T

Danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,018
Điểm tương tác
290
Điểm
83
<FONT FACE="Times New Roman"><FONT STYLE="Font-size:16pt">
<CENTER><P><B>DANH HIỆU BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM</B>
Minh Đức, Cư sĩ Bồ Tát Giới
<I>(Trích: Truyện Tích Bồ Tát Quán Thế Âm, An Tiêm xuất bản, trang 21-47)</I>
<BR><B>I. TÌM HIỂU Ý NGHĨA DANH HIỆU BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM</B></P></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Danh hiệu Quán Thế Âm của vị Bồ Tát hay cứu độ chúng sanh thường được đọc tụng hàng ngày trong các buổi tụng kinh cầu an tại chùa hay tại tư gia là do ở Phẩm Phổ Môn trong bộ kinh Pháp Hoa (Diệu Pháp Liên Hoa, gồm bảy quyển, hai mươi tám phẩm, 60.000 lời), nói cho đủ chữ là <I>"Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, thứ hai mươi lăm (trong quyển thứ bảy)"</I>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì trong Phẩm Phổ Môn này ta thường đọc thấy Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện ra nhiều nơi, dưới nhiều hình tướng (32 ứng thân) để cứu độ và thuyết pháp cho chúng sanh, nên danh hiệu này thường được giải thích như là: Vị Bồ Tát <I>"nghe tiếng kêu cầu của thế gian"</I> mà thị hiện lên và tùy phương tiện mà cứu độ chúng sanh trong mọi trường hợp tai ương hoạn nạn (Quán: nghe thấy, Thế: thế gian, Âm: tiếng). Giải thích như vậy không phải là sai nhưng vẫn chưa đủ.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì ngoài Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa ra thì còn nhiều kinh khác cũng nhắc đến danh hiệu và sự cứu độ chúng sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm, và lại còn dẫn thêm cách tu chứng của ngài nữa:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>1.</B> Nói một cách tổng quát như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm (nói cho đủ là Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Của Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh), trong quyển sáu, ngài Quán Thế Âm Bồ Tát đã có trình bạch lại với Phật phương pháp tu chứng của ngài như sau:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>"Khi ấy, đức Bồ Tát Quán Thế Âm liền đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, bạch rằng:</I></P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>- Bạch đức Thế Tôn! Tôi nhớ kiếp hằng hà sa số về trước, có một vị Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm. Tôi nhờ Phật đó phát Bồ Đề tâm, Phật đó có dạy tôi theo nơi Nghe, Nghĩ, Tu<SUP>(1)</SUP> để vào chỗ chánh định.</I></P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng mất chỗ<SUP>(2)</SUP>, chỗ vào đã lặng, tướng động, tướng tịnh, hai tướng chẳng sanh<SUP>(3)</SUP>. Như vậy, tiến lần lên thì cái "hay nghe" và cái "chỗ nghe" đều hết<SUP>(4)</SUP>. "Hết nghe" chẳng trụ, thì cái "hay giác" và cái "chỗ giác" đều không. Cái "không giác" rất tròn (rất trọn vẹn), thì cái "hay không" và cái "chỗ không" đều diệt. Sanh diệt đã diệt, cảnh tịch diệt "hiện tiền"</I>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Đang khi đoạn hoặc chứng chơn, bỗng nhiên vượt khỏi thế gia và xuất thế gian, chẳng còn bị cái "pháp có" trong tam giới và "pháp không" ngoài tam giới ràng buộc nữa, chỉ thấy mười phương tròn sáng, liền đặng hai món công đức thù thắng: Trên hiệp tâm bản diệu giác của các Phật trong mười phương, và đồng với Như Lai một Từ lực, dưới hiệp tất cả chúng sanh trong sáu đường và đồng hóa với chúng sanh một lòng "bi ngưỡng"<SUP>(5)</SUP></I>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Bạch Thế Tôn! Bởi tôi cúng dường Thầy tôi là đức Quán Thế Âm Như Lai, nên tôi nhờ Thầy truyền cho tôi pháp "Như hoạn", "Văn huân", "Văn Tu"<SUP>(6)</SUP>, Kim Cang Tam Muội<SUP>(7)</SUP>. Từ lực của tôi đồng với các Phật Như Lai, nên khiến thân tôi thành đặng ba mươi hai ứng thân để tùy thuận vào các quốc độ cứu khổ chúng sanh<SUP>(8)</SUP> (Từ trang 373 đến trang 376 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm).</I></P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi một đoạn sau nữa, ngài lại bạch Phật (trang 394):</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>- Nay Phật hỏi viên thông, thì tôi chỉ do một cửa, nơi căn lỗ tai, soi tròn chánh định, nên tùy tâm thị hiện các nơi đều tự tại; thế thì nguyên nhân thiệt do cái tướng "vào dòng" đương lúc ban sơ mới nhập được chỗ chánh định, thành tựu đạo Bồ đề, ấy là bậc nhất</I>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>- Bạch Thế Tôn! Thầy của tôi là Phật Quán Thế Âm Nhu Lai, khen tôi khéo đặng cái pháp môn viên thông, nên ở giữa Đại hội thọ ký cho tôi hiệu Quán Thế Âm<SUP>(8)</SUP>, bởi tôi xem mười phương đều được tròn sáng, nên cái danh hiệu Quán Thế Âm của tôi, khắp cả mười phương thế giới</I>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Văn, Tư, Tu.</P>
<P>- <B>Văn</B>: Tức "văn huệ", nghĩa là trí huệ của cái "nghe". Cái nghe ấy là gốc của tánh nghe trong căn "lỗ tai", chứ không phải toàn dùng cái thức của tai mà nghe như cái nghe đa văn, và cái nghe như nghe Kinh mà rõ nghĩa kìa.
<BR>- <B>Tư</B>: Tức "tư huệ", nghĩa là trí huệ của cái "nghĩ", ấy là gốc cái nghĩ chơn chánh, không cần lưu ý nghĩ tới một chuyện chi cả; chớ không phải cái nghĩ biến thành và cái nghe tà mị.
<BR>- <B>Tu</B>: Tức là "tu huệ", nghĩa là trí huệ của cái "tu". Cái tu ấy là gốc của cái tu chơn chánh, không cầu tới sự tạo tác vụ theo hình thức.</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(Những giải thích trên dây do nơi Chú thích trong cuốn Thủ Lăng Nghiêm Kinh, của Linh Sơn Phật Học Nghiên Cứu Hội in ra năm 1961, do đại đức Thích Chơn Giám, Hòa thượng chùa Bích Liên dịch từ Hán văn ra Việt ngữ và giải thích với các cộng sự viên là Thích Phước Như, Thích Từ Quang).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng mất chỗ: Câu này đức Quán Thế Âm tự nói vâng theo lời Thầy dạy mà làm công phu.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi làm công phu thì ban sơ do cái nghe một niệm chẳng sanh, hồi quang mà chăm nghe lại cái tự tánh, chớ không phải thuận theo cái nghe thinh trần ở ngoài, vậy gọi là "vào dòng".</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc đã vào dòng rồi, thì tất cả thinh trần ở ngoài không còn bị chuyền níu theo nữa, vậy nên gọi là "mất chỗ", tức là làm mất được chỗ sở duyên vậy (Thủ Lăng Nhiêm Kinh đã dẫn ở trên, trang 373).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Chỗ vào đã đặng, tưóng động, tướng tịnh, hai tướng chẳng sanh: Câu này nói đức Quán Thế Âm khi ban sơ làm công phu phản văn "Trở xoay cái nghe vào trong", và tuy đã được vào dòng mất chỗ, nhưng như thế chỉ mới ly được tướng động, chớ cái tướng tịnh hãy còn.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến sau khi chỗ vào đã tịnh lặng rồi, thì chẳng những cái tướng động chẳng sanh, mà cái tướng tịnh cũng chẳng khởi nữa. Đó là do cái công phu phản văn hết bực thâm thiết, nên hai cái tướng trần đều mất vậy (Thủ Lăng Nghiêm Kinh đã dẫn ở trên, trang 374).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Như vậy tiến lần lên, thì cái "hay nghe" và cái "chỗ nghe" đều hết: Khi ngoài đã không chỗ đối, thì căn vì không còn chỗ đối hóa thành vô dụng nên cũng chẳng thể còn. Như thế tức là cái "văn cơ" (hay nghe) và cái "văn tánh" (chỗ nghe) cả hai đều bị trừ diệt (Như trên đã dẫn, trang 374).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Đồng với chúng sanh một lòng "bi ngưỡng": "Bi" nghĩa là lo buồn, cầu Phật cứu sự khổ, "Ngưỡng" nghĩa là trông mong, nhờ Phật ban sự vui.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại ý nói: Chỗ chứng của Bồ Tát Quán Thế Âm, tức là chỗ chúng sanh đồng có; nên chứng đưọc cái lý ấy, tức là cùng với chúng sanh đồng dạ ưu phiền. Đã cùng một dạ ưu phiền, lại sẵn có đức "Từ độ sanh" của chư Phật nên mới sẵn sàng mà tùy sự, hộ trì cho mọi việc được dễ dàng thành tựu (Thủ Lăng Nghiêm Kinh đã dẫn ở trên, trang 375)</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Như hoạn, Văn huân, Văn tu:</P>
<P>- <B>Như hoạn</B>: Nghĩa là như tuồng mỵ: là nói chỗ làm công phu trong lúc ban sơ, phải mượn lấy ảnh hưởng của hai cái nghe: Văn huân và văn tu.
<BR>- <B>Văn huân</B>: Nghĩa là xông cái nghe, chữ "nghe" đây là chỉ cái tánh nghe, thuộc về thể của bản giác, còn "xông" là xông ướp (huân tập), nghĩa là trau dồi, nói bên trong xông cái thể bản giác.
<BR>- <B>Văn tu</B>: Nghĩa là tu cái nghe, chữ "nghe" đây là cái nghe để quay ngược lại cái "có nghe" trở vào trong, thuộc về trí của thể giác. Còn tu là lấy cái công phu xoay trở lại cái nghe mà tu tới bực viên thông.</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Kim Cang Tam Muội, nghĩa là nói: Do nơi hai cái nghe đó tiến tu là thành được một tánh đại định bền chắc như Kim Cang (Thủ Lăng Nghiêm Kinh đã dẫn ở trên, trang 376).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) Khiến thân tôi thành đặng ba mươi hai ứng thân để tùy thuận vào quốc độ cứu khổ chúng sanh: như trong Phẩm Phổ Môn, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã nói.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) Thọ ký tôi hiệu Quán Thế Âm: Trong kinh Quán Thế Âm Tam Muội và kinh Bi Hoa đều nói: đức Quán Thế Âm đã thành Phật từ vô số đời quá khứ về trước, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, còn trong kinh Bi Hoa nói: kiếp xưa Phật Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho một vị Thái Tử Bất Thuấn hiệu là Quán Thế Âm. Thế thì đặng viên thông đây, ngài tức là hậu thân của vị Thái Tử Bất Thuấn (có nơi gọi là Thái Tử Bất Huyến - chú thêm của soạn giả) (Thủ Lăng Nghiêm kinh đã dẫn trên, trang 394).</P></FONT></FONT>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,018
Điểm tương tác
290
Điểm
83
<FONT FACE="Times New Roman"><Font style="Font-size:16pt">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>2.</B> <I>Sau khi đức Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rồi, Phật bảo ông Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng:</I></P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>- Ngươi xem hôm nay những vị Bồ Tát lớn, và A La Hán, hai mươi lăm người vô học<SUP>(10)</SUP> đều nói môn phương tiện thành đạo trong lúc đầu tiên và tu tập pháp chơn thiệt viên thông, sự tu hành của mấy người ấy, thiệt không ai hơn thua, và cũng không sai khác trước sau.</I></P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Bây giờ ta muốn cho A Nan tỏ ngộ, thì trong hai mươi lăm pháp tu hành ấy, pháp nào hợp với căn của A Nan, và sau khi ta nhập diệt rồi, chúng sanh nơi cõi này, muốn vào bực Bồ Tát, cầu đạo vô thượng, thì nên dùng môn phương tiện nào, cho dễ được thành tựu?</I></P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Bồ Tát Văn Thù vâng theo lời của Phật bảo, đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, và thừa oai thần của Phật thuyết bốn bài kệ, mà trong bài kệ thứ tư có đoạn nói rõ thêm cho ông A Nan về cách tu chứng của Quán Thế Âm Bồ Tát như sau:</I></P>
<P><I>A Nan ngươi xét nghe
Ta vâng ai lực Phật
Nói ra pháp Kim Cang
Như hoạn bất tư nghì.
Phật mẫu chơn tam muội
Ngươi nghe Phật vi trần
Thuyết những món bí mật
Dục lậu chẳng sớm trừ
Chứa nghe thành lầm lỗi
Đem nghe giữ Phật Phật
Sao chẳng tự nghe nghe<SUP>(11)</SUP>
Nghe chẳng tự nhiên có
Nhơn tiếng mới có tên
Xoay thoát nghe với tiếng
Là thoát khỏi cái nghe
Một căn đã hoàn nguyên
Sáu căn thành giải thoát
Thấy nghe như mù giả
Ba cõi giống hoa không
Nghe hết dứt đui mù
Trần tiêu thì giác sạch
Sạch tột sáng thông suốt
Rộng chiếu cả hư không
Trở lại soi thế gian
Cũng như việc trong mộng
Ma Đăng Già tại mộng
Làm sao cầm ngươi được
Thấy mị thuât thế gian
Tạo nhưng hình nam nữ
Tuy thấy thân hình động
Chỉ do máy lôi kéo
Dứt máy lại êm ru
Các mị thành không tánh
Sáu căn cũng như vậy
Gốc nương một tinh minh
Chia thành sáu hòa hiệp
Một cõi đã thôi rồi
Sáu căn đều vô dụng
Thức tưởng nhơ tiêu hết
Giác thể sáng sạch tròn
Dư trần vốn học vị
Sáng tột tức Như Lai
Đại chúng và A Nan
Day ngược máy nghe lại
Trở nghe nghe tự tánh<SUP>(12)</SUP>
Tánh thành đạo vô thượng
Viên thông thiệt như vậy
Theo đó, vi trần Phật
Một đường đến Niết Bàn
Các Phật đời quá khứ
Nhờ môn ấy mà thành
Các Bồ Tát hiện nay
Những người vào viên minh
Người đời sau tu học
Phải y theo pháp ấy
Ta cũng chứng trong đó
Chẳng những Quán Thế Âm<SUP>(13)</SUP>
Chính thật Phật Thế Tôn
Tận dụng các phương tiện
Để cứu đời mạt kiếp
Người cầu pháp xuất thế
Thành tựu tâm Niết Bàn
Quán Thế Âm hơn hết
Còn các phương tiện khác
Đều nhờ oai thần Phật
Trợ bỏ việc trần lao
Chẳng phải pháp thường tu
Cạn sâu đồng nói được
Ta lạy Như Lai Tạng
Vô lậu chẳng nghĩ bàn
Xin gia bị đời sau
Đối môn này không lầm
Phương tiện tất thành tựu
Nên dạy cho A Nan
Cho tới đời mạt kiếp
Viên thông hơn pháp khác
Tâm chơn thiệt như vậy<SUP>(14)</SUP>.</I></P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy qua các đoạn trích trên đây của kinh Thủ Lăng Nghiêm, ta rút tỉa ra nhận định như sau:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>a.</B> Quán Thế Âm cũng là danh hiệu của một vị cổ Phật hằng hà sa số kiếp về trước đã từng là Thầy của đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện nay<SUP>(15)</SUP> đã dạy cho ngài theo nơi Nghe, Nghĩ, Tu (Văn, Tư, Tu) mà vào chỗ chánh định.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>b.</B> Quán Thế Âm cũng là một phương pháp tu hành lấy "phản văn văn tự tánh" để đạt được pháp tam muội "nhĩ căn viên thông".</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>c.</B> Vì là một phương pháp tu hành nên trong đoạn kệ của ngài Văn Thù Sư Lợi nói có mấy câu:</P>
<P><I>Các Phật đời quá khứ
Nhờ môn ấy mà thành
Các Bồ Tát hiện nay
Những người vào viên minh
Người đời sau tu học
Phải y theo pháp ấy
Ta cũng chứng trong đó
Chẳng những Quán Thế Âm.</I></P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Và trong cuốn "Bát Nha Ba La Mật Đa Tâm Kinh Việt Giải" của ông Mai Thọ Truyền<SUP>(16)</SUP> nơi chỗ giải thích về Bồ Tát Quán Tự Tại có đoạn nói như sau (từ trang 34-35):</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Đa số những nhà chú giải Tâm Kinh đều cho "Bồ Tát Quán Tự Tại" là "Quán Thế Âm Bồ Tát". Bảo như thế tôi sợ không đúng lắm, dù rằng tôi công nhận hễ "quán thế âm" được là "quán tự tại" luôn.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Thích Tịnh Mai đời Đường, trong quyển "Bát Nhã Tâm Kinh Sớ" chủ trương rằng "quán tự tại" là một đức không riêng vị Bồ Tát đứng hầu bên phía tả đức Phật A Di Đà mới có, mà nói chung cho tất cả các Bồ Tát từ Sơ địa trở lên. Tôi rất đồng ý với ngài Tịnh Mai về chỗ danh từ "Quán Tự Tại" không phải để riêng chỉ Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng tôi không dám quả quyết với ngài rằng hễ vào Sơ địa là có cái "đức" hay muốn nói theo lối bây giờ, cái khả năng "quán tự tại". Tôi tin rằng ngoài Bồ Tát Quán Thế Âm, còn có nhiều vị Bồ Tát khác được ngao du trên cái thượng tầng không khí nói lúc nãy, và như vậy, đã cùng "quán tự tại" như nhau, đã cùng có những cái "thấy" như nhau"<SUP>(17)</SUP>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Lại trong cuốn "Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải" của Hòa thượng Thích Thanh Từ (trang 53) có đoạn như sau:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">... "Đây có thể nói là ngài (đức Phật) dẫn chứng cho chúng ta thấy rằng chẳng những Bồ Tát Quán Tự Tại thật hành sâu trí Bát Nhã Ba La Mật Đa này thôi, mà còn có bao nhiêu vị Bồ Tát khác cũng thực hành như thế"<SUP>(18)</SUP>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) Vô học: Từ quả A La Hán trở lên Bồ Tát, đã được giải thoát, không còn phải học nữa nên gọi là vô học.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) Sao chẳng tự nghe nghe (Hán văn là "Hà bất tự văn văn": Vì A Nan tuy trải kiếp nghe nhiều, hay nhớ giữ những môn bí mật của chư Phật. Nhưng cứ chuyên chú về mặt đa văn, không chịu tu đạo vô lậu, cho nên dục lậu còn nguyên, chứa nghe thành lỗi, nên mới xảy ra cái nạn Ma Đăng Già mà không đủ nghị lực chống cự.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy thì đem cái vọng văn tùy trực vào thinh trần để giữ lấy Phật Pháp của chư Phật, đâu bằng xoay cái diệu trí năng văn trở lại mà nghe lấy cái tánh nghe của mình (Thỉ Lăng Nghiêm kinh đã dẫn ở trên, trang 414).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) Trở nghe nghe tự tánh (Hán văn là "Phản văn văn tự tánh"): Hòa thượng Thích Thanh Từ, trong "Cuốn Hé mở Cửa Giải Thoát" (trang 149-140) có giải thích cách tu "Phản văn văn tự tánh" như sau:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ trước đến nay các vị đều tu theo cách "Phản văn văn tự tánh" thường hay lầm, mà chính chúng tôi cũng bị lầm. Chúng ta cứ nghĩ nghe lại cái tánh nghe, thì nghe làm sao? Chúng tôi kinh nghiệm nhiều lần, nếu ngồi nghe lại cái tánh mình hay nghe một lúc sau lỗ tai bắt đầu nhức, có vị nghe trở vô trong, về sau bị ran ngực, thổ huyết thành bệnh. Tu lối phản văn như vậy là một lầm lẫn quá lớn.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Phản văn" nghĩa là gì? Từ trước đến giờ cái nghe của chúng ta theo âm thanh bên ngoài. Vì cái nghe duyên theo âm thanh bên ngoài gọi là tùy lực, tức trôi theo vọng bên ngoài. Nếu chúng ta không trôi theo vọng bên ngoài, mà chỉ nhớ đến tánh nghe, gọi là phản văn, tức là nhớ lại tánh nghe.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Tánh nghe như thế nào? Và ở đâu?" Khi nghe nói lại tánh nghe, chúng ta nghĩ là nghe tại lỗ tai, rồi chúng ta nghe một lúc lâu, lỗ tai bắt đầu nhức. Phải nhớ tánh nghe trùm khắp mười phương, vì tánh nghe trùm khắp mười phương không kẹt ở lỗ tai nên không bị nhức, không sanh bệnh.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Phản văn văn tự tánh" tức nhớ tánh nghe của mình trùm khắp mười phương, đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng như vậy, cho nên ngồi thiền cũng nhớ như vậy, không nhớ gì khác nữa, tánh nghe không có tướng mạo, vì không có tướng mạo nên nó không bị hạn chế hay ngăn cách. Nó trùm khắp mười phương, chúng ta luôn nhớ thẳng tánh nghe của mình trùm khắp mười phương, gọi đó là tu "Phản văn văn tự tánh".</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(13) Chẳng những Quán Thế Âm: Đại ý đức Văn Thù nói: "Ngài khuyên A Nan và đại chúng chỉ daỷtở cái máy nghe lại mà nghe lấy tự tánh; vì chính bởi cái tánh ấy mà thành đạo vô thượng chơn thiệt viên thông. Chính nhờ cái môn ấy là đường chơn chánh của vi trần Như Lai đi tới Niết Bàn. Cho nên phàm những người tu nhơn chứng quả, ai cũng do theo con đường ấy, ta đây cũng tùng đó mà vào, chớ không phải một mình Quán Thế Âm Bồ Tát mà thôi" (Thủ Lăng Nghiêm kinh đã dẫn trên, trang 418).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(14) Tâm chơn thiệt như vậy: Đức Văn Thù nói: "Trừ môn nhĩ căn ra, thì các môn khác đều không phải pháp thông thường ai ai cũng tu được. Như ông Na Luật tối mắt, ông Tất Lăng đạp gai, đều là do oai thần của Phật gia bị, cho nên nhờ dụng đến việc mà bỏ được trần lao. Còn như ngài Phổ Hiền tâm nghe, ngài Phú Lâu Na thuyết pháp, đều do cái thân tâm ở nơi nhiều kiếp, chớ đâu phải người sơ cơ mà vào được.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy nên ý ngài Văn Thù chí nguyện đức Như Lai gia bị, khiến cho chúng sanh đời sau, cứ do môn ấy mà tu, chớ sanh lòng nghi hoặc, chỉ vì môn ấy hiệp với căn cơ ở phương này nên dễ phần thành tựu. Thiệt cũng nên lấy đó mà dạy cho A Nan, và cứu chúng sanh trầm luân trong đời mạt kiếp, công lực không có chi bằng, cho nên ngài dùng cái tâm chơn thiệt mà chọn lựa như vậy" (Thủ Lăng Nghiêm kinh đã dẫn trên, trang 419).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(15) Xem chú thích số (1), số (6) và số (9). Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện nay là vị Bồ Tát đứng làm thị giả hầu bên tả đức Phật A Di Đà.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(16) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Việt Giải của ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền (nhà in Hòa Chánh, số 16-18, đường Cống Quỳnh Saigon, năm 1962).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(17) Quán Tự Tại: Tức ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Tự Tại gồm có hai nghĩa: </P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Quán tưởng cảnh giới duy tâm mà chứng được quả tự tại.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Quán thấu căn cơ của tất cả chúng sanh mà hóa độ một cách tự tại.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sự quán trên là "trí", sự quán dưới là "bi". Gồm cả trí và bi, tức là Quán tự tại (Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(18) Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải của Hòa thượng Thích Thanh Từ. Tu viện Chơn Không (Nhà in Hạnh Phúc, 67 Lê Văn Thạnh, Gò Vấp, năm 1974).</P>
</FONT></FONT>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,018
Điểm tương tác
290
Điểm
83
<FONT FACE="Times New Roman"><Font style="Font-size:16pt">
<CENTER><P><B>II. PHÁP THÂN, ỨNG HÓA THÂN, BÁO THÂN VÀ THỂ, TƯỚNG, DỤNG</B></P></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm trong một pháp nào cũng đều có ba mặt là: Thể, Tướng, Dụng.</P>
- <B>Thể</B>: là bản thể hay tự thể.
- <B>Tướng</B>: là hình tướng hay sắc tướng.
- <B>Dụng</B>: là công dụng hay thiết dụng.</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lấy ví dụ điển hình là tứ đại chẳng hạn, như:</P>
<P>- <B>Thể</B>: là bản thể hay tự thể.
- <B>Tướng</B>: là hình tướng hay sắc tướng.
- <B>Dụng</B>: là công dụng hay thiết dụng.
<BR><B>Nước</B>:
- Thể của nó là tánh ướt.
- Tướng của nó là lỏng (nước thường) hay đặc (nước đá).
- Dụng của nước dùng để uống, rửa hay tắm.​
<BR><B>Đất</B>:
- Thể của nó là tánh cứng.
- Tướng của nó là đất thường, cát, đá, đất sét v.v...
- Dụng của có là đất để đắp, để đúc gạch ngói, đồ gốm (đất sét), cát để xây nhà v.v...​
<BR><B>Gió</B>:
- Thể của nó là tánh di động.
- Tướng của nó là gió nhẹ, bão, cuồng phong v.v...
- Dụng của nó là gió để quạt cho mát, sấy khô, thổi bụi v.v...​
<BR><B>Lửa</B>:
- Thể của nó là tánh nóng.
- Tướng của nó là lửa than, hay lửa ngọn, tia lửa sáng v.v...
- Dụng của nó là lửa để sưởi ấm để nấu chín, để sấy khô v.v...​
</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về các pháp cao hơn như Phật và Bồ Tát thì thể là Pháp thân, tướng là Báo thân, và dụng là Ứng hóa thân.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong bài cúng dường ngọ trai, ta đọc:</P>
CÚNG DƯỜNG:
<P>- Thanh tịnh Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
- Viên mãn Báo thân Lô Xá Na Phật.
- Thiên bá ức Hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật.</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy là đọc ra danh hiệu ba đức Phật, nhưng chính ra là chỉ một đức Phật với ba thân đấy thôi.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong kinh Hoa Nghiêm ở bài Lời Nói Đầu, dịch giả Hân Tịnh Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh có viết:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Theo truyền sử trong Đại Tạng, khi thành đạo vô thượng, chánh giác, chưa vội rời đạo tràng Bồ Đề, đức Phật Thích Ca Mâu Ni với Pháp thân Tỳ Lô Giá Na cùng chư đại Bồ Tát chứng giải thoát môn, tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm và trong chánh văn của bộ kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất, có đoạn kệ như sau:</P>
<P><I>... Tất cả chư Phật một Pháp thân
Chơn như bình đẳng vô phân biệt
Phật dùng sức này thường an trụ.</I>
(Quyển I, trang 145)</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi đến những câu kệ về Pháp thân, như:</P>
<P><I>Tỳ Lô Giá Na đủ tướng hảo
Ngồi liên hoa tạng sư tử tòa
Tấtcả chúng hội đều thanh tịnh
An trụ vắng lặng đều chiêm ngưỡng.</I>
(Trang 242)
<BR>- Đó là Thể.</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về viên mãn Báo thân, có những câu kệ như sau:</P>
<P><I>Thuở xưa tu hành nhẫn thanh tịnh
Tín giải chân thật vô phân biệt
Nên sắc tướng Phật đều viên mãn
Phóng quang chiếu sáng khắp mười phương.</I>
(Trang 260-261)
<BR>- Đó là Tướng.</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi đến thiên bá ức Hóa thân, có câu kệ như sau:</P>
<P><I>Thuở xưa nhiều kiếp tinh tấn tu
Chuyển được chúng sanh chướng sâu nặng
Nên Phật phân thân khắp mười phương
Dưới cội Bồ Đề đều có Phật.</I>
(Trang 261)
<BR>- Đó là Dụng<SUP>(19)</SUP>.</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nữa, trong cuốn Chuẩn Đề Ngũ Hối Sám Nghi của Đại lão Hòa thượng Huệ Đăng, bổn sư truyền thọ Mật tông của Thiên Thai Tự (1963) có mấy câu xưng tụng Bái Ngũ Phương như sau:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nam mô Đông Phương Thế Giới A Sơ Bệ Phật <I>(xá)</I>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nam mô Nam Phương Thế Giới Vân Tự Tại Phật <I>(xá)</I>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nam mô Tây Phương Thế Giới A Di Đà Phật <I>(xá)</I>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nam Mô Bắc Phương Thế Giới Thành Tựu Phật <I>(xá)</I>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi sau cùng:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nam mô Trung Ương Thế Giới Ty Lô Giá Na Phật <I>(xá)</I> (trang 37-38).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo như vậy thì cũng đúng hợp với điều mà Hòa thượng Thích Trí Tịnh nói rằng Pháp thân Thanh Tịnh của Thích Ca Mâu Ni Phật là Tỳ Lô Giá Na Phật<SUP>(20)</SUP>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong cuốn Nhị Khóa Hiệp Giải của Hòa thượng Thích Khánh Anh dịch, có đoạn như sau:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Cõi mà hiện nay chúng ta đang ở đây là Ta Bà thế giới, nó ở tại trung ương của lớp thứ mười ba, vậy Ta Bà thế giới chính là con số bằng một mảy trần giữa nhiều vi trần của mười ba cõi Phật mà thôi, mà vị trí Cực Lạc nó cùng ngang bằng với Ta Bà" (trang 210).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và chúng ta cũng thường nghe xưng tụng: "Nam mô Trung Thiên Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Phật" trong các buổi lễ tại các chùa.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về sự khác nhau giữa danh hiệu Tỳ Lô Giá Na và Lô Xá Na thì ngài Khánh Anh giải nghĩa như sau:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Tiếng Phạn: Vairacana, tiếng ta đọc là: Tỳ Lô Cha Na. Nhơn vì kinh cũ của đời Tấn dịch là: Lô Xá Na, kinh mới của đời Đường dịch là Tỳ Lô Cha Na.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch chữ là Biến nhất thế xứ, nghĩa là: Khắp tất cả chỗ, tức là cứu cánh thanh tịnh pháp thân. Lại:</P>
<P>- <B>Cảnh diệu</B> hiện ra rất cứu cánh, tên là Tỳ Lô Cha Na.
- <B>Trí diệu</B> đầy đủ rất cứu cánh, tên là Lô Xá Na.
- <B>Hạnh diệu</B> đầy đủ rất cứu cánh, tên là Thích Ca Mâu Ni.</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại Lô Xá Na, dịch là Quang minh chiếu; Tỳ Lô Cha Na dịch là Quang minh biến chiếu, vì chữ "Tỳ" dịch là "Biến".</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về Quán Thế Âm Bồ Tát thì:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <B>Pháp thân</B> là đức cổ Phật Chánh Pháp Minh Như Lai.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <B>Ứng hóa thân</B> là Thái Tử Bất Huyến, là Chuẩn Đề Vương Bồ Tát, là các bị Bồ Tát được nêu danh hiệu trong cuốn Sám Hối Ngũ bách Danh, là Diệu Nhiên Vương Bồ Tát, và cả ba mươi hai ứng thân được kể trong Phẩm Phổ Môn (Kinh Pháp Hoa) nữa v.v...</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <B>Báo thân</B> là Quan Âm Diệu Thiện, là Quan Âm Thị Kính<SUP>(21)</SUP> v.v...</P>
<CENTER><P><B>III. QUAN NIỆM VỀ QUẢ VỊ BỒ TÁT TRONG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA</B></P></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thường trong các kinh văn của Phật giáo Tiểu thừa (mà hiện nay người ta hay dùng danh từ Nguyên Thủy để xóa đi cái ý niệm Tiểu so sánh với Đại, nó thường được hiểu lầm như thấp kém hơn so với Đại thừa), người ta ít thấy nhắc đến các vị Bồ tát mà chỉ nghe nói đến Thanh văn, A la hán thôi.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy Nguyên thủy và Đại thừa trong Phật giáo có sự khác nhau và giống nhau ra sao?</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật ra, đó là một vấn đề rất rộng rãi nếu muốn kể cho hết các điểm đồng nhất và dị biệt của hai hệ phái lớn trong Phật giáo: vì vấn đề này vượt ngoài phạm vi của cuốn Truyện Tích này, nên ở đây tôi chỉ xin đề cập đến quan niệm về quả vị Bồ Tát của Phật giáo Đại thừa mà thôi, vì đức Quán Thế Âm Bồ tát là một vị Bồ tát cho nên điều này có liên hệ trực tiếp và mật thiết hơn.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong các tài liệu về Phật giáo, Bồ Tát là chỉ cho những vị đã có chí nguyện tu thành Phật, nhưng trước khi đắc quả vô thượng Bồ Đề, các vị này có những đại nguyện cần thực hiện trong việc cứu độ các khổ não của chúng sanh. Mà các khổ não của chúng sanh thì vô tận vô cùng, nên các hạnh nguyện của Bồ Tát cũng rất là đa dạng và rất rộng lớn: "chúng sanh đa bệnh, Bồ Tát đa hạnh".</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có vị Địa Tạng Vương Bồ Tát thì nguyện cứu độ tất cả chúng sanh trong địa ngục cho xong hết thì mới thành Phật.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có vị như Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát thì có mười đại nguyện mà ta thường nghe trong các câu kệ vào cuối các thời kinh.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các vị Bồ Tát khác như Đại Trí Văn Thù Sư Lợi và Đại Lực Đại Thế Chí cũng có các hạnh nguyện riêng như mở mang trí huệ và làm tăng trưởng đại hùng, đại lực cho chúng sanh v.v...</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói chung về Bồ Tát thì có hai hạng: Bồ tát xuất gia và Bồ tát tại gia; nhưng hai hạng ấy vẫn có những điểm giống nhau như <SUP>(21a)</SUP>:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Phải có lòng từ bi vô lượng đối với tất cả mọi loài chúng sanh.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Phải có tinh thần phá chấp: chấp ngã và chấp pháp.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Phải có ý chí đạt đến đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức quả vị Phật.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">d. Phải nguyện độ các chúng sanh được giải thoát và đạt quả vị vô thượng Bồ đề.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cao nhất trong điều này là Bồ Tát hoan hỷ mong cầu cho những người khác được chứng ngộ đạo giải thoát trước mình: "như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê hoàn"<SUP>(22)</SUP>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra về các hạnh nguyện nói chung thì có Lục độ (hay Lục Ba la mật) là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ và vô số các hạnh nữa gọi là vạn hạnh.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng rốt cuộc lại thì cũng để thực hiện bốn điều nguyện rộng rãi bao la (Tứ hoằng thệ nguyện) là:</P>
<P><I>Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô thượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.</I></P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bốn hoằng thệ nguyện này được kể theo một thứ tự rất hợp lý:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước tiên mục đích của các vị tu hành (Bồ Tát đạo) là gì nếu không là vì lòng từ bi muốn độ chúng sanh (trong chúng sanh có cả bản thân mình nữa, tự độ độ tha).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng muốn tu hành cho đắc đạo thì phải làm sao? Tức nhiên là phải dẹp bỏ phiền não, mà phiền não trong thế giới này thì vô tận.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi dẹp phiền não thì song song với việc ấy cũng còn phải học vô lượng các pháp môn nữa mới có đủ những tri giác và oai lực để cứu độ chúng sanh, chứ không chỉ có dẹp phiền não không thôi đâu.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và mục đích tối hậu là đạt đến được Phật đạo vô thượng, nhưng rồi sau đó cũng trở lại các thế giới mà độ vô biên các chúng sanh nữa, v.v...</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Việc thực hiện bốn hoằng thệ nguyện như vậy cứ tiếp tục đi theo nhau như các mắt xích của một vòng dây chuyền không có chỗ hở, không phân biệt đâu là chỗ bắt đầu, và đâu là chỗ cuối cùng.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy vị Bồ Tát ta đề cập đến trong cuốn Truyện Tích này là Quán Thế Âm Bồ Tát, và đại hạnh nguyện của ngài là cứu khổ cứu nạn cho mọi loài chúng sanh trong mọi thế giới bao la rộng lớn và liên tục trong không gian và thời gian không biết đâu là cùng tận.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(19) Trong cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh của Hòa thượng Minh Trực thiền sư dịch giải, nơi trang 151, có đoạn nói: "Các bậc tu hành thành Phật, thì có đủ ba thân, bốn trí, hiệp thành một thể gọi là Chơn Phật ở tâm mình:</P>
<P>- Thanh tịnh là tánh Thể.
- Viên mãn là tánh Tướng.
- Ứng hóa là tánh Dụng".</P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn bốn trí là Thành sở tác trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí. Trong cuốn "Nẻo vào Thiền Học" của Thích Nhất Hạnh (Lá Bối - 1971, Saigon-Việt Nam, trang 198) có đoạn như sau:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong trạng thái giác ngộ, năm thức của cảm giác trở nên Thành sở tác trí, Ý thức trở nên Diệu quan sát trí, Mạt Na trở nên Bình đẳng tánh trí, và A lại gia trở nên Đạiv iên cảnh trí.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(20) Tỳ Lô Giá Na Phật: Vairocana-Bouddha (tiếng Phạn). Cũng gọi là Tỳ Lư Giá Na Phật, Ma Ha Tỳ Lư Giá Na Phật. Lư Xá Na Phật. Dịch nghĩa: Đại Nhựt Phật. Một đức Như Lai, hào quang chiếu khắp các nơi như ánh sáng mặt trời. Ngài làm pháp vương ở cõi Tịnh Độ Liên Hoa Đại Tạng thế giới, thường có Văn Thù Bồ Tat và Phổ Hiền Bồ tát theo chầu hai bên.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về Đại Nhựt Như Lai (Mahavairocana, tiếng Phạn), thì theo phái Mật giáo, đức Như Lai này bao gồm và thay thế cho tất cả các đức Phật, đức Thích Ca Như Lai cũng là một với vị Đại Nhựt Như Lai (Phật Học Từ Điển Đoàn Trung Còn).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(21) Xem các chương sau.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(21a) Bồ Tát tại gia và xuất gia có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh cần phải tuân theo như trong kinh Phạm Võng thuộc về Luật Tạng có chỉ dẫn.</P></FONT></FONT>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,018
Điểm tương tác
290
Điểm
83
<FONT FACE="Times New Roman"><Font style="Font-size:16pt">
<CENTER><P><B>IV. GÓC ĐỘ NHÌN VỀ CÁC SỰ LINH ỨNG HUYỀN DIỆU: CẢM VÀ ỨNG</B></P></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mỗi lần nhắc đến Quán Thế Âm Bồ tát, người ta thường kể lại cho nhau nghe, hoặc ghi chép lại để truyền bá các sự linh ứng mầu nhiệm do cầu nguyện và niệm danh hiệu quán Thế Âm Bồ Tát để xin ngài cứu độ qua những tai nạn khổ ách, hoặc phù hộ cho mình được toại nguyện, chẳng hạn như cầu sanh con trai, con gái, cầu cho gia đình yên ổn, con cái khỏe mạnh v.v...</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nhưng có những người cầu và niệm Quán Thế Âm Bồ Tát trong cơn nguy biến thì được độ và thấy hình bóng Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện ra nữa, còn có nhiều người khác thì không được gì cả.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và điều này ta phải hiểu ra sao? Trong nguyên lý của huyền vi, và ngay cả trong thiên nhiên (trời đất, tạo hóa, vật lý v.v...) nữa, có một điều ta ít lưu tâm là sự cảm và ứng. Hễ có cảm thì có ứng, mà mức độ cảm phải như thế nào?</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu cảm mà không đủ cường lực, không đủ mạnh mẽ, không liên tục thường xuyên thì không có ứng, hoặc rất khó mà ứng được. Cho nên việc đạt được ý nguyện hay không trong sự cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ tát cứu độ cũng thế. Chỉ trong những trường hợp mà các người được sự linh ứng đáp lại nguyện cầu của họ, thì họ tự xét sẽ biết lý do vì sao mà thôi, có người lại tưởng là do một sự tình cờ mà họ không biết lý do vì sao nữa?</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có thể rằng từ xa xưa, trong bao nhiêu năm tháng của cuộc đời hiện tại, hay trong nhiều kiếp trước, họ đã có nhân duyên với Quán Thế Âm Bồ Tát rồi, đã luôn luôn nghĩ nhớ, cung kính, sùng bái, tôn trọng và phát triển lòng từ bi độ lượng của họ như đại nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát, nên ngay trong lúc lâm nạn, họ nhất tâm cầu nguyện thì liền được đáp ứng; như thế nghĩa là sự cảm ứng ấy dễ dàng được thực hiện hơn là đối với những người khác.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn đối với những trường hợp khác thì hoặc là công đức và nghiệp quả chưa bù đắp được cho nhau nên sự linh ứng chưa đến, nghĩa là do nghiệp báo mà phải trả quả thì dù cho các vị linh thiêng nào có nhiều thần thông diệu dụng hơn cả Quán Thế Âm Bồ Tát, như Phật chẳng hạn, thì cũng không thể cứu độ được.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Điều này ta không thể biết được với trí hiểu biết suy luận phàm phu thế gian của chúng ta, cho nên trong những bộ kinh, ta thường hay nghe Phật nhắc đến câu "bất khả tư nghì là thế".</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Bất khả tư nghì", nghĩa là không thế uy nghĩ, luận bàn, giải thích theo trí thế gian được, mà các điều ấy chỉ có các vị Bồ Tát và Phật mới hiểu được thôi.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy nhiên, không phải vì vậy mà ta không tin tưởng, bởi vì, mặc dù ta không biết được, nhưng có một điều lúc nào cũng có lợi ích và có công đức là ta phải luôn luôn hướng thiện, lòng ta phải thường xuyên thâm nhập các đức từ bi hỷ xả của Bồ Tát Quán Thế Âm, nghĩa là ta tự coi mình như đệ tử của ngài, và ta tu tập theo các điều đại nguyện của ngài, và nhất tâm niệm danh hiệu của ngài để đến một lúc nào đó, ta nhận được sự cảm ứng huyền diệu mà nhiều khi chính ta cũng không biết trước được.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cho nên trong kinh Phật dạy:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Người Phật tử chân chánh luôn luôn đúng như thuyết tu hành, và sự cúng dường cao nhất là Pháp cúng dường, tức là "y giáo phụng hành" và các điều ấy ta thường nghe đọc đầu các buổi lể là "Ngũ phần pháp hương":</P>
<P><I>Giới hương, Định hương dữ Huệ hương
Giải thoát, giải thoát tri kiến hương.</I></P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Giới, Định, Huệ là tam vô lậu học<SUP>(23)</SUP> mà các vị tu hành nào cũng đều phải noi theo để được giải thoát và giải thoát tri kiến nữa. Rồi đến câu: </P>
<P><I>Quang minh vân đài biến pháp giới
Cúng dường thập phương Tam Bảo tiền.</I></P>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nghĩa là: Đài mây sáng rỡ của hương "Giới, Định, Huệ, giải thoát, giảithoát tri kiến" bay khắp pháp giới để cúng dường mười phương Tam Bảo.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại ý nói người tu sĩ xuất gia chỉ lấy hương "giới hạnh" của mình để cúng dường mười phương Tam Bảo là quý nhất.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và Phật tử nào trong hoàn cảnh sống kinh tế còn eo hẹp thiếu thốn cũng theo đó mà cúng dường Tam bảo bằng sự tu hành "giới hạnh" của mình mà không nên có một mặc cảm nào cả.</P>
<CENTER><P><B>V. NHẬN ĐỊNH</B></P></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phần Dẫn Nhập này, theo quan niệm thông thường là phần khởi đầu của một vấn đề nào đó, mà đã khởi đầu tức là chỉ có tính cách sơ lược không có gì là quan trọng, là cốt tủy.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nhưng, đối với cuốn Truyện Tích Quán Thế Âm Bồ Tát này, chúng tôi xem phần Dẫn Nhập này như là căn bản, cốt lõi của một loạt đề mục đi theo sau mà nếu không có phần thiết yếu cốt tủy này thì các phần kia không có thế dựa.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bởi vì chúng ta phải đặt câu hỏi căn bản là tại sao có sự xuất hiện của Quán Thế Âm Bồ tát và Quán Thế Âm có ý nghĩa là gì? Thế nên phần Dẫn Nhập này gồn có nhiều tiểu mục như ta đã thấy.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý nghĩa của danh từ Quán Thế Âm đã được trình bày dựa theo các tài liệu kinh điển của Đại thừa Phật giáo, bởi vì quan niệm về Bồ Tát đạo chỉ được dẫn giải qua các kinh Đại thừa, vào thời kỳ thứ II trước công nguyên<SUP>(24)</SUP>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về các hình tướng thị hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát (nói tắt là Quan Âm) thì rất nhiều hình tướng trong các kinh và tài liệu sẽ dẫn trong các phần sau<SUP>(25)</SUP> </P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có một điều chúng ta cần lưu ý thêm về góc độ nhìn các sự linh ứng nhiệm mầu: Đây không phải là cố ý giải thích biện minh cho những hiện tượng có tính cách hoang đường, thần thoại mà chỉ là trình bày về lý nhân quả phức tạp, sâu xa, đa dạng và khó hiểu đối với cái trí suy luận phàm phu thế gian của chúng ta.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Không những lý nhân quả mà thôi mà còn là ý thức nhận xét về các điều khó hiểu trong các kinh Phật dạy nữa. Tại sao? Tại vì có nhiều điều trong kinh chúng ta không thể hiểu được, nhưng không phải vì thế mà không đúng. Vì mức độ hiểu của chúng ta tùy thuộc vào trình độ tu chứng cho nên có nhiều bộ kinh Phật chỉ dạy cho các vị Bồ Tát căn cơ đã thuần thục mà thôi, như bộ Kinh Lăng Già chẳng hạn<SUP>(26)</SUP>.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong bài tựa của bộ Kinh này, có đoạn nhắc rằng:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sĩ Táo Bá nói: "Kinh này Phật vì hàng Bồ Tát căn cơ đã thuần thục, liền nói chủng tử nghiệp thức là Như Lai tàng; khác với nhị thừa do diệt thức tiến đến không tịch; cũng khác với Bát Nhã bởi Bồ Tát quán không rồi thích cái không tăng thắng. Đây chỉ thẳng thức thể bản tánh toàn chơn liền thành trí dụng, như biển cả kia lặng gió thì cảnh tượng đều hiện bày. Biển tâm chẳng động thì gió cảnh khác. Chỉ người khéo hiểu được tánh chơn, liền nơi thức biến thành trí"</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo như vậy thì chúng ta phải học hỏi và tu chứng nữa thì dần dần ta mới hiểu được một phần nào các lý nghĩa trong các kinh Phật dạy.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật biết rất rõ điều đó cho nên ngài thường hay nhắc nhở ta câu "Bất khả tư nghì" để cho ta không còn thắc mắc về những điều khó hiểu nữa mà chỉ có nhất tâm tín thành noi theo những điều Phật dạy mà tu hành để được giác ngộ.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(22) Một câu kệ ở bài kệ đầu Chú Lăng Nghiêm: nghĩa là "nếu có một chúng sanh chưa thành Phật, thì sau cùng tôi cũng chưa vào Niết Bàn.</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(23) Tam vô lậu học: Giới, Định, Huệ. Tam vô lậu học cốt lấy tâm làm giới, chớ chẳng lấy cảnh, lấy sự. Người tu tam vô lậu học chẳng mong cầu phước báu ở nhân gian và thiên thượng (nghĩa là không muốn rớt lại vào tam giới).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thủ Lăng Nghiêm kinh, trong quyển sáu có nói: Nhiếp tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định sanh Huệ (Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(24) Trong cuốn "Nẻo Vào Thiền Học" của Thích Nhất Hạnh (đã dẫn trên, trang 159) có đoạn nói như sau: "Thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch chứng kiến sự xuất hiện của kinh Bát Nhã và hệ thống triết học "Không" như một sự khôi phục tinh thần nguyên thỉ của Phật giáo. Trong những thế kỷ kế tiếp, các kinh Bát Nhã tiếp tục phát hiện, đồng thời cũng phát hiện những kinh điển Đại thừa quan trọng khác như Pháp Hoa, Lăng Già, Niết Bàn, Viên Giác, Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm v.v...</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những khai phá của các tông phái thuộc Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) và Thuyết Xuất Thế Bộ (Pudgalavada? Lokottaravada) đã đóng góp quan trọng trong sự xuất hiện của các tông phái Đại thừa".</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(25) Ngoài các ứng hóa thân dẫn trong các chương sau, thì trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn, nơi danh từ Tam thập tam Quán Âm, có ghi như sau:</P>
  1. Dương Liễu Quan Âm.
  2. Long Đầu Quan Âm.
  3. Trì Kinh Quan Âm.
  4. Viên Quang Quan Âm.
  5. Du Hí Quan Âm.
  6. Bạch Y Quan Âm.
  7. Liên Ngọa Quan Âm.
  8. Lũng Kiến Quan Âm.
  9. Thí Lạc Quan Âm.
  10. Ngư Lam Quan Âm.
  11. Đức Vương Quan Âm.
  12. Thủy Nguyệt Quan Âm.
  13. Nhứt Diệp Quan Âm.
  14. Thanh Cảnh Quan Âm.
  15. Oai Đức Quan Âm.
  16. Diên Mạng Quan Âm.
  17. Chúng Bảo Quan Âm.
  18. Nham Hệ Quan Âm.
  19. Năng Tỉnh Quan Âm.
  20. A Nậu Quan Âm.
  21. Vô Úy Quan Âm.
  22. Diệp Y Quan Âm.
  23. Lưu Ly Quán Âm
  24. Đa La Tôn Quan Âm.
  25. Cáp Lỵ Quan Âm.
  26. Lục Thì Quan Âm.
  27. Phổ Từ Quan Âm.
  28. Mã Lang Phụ Quan Âm.
  29. Hiệp Chưởng Quan Âm.
  30. Nhứt Như Quan Âm.
  31. Bất Nhị Quan Âm.
  32. Trì Liên Quan Âm.
  33. Sái Thủy Quan Âm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là tượng vẽ ba mươi ba vị Quan Âm, theo quan niệm thí dụ để cụ thể hóa hình tượng của đức Quán Thế Âm Bồ Tát so với ba mươi hai, ba mươi ba thân trong kinh Phổ Môn (Phật Học Từ Điển Đoàn Trung Còn - đoạn sau là do soạn giả bổ túc thêm).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(26) Kinh "Kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh Tâm Ấn" do Sa môn Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) dịch Phạn-Hán, đời Lưu Tống. Sa môn Hàm Thị, đời thứ 34, dòng Tào Động trụ trì đời thứ ba Bác Sơn Ngôn Lôi Phong Sớ Giải, đời Thanh, Thích Thanh Từ dịch Hán -Việt (Tu viện Chơn Không - Nhà xuất bản Trí Thức - 1975. Nhà in Long Giang, số 124-126, Lê Lai, Saigon phát hành 09-2-1975) </P>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong cuốn "Nẻo Vào Thiền Học" của Thích Nhất Hạnh (đã dẫn trên) trang 144, có đoạn nói: "Theo Thần Hội, chính Bồ Đề Đạt Ma là người đầu tiên trao truyền kinh Lăng Già cho Huệ Khả".</P></FONT></FONT>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,018
Điểm tương tác
290
Điểm
83
Giảng: Mười Hai Lời Nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm

<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>PHẦN PHỤ LỤC
<B>MƯỜI HAI LỜI NGUYỆN CỦA
ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT</B>
<I>(Trích sách "Mẹ Hiền Quán Thế Âm", hòa thượng Thích Tịnh Từ giảng, trang 93-112)</I></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. <B>Nam mô hiệu Viên Thông danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm được xưng tán là Hiểu biết đầy đủ, Thong dong, không buộc ràng. Ngài thường đem pháp lành mà khuyến hóa, cứu khổ cùng khắp.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. <B>Nam mô nhất niệm Tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai, thường cư Nam Hải nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm ở trong nhất tâm niệm, chu biến pháp giới, không có chướng ngại. Ngài nguyện thường ở bể Nam Hải (bể đời đau khổ) để giáo hóa chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. <B>Nam mô trú Ta Bà u minh giới, Quán Âm Như Lai, tầm thinh cứu khổ nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm hay lưu trú, qua lại trong cõi Ta Bà tối tăm, lắng nghe tiếng kêu cầu để cứu khổ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">4. <B>Nam mô hàng tà ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai, cam lồ sái tâm nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm có đủ năng lực để hàng phục các loài yêu quỷ và có sức từ bi diệu dụng để cứu người lâm hiểm nạn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">5. <B>Nam mô thanh tịnh bình, thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai, Cam lồ sái tâm nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm thường dùng hạnh nhẫn nhục, uyển chuyển (dương liễu) tùy thuận để ban tình thương (cam lồ), xóa tắt lửa lòng sân, não, tham dục của chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">6. <B>Nam mô đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm bằng vào tâm từ bi rộng lớn, đem hạnh vui tươi và tha thứ tuyệt vời để cứu khổ chúng sanh một cách bình đẳng, không phân biệt kẻ oán người thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">7. <B>Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai, thệ diệt tam đồ nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm ngày đêm thường đi khắp đó đây để cứu giúp chúng sanh thoát khỏi tai biến, xa lánh ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">8. <B>Nam mô vọng Nam nham cần lễ bái, Quán Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bất cứ ai biết hướng tâm quay về với tự tánh thanh tịnh (Nam nham) mà cần cầu, lễ bái thì sẽ được đức Quán Âm dùng phép mầu chặt đứt những gông cùm trói buộc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">9. <B>Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như Lai, độ tận chúng sanh nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm dùng chánh pháp làm thuyền, lưu động khắp trong biển trần để rộng độ cùng tận chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">10. <B>Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai, tiếp dẫn Tây phương nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm dùng nhiều phương tiện quý báu để đưa người đến cõi hết sức an vui (cõi Tây phương Cực lạc), nếu ai quyết chí phát tâm tu học theo lời ngài chỉ dạy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">11. <B>Nam mô vô lượng thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai, Di Đà thọ ký nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm cũng là ứng hóa thân của đức Phật Di Đà làm giáo chủ thế giới Cực Lạc, nơi mà đời sống thọ mạng lâu dài. Bằng vào sự thọ ký lâu xa, đức Quán Thế Âm cũng sẽ là giáo chủ của cõi nước thanh tịnh khi hạnh nguyện độ sanh hoàn mãn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">12. <B>Nam mô đoan nghiêm thân vô tỷ trại, Quán Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Âm có thân tướng đẹp đẻ, đoan trang khó dùng hình ảnh, lời nói để phô bày; đó là thành quả độ sanh, hành đạo theo mười hai lời nguyện rộng lớn này của ngài.
------------------------------
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hình ảnh một ngày tu học về đề tài "Chánh Niệm - Năng Lượng Hạnh Phúc" dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Thích Tịnh Từ, Viện trưởng Tu Viện Kim Sơn, ngày 3 tháng 8 năm 2013 tại Hội Trường Trung Tâm Cộng Đồng Do Thái (Fairfax, Virginia), dành cho những người lớn tuổi:
<CENTER>
ur3h.jpg

<BR>Trên sân khấu thiết trí bàn thờ Phật với hương, đăng, hoa, quả.</CENTER>
<CENTER>
ixiq.jpg
</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>"Trong đời sống hàng ngày, tâm ta thường có khuynh hướng nhờ tưởng về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Thiền tập là năng lượng giúp ta có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại để có thể tiếp xúc với những nhiệm mầu của sự sống trong ta và chung quanh ta. Theo tinh thần thiền, sự sống chỉ thật sự có mặt trong giây phút hiện tại mà thôi. Và khi tiếp xúc được những gì nhiệm mầu đang có mặt trong giây phút hiện tại, ta có thể làm phát triển được năng lượng của hạnh phúc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong khóa tu mùa hè năm nay, chúng ta sẽ thực tập dừng lại để tiếp xúc được với những gì đang thực sự có mặt. Dừng lại cho yên là một cơ hội và một hạnh phúc rất lớn. Đó cũng là bước đầu của thiền tập, nó là nguồn năng lượng giúp ta ý thức được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, trong thân, tâm và hoàn cảnh chung quanh ta. Và năng lượng này có thể làm phát sinh năng lượng của tình thương và tuệ giác đối với cuộc sống của mình..."</I><CENTER>
zqi3.jpg

<BR>Các cụ, các bác cùng chụp hình lưu niệm với hòa thượng Tịnh Từ.</CENTER></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,018
Điểm tương tác
290
Điểm
83
Mười hai đề mục Quán Âm quán chiếu

<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>MƯỜI HAI ĐỀ MỤC
QUÁN ÂM QUÁN CHIẾU</B>
<BR>Đề mục Quán chiếu số một
<B>ĐẠI HOAN HỶ TÂM</B> (Có niềm vui lớn)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Vui thay có chí lớn
Vô tư không oán hờn
Lòng rộng không câu chấp
Quy kỉnh bậc thiên nhơn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Vui thay có chí lớn</I>: Sống không phải chỉ lo cho mình mà biết san sẻ tài vật và niềm vui đến nhiều người khác. Thông minh biết cầu tiến không ngừng trên đường học vấn, trau dồi đạo đức tâm linh, phụng sự tình thương và sự thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Vô tư không oán hờn</I>: Không để ý chuyện riêng của người. Ai khen cũng vui, ai chê cũng cười hòa. Thường biết xét lỗi lầm để sửa đổi, không hề trách móc thù oán ai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Lòng rộng không chấp nhất</I>: Tự tại, lòng an thênh thang như mây trời. Ưa hòa, không ưa gây chuyện và không ưa nói móc chuyện xấu của người. Có tâm cởi mở dễ tha thứ và biết học hạnh lắng nghe trong khách quan, trầm tĩnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Quy kỉnh bậc thiên nhân</I>: Bậc thiên nhân là Phật, là người cha lành của các loài trời và người. Nhờ sớm biết nương theo lời dạy của Phật để sống và trau dồi thân, miệng, ý được trong sạch nên cuộc đời có nhân quả rất tốt, có nhân cách thanh cao và có niềm vui lớn trong từng giây từng phút của kiếp người.
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số hai
<B>ĐẠI TỪ BI TÂM</B> (Có lòng thương lớn)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Tâm vốn đủ hạnh lành
Tránh xa điều sát sanh
Uống ăn nên kiêng cử
Thiền định năng thực hành.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Tâm vốn đủ hạnh lành</I>: Người có tâm tánh rất hiền từ, dễ thương. Một thanh niên thông lợi, một thiếu nữ nết na, một người chồng nhân đức, một người vợ đảm đang, một người cha trách nhiệm, một người mẹ chu toàn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Tránh xa điều sát sanh</I>: Xây dựng đời sống hạnh phúc bằng cách tôn trọng sinh mạng của kẻ khác, dù đó là sinh mạng của loài vật, cỏ cây và đất đá. Chớ ác ý giết, chớ dùng tay giết, chớ xúi người giết. Giết hại người và vật dưới hình thức nào cũng làm tổn hại đến lòng thương, tạo thêm đau thương và thù oán. Bạn có đức hiếu sinh, là người có nhân cách cao quý nhất trên đời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Uống ăn nên kiêng cử</I>: Phải biết ăn nhiều rau cải, ngũ cốc để ngăn ngừa các chứng bệnh động kinh mạch, áp huyết cao, tim nhảy loạn, táo bón, tiểu đường, nhức đầu và tinh thần bấn loạn. Kiêng cử rượu, thuốc là, cà phê, thuốc á phiện. Nên uống nhiều nước lọc mỗi ngày để nhịp tim điều hòa và dễ lọc máu, phát đi nuôi toàn bộ cơ thể.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Thiền định năng thực hành</I>: Tập suy nghĩ, nói năng, đi đứng, ăn uống, làm việc chậm lại trong chín chắn, trầm tĩnh. Hãy tìm các vị thầy biết hướng dẫn thiền định để học phương pháp thiền định mà thực tập mỗi ngày. Mỗi ngày nên ngồi thiền sáng mười lăm phút và chiều mười lăm phút để quân bình tâm trí. Trước khi ngồi thiền nên tập thể dục mười lăm phút cho máu huyết điều hòa, kinh mạch khỏi ngưng trệ và sức khỏe dồi dào.
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số ba
<B>ĐẠI PHÚC ĐỨC</B> (Giàu sang lớn)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Cứu giúp người nghèo khổ
Lòng quảng đại hải hồ
Ban ra không màng trả
Đời đạo khéo điểm tô.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Cứu giúp người nghèo khổ</I>: Bản tính rộng rãi, hào hiệp, vừa sanh ra là đã hưởng phúc lộc, tình thương của ông bà, cha mẹ. Trọng nghĩa, xem nhẹ tiền tài, hay đem lòng cứu giúp kẻ nghèo đói, xấu số. Nhờ biết gieo nhân lành nên thường được thánh hiền trợ niệm để làm việc lợi ích cho nhiều người, cho đám đông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Lòng quảng đại hải hồ</I>: Có chí khí lớn, không bao giờ hài lòng với địa vị, với sự nghiệp mà mình đang có. Đó là động cơ khuyến khích, thúc dục cầu tiến không ngừng. Thông minh, tài cao, học rộng và sẽ là người làm lớn, an bang tế thế thiên hạ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Ban ra không màng trả</I>: Biết thi ân làm phước mà không hề mong cầu đáp trả. Khi nghèo không chịu quy lụy và lòn cúi uy quyền; khi giàu sang vinh hiển không đem lòng tự cao, khinh rẻ kẻ khác. Trọng lẽ đạo, tôn vinh người hền, nên khi ra làm việc lớn có nhiều người tốt trợ tá đáng tin cậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Đời đạo khéo điểm tô</I>: Thân tuy ở thế gian, nhưng tâm lượng bao dung, trong sáng hiền lành không khác một nhà tu chân chánh. Lúc nào cũng thường quan sát chuyện giả dối hư huyễn, vô thường của thế gian mà dẫn dắt người đời tìm lẽ chân thật trong đạo. Lẽ đạo là cái mộc mạc, hòa hợp, giản dị, bình an, tự tại, buông lo lắng và ít tham cầu. Nhờ thẩm thấu lý mầu này mà tâm lúc nào cũng vui tươi, không sầu không khổ.
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số bốn
<B>ĐẠI THÁI HÒA</B> (Bình yên lớn)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Tâm bình thế giới bình
Trừ giận, diệt vô minh
Tu đà hoàn thánh vị
Bằng tụng vạn lời kinh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Tâm bình thế giới bình</I>: Tâm bạn như mặt nước hồ, gió lay thì sóng dậy, gió lặng thi nước trong. Khổ đau do tâm tạo, hạnh phúc do tâm tạo. Cho nên bỏ tâm mà đi tìm cầu hạnh phúc bên ngoài để rồi chán chường, thất vọng. Nếu đãi lọc tâm bằng sự quán chiếu hơi thở vào ra để biết mình đang nghĩ ác hay nghĩ lành, làm ác hay làm lành. Nghĩ ác, làm ác là nhân đau khổ. Nghĩ lành, làm lành là nhân hạnh phúc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Trừ giận, diệt vô minh</I>: Hai yếu tố làm cho ta khổ đau nhiều nhất là nóng giận và vô minh. Nóng giận là lửa dữ, đốt mọi khoảng công đức, vô minh là tư tưởng thấp kém, mê lầm, nông nổi, không phân biệt được tốt xấu, phải trái, chánh tà, thiện ác. Trừ cơn nóng giận phải biết thiết lập hơi thở vào ra cho điều hòa. Trừ vô minh cũng phải tu tập phương pháp theo dõi hơi thở. Thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra. Và theo dõi hơi thở bằng số đếm từ một đến ba. Cứ như vậy tiếp tục thực tập từ năm đến mười lăm phút mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối trong ngày. Tập lâu ngày hạt giống giận sẽ bị đào mòn và vô minh, ám muội sẽ tận diệt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Tu đà hoàn thánh vị</I>: Tu đà hoàn là địa vị chứng đắc, vào được ngôi vinh thánh vị, một trong bốn từng bậc của các vị tu thiền định. Chứng được quả Tu đà hườn giống như người đi thi bác sĩ được đậu. Sau bảy năm học tập cần mẫn sẽ ra trường hành nghề, cứu chữa bệnh tật cho thiên hạ. Quả này đã dự vào hàng thánh trí, cứ vậy mà tu lên không hề thối đọa, thoát ngoài sự khổ đau, trầm luân sống chết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Bằng tụng vạn lời kinh</I>: Tụng kinh nhằm hiểu lời Phật dạy và làm theo lời Phật dạy. Tụng kinh là quý, nhưng làm theo lời Phật dạy như bỏ tham, sân, si là tốt hơn tụng kinh nhiều. Các bậc tu hành đạo cao đức trọng, hằng ngày không thấy các ngài tụng kinh mà tâm có nhiều an lạc, và có nhiều giải thoát.
<p style="padding-left: 56px;"><I>Nhớ nên niệm Phật thường xuyên
Ăn chay, giữ giới tham thiền chớ quên.</I>
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số năm
<B>ĐẠI TỰ TẠI</B> (Không vướng bận, cõi lòng an)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Được gọi bậc đại hiền
Tỉnh thức trong chánh niệm
Hỷ tâm không oán đối
Tự tại lìa đảo điên.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Được gọi bậc đại hiền</I>: Phát tâm đi tu sẽ đạt được quả vị cao tột, thoát ra ngoài vòng sống chết khổ đau. Bậc đại hiền là chỉ cho đức Phật, người có trí tuệ cao siêu, có lòng từ bi rộng rộng lớn. Địa vị Phật là cao nhất, rốt ráo nhất và an lạc nhất trong tất cả các địa vị.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Tỉnh thức trong chánh niệm</I>: Nhận biết thường trực và sâu xa là sự sống, vạn vật, con người cho đến vũ trụ bao la, đều do duyên hợp, rồi cũng tùy duyên mà tan, không trụ, không thường, không còn, không mất. Vạn pháp lưu chuyển thường trong vô thường. Do đó lòng thảnh thơi không bám víu, không mê danh, đắm sắc, không khổ lụy vì tài sản, gia nghiệp, chồng vợ con cái. Phát tâm tu tỉnh để lợi mình, lợi người và cứu khổ muôn loài chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Hỷ tâm không oán đối</I>: Tâm thường vui vẻ, tươi mát, không buồn, không giận, không gây thù kết oán với người trong đời này cũng như trong đời khác. Biết đem tâm vui mà làm việc lành, an ủi cứu giúp kẻ khó. Có tài ngoại giao và khéo hóa giải mối oán cừu của kẻ thù oán.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Tự tại lìa đảo điên</I>: Xa lìa điên đảo, vọng tưởng đạt đến cảnh giới Niết bàn rốt ráo. Đó là bản sắc ngộ đạo và giải thoát của đức Quán Thế Âm Bồ tát. Đức Quán Thế Âm là mẹ hiền cứu khổ nổi khổ của kẻ mê mơ trong trần thế. Bạn cũng có đủ khả năng để trở thành bậc mẹ hiền cứu khổ Quán Thế Âm Bồ tát. Đời sống có quá nhiều đau khổ, nào là chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, thất học, thiếu tình tương... Tâm lành của bạn, bàn tay của bạn kỳ diệu lắm đó. Trước sau lòng từ bi của bạn sẽ dục thúc bạn lên đường làm nghĩa vụ tình thương và cứu đời.
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số sáu
<B>ĐẠI PHÚ QUÝ</B> (Giàu sang lớn)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Hảo tướng đoan trang vị
Tâm trung thâm diệu kỳ
Phản văn hồi chơn tánh
Diện mục bất cảo di.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Hảo tướng đoan trang vị</I>: Người có tướng đẹp, thân hình đoan trang ít ai sánh kịp. Biết sắp xếp đời sống có thứ lớp, ngăn nắp; làm việc nào ra việc đó, không hấp tấp, không buông bỏ sự nghiệp nửa chừng. Hứa với ai điều gì lòng luôn giữ chữ tín, tận trung với người trên, hết lòng thương yêu và giúp đỡ kẻ dưới. Đúng là bậc chí thiện, có đầy đủ phước báu và nhân cách cao quý.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Tâm trung thâm diệu kỳ</I>: Tâm ý thông minh, rực sáng như viên ngọc như ý. Thường có ý nghĩ lành, nói lời lành và ưa làm việc lành. Kẻ nào gian dối, xấu ác, khố tánh đến đâu hễ đối mặt là hóa ra trung trực, hiền lương và dễ chịu. Đó là nhờ nhân cách cao thượng,có nội lực vững chãi và có căn tu nhiều đời, nhiều kiếp nên dễ dàng cảm hóa lòng người.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Phản văn hồi chơn tánh</I>: Ngày đêm thường quán sát tự tánh trong sạch, vắng lặng bên trong cõi lòng, không rong ruổi đi tìm cầu các thú vui bên ngoài. Nhờ có đời sống nội tâm rất sâu sắc, nên một phen phát tâm tụng kinh, tham thiền là thâm nhập bản nguyện giải thoát sâu xa, quyết đi tới không thụt lùi. <I>"Phản văn hồi chơn tánh"</I> là đề mục thiền quán kỳ vĩ nhất của kinh Lăng Nghiêm, mà đức Bồ tát Quán Thế Âm đã thực tập rất cần mẫn trước khi đạt ngộ, lý giải: <I>"năm uẩn đều không có tự tánh riêng biệt, vượt ra ngoài nhận thức sai lầm và không còn đau khổ".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Diện mục bất cảo di</I>: Là cái mặt thực muôn đời của con người, của muôn pháp vốn như vậy, vốn tròn đầy. Không khổ, không vui, không thêm, không bớt, không sạch, không dơ, không tối, không sáng. Nó vốn vình đẳng, như nhiên. Đó là trạng thái vô niệm, siêu hóa ban đầu mà mỗi chúng ta cần phải tiếp xúc trở lại để có sự an lạc tuyệt vời, có sự thong dong vô bờ bến và đó là cứu cánh giải thoát.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,018
Điểm tương tác
290
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số bảy
<B>CÁT TƯỜNG THỤY</B> (Điềm tốt lành)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Biết nhân quả rõ rành
Không gian tham đấu tranh
Tín tâm lánh đường ác
Lợi mình, lợi muôn sanh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Biết nhân quả rõ rành</I>: Người có trí tuệ sâu nên nhân rõ rành rẽ luật nhân quả. Ở lành gặp hiền, ở ác chuốc lấy tai họa. Không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không gian dối, không tham lam bất chánh, không sân hận và tà kiến. Đó là những nhân lành. Trau dồi những nhân lành này sẽ được sống lâu, giàu sang, vợ chồng êm ấm, được người tin cậy, tài sản được bảo vệ, có nhiều bạn tốt, không sa đọa vào các đường ác và sống hạnh phúc giàu bền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Không gian tham đấu tranh</I>: Không đam mê tiền tài, không làm việc phi pháp và phi nghĩa. Biết sống vừa đủ, thanh bần và trọng đường đạo đức nên tiếng tốt lưu lại ngàn đời sau. Tâm tánh nhu hòa, không thích tranh tụng hơn thua, không thích bày mưu tính kế để tranh danh đoạt lợi. Thấy người làm ác thường đem lòng thương và dùng lời lẽ minh bạch, dịu ngọt để can gián. Lời nói ra được nhiều người tin nghe, kính mến và quý trọng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Tín tâm lánh đường ác</I>: Biết tin sâu nhân quả, tội phước nên trọn đời chăm làm điều lành, không hề nhúng tay vào việc ác. Tin kính Phật pháp, tôn vinh và ưa thân cận các bậc tu hành đạo đức; do đó tâm trí được khai mở, huệ căn rực sáng, thần sắc mẫn lợi, thấy được tâm tánh và ra khỏi ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, thoát khỏi quả báo luân hồi đau khổ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Lợi mình, lợi muôn sanh</I>: Một đời hết mực thanh cao, trong sạch và lương thiện. Việc gì lợi mình và hại người quyết không bao giờ làm. Việc gì lợi mình và lợi ích cho người thì khó khăn mấy cũng không từ chối, đôi lúc vì lợi ích chung mà có thể hy sinh tự ái và quyền lợi riêng tư để vì tất cả, phụng sự đám đông. Bản tính ưa hoạt động, thích làm việc từ thiện xã hội, văn hóa, giáo dục và nghệ thuật. Thích thiền thi, minh họa, say sưa với lý tưởng tôn giáo và vượt thoát mọi ràng buộc.
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số tám
<B>CHÁNH TINH TẤN</B> (Hạnh lành siêu việt)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Điều lành thường nuôi dưỡng
Chăm vun bón tình thương
Quyết tránh xa điều ác
Chân lý dẫn soi đường.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Điều lành thường nuôi dưỡng</I>: Mỗi ngày nên làm một việc lành, dù điều lành ấy rất nhỏ, chẳng hạn như bỏ mười xu vào hộp từ thiện, nói hòa nhã với người thân, bớt mua sắm áo quần và các vật dụng không cần thiết, rủ bạn bè đi nghe giảng giáo pháp, phát tâm cúng tiền in kinh sách, góp tiền cho trẻ em đói, nở nụ cười hiền hòa khi bị người trách mắng, đừng bao giờ nói chuyện xấu của người, không xâm phạm đến quyền tự do của người khác v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Chăm vun bón tình thương</I>: Tình thương là một món quà lớn và có thật. Ta cần có tình thương, người lớn cần có tình thương, trẻ em cần có tình thương, loài vật và cây cỏ cần có tình thương. Đời sống không có tình thương là đời sống cằn cỗi, héo mòn và tàn tạ. Chăm bón tình thương là ta biết thở, biết cười trong từng giây phút và ngay cả khi gặp phải những chuyện khó khăn. Đối phó với những nghịch cảnh bằng sự buồn, cơn giận lo âu hấp tấp và thiếu suy nghĩ là ta đã vun vãi khổ đau thêm cho ta và cho người. Tươi vui, trầm tĩnh, sáng suốt và tự tin là các yếu tố tốt nhất để chăm bón tình thương. Ta phải biết học hỏi phương pháp quán chiếu về thiền định để tình thương có mặt trong cuộc sống.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Quyết tránh xa điều ác</I>: Đừng tưởng rằng chỉ có giết người mới là điều ác, cướp của mới là điều ác, xâm phạm tiết hạnh của người mới là điều ác; có những điều ác rất vi tế mà ta phải quán sát kỹ mới thấy rõ. Chẳng hạn nói sai sự thật, nói lời không vui hòa và nói lời dèm pha, chạm tự ái người; uống rượu say lái xe bị tai nạn; hút thuốc là gây độc hại cho bản thân và truyền nhiễm cho trẻ con bị lao phổi. Đó cũng là những điều ác, ta phải cố tránh đừng phạm phải. Có vợ, có chồng mà thiếu hiểu biết và thương yêu nên cứ gây gổ nhau hoài khiến con cái bị tiêm nhiễm về lời nói hằn học, cử chỉ thô bạo, tâm trí bất thường, đó cũng là điều ác. Hãy nên thận trọng và tránh xa các điều ác, như vậy, thì hạnh phúc cá nhân, gia đình được thiết lập.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Chân lý dẫn soi đường</I>: Chân lý là những gì rất thật, rất giản dị có liên quan đến đời sống hàng ngày. Ta thấy được sự thật, sự đơn giản ấy thì cuộc dống của ta không bị ủ trệ, vướng bận, khổ đau. Ăn là một chân lý, ngủ là một chân lý, thở là một chân lý, cười là một chân lý... Ta ăn mà biết quán chiếu thức ăn là vị thuôc, nên ăn để nuôi thân chứ không phải vì miếng ăn mà làm khổ mình, khổ người. Không ngủ là bệnh, ngủ được là khỏe, nhưng ngủ nhiều là mê lú. Quân bình được sự ăn, sự ngủ cho điều hòa là một chân lý sống. Thở, cười là một chân lý mầu nhiệm. Thở, cười làm cho tâm an, làm cho cõi lòng cởi mở, làm cho đời thêm tươi sáng. Ta phải biết tiếp xúc và nuôi dưỡng chân lý quý giá đó thường trực trong từng giây từng phút của đời người.
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số chín
<B>THIỆN HẠNH MÃN TÚC</B> (Hạnh lành đầy đủ)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Thiện căn đủ trong lòng
Xả vọng hết long đong
Năm sông do duyên hợp
Một đời tính cho xong.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Thiện căn đủ trong lòng</I>: Bản tánh của bạn xưa nay vốn hiền lành, có đầy đủ hạt giống tốt ở bên trong. Không tham dục, không sân nộ, không tà kiến, không ngã mạn, không nghi hối, không ác tâm. Bạn có lòng thương người, giúp người, không cố chấp, tánh tình vui vẻ và rộng lượng. Những hạt giống ấy trân quý hơn ngọc, hơn vàng. Bạn nên thường xuyên tưới tẩm, vun bồi những hạt giống tràn đầu Phật tánh ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Xả vọng hết long đong</I>: Xả vọng là bạn nên nhận rõ bản sắc của đời sống, của sự vật đúng như chính mặt thật của nó. Nhận lầm thì hạnh phúc chỉ là chiếc bóng và bạn sẽ bị thất vọng, đau khổ triền miên. Ví dụ: bản chất của thân mạng là biến đổi, các tế bào chết đi và sinh khởi hàng triệu triệu lần trong mỗi giây phút. Do đó, thân ta khi sống, khi chết là lẽ tất nhiên. Không có gì đáng lo lắng, rầu buồn. Biết rõ, thấy rõ cái lý sanh diệt, vô thường này thì tâm ta có nhiều an vui, cuộc sống thong dong, an nhiên và tự tại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Năm sông do duyên hợp</I>: Năm sông là năm uẩn kết hợp thành thân, tạo nên đời sống. Sắc, thọ, tưởng, hành và thức là các yếu tố vật lý, sinh lý, tâm lý bao hàm trong các sinh thể. Sắc là sắc thân thuộc phần vật lý hay vật chất; thọ, tưởng, hành, thức thuộc lãnh vực tinh thần và tâm linh. Sắc thân nhờ gá duyên cộng hợp của cha mẹ mà có, tinh thần kết hợp từ lực chuyển biến tương tục sanh của A lại da khởi hiện. Vì do duyên sanh nên có sự thay đổi già, đau, sống và chết. Thế nên, cái nghĩa sống chết nằm trên bình diện tương tục sanh. Tương tục sanh thì không có chấm dứt, mạng sống không có chết và nó luân lưu bất diệt. Đây là ý nghĩa rất mầu nhiệm, trong sáng và siêu việt nơi giáo lý đạo Phật. Bằng sự trao đổi, nhân lành mà ta có thể sửa đổi được tật xấu và chuyển hóa mọi khổ đau. Bạn có cuộc sống vui tươi, tốt đẹp. Bạn sống lâu và có đầy hy vọng tạo được hạnh phúc, niềm vui lớn cho đời này và đời sau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Một đời tính cho xong</I>: Phát nguyện tu học, phải quyết tâm tìm thầy học đạo để tích lũy nhân lành, cởi bỏ phiền não trói buộc. Đời sống quá ư ngắn ngủi, bệnh tật, tai họa và mọi bất trắc có thể xảy ra cho ta, cho người thân ta, bất cứ lúc nào. Chớ đợi lúc tuổi mới học đạo, mới tu tập, hãy nên tinh tấn để khỏi ân hận trong nhiều kiếp. Được làm thân người rất khó, gặp đạo chân chánh để tu tập lại càng khó hơn. Ngay bây giờ nên biết tinh tấn, sáng ý mà trau dồi đời sống tâm linh và đạo giác ngộ, chớ nên chậm trễ. Trong đời này phải giải quyết cho xong việc lớn sống chết.
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số mười
<B>AN LẠC GIẢI THOÁT</B> (Vui thay hết ràng buộc)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Lòng vui không phiền muộn
Không khắc khoải buộc ràng
Bình tâm nhìn sắc tướng
Như mây vờn thênh thang.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Lòng vui không phiền muộn</I>: Tâm vui nhiều, ít trách móc và phiền muộn kẻ khác. Khi buồn, khổ kéo đến, tự biết suy nghĩ và tìm ra nguyên nhân để hóa giải, ít khi than vãn với người khác, dù đó là người thân. Hay lấy lý lẽ, lời trong sáng, vui hòa để an ủi, khuyên răn những kẻ có nhiều đau khổ. Có bản lãnh, có khả năng dẫn dắt người hướng đến điều lành. Đó là nhờ trong tâm có nhiều an lạc, có lòng trắc ẩn rộng sâu đối với nhân loại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Không khắc khoải buộc ràng</I>: Không buông lung, không buộc ràng là người sướng nhất trên đời. Buông lung đưa đến đau khổ, buộc ràng đưa đến khắc khoải, phiền muộn và lo âu. Song với tâm không buông lung, không dính mắc, buộc ràng là nhờ có định lực và trí tuệ sắc bén. Xem mọi chuyện đến cũng như đi, như mây trôi đầu núi, như nước chảy qua cầu, không đem tâm xua đuổi và cũng không đem lòng luyến tiếc. Bạn há không là một thiền sư, một bậc tự tại và giải thoát sao!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Bình tâm nhìn sắc tướng</I>: Đem cái tâm trong sáng và lặng mà nhìn đời, nhìn sự vật thì khi nhìn vào đâu là chỗ ấy hiện ra châu ngọc, hiện ra pháp giải thoát, hiện ra sắc tướng rực rỡ mầu nhiệm. Bình tâm là tâm Phật, tâm an lạc, tâm không câu chấp, tâm thương yêu và hòa hợp. Tâm bình là tâm không có phiền muộn, đố kỵ và thành kiến, nên nhìn cha mẹ, nhìn người thân, nhìn người xa lạ, nhìn muôn loài, nhìn tổ quốc, quê hương như nhìn vào trái tim và buồng phổi của chính mình. Sự sống, trái tim, buồng phổi là một. Tâm bình thì thế giới với mình không có hai, không có khác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Như mây vờn thênh thang</I>: Mây cho ta mưa, mây cho ta nước, mây cho ta một nghệ thuật luân lưu, kỳ diệu và tự tại. Bạn là người có tầm vóc, là người có chí khí và vượt thoát như mây trời thênh thang. Thế nên, cái đau nhức, cái phiền muộn, cái không như ý do người thân, do nghịch cảnh gây ra đối với bạn có sá gì, bạn chỉ hít vài hơi thở cho thật sâu và mỉm cười là tâm bạn nhẹ khỏe, mọi sự đều tươi vui và êm đẹp.
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số mười một
<B>CHÁNH TRI KIẾN</B> (Hiểu biết tường tận)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Chân tính rộng vô cùng
Nhờ định huệ dung thông
Không ngã chấp tà kiến
Hòa đại thể mênh mông.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Chân tính rộng vô cùng</I>: Bản thể của muôn sự muôn vật cao rộng, mầu nhiệm, thênh thang vô cùng. Đạt được bản thể ấy là thấy được sự thật, thấy được chân lý vô sanh, bất diệt của sự sống. Tực hiện được điều này là do công phu tu định huệ mà đạt thành. Trên đời không một ai độc quyền chân lý, bạn có đủ khả năng và căn duyên để tiếp xúc với chân tánh của bạn. chân tánh của muôn pháp. Bạn sẽ trở thành người toàn vẹn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Nhờ định huệ dung thông</I>: Định là lắng lòng và tịnh ý. Tuệ là thấy rõ, thấy đúng mối tương quan của đời sống và của các hiện tượng giới. Bạn có căn duyên tu tập thiền định. Bạn nên tìm thầy học đạo để sớm thông đạt lý mầu. Đời có nhiều rắm rối, nhiễn loạn, thương đau nhưng một phen đạt được tuệ giác, có sự hiểu biết tường tận về nguyên nhân đau khổ, phương pháp diệt khổ là hạnh phúc đến ngay với bạn trong giây phút hiện tại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Không ngã chấp tà kiến</I>: Không bám chặt vào cái thân giả tạo, tài sản vô thường, tâm niệm đổi thay. Đó là nhờ bạn nhận thức tường tận cái lý vạn pháp do duyên sanh và theo duyên mà diệt. Ở đời người ta hay bị đau khổ vì mê chấp thân mạng, ôm ấp tài sản, bám chặt tình sắc, khởi lòng tham giận nên trở thành ích kỷ, đấu tranh. Bạn là gười có trí tuệ, vượt xa những người tầm thường; biết nương thân để tu tập, biết dùng tài sản để làm phước, biết nương vào hơi thở, nụ cười chánh niệm để đãi lọc tâm ý và biết dùng thời gian quý báu để làm điều lành. Bằng vào cái nhân trong sáng đó, cuộc đời của bạn được tự tại, an lạc và không rơi vào đường tà ma xấu ác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Hòa đại thể mênh mông</I>: Sống và tiếp xúc với sự sống mà tạm vui vẻ, không lo âu, phiền muộn là bạn đang sống ở cõi thần tiên. Cái lòng của cuộc đời mênh mông vô tận, sáng rỡ và diệu dụng không lường. Những việc sống chết, sanh già, khổ đau, biến đổi chỉ là những hiện tượng bề ngoài của sự sống. Cái lòng sáng rỡ, diệu dụng không lường của sự sống được gọi là đại thể chơn không, bạn vào được đó thì tha hồ mà bơi lội. Đó là biển tuệ giác, đó là nơi không còn khổ đau và oan trái. Vào đó bạn có niềm vui trọn vẹn.
<CENTER>Đề mục Quán chiếu số mười hai
<B>ĐẠI HÙNG TÂM</B> (Tâm dũng mãnh)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Không khuất phục uy quyền
Đạo đức thường cao tuyên
Tỉnh thức đường giác ngộ
Chánh niệm trụ vạn duyên.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Lời giải</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Không khuất phục uy quyền</I>: Người có tâm đại hùng đại lực nên vượt thoát mọi chướng ngại và không bao giờ bị khuất phục bởi uy quyền, bạo lực. Tánh khí cương trực, ngay thẳng, nghi kỵ, nói lời chân thật và bao giờ cũng làm việc lợi ích cho người khác. Tu học thì đắc đạo, ở đời thì lãnh đạo thiên hạ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Đạo đức thường cao tuyên</I>: Ưa tham cứu tôn giáo, kinh điển và triết lý sống. Có kinh nghiệm sống an lạc nội tâm và hay truyền đến dạt cho nhiều người. Thông minh, lanh lợi, khéo nói năng và trình bày những điều lành để cải hóa tình trạng xấu của thiên hạ. Bạn là một luật sư giỏi, một nhà biện thuyết kỳ tài, một giảng sư cao tuyên chân lý.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Tỉnh thức đường giác ngộ</I>: Nhìn dòng suối chảy, xem đám mây trôi, quan sát nụ hoa tàn tạ trong đám sương tuyết mà lòng bỗng dâng thấy chân tánh vạn vật: Các pháp vốn không có tự tánh riêng biệt, luật biến đổi là bản hữu lưu chuyển sanh tồn. Cái này sanh thì cái kia sanh, cái này không thì cái kia không. Muốn pháp vốn sanh hóa như vậy, sự sống con người cũng như vậy, không đầy không vơi, không thêm không bớt. Ôi! Vi diệu thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- <I>Chánh niệm trụ vạn duyên</I>: Vạn duyên cấu tạo nên muôn vật, vũ trụ. Vạn duyên cũng là ý nghĩ phức tạp, lăng xăng, tâm tư không yên ổn. Chánh niệm là khả năng trụ tâm theo hơi thở, nhìn thấy sắc tướng giả huyễn của sự vật mà không say đắm, chấp trước. Chánh niệm cũng là dùng hơi thở để quán định làm cho thân tâm trở về một mối, nhờ đó mà huệ lòng khai mở.
<CENTER>Bài Minh Về Mười Hai Đề Mục
<B>QUÁN ÂM QUÁN CHIẾU</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trên đây là mười hai bài kệ do đại sư Viên Giác biên soạn và lược giải. Những bài kệ này được gọi là QUÁN ÂM QUÁN CHIẾU (theo lời đại sư Viên Giác), vì nội dung của những bài kệ có liên quan thân thiết hạnh nguyện từ Bi rộng lớn và trí tuệ quán chiếu thâm sâu của đức Quán Thế Âm Bồ tát. Mỗi bài kệ nói lên một khía cạnh của "Cái Thấy Đích Thực" về con người, về sự vận hành và duyên sinh của các pháp. Nhờ thấy đích thực mà con người khởi sanh đức tin, khởi sanh kỳ vọng là ai cũng có những đức tánh tươi mát, sáng đẹp và con người có đủ khả năng để làm cho những đức tánh ấy được phát triển toàn hảo. Tuy vậy cùng một lúc mỗi một cá nhân không thể tu tập và phát triển tẩ cả mọi khía cạnh tốt đẹp của mình; vì vậy mà kiến giải trong một bài kệ là một thể tài và được ví như tấm gương phản chiếu tâm tư ta, ta hãy liên tục cố gắng phát triển những tâm lý đẹp mà ta đang có qua phương pháp hành trì Kinh PHỔ MÔN và đề mục quán chiếu sau đây:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. <B>QUÁN ĐẢNH</B>: Theo dõi hơi thở ra vào đều đặn và nuôi ấn tượng đức Quán Thế Âm ngồi tòa sen, trên tòa sen báu nơi đỉnh đầu phóng ra những tia sáng mát dịu, trong suốt khiến tâm ta cảm thấy nhẹ nhàng, an lạc và tràn đầy hạnh phúc,
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. <B>TỪ BI QUÁN</B>: Đức Quán Thế Âm như bà mẹ hiền, thương hết thảy chúng sanh như nhau, không có phân biệt giàu nghèo, oán thân. Hễ nơi nào có chúng sanh kêu cầu đau khổ là đức Quán Thế Âm hiện thân đến độ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. <B>NIỆM DANH HIỆU</B>: Mỗi ngày sau khi ngồi thiền và tụng kinh, nên niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ tát 108 lần để un đúc hạt giống lành trong tâm khảm càng thêm rộng lớn:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Để tuần tự phát triển các đức tánh tốt được nêu trong mười hai đề mục trên đây, mỗi người nên chọn một thể tài của bài kệ để trau dồi trong năm. Cách thức chọn một trong mười hai đề mục: Viết ra mười hai số trên các tấm giấy nhỏ từ số một đến số mười hai và xếp lại rồi bốc thăm, hễ trúng số nào thì gắng quán chiếu và tu tập theo lời giải của bài kệ. Mười hai đề mục này các chùa cũng có thể in ra mà dùng thay thế các quẻ xăm dùng xưa nay vốn thiếu phần nội dung hướng dẫn tu học rành rẽ.
<p style="padding-left: 86px;"><B>QUÁN ÂM LINH HIỂN</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Mẹ hiền Tự Tại Quán Âm
Tâm thanh cứu khổ độ trần mê say
Chở che nhờ đức cao dày
Niệm danh Bồ tát não phiền xua tan
Vảoa sanh tử Niết bàn
Ba hai thân tướng nhân gian ứng hình
Quán Âm Bồ tát oai linh
Đem lòng tưởng niệm quang vinh cửa nhà
Thực hành bố thí lợi tha
Nhân lành gieo khắp ta bà nở hoa.</I>
<p style="padding-left: 86px;"><B>MẸ HIỀN QUÁN THẾ ÂM</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Mẹ về trên khắp thế gian
Mẹ về đây giữa ba ngàn vô ưu
Mẹ về trong tiếng Thư cưu
Mẹ về trong bóng Tỳ khưu Mẹ về
Mẹ đi trong ánh sao khuê
Trong hương hoa bưởi, trong đề thơ mây
Ngọt ngào Mẹ đã về đây
Trắng ơi màu trắng, trắng ngày ban sơ
Nụ cười Mẹ, nụ cười thơ
Bàn tay Mẹ một đường tơ vô cùng
Con ơi trong ý thơ rung
Mang mang đồng vọng trùng trùng Đại Bi
Mẹ về trong ánh lưu ly
Nét mày sơ nguyệt, thầm thì siêu nhiên
Bao nhiêu là diệu, là hiền
Trong đôi nét nguyệt vẽ trên đôi mày
Mẹ về ấm áp lắm thay
Sữa kia với lại bình này cho con
Chở Tam thân một bình tròn
Ơn nguồn Tịnh Thủy cho non nước đầy
Mẹ về đây, Mẹ về đây
Từ Vô thủy Mẹ vơi đầy cho con
Tinh khôi áo nắng vuông tròn
Như ban sơ vậy - mãi còn ban sơ
Mẹ về đồng thể giấc mơ
Trên đồi cánh biếc của tờ ca dao
Mẹ ơi con nói thế nào
Nói sao đi nữa, nói bao nhiêu lời
Nụ cười Mẹ nở trên môi
Vẽ nên đôi nét tao nôi địa cầu
Ru con ôm giấc mộng đầu
Nhịp nghìn xưa, nhịp nghìn sau nhịp nhàng
Lời ru Mẹ vượt không gian
Tao nôi Mẹ vượt thời gian về cùng
Từ Vô thủy đến Vô chung
Nhịp tao nôi Mẹ, nhịp trùng trùng dương
Nét môi Mẹ vẽ thiên đường
Tao nôi Mẹ vẽ tình thương hải hà
Chiếc thuyền Mẹ chở bao la
Cho con, cho cả thiên hà chúng con
Chiều chiều ngọn gió Nam non
Lắng nghe tiếng Mẹ nỉ non bên cồn
Mẹ ơi sao dáng Mẹ buồn
Mẹ ơi! Sao mắt Mẹ nguồn biển khơi
Mẹ nghe, nghe hết mọi lời
Oan khiên bạc mệnh cuộc đời thế gian
Ôi chao sức nặng điêu tàn
Ôi chao sức nặng Ba ngàn Đại thiên
Của đau, của hận, của phiền
Của hư, của vọng, của miền trầm luân
Mẹ đều nghe hết "Quán Âm"
Nói sao dáng Mẹ không bâng khuâng chiều
Mẹ ơi trời đất bao nhiêu
Tâm con thương Mẹ bấy nhiêu đất trời
Đêm nay Rằm lại về ngồi
Cho thơ con nở nụ cười sáng trăng.</I>
<p style="padding-left: 120px;"><B>Trụ Vũ</B></P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên