ngực

6. Trung tâm luân xa rốn

7. Trung tâm luân xa bí mật, dưới rốn bốn ngón tay

8. Trung tâm luân xa ngọc quý, nằm ở giữa cơ quan sinh dục, gần đỉnh của nó

9. Luân xa khí: luân xa ở giữa trán, có sáu nan hoa

10. Luân xa lửa: trung tâm luân xa nằm giữa luân xa cổ họng và luân xa tim, có ba nan hoa

Cũng như chúng ta có thể vào nhà qua bất cứ cánh cửa nào dẫn vào từ bên ngoài, khí cũng có thể đi vào trung mạch qua bất kỳ cánh cửa nào trong mười cửa này.

Để thâm nhập vào các điểm chính xác trong thân, chúng ta phải tập trung vào các kinh mạch, các luồng khí, các giọt trắng và đỏ. Trong các kinh văn mật tông, ba thứ này thường được gọi là “thân kim cương”. Kim cương thực sự là đại lạc tự phát, phát sinh tùy thuộc vào các kinh mạch, khí và giọt. Ở đây, kết quả tương lai được mang về hiện tại bằng cách quy kết tên của kết quả vào nguyên nhân của nó’ vì vậy có tên là “thân kim cương”. Nếu muốn thiền về thân kim cương, chúng ta cần hiểu rõ về các kinh tĩnh, khí động và các giọt chứa đựng. Bây giờ là giải thích chi tiết về những điều này.



CÁC KINH MẠCH TĨNH


Có ba kinh mạch chính: kinh trung mạch, kinh mạch phải và kinh mạch trái. Trung mạch giống như trụ của một chiếc ô, chạy qua trung tâm của mỗi luân xa kinh mạch, còn hai kinh mạch còn lại chạy ở hai bên của nó. Trung mạch có màu xanh lam nhạt ở ngoài và có bốn thuộc tính: (1) nó rất thẳng, giống như thân cây chuối, (2) bên trong nó có màu đỏ dầu, (3) nó rất trong và trong suốt, giống như ngọn nến, và (4) nó rất mềm và dẻo, giống như cánh sen.

Trung mạch nằm chính xác ở giữa hai nửa trái phải của thân (nhìn từ phía trước), nhưng gần sau lưng hơn là trước ngực (nhìn ngang). Ngay trước cột sống có kênh sinh mạng, khá dày, ở phía trước nó là trung mạch. Như đã đề cập từ trước, nó bắt đầu tại điểm giữa hai lông mày, từ đó nó đi theo hình vòng cung lên đỉnh đầu, rồi đi xuống theo đường thằng đến đỉnh cơ quan sinh dục, Mặc dù tên gọi phổ biến nhất của nó là trung mạch, nhưng nó cũng được gọi là “hai sự từ bỏ” vì việc tụ hợp các luồng khí vào kinh mạch này khiến các hoạt động tiêu cực liên quan đến các luồng khí của hai mạch trái phải bị từ bỏ. Nó cũng được gọi là “mạch tâm trí”, hoặc “Rahu”.

Cả hai bên của trung mạch, không có khoảng không xen kẽ, là các mạch phải và trái. Mạch phải có màu đỏ và trái là màu trắng. Mạch phải bắt đầu ở đầu lỗ mũi phải, còn mạch trái ở đầu lỗ mũi trái. Từ đó, cả hai đều đi lên theo hình vòng cung đến đỉnh đầu, hai bên của trung mạch. Từ đỉnh đầu xuống đến rốn, ba mạch này thẳng và kề cận nhau. Khi mạch trái tiếp tục xuống dưới tầm của rốn, nó cong một chút về bên phải, tách ra một chút khỏi trung mạch và tái hợp ở đỉnh cơ quan sinh dục. Ở đó có chức năng chứa và giải phóng tinh trùng, máu và nước tiểu. Khi mạch phải tiếp tục xuống dưới tầm của rốn, nó cong một chút về bên trái và kết thúc ở đầu hậu môn, nơi có chức năng giữ vào thải phân, vân vân.

Các tên khác của mạch phải là “mạch mặt trời”, “mạch lời nói”, và “mạch của chủ thể nhận thức”. Tên gọi cuối cùng chỉ ra rằng các luồng khí chảy qua mạch này làm phát sinh các khái niệm về tâm trí chủ quan. Các tên gọi khác của mạch trái là “mạch mặt trăng”, “mạch thân thể”, và “mạch của đối tượng được nhận thức”, tên cuối cùng chỉ ra rằng các luồng khí chảy qua mạch này làm phát sinh các khái niệm về đối tượng khách quan.

Các mạch phải và trái quấn quanh trung mạch ở nhiều vị trí khác nhau, do đó hình thành nên mạch nút thắt. Bốn nơi mà các nút thắt này xuất hiện, theo thứ tự lên cao dần, là luân xa rốn, luân xa tim, luân xa họng, và luân xa đỉnh đầu. Tại mỗi nơi này, ngoại trừ ở tầm tim, có một nút thắt đôi được hình thành bởi một chỗ uốn khúc duy nhất của mạch phải và một chỗ uốn khúc duy nhất của mạch trái. Khi các mạch phải và trái đi lên những nơi này, chúng uốn quanh trung mạch bằng cách vượt qua phía trước rồi sau đó vòng lại xung quanh nó. Sau đó, chúng tiếp tục đi lên đến nút tiếp theo. Ở tầm tim, điều tương tự cũng xảy ra, ngoại trừ rằng ở đây có một nút thắt sáu vòng được tạo thành bởi ba vòng chồng lên nhau của mỗi mạch bên cạnh.

Bốn nơi mà các nút thắt này xuất hiện là bốn trong sáu luân xa chính. Vì việc quán tưởng các luân xa này rõ ràng sẽ trở nên quan trọng sau này, chúng sẽ được giải thích ngắn gọn ở đây. Tại mỗi luân xa chính trong nhóm sáu có số lượng nan hoa, hoặc cánh hoa khác nhau, phân nhánh từ trung mạch theo cùng cách mà các nan của một chiếc ô phân nhánh từ trụ trung tâm. Vì vậy, tại luân xa đỉnh đầu, được gọi là “luân xa đại lạc”, có ba mươi hai cánh hoa hoặc nan hoa kinh mạch như vậy, tất cả đều có màu trắng. Trung tâm là hình tam giác với đỉnh hướng về phía trước. (Điều này ám chỉ hình dạng của nút thắt uốn quanh mà các nan hoa xuất phát ra từ đó như được thấy từ trên đỉnh). Ba mươi hai nan hoa này cong xuống dưới như các nan của một chiếc ô thẳng đứng. Mô tả về luân xa này và ba luân xa chính khác có nút thắt được đưa ra trong Biểu đồ 1.



Biểu Đồ 1: Bốn luân xa chính



Vị trí​
Tên​
Hình dạng ở trung tâm​
Số nan hoa​
Màu sắc​
Hướng uốn cong​
Đỉnh đầu​
Luân xa đại lạc​
Tam giác​
32​
Trắng​
Xuống​
Cổ họng​
Luân xa hoan hỷ​
Tròn​
16​
Đỏ​
Lên​
Tim​
Luân xa Pháp​
Tròn​
8​
Trắng​
Xuống​
Rốn​
Luân xa hóa hiện​
Tam giác​
64​
Đỏ​
Lên​


Bốn luân xa này chứa tổng cộng 120 nan hoa. Đối với hai luân xa chính còn lại, luân xa ở vị trí bí mật có 32 năn hoa màu đỏ cong xuống, còn luân xa ngọc quý có 8 nan hoa màu trắng cong lên. Cũng cần lưu ý rằng theo một số văn bản, các nan hoa ở đỉnh đầu, rốn và vị trí bí mật có thể được hình dung là có nhiều màu sắc khác nhau.

Vì luân xa tim có tầm quan trọng đặc biệt, nên bây giờ chúng tôi sẽ mô tả chi tiết hơn. Tám nan hoa hoặc cánh hoa của nó được sắp xếp theo hướng chính và hướng trung gian, với phía trước là hướng đông. Trong mỗi nan hoa chủ yếu trôi chảy luồng khí hỗ trợ một nguyên tố cụ thể như được chỉ ra trong Biểu đồ 2.

Từ mỗi một trong 8 nan hoa của luân xa tim, ba kinh mạch tách ra, tạo thành tổng cộng 24 kinh mạch. Đây là các kinh mạch của 24 vị trí. Tất cả đều bao gồm trong ba nhóm tám: các kinh mạch của luân xa tâm trí, có màu xanh lam và chủ yếu chứa khí; các kinh của luân xa lời nói, màu đỏ, chủ yếu chứa các giọt đỏ; các kinh mạch của luân xa thân có màu trắng, chủ yếu chứa các giọt trắng. Mỗi kinh mạch đi đến một nơi khác nhau trong thân thể. Đó là 24 vị trí bên trong. Khi thực hành sadhana Heruka mở rộng, chúng ta hình dung các vị thần của mandala thân ở những nơi này.

Những đỉnh bên ngoài của tám kinh mạch thuộc luân xa tâm trí kết thúc tại: (1) chân tóc, (2) đỉnh đầu, (3) tai phải, (4) gáy, (5) tai trái, (6) lông mày (giữa hai lông mày), (7) hai mắt, và (8) hai vai. Những đỉnh của luân xa lời nói kết thúc tại: (9) hai nách, (10) hai vú, (11) rốn, (12) chóp mũi, (13) miệng, (14) cổ họng, (15) tim (giữa hai vú), và (16) hai tinh hoàn hoặc hai bên âm đạo. Cuối cùng, luân xa thân thể kết thúc ở: (17) đỉnh cơ quan sinh dục, (18) hậu môn, (19) hai đùi, (20) hai bắp chân, (21) tám ngón tay nhỏ và tám ngón chân nhỏ, (22) đỉnh bản chân, (23) hai ngón tay cái và hai ngón chân cái, (24) hai đầu gối.

Mỗi một trong 24 kinh mạch này chia thành ba nhánh, được phân biệt bởi các yếu tố chính là khí, giọt đỏ và giọt trắng, chảy qua chúng. Mỗi một trong 72 mạch này sau đó chia thành một nghìn, tạo thành 72 nghìn mạch. Điều quan trọng đối với một hành giả mật tông là phải quen thuộc với sự sắp xếp của các mạch, vì, sẽ được giải thích sau, chính nhờ việc kiểm soát được khí và giọt chảy qua các mạch này mà sự hợp nhất của đại lạc tự nhiên và tính không được thành tựu.

Các luồng khí trong thân thể của một người bình thường chảy qua hầu hết các mạch này ngoại trừ trung mạch. Vì các luồng khí này là không trong sạch, các tư tưởng phong phú mà chúng hỗ trợ cũng không trong sạch, cho nên, miễn là các luồng khí này tiếp tục chảy qua các mạch ngoại vi, chúng sẽ tiếp tục hỗ trợ các quan niệm tiêu cực khác nhau khiến chúng ta bị mắc kẹt trong luân hồi. Tuy nhiên, thông qua sức mạnh thiền định, những luồng khí này có thể được đưa vào trung mạch, nơi chúng không còn khả năng hỗ trợ sự phát triển của các khái niệm thô thiển về hình tướng nhị nguyên. Với một tâm trí thoát khỏi hình tướng nhị nguyên, chúng ta sẽ có khả năng đạt được giác ngộ trực tiếp về chân lý tối hậu, tính không. Một diễn giải chi tiết hơn về thiền quán này và các phương tiện để kiểm soát các kinh mạch, khí, và giọt sẽ được đưa ra sau.

Tương ứng với 24 vị trí bên trong của mandala thân Heruka là 24 vị trí bên ngoài, nằm ở nhiều địa điểm khác nhau trên khắp thế giới này. Những hành giả có nghiệp thanh tịnh có thể thấy những vị trí bên ngoài của Heruka này là Tịnh Độ, nhưng những người có nghiệp bất tịnh chỉ thấy chúng là những nơi bình thường.



Biểu đồ 2: Các nan hoa của luân xa tim



Phương hướng​
Khí hỗ trợ​
Đông​
Thuộc nguyên tố đất​
Bắc​
Thuộc nguyên tố gió​
Tây​
Thuộc nguyên tố lửa​
Nam​
Thuộc nguyên tố nước​
Đông nam​
Thuộc nguyên tố sắc​
Tây nam​
Thuộc nguyên tố hương​
Tây bắc​
Thuộc nguyên tố vị​
Đông bắc​
Thuộc nguyên tố xúc​


CÁC KHÍ CHUYỂN ĐỘNG

Ngược lại với các kinh mạch tĩnh, các luồng khí bên trong được gọi là “khí chuyển động” vì chúng chảy qua các kinh mạch.






BIỂU ĐỒ 3: CÁC KHÍ GỐC RỄ





Sự sống
Hỗ trợ
Hướng xuống – đào thảiHướng lên
Di chuyển
Cân bằng
An trú
Tràn ngập
Màu sắcTrắngVàngĐỏXanh
Vàng
Lam nhạt
Phật giaA súcBảo sinhDi đàBất khôngĐại nhật
Nguyên tốNướcĐấtLửaGióKhông gian
Vị tríTimHậu môn và cơ quan sinh dụcCổ họngRốnCả phần trên và dưới thân thể, chủ yếu 360 khớp
Chức năngHỗ trợ và duy trì sự sốngGiữ lại và thải ra nước tiểu, phân, tinh dịch, máu, v.v..Nói, nuốt, v.v..Khiến nội hỏa bùng lên, tiêu hóa thức ăn, đồ uống. v.vKhiến cơ thể đến và đi, cho phép cử động, nâng, đặt
HướngTừ cả hai lỗ mũi. Nhẹ nhàng hướng xuốngTừ cả hai lỗ mũi, ngang, nặng nề hướng tớiTừ lỗ mũi phải, hướng lên mạnh mẽTừ lỗ mũi trái, chuyển sang phải từ rìa lỗ mũi nàyKhí này không chảy qua các lỗi mũi trừ lúc chết



Một số người tin rằng chỉ có chất lỏng như máu chảy qua các kinh mạch của thân thể, nhưng điều này không đúng. Trên thực tế, các chất lỏng này lưu thông trong thân thể chỉ vì sự chuyển động của các luồng khí. Nếu không có sự chuyển động này, các hệ thống lưu thông khác không thể hoạt động. Tuy nhiên cần nhớ rằng các luồng nội khí này vi tế hơn nhiều so với không khí bên ngoài.

Có năm luồng khí gốc và năm luồng khí nhánh.

Năm gốc là:

1. Khí hỗ trợ sự sống

2. Khí hướng xuống – đào thải

3. Khí hướng lên – chuyển động

4. Khí cân bằng – an trú

5. Khí tràn ngập

Năm nhánh là:

6. Khí chuyển động

7. Khí chuyển động mãnh liệt

8. Khí chuyển động hoàn hảo

9. Khí chuyển động mạnh mẽ

10. Khí chuyển động chắc chắn

Mỗi một trong năm luồng khí gốc có sắc đặc điểm để nhận biết: (1) màu sắc, (2) phật gia, (3) nguyên tố mà nó hỗ trợ, (3) vị trí chính hoặc căn bản của nó, (5) chức năng, (6) hướng của nó (cách nó rời khỏi lỗ mũi khi thở ra). Những thông tin này được tóm lược trong Biểu đồ 3.

Nếu quen thuộc với những đặc điểm này, chúng ta có thể nhận ra luồng khí nào đang chảy. Khả năng này trở nên quan trọng ở giai đoạn sau của thiền định. Như đã đề cập ở trên, mỗi luồng khí gốc đóng vai trò hỗ trợ cho một nguyên tố cụ thể. Luồng khí đầu tiên, còn được gọi là “khí của nguyên tố nước”, chịu trách nhiệm gia tăng máu, tinh trùng và các chất lỏng khác trong cơ thể. Tương tự, luồng khí thứ hai, “khí của nguyên tố đất”, chịu trách nhiệm phát triển xương, răng, móng; luồng khí thứ ba, “khí của nguyên tố lửa”, làm tăng nhiệt độ cơ thể; luồng khí thứ tư, “khí của nguyên tố gió”, làm tăng cường dòng chảy của nguyên tố gió qua các kinh mạch, và luồng thứ năm, “khí của nguyên tố không gian”, làm tăng kích thước của không gian và các khoang bên trong cơ thể và do vậy liên quan đến sự sinh trưởng.

Đối với năm luồng khí nhánh, được gọi như vậy vì tất cả chúng đều phân nhánh từ luồng khí hỗ trợ sự sống, nằm ở trung tâm tim. Mỗi luồng khí chảy đến cánh cửa của một năng lực giác quan cụ thể, do đó cho phép sự nhận biết liên quan đến năng lực tương ứng di chuyển đến đối tượng thích hợp của nó. Màu sắc và chức năng của mỗi luồng khí nhánh được tóm tắt trong Biểu Đồ 4.



Biểu Đồ 4: Các luồng khí nhánh



Tênmàu sắcChức năng
Khí chuyển độngĐỏCho phép thị giác di chuyển đến các hình thể
Khí chuyển động mãnh liệtXanh lamCho phép thính giác di chuyển tới âm thanh
Khí chuyển động hoàn hảoVàngCho phép khứu giác di chuyển đến các mùi
Khí chuyển động mạnhTrắngCho phép vị giác di chuyển đến các vị
Khí chuyển động xác địnhXanh láCho phép xúc giác di chuyển đến các đối tượng xúc chạm


Trong mười luồng khí gốc và nhánh, quang trọng nhất đối với thiền mật tông là khí hỗ trợ sự sống. Luồng khí này có ba cấp độ: thô, vi tế và rất vi tế. Đó là luồng khi rất vi tế di chuyển từ kiếp này sáng kiếp khác, hỗ trợ cho tâm trí rất vi tế. Khí rất vi tế này và tâm trí rất vi tế không bao giờ tách rời nhau, đó là lý do vì sao khí rất vi tế được gọi là “bất hoại”. Khí bất hoại nằm trong một không bào nhỏ bên trong trung mạch ở giữa luân xa tim. Nó được bao bọc ngay trong trung tâm của một quả cầu nhỏ, giọt bất hoại, được hình thành bởi các giọt trắng và đỏ rất vi tế.

Chúng ta cần có kiến thức sâu sắc về khí hỗ trợ sự sống vì nó là đối tượng thiền định trong các thực hành giai đoạn thành tựu như niệm kim cương. Thực hành này, được thực hiện bên trong luân xa tim, là một phương pháp để nởi lỏng các nút thắt ở tim. Việc nới lỏng các nút thắt này là điều cần thiết nếu muốn thành công trong thực hành Đại Ấn của chúng ta.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top