Khai thị về thiền của hòa thượng hư vân

gioidinhhue

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
950
Điểm tương tác
47
Điểm
28
Địa chỉ
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
KHAI THỊ VỀ THIỀN CỦA HÒA THƯỢNG HƯ VÂN
Hòa Thượng Hư Vân.

Trước hết xin ghi lại đoạn văn của Chang Chen Chi (Trương Trừng Cơ) trong quyển "Thiền đạo tu tập" (The Practice of Zen), do Như Hạnh dịch ra Việt văn, trang 124:

"Thiền sư Hư Vân là một vị thiền sư còn sống, danh tiếng nhất Trung Hoa.

Khi tôi viết những dòng này, ngài đã 119 tuổi. Thân thể vẫn khỏe mạnh và tâm trí còn lanh lợi. Ngài đã chỉ dạy cho hàng ngàn đệ tử và trong mấy chục năm qua, đã dựng nhiều chùa rải rác khắp Trung Hoa. Đời ngài đầy những hồi lỳ dị và được coi là uy tín khuôn mẫu nhất của Thiền ở Trung Hoa hiện tại..."

THAM THIỀN - ĐẢ THẤT

Ngài Hư Vân bảo:

Muốn cắt đứt vọng tưởng phải tu Thiền thất hay Tham thiền (cũng gọi là: Đả thất, nhập thất vào thất - một nhập thất để tu như vậy gọi là Thiền đường, được thiết lập tùy hoàn cảnh và phương tiện có được của hành giả).

Thiền: Phạn ngữ (Sanscrit) là Dhyana, người Tàu dịch âm là Thiền na, gọi tắt là thiền, cũng dịch là tĩnh lự.

Xưa kia, Thế Tôn thuyết phát ngót 50 năm, hoặc nói rõ (hiển thuyết), hoặc nói kín (mật thuyết), lời dạy góp lại thành mười hai bộ Kinh, chia làm ba tạng thật là rất nhiều.

Nay, Hư Vân tôi nói đây, chẳng qua chỉ thu nhặt lại vài lời thừa của Phật và Tổ.

Sau đức Thế Tôn lúc ở núi Linh Thứu thăng tòa, tay cầm cành hoa Kim Đào Mộc do Đại Phạm Thiên Vương dâng cúng, đưa lên cho đại chúng xem. Toàn pháp hội nhân - thiên, đại chúng không ai biết ý Phật như thế nào. Chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp mở mặt mỉm cười. Thế Tôn bèn nói với Ca Diếp: "Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng" nay trao truyền cho ông (Ngô hữu chính pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, phó chúc ư nhữ).

Đó là pháp môn vô thượng gọi là: "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực hạ thừa đương" (Truyền trao ngoài sự dạy dỗ thông thường, ngoài giáo điều, không dựa trên chữ nghĩa, ngó ngay xuống, nhìn ngay xuống là thấy).

Về sau, người ta mơ hồ gọi pháp môn đó là Thiền.

Nên biết rằng: Trong kinh Đại Bát Nhã đề ra có hơn hai mươi loại thiền... mà đều chẳng phải là cứu cánh. Như: Đại thừa thiền, Tiểu thừa thiền, Hữu sắc thiền, Vô sắc thiền, Thanh văn thiền, Thiền phàm phu, Ngoại đạo thiền v.v... Chỉ có thứ thiền của tông môn mà chúng ta tu tập đây mới là "thứ thiền không thứ bậc, đi thẳng vào nội tâm, thấy tánh thành Phật" (Bất lập giai cấp, trực há liễu đương, kiến tánh thành Phật). Đó là Vô thượng thiền.

Như vậy làm sao nói được việc nhập thất hay không nhập thất? (Nói rằng không có thấp cao hay thứ bậc, nghĩa là không có việc đi từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu, từ gần đến xa... thì làm sao có việc nhập thất, nghĩa là đi lần hồi từ ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy (mỗi thất bảy ngày... và từ thất thứ nhất đến thất thứ bảy: 7x7=49 ngày). Như vậy có gì mà phải tu hay không tu thiền thất.

Sở dĩ có như vậy là vì căn khí chúng sanh càng ngày càng nhụt, vọng niệm đa đoan, nên các chư Tổ đặc biệt đề ra các phương tiện để nhiếp thụ họ.

Thiền tông nối tiếp nhau từ Ma Ha Ca Diếp đến nay đã trên sáu bảy mươi đời rồi. Dưới đời nhà Đường, nhà Tống, gió Thiền thổi khắp thiên hạ, hết sức xưng thạnh.

Đến nay thì rất suy vi! Do đó, nhân tài rất ít. Và trong hoàn cảnh này mà nói "Đả thất", "Nhập thất" thì không phù hợp với thật sự chút nào. Số tu thiền thất phần đông chỉ có danh vậy thôi.

Nếu trong thiền đường mà có người tham thấu được nghi tình, cắt đứt được mệnh căn, vọng tưởng như thế là đồng với Như Lai (thành Phật).

Đo đó nơi thiền đường này cũng được gọi là "Tuyển Phật Trường" (trường thi tuyển chọn Phật), hay "Bát Nhã Đường".

Các pháp tu học ở đây thảy đều là vô vi. Vô vi là không có tác vi, tức là không có một pháp nào để đắc, không có một pháp nào để làm. Nếu là hữu vi tất phải có sanh diệt. Nếu có đắc hẳn phải có thất, cho nên kinh nói:

Đản hữu ngôn thuyết = Nếu có lời nói.
Đô vô thực nghĩa = Đều không thực nghĩa.

Tất cả những việc tụng kinh, gõ mõ, lễ sám v.v... đều là hữu vi. Tất cả đều thuộc phương tiện huyền xảo trong tôn giáo. Thiền chỉ dạy chúng ta "trực hạ thừa đương" (lập tức đảm nhận), chẳng nói nhiều lời dài dòng.

http://www.capcodoc.net/index.php?option=com_content&task=view&id=305&Itemid=56
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

gioidinhhue

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
950
Điểm tương tác
47
Điểm
28
Địa chỉ
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
THOẠI ĐẦU

Nhưng nay, Hư Vân nói tiếp:

Các ông cùng tôi căn khí yếu kém, các đại Tổ Sư chẳng thể không mượn phương tiện dạy chúng ta "tham một câu thoại đầu". Vì từ đời Tống về sau, người niệm Phật rất nhiều, vì thế các đại Tổ Sư dạy tham câu thoại đầu "Niệm Phật thị thùy?" (Ai là kẻ niệm Phật?) Câu này có nghĩa là "Ai niệm Phật? Kẻ nào niệm Phật?

Hiện nay đâu đâu cũng đều dụng công theo pháp môn này mà tham cứu, kể ra rất đông nhưng chưa mấy ai thông rõ một cách minh bạch. Còn rất nhiều người chưa hiểu rõ, lại đem câu thoại đầu "Ai là kẻ niệm Phật?" này mà niệm như người ta tu bên Tịnh độ niệm Nam Mô A Di Đà Phật, niệm đi niệm lại. Như vậy hóa ra: niệm thoại đầu chứ không phải tham thoại đầu.

Chiếu là rọi ngợc. Cố là nhìn rõ. Rọi ngược là phản chiếu tự tánh, là xoay cái tâm chuyên hướng về ngoại cảnh, chạy theo những thích muốn bên ngoài, mà chiếu rọi trở lại vào trong. Như thế mới gọi là "Khán thoại đầu". Thoại đầu ở đây là câu "Niệm Phật thị thùy?". Trong trường hợp này, ở đây nên nói là "thoại vĩ" (đuôi câu chuyện) mới đúng. Vì sao? Vì điều phải cố nhìn, tham khán là chữ "thùy" (là ai?) tức là tìm cho ra ai là người niệm Phật?

Thí dụ như tôi đang ngồi niệm Phật đây, hốt nhiên có người hỏi: "Ông ơi, ai niệm Phật đó?" Dĩ nhiên là tôi đáp: "Tôi niệm Phật chứ ai". Người ấy lại hỏi: "Nếu niệm Phật là ông, vậy "ông" đây là cái miệng hay là cái tâm? Nếu nói miệng niệm thì sao lúc ông ngủ, miệng lại không niệm? Bằng nói tâm niệm, thì khi ông chết rồi, sao tâm không niệm? Thật là rắc rối! Những câu hỏi như thế làm cho chúng ta có chỗ "nghi".

Ta phải đứng ngay chỗ nghi này mà truy tầm, nghiên cứu xem coi thật ai niệm Phật (hay cái gì niệm Phật). Xoay cái thấy của mình vào trong. Vi vi, tế tế, linh diệu mà soi ngược lại. Xét xem coi câu nói ấy nó như thế nào, từ đâu tới... quan sát nó kỹ lưỡng. Đó là xoay cái nghe của mình để nghe tự tánh của mình vậy (Phản văn văn tự tánh).

Như vậy trong lúc "hành hương" (cũng gọi là "bảo hương" hay "thiền"), trong khi tu tập như vậy, cổ áo, thắt lưng phải chỉnh tề, đôi chân quì gối hay kiết già, bán già đoan trang, trước mặt dù có người chạy tới lui, tâm vãn phải bình, thân phải yên lặng ngay thẳng, mắt đừng liếc qua ngó lại, một lòng ghi nhớ thoại đầu (giai đoạn này có thể gọi là điều thân).

Trong lúc chánh thức vào thiền, tức là "ngồi hương" gọi theo nhà chùa, bụng không nên quá phồng lên, hơi thở không nên đi lên trên, ngực đừng ưởn lên quá. Hơi thở để cho nó tự nhiên, không nên đè khí lên, cũng không nên dằn nó xuống (giai đoạn này gọi là điều tức).

Kế đó thu nhiếp (nắm giữ) mấy cửa của sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý); gạt bỏ, buông rơi hết muôn niệm (nhớ nghĩ), nhất nhất một mạch đừng quên ngó rõ thoại đầu đừng cho quên lãng. Lại nữa không nên thở quá mạnh, vì thở mạnh thì "phù" nổi dậy (ý nói vọng tưởng nổi lên) rồi không đi sâu vào nội tâm được. Cũng không nên thở quá nhẹ, vì thở quá nhẹ thì bị chứng "hôn trầm" (tức mê man không tỉnh, gần như ngủ) và như thế rơi vào chỗ trống không.

Vậy thở mạnh (thô) hay thở nhẹ (tế) đều không đem đến kết quả. Cứ thở đều đều và một mạch quán thoại đầu, không quên được thoại đầu. Cũng không được cưỡng nặng cái tâm, vì làm như vậy thế nào nó cũng trôi nổi, không giữ nó trầm tĩnh lại được. Cúng không được để nó lâng đâng, vì như vậy ắt sẽ hôn trầm và ta sẽ rơi vào "ngoan không", đều chẳng lợi ích gì cả.

Nếu lúc nào cũng quán được thoại đầu, công phu tự nhiên thuần thục dễ dàng, các tập khí (những thói quen nhớ xằng, nghĩ sai) tự nhiên dứt bặt.

Đối với những người mới dụng, ngồi thiền không dễ gì quán hay chiếu cố thoại đầu một cách dễ dàng tốt đẹp hay làm cho đúng được. Tuy nhiên chẳng nên ngại sợ, cũng đừng tưởng đến việc khai ngộ, hoặc cầu trí tuệ hay giác ngộ gì cả. Nên biết rằng: Tu thiền thất là để cầu giác ngộ, để cầu trí tuệ. Nếu như mình lại đem một cái tâm nữa mà cầu, rồi bỏ câu thoại đầu đang cần soi sáng, nghiên cứu để chạy theo nào khai ngộ, nào trí tuệ thì thành ra mình đặt lên thoại đầu một thoại đầu khác rồi. Đó là thêm đầu lên đầu! Hay chấp đầu.

Như vậy là biết rằng: chỉ cần đề khởi một thoại đầu mà thôi để có thể đi đến chỗ cuối cùng của sự tham khán.

Nếu lúc mới tập, không làm cho thoại đầu nổi lên trong tâm mình được, thì ngàn muôn lầm đừng hấp tấp, nóng nảy, sốt ruột và không ngớt quan sát, dài đăng đẳng không dứt quan sát một cách miên mật, cứ nắm chắc sự chiếu cố thoại đầu. Vọng tưởng có đến cứ để cho nó đến, ta không nên kiếm cách chôn vùi nó, đừng chú ý gì đến nó, rồi tự nhiên nó dứt bặt đi.

Đó là chỗ gọi:

Bất phạ niệm khởi = Không sợ vọng niệm khởi.
Chỉ sợ giác trì = Chỉ sợ ánh giác đến chậm.

Vọng tưởng càng đến... chúng ta không cố xua đuổi chúng, mà nên gom hết sức mạnh của ánh sáng phản chiếu bám chặt, đóng đinh chặt thoại đầu lại đừng đẻ cho nó chạy. Nếu thoại đầu mất, tức tốc đuổi thao bắt nó lại cho được.

Khi mới ngồi thiền, tọa hương, chúng ta chẳng ngứt bị vọng tưởng. Nhưng lần lần với thpfi gian, ánh sáng sẽ hiện bày, thoại đầu sẽ có đủ sức mạnh nổi lên (trong tâm chúng ta). Đó là lúc chúng ta có thể đè khởi thoại đầu dễ dàng, chỉ trong khoảng đốt một cây nhang đủ làm cho thaọi đầu nổi lên suốt hằng giờ không chạy mất nữa. Và nhất là khi chúng ta đã nắm được nó tức là chúng ta đã nắm đúng chỗ phải nắm rồi vậy.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên