Khẩu Truyền Sao (2663)

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
TẢI VỀ

TẢI VỀ


KHẨU TRUYỀN SAO
No. 2663


LỜI NÓI ĐẦU

Khẩu Truyền Sao (口傳鈔), tác phẩm gồm 3 quyển, do vị Tăng người Nhật là Giác Như Thượng nhân (覺如上人, 1270-1351), trụ trì Bản Nguyện Tự (本願寺), Tông chủ đời thứ ba Tịnh độ Chân tông, biên soạn vào năm Nguyên Hoằng thứ nhất (元弘, 1331), lúc 62 tuổi, được thu vào Đại Chánh Tạng, tập 83, No. 2663. Sách này được viết bằng tiếng Nhật, nội dung gồm 21 điều mục về Pháp ngữ và hành trạng của Tổ sư Thân Loan (親鸞, 1173-1262), người khai sáng Tịnh độ Chân tông của Nhật Bản, có phụ thêm những ghi chép của Như Tín Thượng nhân.

Tựa đề của cuốn sách này là Khẩu Truyền Sao, nghĩa là “Sư khẩu trần tư bút ký” (師口陳資筆記, Thầy miệng nói, trò bút ghi), đồng nghĩa với “Khẩu Thọ Truyền Trì” (口授傳持) hay “Diện Thọ Khẩu Quyết” (面授口決). Theo đó, cuốn sách này chứa đựng những điều trọng yếu của Tha lực Chân tông mà Thân Loan Thánh nhân đã nói với Như Tín Thượng nhân, trụ trì thứ hai của Bản Nguyện Tự. Và Như Tín Thượng nhân đã truyền đạt nó cho Giác Như Thượng nhân. Thân Loan Thánh nhân trực tiếp chỉ giáo (Diện thọ khẩu quyết) cho Như Tín Thượng nhân, người đã đưa ra lời chứng của mình, và được Giác Như sao chép dưới dạng một bài viết gồm 21 điều mục.

Chấp Trì Sao (執持抄) được Giác Như soạn thuật ở tuổi 57, trước Khẩu Truyền Sao 5 năm, nó đã không đề cập đến sự kế thừa lời dạy của Như Tín Thượng nhân. Nhưng ở sách này, lần đầu tiên Giác Như khẳng định ba thế hệ huyết mạch truyền trì là Pháp Nhiên – Thân Loan – Như Tín, và lập luận rằng, giáo nghĩa chánh thống của Pháp Nhiên đã truyền thừa cho Thân Loan Thánh nhân, và tiếp tục truyền thừa cho Giác Như thông qua Như Tín Thượng nhân, qua đó nhằm minh xác mối quan hệ “sư tư tương thừa” (師資相承, Thầy trò nối nhau).

Qua sách này, Giác Như Thượng nhân muốn nói: Thứ nhất, ông cho rằng phái Trấn Tây (鎮西派) của Thánh Quang (聖光) và phái Tây Sơn (西山派) của Chứng Không (證空) là các dòng truyền thừa khác nhau của Pháp Nhiên Thượng nhân, nhưng chỉ có phái Chân tông của Thân Loan là truyền thừa thực sự của Pháp Nhiên. Thứ hai, đối với các đệ tử của Thân Loan Thánh nhân, chủ yếu là đệ tử trực tiếp và giáo đoàn môn đệ kế thừa, thì Bản Nguyện Tự ở vùng Đại Cốc do Giác Như Thượng nhân khai sơn là trung tâm chính của Tịnh độ Chân tông. Thứ ba, cốt lõi của giáo nghĩa Chân tông là “Tín tâm chánh nhân”, “Tha lực tuyệt đối” và “Xưng danh báo ân”; đối tượng cứu độ của Bản nguyện là “Ác nhân chánh cơ” và “Vốn vì phàm phu, chẳng vì Thánh nhân.”

Khẩu Truyền Sao bản Nhật ngữ có 21 điều mục: (1) An Cư Viện tham hướng; (2) Nhân duyên của Quang minh và Danh hiệu; (3) Mặt trời Vô ngại quang và bóng tối Vô minh; (4) Hai nghiệp thiện ác; (5) Tự lực tu thiện, Tha lực Phật trí và Hộ niệm lợi ích; (6) Đệ tử đồng hành và Bổn tôn Thánh giáo; (7) Phàm phu vãng sanh; (8) Hiệu đính tất cả kinh và công đức cà sa; (9) Ba loại búi tóc; (10) Thủ ý của nguyện thứ 18; (11) Trợ nghiệp là phụ; (12) Thánh nhân bản địa Quán Âm; (13) Giấc mơ của Liên Vị Phòng; (14) Thể thất vãng sanh và Bất thể thất vãng sanh; (15) Khai xuất tam thân; (16) Đức tin về Xưng danh; (17) Cơ Giáo của Tịnh độ Chân tông; (18) Giáo huấn về Ái biệt ly khổ; (19) Giáo thuyết về Ác nhân chánh cơ; (20) Ức chỉ và Nhiếp thủ; (21) Nhất niệm và Đa niệm.

Khẩu Truyền Sao bản Hán ngữ có thể tìm thấy trên mạng internet , nhân duyên là một Liên Hữu thấy được “Tín tâm kim cương và nguyện tâm tha thiết đối với bản nguyện và tha lực của Ðức Phật A Di Đà” mà khẩn cầu chúng tôi chuyển ngữ sách này. Bản Hán ngữ chỉ có 19 điều mục: (1) An Cư Viện tham hướng; (2) Nhân duyên của Quang minh và Danh hiệu; (3) Quang minh phá ám; (4) Hai nghiệp thiện ác; (5) Hai lực thành hoại; (6) Tín Lạc ly môn; (7) Phàm phu nhập báo; (8) Liệu giản chữ Thế; (9) Trợ nghiệp là phụ; (10) Quán Âm thùy tích; (11) Di Đà lai hiện; (12) Tranh luận vãng sanh; (13) Di Đà bản nguyện; (14) Xưng danh báo ân; (15) Khuyên dạy hư giả; (16) Huấn dụ người sầu khổ; (17) Phàm ác là chánh cơ; (18) Phân biệt tạo ác; (19) Phân biệt một nhiều. Như vậy, bản Hán ngữ không có hai điều mục (8) và (9) của bản Nhật ngữ. Chúng tôi cố gắng chuyển ngữ hai điều mục này từ nguyên bản Nhật ngữ, và đặt chúng ở phần Phụ Lục để tham khảo.

Nói về bản Hán ngữ, chúng tôi không thấy tên người dịch. Nhưng xét văn tự cú pháp thì rất cổ xưa, cho nên ngờ rằng đây có thể là nguyên bản viết tay bằng chữ Hán của Giác Như Thượng nhân. Để củng cố cho lập luận này, chúng tôi tìm thấy bản Chánh Tượng Mạt Pháp Hòa Tán (正像末法和讃) ở trên mạng internet bằng Hán ngữ , và khi so với kinh cùng tên ở Đại Chánh Tạng, Tập 83, No. 2652, Thân Loan soạn, hoàn toàn bằng Nhật ngữ (xen lẫn Hán ngữ) thì thấy trùng khớp chính xác. Thí dụ một kệ tụng, bản Nhật ngữ viết là: “釋迦如來カクレマシマシテ。二千餘年ニナリタマフ。正像ノ二時ハヲハリニキ。如來ノ遺弟悲泣セヨ末法五濁ノ有情ノ。” (tr. 664c05) và bản Hán ngữ ghi là: “釋迦如來涅槃後,迄今二千有餘年,正像二時皆已過,如來遺弟應悲泣.” (Thích Ca Như Lai Niết bàn hậu, Hất kim nhị thiên hữu dư niên, Chánh tượng nhị thời giai dĩ quá, Như Lai di đệ ứng bi khấp. Sau Thích Ca Như lai Niết-bàn, Đến nay hai ngàn năm có hơn, Hai thời Chánh Tượng đều đã qua, Đệ tử Như Lai nên thương khóc.)
Hán tạng có rất nhiều Phạn bản do tăng sĩ Ấn Độ mang đến và tăng sĩ Trung Quốc mang về, nhưng không hiểu tại sao ghi chép được kinh điển để đem đến hay mang về, gian nan biết bao nhiêu, và đã làm được công việc dịch thuật đồ sộ, vậy mà Phật giáo Trung Quốc không làm được cái việc bảo tồn Phạn bản, khiến cho mất hết?
Dai Nihon Bukkyō zensho (Đại Nhật Bản Phật Giáo Toàn Thư, 大日本佛教全書) gồm 953 bộ, 3396 quyển, được Hội Phật Thư San Hành (佛書刊行會) biên soạn và in ấn từ năm Minh Trị thứ 44 đến năm Đại Chánh thứ 11 (1911-1922), do các ông Nam Điều Văn Hùng, Cao Nam Thuận Thứ Lang, Đại Thôn Tây Nhai, Vọng Nguyệt Tín Hanh, v.v. chủ trương thành lập. Bộ Toàn Thư này thu tập các sách chú thích kinh, luật, luận, sách nói về tông chỉ của các tông phái, sử truyện, v.v. do các tác giả Nhật Bản soạn thuật (cũng có một số trứ tác do tác giả Trung Quốc soạn thuật), trong đó chia làm 28 bộ môn: Mục lục, Tổng ký, Chư Kinh, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Thai Mật, Chân ngôn, Tất đàm, Tịnh độ, Dung thông, Niệm Phật, Thời tông, Giới luật, Tam luận, Pháp tướng, Nhân minh, Câu-xá, Khởi tín, Thiền tông, Hành sự, Tông luận, Bổ nhậm, Hệ phổ, Địa chí, Tự chí, Nhật ký, Từ tảo, Tạp loại, v.v. Đây là bộ sách Phật giáo do người Nhật soạn thuật lần đầu tiên được ấn hành với qui mô lớn như vậy. Bộ sách được đóng thành 150 tập theo kiểu đóng sách phương Tây, có riêng một tập mục lục. Nó được tái bản vào năm Chiêu Hòa thứ 5 (1930). Từ năm 1919 đến 1921 họ cũng cho xuất bản 51 tập Đại Tạng Kinh, gọi là Nhật Bản Đại Tạng Kinh (日本大藏經, Nihon Daizokyo). Năm 1953-1941, giáo sư Takakusu Junjirō (1866–1945), người biên tập Đại Chánh Tạng, cũng cho xuất bản bộ dịch Nhật văn toàn bộ Đại Tạng Pali tên là Nanden Daizōkyō (Nam Truyền Đại Tạng Kinh, 南傳大藏經). Trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (大正新脩大藏經, Taishō Shinshū Daizōkyō ), Tập 83, từ No. 2646 đến No. 2679, là các trước thuật của chư Sư của Tịnh độ Chân tông Nhật Bản, có cả thảy 34 mà chỉ có 8 tác phẩm là hoàn toàn Hán ngữ, còn lại là Nhật ngữ. Các nguyên tác bằng chữ Hán của một số chư Sư có thể được bảo tàng trong Đại Cốc Bản Nguyện Tự sau khi chuyển dịch sang tiếng Nhật.

Có những tác phẩm có giá trị như Duy Tín Sao Văn Ý (Thân Loan soạn), Thán Dị Sao, Chấp Trì Sao, Khẩu Truyền Sao, Duy Tín Sao (Thánh Giác soạn), Tịnh Độ Chân Yếu Sao, Nhất Niệm Đa Niệm Phân Biệt Sự, v.v. nhưng rất tiếc không được chuyển dịch sang Việt ngữ, bởi vì người am hiểu tiếng Nhật cổ xưa không có mấy ai. Vả lại, Tịnh độ Chân tông Nhật Bản cũng chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam, và đây là điều thiệt thòi cho người tu Tịnh độ Việt Nam. Gần đây, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương trượng Chùa Viên Giác Hannover Đức quốc, đã chuyển dịch những tác phẩm có giá trị vể Tịnh độ Chân tông như: “Tịnh Độ Tông Nhật Bản” của Kakehashi Jitsuen, “Sống với ‘Thán Dị Sao’ của Ngài Thân Loan” của Yamazaki Ryuumyou. Tuy nhiên, nếu các tác phẩm tuyệt vời kể trên mà được chuyển dịch sang Việt ngữ thì là “đại lợi vãng sanh” cho người tu Tịnh độ Việt Nam.

Cầu nguyện cho dịch phẩm Khẩu Truyền Sao này có thể giúp người tu Tịnh độ phát khởi tín tâm kiên cố và nguyện tâm thiết tha vào tha lực của Đức Bổn Tôn A Di Đà Phật.

“Khi những dòng sông phiền não chảy vào
Biển cả bản nguyện đại từ đại bi
Vô ngại quang của Phật chiếu mười phương
Chuyển thành một mùi vị nước trí tuệ.”
Đệ tử chúng con chí tâm quy mạng và đảnh lễ cùng tận không giới, khắp cả mười phương Vô Ngại Quang Như Lai. Nguyện xin Đức Như Lai dùng năng lực đại từ và năng lực đại bi mà cứu vớt mười phương chúng sanh, nhất là chúng sanh thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục, làm cho những người hiện đang chịu khổ, sống với vô minh, ác nghiệp thôi thúc, tâm trí thác loạn, không chút tự giác, không tin Tam bảo và cả nhân quả, luôn được Như Lai nhiếp thủ bất xả, khiến họ tin vào bản nguyện vĩ đại mà luôn nghĩ nhớ tới Ngài trong ánh sáng rực rỡ mà ấm áp.

San Francisco, ngày 10 tháng 5 năm 2023
Nhân Lễ húy kỵ báo tiến Đại Sư thượng Minh hạ Phát (21/3/Quý Mão)
Đệ tử Quảng Minh kính ghi










KHẨU TRUYỀN SAO
No. 2663

Giác Như Thượng nhân (1270-1351)
61 tuổi trước tác, năm 1331
Những điều mục của Thời thời vật ngữ
Bản Nguyện Tự Thân Loan Thánh nhân đối đáp với Như Tín Thượng nhân


1. AN CƯ VIỆN THAM HƯỚNG
Một thời người ta nói: Khi Tịnh độ Chân tông của Hắc Cốc Thánh nhân (Nguyên Không) ngày càng hưng thịnh, thì khởi đầu từ Thiên Hoàng, đầy trời toàn nhóm quý tộc cố chấp.
Nhân đây, để phá giáo nghĩa lập tông của Tịnh độ, gặp lúc có pháp hành Nghịch tu bảy ngày trong hoàng cung, Thiên Hoàng sắc thỉnh Pháp sư Thánh Giác Pháp Ấn ở An Cư Viện làm Xướng đạo sư , và muốn làm rõ sắc dụ của mình: “Ngoài các tông phái của Thánh đạo, không thể thành lập một tông phái Tịnh độ nào riêng biệt.” Bản thân là đệ tử lớn của Không Thánh nhân, Pháp Ấn Thánh Giác dù tiếp nhận sắc chiếu của Thiên Hoàng nhưng nhận thức sâu sắc bản hoài của bậc Thầy mô phạm là Không Thánh nhân, vì bảo vệ Thầy mình, và chưa có dịp nói, thừa cơ hội này, tuyên bố lý lẽ: “Ngoài Thánh đạo ra, nên hưng hành một tông phái Tịnh độ, điều đó mang lại lợi ích to lớn cho những phàm phu.”
Rồi thì, khi nghe biết sự thể này, Thánh nhân (Pháp Nhiên) đối với triều đình có sự lo nghĩ: "Nếu đây là thời điểm khó khăn, bị đánh phá, làm sao tông nghĩa Tịnh độ được thiết lập?” Vì vậy, Ngài muốn cử một sứ giả đến An Cư Viện. Nhưng ai phù hợp với nhiệm vụ này?
Đại chúng muốn chọn người ấy, bấy giờ Thánh nhân trước đã định chọn người ấy, nói: "Thiện Tín Phòng (Thân Loan) nên là người ấy." Các vị đồng môn cũng đồng lòng tiến cử, đều nói: "Người phù hợp nhất với nhiệm vụ này."
Lúc đó, Thượng nhân (Thiện Tín) đã nhiều lần từ chối, nhưng khó thể không tuân, vì vậy Thượng nhân đã trở thành sứ giả đến An Cư Viện.
Tuy nhiên, sự việc liên quan đến buổi tồn vong của một tông Tịnh độ, muốn tìm người đồng hành, Thánh nhân bèn nói, "Thật nên như vậy", vì vậy Sư đã thêm Tây Ý Thiện Xước Phòng .
Hai người đi đến An Cư Viện, đúng lúc Pháp sư Thánh Giác đang tắm rửa, từ trong hỏi vọng ra: "Sứ giả là ai?” Đáp: "Thiện Tín đang ở đây.”
Khi ấy rất là kinh ngạc, Pháp sư nói: "Người này là sứ giả, không hẹn mà gặp, ắt không phải việc tầm thường,” bèn lao ra khỏi phòng tắm, họp mặt cùng nhau. Sau đó, Thiện Tín nhẹ nhàng thưa rõ ý định của Thánh nhân (Pháp Nhiên) khi yêu cầu ông đến đây.
Pháp Ấn nói: “Việc này được ấp ủ từ nhiều năm nay, làm sao Thánh Giác có thể lơ là được! Giả sử có sắc lệnh định đoạt, cũng không thể phá vỡ giáo chỉ của bậc Thầy mô phạm. Vì vậy, trước khi tiếp nhận sắc lệnh, cũng không được lẫn lộn hai môn Thánh đạo và Tịnh độ, mà phải nói rõ tông nghĩa kiến lập Tịnh độ. Đây là vì lòng hiếu với Thầy còn hơn mệnh lệnh của vua. Chỉ xin Thánh nhân, chớ có lo âu!”
Ở đây, một thầy kể việc xảy ra, một thầy không kịp nói hết.
Thế là Thượng nhân (Thiện Tín) quay về Tăng phường, thưa lại rằng: “Kính bạch Thánh nhân, những gì Thánh Giác đã nói, con không bỏ sót một lời.”
Bấy giờ, Thánh nhân hỏi Thiện Xước Phòng: “Có chỗ lầm lẫn gì chăng?”
Thiện Xước Phòng khen ngợi, chứng thực, và đáp: “Tây Ý lắng nghe hai thầy thuyết pháp xong, một câu một chữ, mảy may không lầm, thực sự chẳng phải ngôn ngữ với tới được.”
Trong số hơn ba trăm tám mươi đệ tử, người nói Thượng nhân là “thượng túc” , người cho Ngài là “khí dụng” , đã là sự lựa chọn tốt để làm sứ giả, và Tây Ý cũng làm người phát ngôn, e rằng điều ấy tương đồng với sự kiện “Đa Bảo chứng thực” trong quá khứ.
Việc này được Đại Sư Thánh Nhân (Nguyên Không) đánh giá cao vì đã làm tròn bổn phận.
Bàn về bản tánh chất và sự thuyết đạo của Thượng nhân, dẫu không thẹn với người xưa, nhưng đối trước Thánh nhân đã phát thệ nguyện rằng: “Chẳng làm thầy mọi người, chẳng làm thầy truyền giới.” Do đó, không dua nịnh đàn-việt, họ mời thỉnh chẳng đi.
Sau khi nhập đạo được tịnh tín, có đàn-việt hoàn thành công trình vĩ đại là kiến lập một ngôi già-lam với mục đích cúng dường. Mặc dù họ hết lòng mời thỉnh Thượng nhân (Thiện Tín), xin đến xướng đạo, nhưng Ngài từ chối hết thảy, nói ra việc đã phát nguyện trước đây.
Vào thời điểm đó, Thượng nhân (Thiện Tín) tuy hệ thuộc sự quyền hóa của Đức Phật, nhưng Ngài vẫn là một phàm phu vẩn đục thác loạn, biểu hiện tội lỗi thô trọng qua sự bất tịnh thuyết pháp .

2. NHÂN DUYÊN CỦA QUANG MINH VÀ DANH HIỆU
Sự nhân duyên của quang minh và danh hiệu.
Trong chúng sanh mười phương, đối với giáo pháp Tịnh độ, có căn cơ tín thọ, cũng có căn cơ bất tín thọ. Tại sao như vậy?
Như Đại Kinh có nói: “Những người đời quá khứ có thiện căn sâu dày, thì đời nay gặp được giáo pháp này liền sanh tín lạc. Những người không có thiện căn, dù gặp giáo pháp này vẫn không nhớ giữ, giống như không gặp.”
Như kinh văn “Muốn biết nhân quá khứ” , dựa vào tướng trạng đời nay có thể biết rõ có hay không thiện căn đời quá khứ.
Tuy nhiên, dấu hiệu của người có căn cơ khai mở thiện căn đời trước là khi gặp bậc thiện tri thức thì được khai ngộ, không sanh một niệm nghi hoặc. Sở dĩ người ấy không sanh nghi hoặc là do duyên tố gặp quang minh.
Nếu duyên tố “quang minh” không thúc đẩy thì không trực tiếp gặp được nhân tố “danh hiệu”, là nhân tố chân thật cho sự vãng sanh Báo độ.
Vô ngại quang chiếu sáng mười phương thế giới, nhờ nó chiếu khắp mà chỗ chiếu rực sáng, vô minh chìm xuống nên phiền hoặc dần tan. Khi gốc rễ tín căn - nhân tố chân thật của Niết-bàn - bỗng chốc nẩy mầm, thì được sanh về Báo độ, an trụ địa vị Chánh định tụ .
Địa vị này được mô tả là “Quang minh chiếu khắp thập phương thế giới, nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ sót.”
Hơn nữa, Hòa thượng chùa Quang Minh (Thiện Đạo) giải thích rằng: “Dùng quang minh và danh hiệu để nhiếp hóa mười phương, chỉ muốn chúng sanh có được tín tâm, cầu niệm.”
Vì vậy, tín tâm quyết định cho sự vãng sanh, chẳng phải lĩnh vực trí tuệ của chúng ta.
Nên biết, nhờ duyên tố “quang minh” thúc giục và nuôi dưỡng mà có được đức tin và ý thức “danh hiệu”, nhân tố của Báo độ. Đây được gọi là Tha lực vậy.

3. QUANG MINH PHÁ ÁM
Sự nương ánh sáng vô ngại chiếu phá bóng tối vô minh.

Thượng nhân (Thân Loan) của chùa Bản Nguyện một hôm dạy môn đệ rằng: “Mọi người thường biết: Đêm sáng sau đó mặt trời mọc chăng? Hay mặt trời mọc sau đó đêm sáng chăng?
Môn nhân hầu như đều đáp: “Đêm sáng sau đó mặt trời mọc.”
Thượng nhân nói: “Không đúng! Mặt trời mọc thì đêm sáng.”
Sở dĩ như vậy là: khi mặt trời vận hành ở giữa chừng núi Tu-di thì ánh sáng gần với các châu khác, còn châu Nam Thiệm Bộ lại sáng rỡ, cho nên nói, “Mặt trời mọc thì đêm sáng”. Đây là thí dụ.
Khi mặt trời “vô ngại quang” không soi chiếu, không tiếp xúc, thì đêm tối “vô minh” vĩnh viễn không sáng. Nhưng ngày nay, khi thiện căn đời quá khứ đến thời điểm gặp mặt trời “nan tư quang, bất đoạn quang” vận hành ở giữa chừng núi “tham, sân”, thì bóng tối vô minh sẽ dần tan biến, tín tâm bỗng bừng sáng.
Tuy nhiên, vì mây mù “tham, sân” bị hư giả che lấp, cho nên ánh sáng mặt trời “viêm vương quang, thanh tịnh quang” không xuất hiện.
Thế nên giải thích rằng: “Phiền não chướng, mắt dù không thấy.”
Cũng nói: “Dù đã phá được vô minh ám.”
Nếu mặt trời “tha lực” không chiếu đến, bằng cái lực của chính mình thì không thể phá trừ vô minh; nếu vô minh không phá, thì không có hạn kỳ xuất ly [sanh tử].
Bởi vì tha lực phá được vô minh, nên nói: “Mặt trời mọc sau đó đêm sáng.”
Ở đây tuy giống với nghĩa ý của “quang minh và danh hiệu” trước đó, nhưng vì để phân biệt giữa tự lực và tha lực, mà pháp và dụ hợp lại nói.

4. HAI NGHIỆP THIỆN ÁC
Sự hai nghiệp thiện ác.
Thượng nhân (Thân Loan) nói: “Tôi hoàn toàn không cầu thiện căn, cũng không sợ nghiệp ác. Không cầu thiện căn, vì không thiện căn nào hơn được sự tín thọ bản nguyện Di Đà. Không sợ nghiệp ác, vì không nghiệp ác nào chướng ngại được bản nguyện Di Đà.”
Tuy nhiên, người đời thường cho rằng, ‘Người nào thiện căn không đầy đủ, thì dù niệm Phật cũng không được vãng sanh’. Cũng nói, ‘Người nào nghiệp ác sâu nặng, thì dù niệm Phật cũng không được vãng sanh’. Thật là không đúng khi có ý tưởng như vậy.
Nếu nghiệp ác có thể mặc ý chấm dứt, thiện căn có thể hết lòng đầy đủ, mà được xuất ly sanh tử, vãng sanh Tịnh độ, thì người không tin biết bản nguyện, có gì không đủ?
Đây đều không thể mặc ý hay hết lòng. Dù sợ nghiệp ác mà nghiệp ác thường sanh khởi. Dù cầu thiện căn mà không thể có được vì còn bản tánh phàm phu.
Với những ác cơ đầy đủ ba độc và hèn mọt như thế, không gì bằng hãy ngước lên và tin nhận trí tuệ của Phật, bởi vì Ngài có bản nguyện ‘năm kiếp tư duy’ , nhiếp thủ căn cơ tự lực không thể xuất ly.
Những ai cho rằng, ‘Thiện cơ niệm Phật, thì quyết định vãng sanh’, và nghi ngờ ‘Kẻ ác niệm Phật, thì sự vãng sanh không xác định’. Quy mô của bản nguyện, họ tự đánh mất ở đây! Họ không biết tự thân là ác cơ.”
Báo Phật và Báo độ được thành tựu bởi biệt nguyện ‘tu nhân cảm quả’ , cùng với tâm từ bi vô duyên dẫn tiếp phàm phu, để năm thừa cùng bước vào bằng thệ nguyện bất tư nghị siêu thế mà chư Phật chưa từng phát ra. Dù là thiện căn đọc tụng kinh Đại thừa, hay thiện căn tín giải Đệ nhất nghĩa đế, nhưng chỉ dựa vào thiện căn tự mình thủ đắc cũng không được vãng sanh cõi kia.
Thêm nữa, nghiệp ác vốn là đối tượng xả bỏ trong giáo pháp của chư Phật. Căn cơ xấu ác không thể vừa mời gọi điều ác vừa mong mỏi cõi kia.
Tuy nhiên, cả hai thiện cơ hay ác cơ, trong khả năng tự nhiên của mình, không nên cho là được, cũng không cho là mất, đối với việc vãng sanh Báo độ, là đúng như thế.
Do đó, tôi chỉ tin nhận rằng, vượt ra bên ngoài trí tuệ của Đức Phật A Di Đà, hàng phàm phu, thiện cơ và ác cơ, làm sao được có phần vãng sanh?”
Chánh nhân là như vậy, nên nói ‘không sợ nghiệp ác’, cũng nói ‘không cầu thiện căn’.
Vì vậy Đại sư Thiện Đạo, chùa Quang Minh nói: “Về hoằng nguyện, như trong Đại Kinh chép: ‘Tất cả phàm phu thiện ác được vãng sanh, không ai không nương vào đại nguyện nghiệp lực của Đức Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên ’.”
Ý của đoạn văn này là: Cái gọi là ‘hoằng nguyện’, như Kinh Vô Lượng Thọ có nói: Tất cả phàm phu thiện ác đều có thể vãng sanh, không ai không nương vào đại nguyện nghiệp lực của Đức Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên.
Thế nên, người trồng thiện căn sâu dày ở đời trước, thì đời nay ưa thích điều thiện, sợ hãi điều ác; người tạo ác nghiệp nặng nề ở đời trước, thì đời nay ưa thích điều ác, thờ ơ điều thiện. Hai loại người duy thiện và duy ác, mặc kệ nhân quá khứ của họ, đối với “đại lợi vãng sanh”, đều nương tha lực của Đức Phật A Di Đà.
Đừng bao giờ nhìn vào căn cơ thiện hay ác để xác định một người sẽ vãng sanh hay không.
Vì vậy, có lúc nói: “Ngoài niệm Phật ra, các ông còn có con đường tắt dễ dàng vãng sanh, ta sẽ dạy ngay.” “Nếu sát hại ngàn người thì dễ được vãng sanh, xin mọi người làm theo lời dạy ấy, vậy thì làm sao?”
Bấy giờ có một người nói: “Với một ai đó, chớ nói ngàn người, cho dù một người cũng không đủ sức sát hại.”
Thượng nhân nói thêm: “Ông đối với lời dạy của ta, hàng ngày không trái, chắc không nghi ngờ những gì ta dạy hôm nay?
Tuy nhiên, người không đủ sức sát hại dù chỉ một người, là do không có nhân sát hại ở đời quá khứ. Nếu người ở đời quá khứ có tạo nhân ấy, thì dù có nghiêm khắc răn dạy, “Chớ phạm tội sát sanh, ai phạm tội ấy thì không được vãng sanh”, họ vẫn tạo tội sát sanh như xưa, vì nhân quá khứ thúc đẩy.
Đối với hai hạng thiện ác, hãy xét đến nhân quá khứ, cảm ra quả hiện tại. Nhưng đối với sự vãng sanh, điều thiện chẳng thành trợ lực, điều ác chẳng thành chướng ngại, dựa theo đây mà biết.”

5. HAI LỰC THÀNH HOẠI
Tự lực tu thiện thì khó tích lũy. Tha lực Phật trí là lấy lợi ích “chư Phật hộ niệm” làm sự dồn chứa. Giả sử tu tập muôn hạnh và tích lũy pháp tài của chư thiện, cũng chẳng thành tựu tư lương tiến đạo.
Lý do là: “Sáu giặc nghe biết, tranh nhau xâm đoạt.”
Nhưng trong sự niệm Phật, đã giải thích là “chẳng phải chư thiện của hành giả, chẳng phải muôn hạnh của hành giả”.
Thế thì, chẳng phải tự lực tu thiện của phàm phu, toàn là Phật trí của A Di Đà. Hành giả được chư Phật hộ niệm nên sáu giặc không thể xâm đoạt, lấy đó làm tư lương xuất ly, thành chánh nhân Báo độ. Nên biết điều này.

6. TÍN LẠC LY MÔN
Không nên tranh luận về đệ tử và đồng hành , không nên tước bỏ sự sùng kính Thánh giáo và Bổn tôn [của bất cứ ai].
Tín Lạc Phòng ở Tân Đề , Thường Lục Quốc , ở trước Thánh nhân [Thân Loan], do vì nghĩa lý trong văn cú giáo pháp chẳng thuận theo lời dạy, bị khiển trách bèn về bổn quốc.
Khi ấy, đệ tử Liên Vị Phòng nói: “Tín Lạc Phòng đã rời bỏ vai trò đệ tử mà quay về bổn quốc, thì có nên lấy lại tượng Bổn Tôn và Thánh giáo đã truyền trao? Rất nhiều sách Thánh giáo, dưới tiêu đề có ghi tên người soạn là Thích Thân Loan, huynh ấy đã rời môn hạ thì chắc hẳn không còn lòng sùng kính với Thầy?”
Thánh nhân nói: “Lấy lại tượng Bổn tôn và sách Thánh giáo thì rất không nên. Lý do là, Thân Loan không có một đệ tử. Ta dạy bảo được sự gì mà gọi họ là đệ tử? Vì chúng ta đều là đệ tử của Đức Phật A Di Đà, và cùng nhau đồng hành. Có được tín tâm ‘niệm Phật vãng sanh’ là do phương tiện được phát khởi bởi hai Đức Thế Tôn Thích Ca và A Di Đà, hoàn toàn không phải Thân Loan truyền dạy. Ở đời có lúc trái nghịch nhau, lấy lại Bổn tôn, Thánh giáo, lấy lại phòng hiệu đã trao, thì khác gì lấy lại tín tâm ư! Việc này ở nước ta thịnh hành, nhưng chúng ta thì tuyệt đối không được làm.
Bổn tôn và Thánh giáo là những phương tiện lợi ích chúng sanh, cho dù Thân Loan không hòa thuận với phương tiện nào, nhưng khi đi vào môn thất của người khác, cũng không phải việc của mình mà tự chuyên. Giáo pháp Như Lai, toàn bộ là vật lưu thông. Nếu duyên cớ có danh tự của Thân Loan mà ghét ai đó, mà chán vật nào, thì dẫu vứt bỏ Thánh giáo ấy nơi đồng ruộng, núi non, thì hữu tình quần loại nơi ấy, nhờ Thánh giáo ấy cứu giúp mà đều được lợi ích. Thế thì, bổn hoài làm lợi ích chúng sanh [của Thân Loan], khi đó mới mãn túc. Không thể giống như hàng phàm phu chấp trước của cải, châu báu mà muốn lấy lại, hãy khéo biết điều đó.”

7. PHÀM PHU NHẬP BÁO
Sự phàm phu vãng sanh.
Sự việc “Phàm phu đến Báo độ”, chư tông đều không chấp nhận.
Tuy nhiên, đối với Tịnh độ Chân tông, và ý của Đại sư Thiện Đạo, phán định Tịnh độ An Dưỡng là Báo Phật, Báo độ . Về căn cơ được vào Báo độ, “phàm phu” được bàn luận nhiều nhất.
Sự thể này làm kinh động “tánh tướng” mà thôi.
Vì bị hạn chế bởi tánh tướng ấy mà lòng người nhiều mơ hồ, đối với nghĩa này có xu hướng hoài nghi.
Sự hoài nghi ấy xảy ra chưa hẳn là nghi về bi nguyện siêu thế của Đức Phật A Di Đà, cho rằng “không có sự thể này”, mà vì nghĩ mình là thân phận thấp kém, nhận biết lẽ ấy, và xem xét đạo lý của Thánh đạo môn, cho rằng phàm phu không thể nhập Báo độ. Lấy đây so sánh, hiện nay hiếm có người hoài nghi [quan điểm] Chân tông.
Bởi vì [nghĩa lý về] tánh tướng của Thánh đạo được lưu bố ở đời, nên khó tránh lý do “nghe quen” ư?
Có nhiều sự đề phòng, và nghi ngờ quan điểm “Tha lực” – con đường riêng biệt của Chân tông, với lý do: một là, [người theo Chân tông] ngu si mê lầm nơi vô minh; hai là, do không gặp được bậc minh sư.
Nguyên nhân: Tông chỉ của Tịnh độ là, “Vốn vì phàm phu, chẳng vì Thánh nhân.”
Thế thì, cho dù tham dục sâu, sân khuể mạnh, ngu si nhiều, thì ngày nay độ người thuận thứ vãng sanh , vì lời Phật không hư vọng, càng hiểu rõ “Tất định” .
Chúng ta thường lầm lẫn ba độc trong tâm ta không mạnh, cũng đã nhiều lần khởi thiện tâm, nhưng lại suy nghĩ “vãng sanh bất định” .
Nguyên nhân: Đức Phật đã nói rõ ràng rằng “Bản nguyện vì phàm phu”.
Tuy nhiên, tâm ta dường như không có trạng thái phàm phu, mà suy nghĩ, “Tôi không phải là một phàm phu, sợ lòng mong cầu này sẽ bị lộ.”
Tuy nhiên, vì ba độc tham, sân, si đều hiện diện đủ trong tâm chúng ta, nên chúng ta hãy đem căn cơ này để vãng sanh, bởi vì “Bản nguyện vì phàm phu” đã phát khởi. Đó là [đức tin] “Tất định” vậy.
Nếu biết nghĩa lý này, thì tâm ta dẫu xấu xa, căn cơ có thấp kém, nhưng đạo lý và văn chứng “không thể không vãng sanh” thì rất là rõ ràng và chính xác.
Bất luận từ quan điểm nào mà nói, sự kiện “Phàm phu vãng sanh” đâu phải vì bị lậu hoặc [che lấp] mà thành trống rỗng ư!
Thượng nhân Nhiên Tức từng nói: “Năm kiếp tư duy, triệu năm tu hành, chỉ vì Thân Loan một người vậy.”
Riêng Thượng nhân Giác Như nói: “Lấy đây xét kia, lời này không giới hạn ở Tổ sư Thánh nhân, mà lũ chúng ta thời Mạt thế toàn là phàm phu, cũng đồng vãng sanh vậy. Nên biết điều này.”

8. LIỆU GIẢN CHỮ THẾ
Sự giải thích nguyện thứ 18 của Đại sư Thiện Đạo.
Đại sư Thiện Đạo giải thích “Phật ấy nay hiện tại thành Phật” , bản lưu bố có hai chữ “tại thế” (在世), nhưng Hắc Cốc Pháp Nhiên và Bản Nguyện tự Thân Loan, cả hai sư khi dẫn dụng đều lược bỏ chữ “thế” (世).
Riêng xét nguyên do, chữ bị lược bỏ chắc phải có lý do của nó?
Trước hết, Kinh Đại Thừa Đồng Tánh nói: Trong Tịnh độ thành Phật, đều là Báo thân; trong Uế độ thành Phật, đều là Hóa thân.
Dựa vào văn này, Đại sư Thiện Đạo lập nghĩa Báo thân, Báo độ. Sử dụng chữ “thế” (世) này, nghĩa lý thật là nông cạn ư?
Nguyên do: Xét A Di Đà Như Lai “trong Tịnh độ thành Phật”, nếu huấn độc cụm từ “kim tại thế” (今在世), nghĩa lý ấy ít có tắc nghẽn ư?
Có người cho rằng, đã giải thích thế giới Cực Lạc, thì chữ “thế” (世) này, sao có thể bỏ nó?
Nhưng trường hợp này cũng là đối với tự tông, khi người nông cạn thuyết minh, là nghĩa của “nhất vãng” vậy.
Đối với chư tông, chữ này phần nhiều được sử dụng vào thời điểm “nông cạn”.
Như tánh tướng của Luận Câu-xá phân biệt rằng: “An lập khí thế gian, Phong luân ở dưới cùng.”
Khi kiến lập khí thế gian, sử dụng chữ [thế] này, rất là rõ ràng.
Bồ-tát Thế Thân tạo chữ, có lý do của nó, cũng là đương nhiên.
Nhưng mà đến Chân tông của chúng ta, dựa vào ý của Hòa thượng Thiện Đạo, đã lấy sự phế lập “Báo thân, Báo độ” làm quy mô.
Vậy thì, dùng luận văn “Quán tướng thế giới ấy, Vượt qua tam giới đạo” mà suy xét, thuyết minh rằng: “Vượt qua tam giới đạo” là Báo độ, rồi khi Đức A Di Đà Như Lai thành Chánh giác, lấy chữ “thế” quen dùng cho sự “nông cạn thế gian”, làm thế nào thành lập nghĩa của nó?
Dựa đạo lý này, nay lược bỏ một chữ!
Cho nên huấn độc là “Phật ấy nay hiện tại thành Phật”, nó có nghĩa lý và có văn điểm. Một chữ [thế] này thật là dư thừa vậy.
Dùng đạo lý này, khảo sát hai Thầy truyền nhau, tám tông gồm học, Thánh nhân Liễu Nhiên (đặc biệt đối với Tam luận tông) đàm luận về việc liệu giản hiện nay, nói rằng: “Đối với Tịnh độ Chân tông, một nghĩa này tuy không tương tuyền, nhưng việc liệu giản này, về lý nên tán đồng vậy.”

9. TRỢ NGHIỆP LÀ PHỤ
Sự nương tựa nơi trợ nghiệp.
Thánh nhân Thân Loan khi đi qua Đông Quốc, cảm bệnh phong hàn, ba ngày ba đêm, nước nôi chẳng vào miệng, đã không uống thuốc thang các vật, cũng không người khám bệnh kề bên.
Trải qua ba ngày, bỗng nhiên thốt lên: “Ôi! Rốt ráo như vậy,” bèn khỏi bệnh, coi như bình thường.
Bấy giờ, Huệ Tín Ni thưa hỏi: “Bởi vì phong hàn, Thầy nằm ngủ hai ba ngày, nay nói ‘Rốt ráo như vậy’, là việc gì vậy?”
Thánh nhân nói: “Ta ở trong thời gian ba năm này, đọc tụng không biết mệt ba bộ kinh Tịnh độ, nghĩ muốn cùng lúc đọc một ngàn bộ. Lúc mới đọc, lại nghĩ, ngoài câu ‘Tự tín dạy người tin, Trong khó chuyển càng khó’ , có gì đó không đủ, lại phải chứa con số ba bộ? Vì án định sâu xa việc này, trong thời gian bị phong tà nằm bệnh, vì là bệnh phi thường, nay nói ‘Rốt ráo như vậy’.”
Riêng nói: “Xét kỹ việc này, như người cảm mộng được dạy bảo, chính là thùy tích của Đức Quán Âm, là nghĩa ‘Nhất hướng chuyên niệm’ được hoằng thông, giơ cao tỏ rõ vậy.”

10. QUÁN ÂM THÙY TÍCH
Ở một nơi gọi là quận Diêm Cốc , nước Hạ Dã (nay là huyện Lệ Mộc) , vợ của Ngài Thân Loan là Huệ Tín Ni cảm ứng điềm mộng:
Có một miếu đường, chánh hành pháp hội, âm nhạc vi diệu, trầm bỗng uyển chuyển, cao nhã trang trọng. Trên hư không có một bài lâu , và có hai bức tranh tượng Bổn Tôn treo nơi bài lâu: một bức không có hình thể, chỉ có ánh sáng hoàng kim, và một bức có tôn hình trang nghiêm.
Có một người chỉ vào bức Bổn Tôn không hình thể, hỏi một người khác rằng: “Đó là vị Phật nào?”
Người ấy đáp: “Vị ấy là Bồ-tát Đại Thế Chí, tức Thánh nhân Nguyên Không (Pháp Nhiên).”
Lại hỏi: “Nay một bức có tôn hình, đó là vị Phật nào?”
Người ấy đáp: “Đó là Bồ-tát Đại Bi Quán Thế Âm, tức là Thiện Tín Phòng.”
Huệ Tín Ni nghe xong lời này thì liền tỉnh mộng.
Sáng hôm sau chỉ đem việc mộng thấy Bồ-tát Đại Thế Chí mà hỏi Thánh nhân.
Thánh nhân nói: “Thật đúng như thế. Bồ-tát Đại Thế Chí là Bồ-tát tượng trưng cho Trí tuệ. Tiên sư Thánh nhân Nguyên Không chính là hóa thân của Bồ-tát Đại Thế Chí. Người đời ai cũng biết.”
Nhưng với bản địa của Thánh nhân Thân Loan, người chồng của mình, [Huệ Tín Ni] có sự kiêng sợ nên chưa từng hỏi đến.
Sau khi chính mình cảm nhận giấc mộng kia, bà đã sống những ngày tháng còn lại của mình với một khát ngưỡng ôm giữ sâu kín trong lòng.
Thánh nhân Thân Loan trở về Kinh Đô, Ngài nhập diệt lúc chín mươi tuổi.
Một số Tiêu tức mà Huệ Tín Ni có được còn lưu giữ ở nước Việt Hậu . Vào mùa Xuân năm Hoằng Trường thứ ba , Huệ Tín Ni gởi một lá thư đến con gái là Giác Tín Ni , mới kể lại sự bản địa của Thánh nhân Thân Loan, và nói, “Ta muốn cho con biết cha con là bậc đại quyền thị hiện”.
Riêng nói: “Thánh nhân Nguyên Không là hóa hiện của Bồ-tát Đại Thế Chí, vì hoằng hưng giáo văn của Bổn Sư Di Đà nơi Hòa Quốc. Thánh nhân Thân Loan là thùy tích của Bồ-tát Quán Thế Âm, vì cùng nhau làm rạng rỡ đuốc trí của Vô Ngại Quang Như Lai ở Bản Triều. Họ cùng nhau làm Thầy trò, để “tương thừa khẩu quyết” , sự ấy sáng chói, đáng ngưỡng mộ, đáng tôn kính vậy!

11. DI ĐÀ LAI HIỆN
Liên Vị Phòng (học trò thường theo hầu Thánh nhân, học giả kê cứu việc xưa của Chân tông) cảm ứng điềm mộng mà ghi lại.
Vào ngày mồng 9 tháng 2 năm Bính Thìn, niên hiệu Kiến Trường thứ 8 (1256), ban đêm giờ Dần, Thích Liên Vị trong giấc mơ thấy mình nhận sắc chỉ từ Thánh Đức Thái tử.
Tôn dung thị hiện của Hoàng Thái tử hướng về Pháp sư Thích Thân Loan, mà tụng bài kệ kính lễ Thánh nhân Thân Loan rằng:

Kính lễ Đại từ A Di Đà Phật

Bậc lai sanh vì diệu giáo lưu thông
Thế giới dữ dội, thời ngũ trược ác

Ai quyết định liền được Vô thượng giác.

Liên Vị đặc biệt cung kính tôn trọng Hoàng Thái tử, cho nên sau khi tỉnh giấc mộng, tức thời ghi chép lại văn này.
Riêng nói: “Nghe đọc ký sự cảm mộng này, Tổ sư Thánh nhân, hoặc hiện ra thùy tích của Quán Âm, hoặc chỉ bày lai hiện của Bổn Sư Di Đà, sự ấy rất rõ ràng. Di Đà – Quán Âm, một thể khác tên, không gì mâu thuẩn. Vậy thì, khẩu quyết họ tương thừa, thuật nghĩa thuộc [người] mạt lưu , [thế mà] giúp kẻ khác sửa đổi [ký sự], có thể gọi là ‘không coi ai ra gì’ , ‘không kiêng sợ gì cả’ , nên biết.”

12. TRANH LUẬN VÃNG SANH
Sự thể thất vãng sanh và bất thể thất vãng sanh.

Thánh nhân (Thân Loan) nói: Vào thời Tiên sư Thánh nhân (Pháp Nhiên), không ngờ có sự tranh luận về kinh văn giáo pháp:
Thiện Tín (Thân Loan) nói: “Căn cơ người niệm Phật vãng sanh là bất thể thất được vãng sanh.”
Thiện Huệ Phòng (Chứng Không) ở Tiểu Phản nói: “Thể thất được vãng sanh.”
Đây là tranh luận với nhau.
Trong huynh đệ đồng môn, vì phân biệt hơn kém, nhiều người ở trước Đại sư Thánh nhân (Pháp Nhiên), mỗi một phát ngôn khởi đầu sự tranh luận.
Đại sư nghe Thiện Tín Phòng lập nghĩa “Bất thể thất vãng sanh”, lập tức phán chứng rằng: “Đúng vậy”; nghe Thiện Huệ Phòng lập luận “Thể thất vãng sanh”, cũng lập tức nói: “Đúng vậy.”
Bởi vì hai phương diện này đúng sai khó biện biệt, đại chúng hỏi lại ý chỉ của nó.
Đại sư đáp: “Thiện Huệ Phòng trình bày cái lý ‘Thể thất vãng sanh’, là vì dựa vào căn cơ của ‘Chư hành vãng sanh’ . Thiện Tín Phòng nói về cái lý ‘Bất thể thất vãng sanh’, là vì dựa vào căn cơ ‘Niệm Phật vãng sanh’.
‘Giáo pháp của Như Lai vốn không hai, chính vì chúng sanh căn cơ bất đồng.’ (Pháp Sự Tán)
Dựa vào căn cơ được lãnh ngộ, là dựa vào thiện căn đời trước nhiều hay ít.
Niệm Phật vãng sanh, là Bản nguyện của Phật.
Chư hành vãng sanh, là chẳng phải Bản nguyện của Phật.
Niệm Phật vãng sanh, là không bàn tới [căn cơ] thiện ác lúc lâm chung.
Chí tâm tín lạc , nhất tâm quy mạng, từ tha lực [của Phật] quyết định thời khắc, liền được vãng sanh, bởi vì trú đạo lý ‘Bất thối chuyển’, gặp bậc thiện tri thức, lúc bình sanh nghe giữ [danh hiệu] mà lập tức được chuyển đổi định nghiệp. Thân thể nhớp nhúa này dù chưa mất đi mà nghiệp sự hoàn thành, cho nên nói ‘Bất thể thất vãng sanh’.
Kinh văn về ‘Bản nguyện’ thì rất rõ ràng. Có thể thấy điều đó.
Lại nữa, căn cơ của ‘Chư hành vãng sanh’, nếu chẳng cầu lâm chung [trợ niệm], chẳng đợi [Di Đà] đến đón, cho dù thai sanh hay biên địa, cũng không được vãng sanh. Thế nên, thân thể nhớp nhúa này khi chưa mất đi vẫn không chỗ trông chờ. Trình bày ý chỉ này, xem ở nguyện thứ 19 .
Đối với một sự hơn kém: ‘Niệm Phật vãng sanh’ chính là Bản nguyện, cùng khắp mười phương vãng sanh. ‘Chư hành vãng sanh’ thì chẳng phải Bản nguyện, chỉ giới hạn ở căn cơ định tán .
Bất thể thất vãng sanh của căn cơ ‘Bản nguyện niệm Phật’ và thể thất vãng sanh của căn cơ ‘Phi Bản nguyện Chư hành vãng sanh’, chẳng phải hơn kém cách xa nhau.
Nếu trước dẫn lời giải thích Kinh văn, thì cả hai trường hợp đều phân biệt rõ ràng, không cần tranh luận.”

13. DI ĐÀ BẢN NGUYỆN
Chân tông thiết lập Báo thân Như Lai, thoát ra sự “Tam thân”, là thông đồ của chư tông.
Phán định A Di Đà Như Lai là Báo thân Như Lai, bất luận là tự tông hay tha tông, xưa nay đã nói vậy.
Do đó, Đại sư Kinh Khê nói: “Những gì chư tông khen ngợi đa phần là Đức Di Đà.”
Hòa thượng Giác Vận của Đàn Na Viện giải thích: “Cửu viễn thật thành Di Đà Phật, Khác xa những gì chư kinh nói.”
Thêm nữa, tạm gác các tiên triết của triều đại ta, Tông sư Thiện Đạo đã giải thích: “Trên từ Hải Đức Như Lai đầu tiên, cho đến Thích Ca thời nay, chư Phật đều nương hoằng thệ, bi trí song hành.”
Vậy là, từ Đức Phật Hải Đức đến Bổn Sư Thích Tôn, chư Phật lần lượt xuất thế đều nương hoằng thệ của Di Đà, lấy tự lợi, lợi tha làm nghiệp, rất là hiển nhiên.
Thích nghĩa của Hòa thượng Giác Vận đã nói rõ Đức Thích Tôn cũng là Đức Di Đà cửu viễn [thật thành]. Hội hợp với lời giải thích của Tông sư hiện nay, tất cả chư Phật, kể từ Đức Phật Hải Đức đầu tiên, cũng đều là Hóa thân của Đức Phật A Di Đà cửu viễn Chánh giác. Tất nhiên, đạo lý ấy được chứng minh bằng Kinh văn.
Đại sư Thiện Đạo viết: “Một câu một chữ, không thể thêm bớt, [muốn biên chép đó], không khác Kinh pháp” . Những thích sớ của Ngài đều dựa vào kinh điển của Phật, tức là kinh điển chánh y của tự tông.
Kinh điển bàng y cũng có nhiều số Kinh văn, như Kinh Lăng Già nói:

“Mười phương các sát độ
Trong chúng sanh, Bồ-tát
Bao nhiêu Pháp, Báo Phật
Hóa thân cùng Biến hóa
Đều từ Vô Lượng Thọ

Cực Lạc giới mà ra.”
Kinh Bát-chu cũng nói: “Chư Phật ba đời trì niệm Di Đà tam-muội mà thành Đẳng chánh giác.”
Nguyện hạnh “tự lợi, lợi tha” của chư Phật lấy Di Đà làm chủ. Phương tiện lợi sanh như phân thân đi về, biến hóa, rất là rõ ràng.
Dựa trên điều này, Đức Phật A Di Đà cửu viễn thật thành được xác định là bản thể của Báo thân Như Lai, và từ Báo thân đây mà chư Phật thùy ứng tích ba thân phổ quát là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân. Tất cả thân đều là hóa dụng của Đức Phật A Di Đà, có thể hiểu được sự ấy.
Vậy thì, khái niệm “Báo thân” là ước định cho Đức Phật A Di Đà cửu viễn thật thành, bản thể của Pháp thân thường trú.
Ba thân phổ quát đến [thế gian] để khai phóng cho những căn cơ cạn cợt đều là hoạt dụng của Đức Phật A Di Đà cửu viễn thật thành.
Thế nhưng, có sự ngộ nhận “Thánh đạo nan hành” là bản ý của Như Lai xuất thế, bởi vì hàng căn cơ không đảm đương nổi “Thánh đạo nan hành” thì lấy chỗ dị hành dị tu – chẳng phải bản ý xuất thế – làm nơi nương tựa. Nay đem “Niệm Phật tam-muội” của Tịnh độ giáo để khích lệ khắp các căn cơ, và các tông phái của Thánh đạo môn đều có ý tưởng này ư?
Chánh pháp tương truyền huyết mạch từ thế hệ này sang thế hệ khác, khởi từ Thánh nhân Pháp Nhiên, một hóa thân của Bồ-tát Đại Thế Chí, [đến Thánh nhân Thân Loan, rồi Thượng nhân Như Tín , v.v.] nhưng không phải như vậy. Từ Đức Phật Hải Đức cho đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngày nay, tất cả thuyết giáo của chư Phật về bản ý xuất thế đều lấy “Đức Phật A Di Đà cửu viễn thật thành (bản địa) và Tịnh độ giáo được phát khởi từ [lời phát nguyện] Chánh giác của Tỳ kheo Pháp Tạng (thùy tích)” làm sự vụ chính yếu, và đem bản ý này xác định cho con đường cứu độ chúng sanh.
Ở đây, vì cơ pháp Tịnh độ chưa được điều phục và thành thục, [Đức Phật Thích Ca] tạm thích ứng với quyền cơ lúc tại thế, thiết lập giáo pháp phương tiện mà thuyết năm thời giáo [là Hoa Nghiêm, A-hàm, Phương Đẳng, Bát-nhã và Pháp Hoa – Niết-bàn], nên biết điều này. Thí như khi đợi trăng lên, khuây khỏa phiền muộn bằng chân tình phong nhã.
Nói về thời gian thuyết pháp của Ba kinh:
Kinh Vô Lượng Thọ thuyết minh “Pháp chân thật”, đối cơ đều là Quyền cơ.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ thuyết minh “Cơ chân thật”, đây là Thật cơ. Cái gọi là năm chướng của người nữ mà Vi-đề-hy làm đối cơ, xa thì ngang với người nữ và kẻ ác thời mạt thế.
Kinh A Di Đà thuyết minh “Cơ chân thật” và “Pháp chân thật”, như vừa nói ở trên, hợp thuyết hai kinh mà nói: “Không thể chỉ đem thiện căn nhỏ, phước đức nhỏ làm nhân duyên để được sanh quốc độ ấy.” thì ngang bằng với “Vô thượng đại lợi là danh hiệu và bản nguyện” , kết làm “chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, …, hoặc bảy ngày”, mà hiển thị lời thành thật của chư Phật chứng thực sự bất khả tư nghị của Đức Phật A Di Đà.
Dựa vào điều này, Đại sư Thiện Đạo giải thích: “Lúc Thế Tôn nói pháp sắp hết, [Ân cần phó chúc Di Đà danh, Năm trược thêm lên nhiều nghi báng, Tăng tục hiềm nhau không chịu nghe.]” Điều trọng yếu khi kết thúc một đời thuyết giáo của Đức Thế Tôn là phó chúc và lưu thông danh hiệu và bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. Có thể thấy bản ý ấy nơi kinh văn.
Nay đem ba bộ Kinh mà thuyết giảng cho hạng phàm cơ tạo ác ở Mạt thế nghe, và Thánh đạo chư giáo làm phần Tựa của ba bộ Kinh.
Lời giải thích này của Đại sư Thiện Đạo, rõ ràng có thể thấy ở mọi nơi.
Lấy đây làm bản ý xuất thế của chư Phật, là căn nguyên của chúng sanh được giải thoát, sự ấy tỏ rõ vậy.
Huống nữa, trong kinh Pháp Hoa, chư tông thừa nhận bản hoài xuất thế của Đức Thế Tôn, và Tịnh độ giáo hiện nay là giáo pháp có cùng một pháp vị.
Vào thời kinh Pháp Hoa được thuyết, trong tám năm, vương cung gặp phải thời kỳ ngũ nghịch , chính ngay lúc ấy, Đức Phật rời tòa ngồi nơi pháp hội ở núi Linh Thứu, giáng lâm vương cung. Đây là nguyên do Đức Phật thuyết giảng giáo lý Tha lực.
Tất cả điều này cho thấy, nguyên ý một đời xuất thế của tất cả chư Phật, từ Đức Phật Hải Đức cho đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nói một cách khái quát là lấy một giáo pháp của Đức Phật A Di Đà làm căn bản.

14. XƯNG DANH BÁO ÂN
Sự đức tin rồi sau xưng danh.
Đệ tử của Thánh nhân (Thân Loan) là Giác Tín Phòng ở Cao Điền , thân mang trọng bệnh. Khi lâm chung ở trong chùa, Thánh nhân đi vào phòng, nhìn thấy thân thể nguy cấp, hơi thở nặng nhọc khó khăn, trong khoảng ngưng dứt và chưa dứt hơi, ông vẫn không giải đãi xưng danh, không có cách hở. Bấy giờ, Thánh nhân hỏi thăm: “Bệnh khổ như này, vẫn có thể niệm Phật mạnh nhiều, thật là thần diệu. Nhưng không rõ ông có được khỏe không?”
Giác Tín Phòng đáp: “Con hoan hỷ việc vãng sanh gần kề, mạng sống thúc ép trong một cái chớp mắt. Cho dù trong khoảnh sát-na, vẫn còn một hơi thở, con không thể không nghĩ nhớ báo đáp ơn Phật đã cho con lợi ích lớn vãng sanh, thế nên xưng danh là một cách báo đáp ơn Phật vậy.”
Lúc này, Thánh nhân có sự cảm kích rằng, trong những năm qua, khoảng thời gian thường theo hầu hạ, được dạy răn, có một điềm triệu của nó! Cảm động đến rơi lệ, ngàn hạnh muôn hạnh vậy.
Vậy thì, riêng tôi (Giác Như) xin xét đoán việc này: Trọng yếu của Chân tông, cốt lõi của An tâm là do điều này ư? Chúng ta gắng sức tự lực xưng danh, trông chờ lúc lâm chung được xếp bằng trên đài sen, nhưng ai mà biết được nghiệp nhân đời trước của mình. Mỗi người có duyên chết riêng: chết cháy, chết đuối, chết bởi đao kiếm, thậm chí nằm ngủ mà chết, đây chẳng phải đều do túc nhân quá khứ hay sao? Nếu bản thân có đủ túc duyên như vậy, càng không thể trốn tránh.
Nếu khi bị kẻ oán địch làm hại, trong một sát-na, phàm phu suy nghĩ, ngoại trừ những oán kết, có ý niệm gì khác? Lại nữa, trong trường hợp nằm ngủ mà chết, bản tâm đã không biết khi nào hơi thở ngưng dứt. Lại nữa, trong trường hợp bị sát hại, ngoài oán niệm ra, không có ý niệm nào khác. Nếu là như vậy thì không được rảnh rang niệm Phật, những mong cầu lúc lâm chung cũng trở thành trống rỗng. Giả sử căn cơ có những duyên chết như thế này, trái ngược với mong đợi thường ngày của họ, người ta cho rằng họ không được vãng sanh. Dẫu có là “bản nguyện chánh cơ” , khi lâm chung còn gặp phải những ác duyên, thì họ không có khả năng xưng danh. Phương chi là người xưa nay tự lực xưng danh, đến lúc mạng chung, tuy được như nguyện, chỉ sanh biên địa . Huống hồ nghiệp nhân quá khứ khó tránh, căn cơ gặp những chướng nạn này, muốn thực hiện ước vọng bình sanh, thì là khó trong khó. Như vậy mà biếng nhác, sự vãng sanh biên địa cũng không thể đạt được. Đây đều là làm ngược lại với bản nguyện của Đức Phật A Di Đà.
Giáo Hành Tín Chứng có giải thích điều này:

“Nhớ nghĩ Di Đà bản nguyện Phật
Tự nhiên tức thời nhập Tất định
Chỉ phải thường xưng Như Lai hiệu

Để báo ơn hoằng thệ đại bi.
Căn cơ của người bình sanh thọ giáo từ vị thiện tri thức, và khi tín tâm được khai phát, trú địa vị Chánh định tụ , khi lâm chung chẳng cần mong đợi một lần nữa “đại lợi vãng sanh”.
Từ đây về sau, người xưng danh mới báo đáp ơn Phật bằng đại hạnh được thúc giục bởi tha lực. Lý ấy có Kinh văn, rất là hiển nhiên.
Dựa vào đây, trong thời khắc sau cùng của vị đệ tử kia, tương thừa nhãn mục , vì chẳng trái nhau, cảm kích rơi lệ, khó mà đè nén. Nên biết điều này.

15. KHUYÊN DẠY HƯ GIẢ
Sự bản thân là phàm phu với hình thái mạnh mẽ trong mọi việc, nhưng tất cả đều là hư giả.
Gặp gỡ, yêu nhau mà xa cách là khổ. Người ta đau buồn khi biệt ly cha mẹ hay vợ con, hãy vì họ mà nói: “Đây là cơ hội tự mình nắm giữ Phật pháp, nghĩ nhớ tới Phật, đâu không hiệu quả và lợi ích? Có nhớ thương than vãn cũng không được gì.” Chúng ta khuyên nhủ ai đó mà lấy làm hổ thẹn, vì lũ tương tợ tiên đạt như chúng ta, đa số đều như thế.
Đây là thói thường của căn cơ tu học Thánh đạo chư tông, họ không biết căn cơ và giáo lý của Tịnh độ Chân tông.
Trước hết, cái gọi là phàm phu đều là ngu dốt, bất kể làm gì và được gì. Thực chất con người là xảo trá mà làm ra vẻ tốt đẹp bề ngoài, và biểu hiện sự hiền lành đều là hư giả không thật.
Mặc dù chưa đi tới sanh xứ, mà quyết định sanh Báo độ Di Đà, tất cả chúng ta không còn nghi ngờ gì về ngày hội ngộ ở Tịnh độ. Nhưng đã là phàm phu ngu si mê hoặc, đối với việc người trước ra đi, người sau chết mất , một sớm biệt ly, sao không buồn thương!
Quả thật vì túc duyên sanh sanh thế thế nên nhiều kiếp lưu chuyển. Đời này chính phải chấm dứt luân chuyển, bởi vì quán trọ ở tạm thời là tham ái chấp trước và làng xóm cần rời xa là nhà lửa nhân giới. Y báo và chánh báo , sao không bị ràng buộc, lưu luyến cho được! Nếu không lưu luyến cuộc đời này, tức chẳng nhiếp vào hàng phàm phu. E rằng do kiên nhẫn [sống nơi quán trọ và nhà lửa], mà ngộ nhận chính mình là căn cơ “Tự lực Thánh đạo”, chẳng phải căn cơ “Tịnh độ tha lực”. Có sự hoài nghi này.
Tuy nhiên, đã ngu si và đau buồn, thì biết chính mình tương ưng với căn cơ “Tha lực vãng sanh”. Nói chung là, tình trạng phàm phu thì không thể thay đổi.
Thánh nhân nói: “Một đại sự của vãng sanh, là quay về nhở cậy Đức Phật A Di Đà. Đời nay, hành vi nơi thân, suy nghĩ nơi tâm, nói năng nơi miệng, lấy ba độc tham, sân, si làm căn nguyên. Ngang qua cái thân thể vẩn đục này, mười điều ác: sát sanh, trộm cắp, v.v. khó đoạn trừ, khó điều phục, muốn tách rời mà không được. Sự thật là, phàm phu là thành quả của ngu si và phiền não. Chỉ dựa vào sự thật “phàm phu” này , không có bề ngoài giả dối, mới là “Bản nguyện chánh cơ” của Tịnh độ Chân tông.
Nhưng mà người bình thường vì ái chấp sâu đậm vợ con và quyến thuộc, nên lúc lâm chung có phong tục tập quán không cho gần kề, không cho gặp mặt, tháo thân lui đi. Sở dĩ làm như vậy là vì không muốn người sắp lâm chung đọa vào ác đạo.
Đây là thường tình của Tự lực Thánh đạo. Tha lực Chân tông không có việc như này.”
Nguyên do: Tuy muốn biết cảnh giới tuyệt ly như thế nào, nhưng nếu không được nhiếp trì bởi Phật pháp của Tha lực, thì sao có thể xuất ly sanh tử?
Giả sử những người vọng ái, mê tâm sâu nặng, nhưng vì Bản nguyện được thiết lập vốn lấy căn cơ này làm đối tượng cứu độ, ngoại trừ chí cực đại tội, trọng tội là ngũ nghịch và báng pháp - nghiệp nhân của địa ngục Vô gián. Huống nữa là đối tượng cứu độ không bị chướng ngại bởi sự đau buồn không chịu nổi của “ái biệt ly khổ”.
Tuy thành tựu tín tâm về “Vãng sanh Tịnh độ”, nhưng vì lần này là tối hậu thân của luân hồi sanh tử, nên đau buồn cũng sâu đậm.
Tuy nhiên, bên gối vây quanh, đau buồn nghẹn ngào; đám đông trái phải, thương tiếc khóc lóc, mà mảy may không trở ngại.
Bằng chẳng được như thế, sẽ cho rằng bản thân không có khí tánh phàm phu, vậy thì có hay không tương ưng với căn cơ “Tha lực vãng sanh”? Nhân đó mà sanh nghi ngờ.
Thế nên, cảnh giới như đây, không cần phải kiêng sợ; đau buồn biệt ly, cũng không cần thiết khuyên dạy.

16. HUẤN DỤ NGƯỜI SẦU KHỔ
Sự khuyên nhủ thật tình: Nỗi đau buồn của con người khi gặp phải cái khổ biệt ly, vì họ mà khuyên đi tới phương thuốc Phật pháp.
Trong tám cái khổ của nhân sanh, “ái biệt ly khổ” là chủ yếu, như vừa nói ở trên.
Trước hết, hãy kể về cảnh giới sanh tử, nơi không có cái lẽ thường trú, và nói về cảnh giới An Dưỡng, nơi thường trú thực sự. Nếu chỉ khởi lên nỗi buồn than, mà không nguyện sanh Tịnh độ “không có buồn than”, thì tương lai cũng sẽ đau buồn như vậy. Chẳng bằng khi biệt ly “chỉ nghe tiếng sầu than” của sáu đường, hãy về đến Tịnh độ Di Đà “vào thành Niết-bàn kia” .
Dạy bảo như vậy, thì tối tăm “đau buồn” từ từ trong sáng, tự quay về với lợi ích của “ánh sáng nhiếp thủ”.
Tiếp theo, với những người thân thuộc như thế, nếu càng nói ra sự đau thương, thì cố nhiên trong đau thương lại thêm đau thương, chẳng thành lời chia buồn an ủi. Nếu làm như vậy, đã chẳng phải lời đồng cảm, trái lại khiến họ buồn khổ, mất tinh thần.
Rượu có tên gọi là “Vong ưu” . Cũng vậy, hãy khích lệ an ủi, khiến người vui cười, cũng là phương tiện giải sầu đi vào Phật pháp, chỉ như thế mới thành sự chia buồn phúng viếng.
Thánh nhân nói như thế, nên biết.

17. PHÀM ÁC LÀ CHÁNH CƠ
Sự bản nguyện của Như Lai: “Vốn vì phàm phu, chẳng vì Thánh nhân.”
Thánh nhân Bản Nguyện tự (Thân Loan) được tương thừa từ Tiên đức Hắc Cốc (Nguyên Không), Thượng nhân Như Tín kể lại như vầy:
Người đời thường cho rằng: “Kẻ ác còn được vãng sanh, huống là người hiền!”
Đây là, xa thì trái với bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, gần thì ngược với lời vàng “xuất thế” của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Nguyên do: Siêng khó “Năm kiếp tư duy”, kham nhẫn “Lục độ vạn hạnh”, đều vì sự xuất ly sanh tử của phàm phu, hoàn toàn không vì Thánh nhân.
Vậy thì, phàm phu là chánh cơ nương tựa Bản nguyện để vãng sanh Báo độ. Phàm phu nếu không thể vãng sanh, thì “nguyện” không có tác dụng, “lực” không có hiệu quả. Nhưng lực và nguyện bổ sung cho nhau, vì chúng sanh mười phương, thành tựu đại lợi ích, nhân đây mà [Đức A Di Đà] thành Chánh giác đến nay đã mười đại kiếp.
Chứng thực cho sự kiện này là lời nói thành thật của hằng hà sa số chư Phật, đâu có phải lời nói giả dối!
Do đó, Đại sư Thiện Đạo cũng giải thích: “Tất cả phàm phu thiện ác đều được vãng sanh …” . Ở đây cũng lấy ác phàm phu là gốc, thiện phàm phu là kề bên.
Vì vậy, bàng cơ là thiện phàm phu mà còn được vãng sanh, riêng chánh cơ là ác phàm phu há không được vãng sanh?
Nên nói: “Người hiền còn được vãng sanh, huống là kẻ ác!”

18. PHÂN BIỆT TẠO ÁC
Sự tin biết tội nặng, dù là ngũ nghịch, báng pháp, cũng được vãng sanh, nhưng không tạo một tội lỗi nhỏ nào.
Cùng là lời nói của Thánh nhân, tiên sư là Thượng sư Như Tín đã kể rằng:
Người đời thường nói: “Tội nghiệp tuy nhỏ, ai sợ muốn dừng thì mặc ý mà dừng. Thiện căn dù nhỏ, ai vui muốn tu thì tùy nguyện mà thành. Đã được đại lợi ích, cũng thành phương pháp xuất ly.”
Đây là trái với trọng yếu của Chân tông, ngược với lời dạy của tiên triết.
Trước hết, tạo tác những tội nghịch, đó là trọng cấm của chư tông, cũng không phải bản ý của Phật pháp. Đối với ác nghiệp, phàm phu vốn biết dè chừng để không phạm, nhưng do bị nghiệp quá khứ dẫn dắt, họ không tránh khỏi phạm những tội nặng này.
Lại nói: “Dù tội nhỏ cũng không được phạm”, dẫu có nghe nói, “Phàm phu mặc ý, được dừng tội nghiệp.”
Tuy nhiên, bản chất phàm phu vốn là tội lỗi, và tội ác làm thể tánh , nên bất luận lớn nhỏ, ba nghiệp tác dụng, đều là tội ác.
Nhưng khi nói “Tội nhỏ cũng không được phạm”, thì hình như xác định rằng, “Cố ý phạm tội thì chớ xét tới, vô ý phạm tội cũng không được vãng sanh.”
Với nghĩa này, An tâm là trọng yếu, thường phải tư duy quyết trạch.
Với thuyết này, hoặc theo giải thích của chú sớ, hoặc theo ý của ức chỉ môn .
Ức chỉ là phương tiện của Đức Thích Tôn. Chỗ An tâm quyết định của Chân tông hoàn toàn nằm trong Bản nguyện của Đức Di Đà.
Vậy thì, tội nhỏ tội lớn, luận nghị về tội, chỉ có khả năng dừng lại mới có lợi ích. Đối với phàm phu không dừng lại được điều ác, như lời dạy ở đây, làm sao có căn cơ quay về nhờ cậy Bản nguyện của Đức Phật A Di Đà?
Tội phỉ báng chánh pháp cũng sinh khởi từ tâm không tin vào Phật pháp, vốn chẳng phải đồ đựng của Phật pháp. Nếu người biết cải hối thì cũng được vãng sanh.
Đây là lý do để giải thích câu: “Kẻ phỉ báng chánh pháp, xiển-đề mà hồi tâm đều được vãng sanh.”

(19) PHÂN BIỆT MỘT NHIỀU
Sự tin biết một niệm là đủ, nhưng vẫn cố gắng nhiều niệm.
Đây là, một niệm hay nhiều niệm đều là văn ý của Bản nguyện.
Những giải thích cho cái gọi là “Trên trọn một đời, dưới đến một niệm” cũng là văn ý của Bản nguyện.
Tuy nhiên, “Dưới đến một niệm” là tin tưởng và nắm giữ Bản nguyện, là thời khắc “vãng sanh được quyết định”. “Trên trọn một đời” là việc báo đáp ơn Phật, sau khi “tức khắc được vãng sanh”. Kinh điển có giải thích rõ ràng ý này.
Nếu cho rằng, “Một niệm và nhiều niệm cùng là chánh nhân vãng sanh” là chánh nhân hỗn loạn, có phải hơi trái ngược với sự giải thích Kinh văn?
Như bao nhiêu lần được truyền thừa từ các bậc Tiên đạt, rằng có đức tin vào “Tha lực” thì một niệm chắc chắn được “Tức khắc được vãng sanh”. Khi ấy, nhân cơ hội chưa đối mặt với cái chết, sanh mạng vẫn tồn tại, hãy nên thường niệm Phật. Đây chính là khế hợp với sự giải thích “Trên trọn một đời”.
Nhưng mà người đời thường cho rằng, “Trên trọn một đời cũng là bản ý của chư tông”, vì vậy “muốn bỏ đi cơ hội ‘một niệm’ vốn không thích hợp với quan điểm này” ư? Đây là trái với Bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, ngược với lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Nguyên do: Tâm đại bi của Như Lai, lấy căn cơ “đoản mạng” làm gốc. Nếu lấy “đa niệm làm bản nguyện”, thì khi mạng sống bị thu lại trong một sát-na, những căn cơ “vô thường mau chóng” làm cách nào nương tựa Bản nguyện?
Thế nên, trọng yếu của Chân tông là lấy “Nhất niệm vãng sanh” làm nguồn cội.
Nguyên do: Nguyện thành tựu văn có ghi: “Nghe danh hiệu Ngài, tín tâm hoan hỷ, dù chỉ một niệm, [chí tâm hồi hướng], nguyện sanh nước ấy, liền được vãng sanh, trú Bất thoái chuyển.”
Cùng Kinh ấy, phần Lưu thông văn có lời phó chúc của Đức Phật cho Bồ-tát Di Lặc: “Có ai nghe được danh hiệu Phật kia, hoan hỷ nhảy nhót, dù chỉ một niệm, nên biết người này làm được đại lợi, thì là đầy đủ công đức vô thượng.
Thêm lời giải thích của Đại sư Thiện Đạo ở chùa Quang Minh: “[Vạn năm Tam bảo diệt, Kinh này trụ trăm năm,] Bấy giờ nghe một niệm, Đều sẽ được sanh kia.”
Những đoạn văn minh chứng này đều lấy căn cơ “vô thường mau chóng” làm gốc, rõ ràng lấy “nhất niệm quyết định” làm thời khắc “vãng sanh trị định” . Thọ mạng của người ấy nếu được kéo dài thì tự nhiên gặp gỡ đạo lý của đa niệm.
Do đó, lúc bình sanh, sau khi “nhất niệm vãng sanh trị định”, thì liền thành “đa niệm xưng danh” để báo đáp ơn Phật. Điều này Kinh văn chứng minh, đạo lý quá rõ ràng.
Nếu lấy “Đa niệm làm bản nguyện”, thì đỉnh điểm của đa niệm lấy gì xác định?
Mạng sống con người sẽ chấm dứt, và mỗi người có duyên chết khác nhau: có chết cháy, cũng có chết đuối, cho đến đao kiếm mất mạng, ngủ nghỉ tử vong, đây đều là nghiệp trước chiêu cảm, càng không thể tránh.
Tuy nhiên, nếu căn cơ nào phải chết vì những nghiệp như thế, ước hẹn “hoàn thành đa niệm” không lùi bước, lúc đó thành hơn mười niệm. Phật và Thánh chúng sẵn sàng lai nghinh dẫn tiếp, người căn cơ dẫu có mong đợi. Cầu nguyện thì ắt có nghinh tiếp, nhưng rất là bất định.
Do đó, trong văn của lời nguyện thứ 19 , cụm từ “nếu như tôi chẳng cùng” (giả lệnh bất dữ, 假令不與) được đặt trước cụm từ “hiện ra trước mặt người ấy” (hiện kỳ nhân tiền giả, 現其人前者). Hai từ "giả lệnh", hiểu theo huấn độc Hán văn là “giả thiết” (假設). Thiết (設) là “thí như” (譬如). Hành giả tu các hạnh phi bản nguyện và người mong cầu vãng sanh, Đức Phật A Di Đà đều soi sáng họ bằng tâm đại từ đại bi. Lấy xưng niệm danh hiệu trong sự tu các công đức làm căn cứ, và nếu có thể hiện thân, thì [Phật cùng đại chúng] “hiện ra trước mặt người ấy”. Vì sự kiện này là bất định, nên đã đặt hai chữ ''giả lệnh''.
Thứ nhất, trong cái mất vì “bất định”, tất cả hành giả đều trông đợi vào tự lực. Điều này trái với Bản nguyện và ngược với Phật trí.
Nói “trông đợi vào tự lực”, tức là gần với “suy lường của tôi” .
Thứ hai, ở trên có đề cập, thân này đầy đủ những nghiệp nhân. Căn cứ Phật lực và Phật trí mà Đại sư Thiện Đạo nói “Những tà nghiệp trói buộc không thể làm chướng ngại sự vãng sanh.”
Do Phật lực mà bất cứ tội nghiệp gì cũng không chướng ngại được sự vãng sanh.
“Tôi suy lường về sự vãng sanh”, đó là tâm mê muội của phàm phu. Nếu bản thân có vô số nghiệp nhân quá khứ, đâu thể không chướng ngại cho sự tự lực vãng sanh?
Vì vậy, bằng công đức đa niệm của tự lực, hy vọng khi lâm chung được Phật cùng đại chúng lai nghinh, vẫn có nhiều chướng ngại khó tránh.
Trong tác phẩm Bạch Thị Văn Tập bằng Hán văn, có câu: "Hành trình ngàn dặm bắt đầu từ bước chân, một ngọn núi cao bắt đầu từ một hạt bụi." Một niệm là khởi đầu của nhiều niệm, và nhiều niệm là tích lũy của một niệm. Cả hai không thể tách rời nhau, nhưng người ta đều hiểu lầm đối với chỗ trong ngoài (sự lý) của nó.
Quan điểm hiện nay là, đem “một niệm vô thượng [công đức]” của Phật trí để thúc đẩy “phàm phu vãng sanh”, và đem trọn đời mình nghĩ nhớ Bản nguyện và Danh hiệu để nỗ lực báo đáp công ơn của Phật.
Đó gọi là “tương thừa thật nghĩa”.

















LỜI BẠT

Năm thứ nhất niên hiệu Nguyên Hoằng (元弘, Tân Mùi, 1331), vào hạ tuần Trọng Đông , nhân ngày chánh kỵ báo tạ ân đức Tổ sư Thánh nhân (Bản Nguyện Tự Thân Loan), Tiên sư Thượng nhân (Thích Như Tín) - người đích thân được trao truyền khẩu quyết, chuyên tâm, chuyên tu, đặc biệt phát nguyện - trong bảy ngày bảy đêm, cần hành pháp thoại, đã kính truyền trì lời chứng về Tổ sư Thánh nhân, cũng như đã kính tương thừa yếu chỉ tha lực của Chân tông. Sao chủ khẩu thuyết, còn tôi bút ký, chép ra ở đây.
Đây là giao ước của “Vãng sanh Tịnh độ” , là mắt chân của “Trược thế mạt đại” , rộng vì thấm ướt người sau, xa vì lợi ích muôn loài.
Tuy nhiên, để bảo vệ những căn cơ chấp nhận [tư tưởng] sách này, không nên cho những ai lật xem mà không cân nhắc họ thuộc hai bên trái phải. Chẳng phải pháp khí “túc thiện khai phát” , những kẻ si độn ấy nhất định khua môi phỉ báng. Vậy thì, e rằng đó có thể là lý do khiến họ chìm đắm trong biển sanh tử. Chỉ giữ họ ở dưới đáy rương và không để họ ra ngoài dễ dàng.
Thích Tông Chiêu

Tôi đã biên chép xong sách này vài năm trước, bất ngờ với cuộc sống hiện nay, tay bút lão luyện vẫn vẩy mực mà sao chép.
Tánh tình càng hồ đồ, thân thể lại yếu đuối, dù tôi không đảm đương vai trò người biên chép còn sót lại, nhưng tôi mong rằng sách này là một di tích, để ai đó lật xem thì khai phát tín tâm về sự vãng sanh Tịnh độ.
Ngày 12 tháng 9, năm Khang Vĩnh thứ 3 (Giáp Thân, 1344), nhằm ngày giỗ của tôn linh vong phụ , cuối cùng công việc biên chép cũng hoàn thành.
Thích Tông Chiêu, 75 tuổi.













PHỤ LỤC

8. HIỆU ĐÍNH TẤT CẢ KINH ĐIỂN
Tu Lý Lượng Thời Thị, cha của thiền sư Tối Minh Tự, là một giáo viên toàn thời gian, ông ấy đã sao chép tất cả các kinh điển.
Hai tướng quân Vũ Đằng Tả Vệ Môn Nhập Đạo và Túc Ốc Nhập Đạo (không biết tên thật của hai người) đang cần một tu sĩ là trí giả hay nghiên cứu sinh có khả năng đối chiếu kinh điển. Một ngày nọ, nhờ duyên may, ông ấy gặp được Thân Loan Thánh nhân.
Nước Thường Lục, quận Lạp Gian, làng Đạo Điền, Thân Loan Thánh nhân đã đáp ứng yêu cầu của ông ấy, và đã có một buổi hiệu đính tất cả kinh điển.
Trong thời gian này, các phó tướng quân lần lượt tiếp cận, chuẩn bị nhiều món ngon và những chén rượu sake cho dịp này, và một số lễ vật đã được dâng lên các lãnh chúa.
Thánh nhân đặc biệt tinh tấn dũng mãnh, Tăng tướng uy nghi, cư xử không giống những người thế tục, kẻ mới nhập đạo, cũng được nhận lời mời dự tiệc.
Không có giới hạn về hương vị của thịt cá và thịt gia cầm. Họ không trình bày món ăn trước mặt bạn như họ vẫn làm mọi khi.
Khi Thánh nhân đang mặc áo cà sa, một cậu bé chín tuổi của Tối Minh Tự, tên là Khai Thọ Điện (người sau này trở thành nhiếp chánh nổi tiếng Bắc Điều Thời Lại -Hōjō Tokiyori, 1227-1263), đến bàn của Thân Loan Thánh nhân, nói nhỏ, “Người nhập đạo khi ăn cá, họ cởi áo cà sa và ăn cá. Thưa Ngài Thiện Tín Phòng, vì sao Ngài không cởi áo cà sa ra?”
Thánh nhân trả lời, “Các tu sĩ luôn giữ cà sa giải thoát giác ngộ bên mình, nhưng khi ăn, họ cởi áo cà sa rồi mới ăn. Thiện Tín gặp phải thức ăn không mong đợi như vầy, rất là lo lắng để ăn nó, cho nên quên và không cởi áo cà sa của mình.”
Khai Thọ Điện buộc phải nói, “Câu trả lời này là giả dối. Đây thực sự là ý định của Ngài? Trẻ con Khai Thọ coi thường Ngài!”
Vào một dịp khác, khi ăn cá vẫn mặc áo cà sa như trước. Một lần nữa, Khai Thọ Điện lại hỏi như trước đây. Thánh nhân trả lời rằng Ngài đã quên. Khi đó, Khai Thọ Điện nói, “Ngài không được quên. Đầu óc trẻ con khờ khạo, thiếu hiểu biết về nghĩa lý sâu xa, Ngài có thể giải thích ý định của mình.” Cậu bé nói đi nói lại rằng, “Ngài chỉ nên nói lý do thực sự cho hành động của mình.”
Khi ấy, Thánh nhân vì lòng biết ơn, đã thể hiện tình thương với một đứa trẻ thơ, nói rằng: “Thật là một điều khủng khiếp khi một con người phải chịu đau khổ đến mức tự hủy hoại mạng sống của mình và nuốt chửng máu thịt của mình. Đây cũng là điều đáng sợ. Lý do tại sao giới luật của Đức Phật rất quan trọng, nhưng trong thời đại Mạt pháp trược thế hiện nay, khi chúng sanh không có giới luật, không có gì bảo vệ họ và không có gì để phá vỡ họ, vì vậy họ cạo đầu, nhuộm y, và ăn những thứ này, vì họ cùng tâm với quần loại thế tục. Nếu có thể ăn được nhiều, họ sẽ có thể giải thoát sanh loài khỏi thế giới này. Ôi mang danh họ Thích mà tôi nhiễm ô bởi bụi trần, không trí cũng không đức, làm sao có thể khiến tôi không cảm thấy như vậy? Cho nên áo cà sa là y phục thiêng liêng của tướng giải thoát của chư Phật ba đời. Nếu ăn thịt chúng sanh trong khi mặc cà sa này, thì biết rằng đức dụng của cà sa phải là ý niệm phát nguyện cứu sanh lợi vật. Tôi sẽ ăn trong khi mặc y cà sa. Chư thiên, quỷ thần đang soi xét đạo đức của con người, vậy mà con người không biết hỗ, không biết thẹn. Tuy nhiên, mọi việc cứ tồn tại như vậy.”
Vào lúc này, Khai Thọ Điện, khi còn nhỏ, tỏ ra ngưỡng mộ Thánh nhân, và cậu bé ấy nghe xong rất tùy hỷ. Có một câu nói: “Rường cột chống đỡ bầu trời bốn biển, khí dụng của nó tuy khiêm tốn, nhưng thật là đặc biệt.”

一切経校合と袈裟の功徳
一切経御校合の事。
最明寺の禅門の父修理亮時氏、政徳をもつぱらにせしころ、一切経を書写せられき。これを校合のために智者・学生たらん僧を屈請あるべしとて、武藤左衛門入道[実名を知らず]ならびに屋戸やの入道[実名を知らず]両大名に仰せつけてたづねあなぐられけるとき、ことの縁ありて聖人(親鸞)をたづねいだしたてまつりき。[もし常陸の国笠間郡稲田郷に御経回のころか]聖人その請に応じましまして一切経御校合ありき。その最中、副将軍、連々昵近したてまつるに、あるとき盃酌のみぎりにして種々の珍物をととのへて、諸大名面々〔と〕数献の沙汰におよぶ。聖人別して勇猛精進の僧の威儀をただしくしましますことなければ、ただ世俗の入道・俗人等におなじき御振舞なり。よつて魚鳥の肉味等をもきこしめさるること、御はばかりなし。ときに鱠を御前に進ず、これをきこしめさるること、つねのごとし。袈裟を御着用ありながらまゐるとき、最明寺の禅門、ときに開寿殿とて九歳、さしよりて聖人の御耳に密談せられていはく、「あの入道ども面々魚食のときは袈裟を脱ぎてこれを食す。善信の御房(親鸞)、いかなれば袈裟を御着用ありながら食しましますぞや、これ不審」と[云々]。聖人仰せられていはく、「あの入道達はつねにこれをもちゐるについて、これを食するときは袈裟を脱ぐべきことと覚悟のあひだ、脱ぎてこれを食するか。善信はかくのごときの食物邂逅なれば、おほけていそぎ食べんとするにつきて忘却してこれを脱がず」と[云々]。開寿殿、また申されていはく、「この御答、御偽言なり、さだめてふかき御所存あるか。開寿、幼稚なればとて御蔑如にこそ」とて退きぬ。
またあるとき、さきのごとくに袈裟を御着服ありながら御魚食あり。また開寿殿、さきのごとくにたづねまうさる。聖人また御忘却と答へまします。そのとき開寿殿、「さのみ御廃忘あるべからず。これしかしながら幼少の愚意、深義をわきまへしるべからざるによりて、御所存をのべられざるものなり。まげてただ実義を述成あるべし」と、再三こざかしくのぞみまうされけり。そのとき聖人のがれがたくして、幼童に対して示しましましていはく、「まれに人身をうけて生命をほろぼし肉味を貪すること、はなはだしかるべからざることなり。されば如来の制戒にもこのことことにさかんなり。しかれども末法濁世の今の時の衆生、無戒のときなれば、たもつものもなく破するものもなし。これによりて剃髪染衣のそのすがた、ただ世俗の群類にこころおなじきがゆゑに、これらを食す。とても食するほどならば、かの生類をして解脱せしむるやうにこそありたく候へ。しかるにわれ名字を釈氏にかるといへども、こころ俗塵に染みて智もなく徳もなし。なにによりてかかの有情をすくふべきや。これによりて袈裟はこれ三世の諸仏〔の〕解脱幢相の霊服なり、これを着用しながらかれを食せば、袈裟の徳用をもつて済生利物の願念をやはたすと存じて、これを着しながらかれを食するものなり。冥衆の照覧を仰ぎて人倫の所見をはばからざること、かつは無慚無愧のはなはだしきに似たり。しかれども所存かくのごとし」と[云々]。このとき開寿殿、幼少の身として感気おもてにあらはれ、随喜もつともふかし。「一天四海を治むべき棟梁、その器用はをさなきより、やうあるものなり」と仰せごとありき。

9. BA LOẠI BÚI TÓC: DANH VĂN – LỢI DƯỠNG – THẮNG THA
Một ngày nọ, khi Loan Thượng nhân (Thân Loan) đi thăm Thánh nhân Nguyên Không ở tu viện Hắc Cốc, một hành giả giới thiệu Ngài với một người hầu: "Đây là Thánh nhân ở Kyoto, người có danh dự ‘Tám tông kiêm học’ và là người có trí tuệ đệ nhất.” Cũng nói điều này với những người bạn đồng hành ở trong xe.
Loan Thượng nhân nói, "Nếu tôi đi tìm Thánh nhân có trí tuệ đệ nhất, thì đó phải là Thánh nhân Nguyên Không, và bây giờ tôi đang trên đường đến tu viện của Ngài ấy.”
Hành giả nói, "Đó là những gì tôi muốn biết về Thánh nhân Nguyên Không.”
Loan Thánh nhân nói, "Tôi phải là người hướng dẫn, nên tôi lên chiếc xe này.”
Các hành giả khác từ chối, nói rằng: "Chúng tôi không đi theo đâu, vì có sự sợ hãi.”
Loan Thượng nhân nói: "Nếu vì lợi ích của việc cầu pháp, thì không nên tách rời nhau. Đệ tử của Thích Tôn phải làm gì đó. Lên xe thôi!”
Sau khi vài lần từ chối không đi, những người bạn đồng hành nói với vị hành giả, "Anh phải cẩn thận về những gì mình làm, với tư cách là một hành giả của pháp." Hành giả ấy bước lên xe.
Khi đến tu viện, gặp được Không Thánh nhân, Loan Thượng nhân thưa, "Có một hành giả từ Trấn Tây đến thăm Ngài để cầu pháp.” Không Thánh nhân nói, “Mời anh ta vào.” Sau đó, Loan Thượng nhân hướng dẫn hành giả đến trước mặt Không Thánh nhân.
Vào thời điểm đó, Không Thánh nhân liếc nhìn hành giả, và hành giả cũng đưa mắt nhìn Không Thánh nhân, bầu không khí nhẹ nhàng, không nói với ai.
Một lúc sau, Không Thánh nhân hỏi, "Ông từ đâu đến, và ta có thể giúp được gì?”
Hành giả nói, "Tôi đến từ Trấn Tây, muốn cầu pháp ở Kinh đô, vì vậy tôi đến tham vấn Ngài.”
Không Thánh nhân hỏi, “Ông tìm kiếm loại pháp nào?”
Hành giả thưa: “Tôi tìm kiếm pháp niệm Phật.”
Không Thánh nhân hỏi, “Đó là pháp niệm Phật của Đường độ hay pháp niệm Phật của Nhật Bản?”
Hành giả ngập ngừng một lúc, lo lắng thưa, “Tôi tìm kiếm pháp niệm Phật của Đường độ.”
Không Thánh nhân nói, "Vậy thì ông phải là đệ tử của Hòa thượng Thiện Đạo.”
Vào lúc đó, hành giả lấy một nghiên mực từ trong túi của mình và bắt đầu viết hai chữ pháp danh, “Thánh Quang ở Trấn Tây” .
Thánh Quang ở Trấn Tây suy nghĩ rồi nói, “Có một Thánh nhân trên đời này, người được biết đến là trí tuệ đệ nhất. Tôi định đến Kinh đô lập tức để hỏi Thánh nhân ấy, nếu Ngài ấy đủ trí tuệ để trả lời các câu hỏi của tôi, thì tôi sẽ làm đệ tử của Ngài ấy. Nếu tôi có thể thắng được những câu hỏi và câu trả lời, thì Ngài ấy sẽ trở thành đệ tử của tôi.”
Không Thánh nhân thấy được cái tâm kiêu ngạo của một người có thẩm quyền, đã trả lời: “Như ông thấy bây giờ, đã có một câu hỏi và câu trả lời rồi.”
Thánh Quang ngã mạn đến mức nói ngay: “Tôi không xứng đáng là đệ tử của Ngài, ngay cả khi tôi dựng một cái thang.”
Sau ba năm, Thánh Quang đã đến gặp Thánh nhân và nói: “Tôi phải đến Trấn Tây để cầu nguyện cho Ngài vì tình yêu của Ngài đối với đất nước của tôi.”
Khi Thánh Quang chuẩn bị rời đi, Thánh nhân nói, “Ông sẽ thấy một tu học giả đang để tóc thành búi.”
Thánh Quang quay đầu lại và nói, “Thánh Quang đã được xuất gia và cũng được yêu cầu để tóc cuộn lên, điều đó đáng ngờ nhất. Yêu cầu này lọt vào tai tôi, và tôi không được phép tiếp tục con đường của mình. Tôi đã chấp nhận tình trạng, và vì lý do đó tôi đã trở lại.”
Lúc bấy giờ, Thánh nhân nói: “Một Pháp sư có ba loại búi tóc trên đầu, đó là thắng tha, lợi dưỡng và danh văn . Suốt ba năm qua, ông đã thu thập các văn bản về lời dạy của Nguyên Không cho đời sống của mình, và trở thành một người thực hành pháp. Tôi đã trở về quê hương của mình để dạy những người khác, và điều này không chỉ vì lợi ích của những người khác, mà còn vì lợi ích của chính tôi, đó là thắng tha. Tôi là học trò giỏi về pháp, và tôi rất háo hức có được danh văn như thế. Sau cùng, các đàn việt nhìn thấy qua điều này, đó là lợi dưỡng. Nếu ông không cạo bỏ ba búi tóc này, ông khó có thể được gọi là một Pháp sư, cho nên tôi nói với ông điều này.”
Ngay lúc đó, Thánh Quang tỏ ra ăn năn và từ sâu thẳm nỗi buồn của mình lấy ra tất cả những tư liệu mà anh ta đã thu thập được và vứt bỏ chúng, rồi anh ấy lại rời đi. Tuy nhiên, một số tư liệu vẫn còn sót lại, và tôi sẽ cho qúy vị lời khuyên của tôi: Bất chấp truyền khẩu, chủ trương “Chư hành vãng sanh” là tự mình chướng ngại và chướng ngại người khác, trái với di huấn của Tồ sư Nguyên Không, sợ rằng sẽ không biết được suy nghĩ của chư thiên. Đó là một điều xấu hổ và đáng sợ.
Tuy nhiên, Thánh Quang Phòng, ban đầu dưới sư hướng dẫn của Loan Thượng nhân, đã trở thành môn hạ của Hắc Cốc Thánh nhân. Nên biết điều này.

三種のもとどり
一 あるとき鸞上人(親鸞)、黒谷の聖人(源空)の禅房へ御参ありけるに、修行者一人、御ともの下部に案内していはく、「京中に八宗兼学の名誉まします智慧第一の聖人の貴坊やしらせたまへる」といふ。このやうを御ともの下部、御車のうちへ申す。鸞上人のたまはく、「智慧第一の聖人の御房とたづぬるは、もし源空聖人の御ことか、しからばわれこそただいまかの御坊へ参ずる身にてはんべれ、いかん」。修行者申していはく、「そのことに候ふ、源空聖人の御ことをたづねまうすなり」と。鸞上人のたまはく、「さらば先達すべし、この車に乗らるべし」と。修行者おほきに辞しまうして、「そのおそれあり、かなふべからず」と[云々]。
鸞上人のたまはく、「求法のためならば、あながちに隔心あるべからず、釈門のむつび、なにかくるしかるべき、ただ乗らるべし」と。再三辞退申すといへども、御とものものに、「修行者かくるところのかご負をかくべし」と御下知ありて、御車にひき乗せらる。
しかうして、かの御坊に御参ありて空聖人(源空)の御前にて、鸞上人、「鎮西のものと申して修行者一人、求法のためとて御房をたづねまうしてはんべりつるを、路次よりあひともなひてまゐりて候ふ、召さるべきをや」と[云々]。空聖人、「こなたへ招請あるべし」と仰せあり。よりて鸞上人、かの修行者を御引導ありて御前へ召さる。そのとき空聖人、かの修行者をにらみましますに、修行者また聖人(源空)をにらみかへしたてまつる。かくてややひさしくたがひに言説なし。しばらくありて空聖人仰せられてのたまはく、「御坊はいづこのひとぞ
、またなにの用ありて来れるぞや」と。修行者申していはく、「われはこれ鎮西のものなり、求法のために花洛にのぼる、よつて推参つかまつるものなり」と。そのとき聖人「求法とはいづれの法をもとむるぞや」と。修行者申していはく、「念仏の法を求む」と。聖人のたまはく、「念仏は唐土(中国)の念仏か、日本の念仏か」と。修行者しばらく停滞す。しかれどもきと案じて「唐土の念仏を求むるなり」と[云々]。聖人のたまはく、「さては善導和尚の御弟子にこそあるなれ」と。そのとき修行者、ふところよりつま硯をとり出して二字を書きてささぐ。鎮西の聖光坊これなり。
 この聖光ひじり、鎮西にしておもへらく、「みやこに世もつて智慧第一と称する聖人おはすなり、なにごとかは侍るべき、われすみやかに上洛してかの聖人と問答すべし、そのときもし智慧すぐれてわれにかさまばわれまさに弟子となるべし。また問答に勝たばかれを弟子とすべし」と。しかるにこの慢心を空聖人、権者として御覧ぜられければ、いまのごとくに御問答ありけるにや。かのひじりわが弟子とすべきこと、橋たててもおよびがたかりけりと、慢幢たちまちにくだけければ、師資の礼をなしてたちどころに二字をささげけり。
 両三年ののち、あるときかご負かきおいて聖光坊、聖人の御前へまゐりて、「本国恋慕のこころざしあるによりて鎮西下向つかまつるべし、いとまたまはるべし」と申す。すなはち御前をまかりたちて出門す。聖人のたまはく、「あたら修学者が髻をきらでゆくはとよ」と。その御声はるかに耳に入りけるにや、たちかへりて申していはく、「聖光は出家得度してとしひさし、しかるに髻をきらぬよし仰せをかうぶる、もつとも不審。この仰せ、耳にとまるによりてみちをゆくにあたはず。ことの次第うけたまはりわきまへんがためにかへりまゐれり」と[云々]。
 そのとき聖人のたまはく、「法師には三つの髻あり、いはゆる勝他・利養・名聞これなり。この三箇年のあひだ源空がのぶるところの法文をしるし集めて随身す。本国にくだりて人をしへたげんとす、これ勝他にあらずや。それにつけてよき学生といはれんとおもふ、これ名聞をねがふところなり。これによりて檀越をのぞむこと、詮ずるところ利養のためなり。この三つの髻を剃りすてずは、法師といひがたし。よつて、さ申しつるなり」と[云々]。
 そのとき聖光房、改悔の色をあらはして、負の底よりをさむるところの抄物どもをとり出でて、みなやきすてて、またいとまを申して出でぬ。しかれどもその余残ありけるにや、つひに仰せをさしおきて、口伝をそむきたる諸行往生の自義を骨張して自障障他すること、祖師(源空)の遺訓をわすれ、諸天の冥慮をはばからざるにやとおぼゆ。かなしむべし、おそるべし。しかればかの聖光房は、最初に鸞上人の御引導によりて、黒谷の門下にのぞめる人なり。末学これをしるべし。
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 4)
Bên trên