Kho tàng tâm của các bậc giác ngộ

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
Kính cám ơn bạn nhãn đầu mùa đã gợi ý !
http://splashurl.com/kec2zyy

h/t sẽ tái đăng trọn bộ bài giảng này một cách rõ ràng minh bạch, sau đây là Dàn Bài chi tiết (h/t sẽ bổ sung liên kết web sau mỗi khi đăng xong một bài)


NỘI DUNG

* Lời mở đầu của Dalai Lama
* Lời nói đầu của những dịch giả
* Lời cám ơn của những dịch giả

Dẫn nhập:

* Động Cơ Chân Chánh để Nhận Lãnh và Nghiên Cứu những Lời Dạy
* Làm thế nào để Nghiên Cứu những Lời Dạy này
* Những Lời Dạy này chứa đựng điều gì

* Những bài kệ mở đầu
* Kính lễ

* Động lực của Tác Giả trong việc Biên Soạn Bản Văn Này

PHẦN MỘT:

Những khuyết điểm của thời đại suy thoái của chúng ta


PHẦN HAI:

* Cái thấy, thiền định và hành động của đại thừa
* Ba con đường
* Con đường của những kinh điển
* Quy y

* Tư tưởng Giác Ngộ
* Tịnh hóa
* Cúng dường
* Guru Yoga
* Con đường của những tantra
* Quán đảnh

* Tri giác thanh tịnh
* Giai đoạn phát triển
* Thân Kim Cương
* Ngữ Kim Cương
* Tâm Kim Cương
* Sau thiền định
* Giai đoạn thành tựu
* Bản tánh của Tâm thức
* Bốn yoga: Nhất niệm, Đơn giản, Một vị, Không-thiền-định
* Sự chuyển hóa những Giác quan, Thức tình phiền não và các Uẩn
* Sáu đối tượng của giác quan
* Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Tâm thức
* Năm thức tình phiền não
* Sân hận, Kiêu mạn, Tham lam, Ghen ghét, Vô minh
* Năm uẩn:Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
* Bốn điểm chính yếu về Thân, Ngữ, Tâm và Pháp Thân
* Kết luận Bài Giảng Thứ Hai.

PHẦN BA. Quyết tâm giải thoát khỏi sanh tử

* Buông bỏ những hoạt động sanh tử
* Những hành động
* Nói năng
* Đi đây đó
* Ăn
* Suy nghĩ
* Những sở hữu
* Ngủ

Nhu Cầu Khẩn Thiết phải Thực Hành:

_ Làm chủ tâm thức

Những bài kệ kết thúc:

_ Hồi Hướng Công Đức

Lời Kết:

Chú thích:

* Về Patrul Rinpoche
* Về đức Dilgo Khyentse Rinpoch


http://splashurl.com/oyxvolv
 
Last edited:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
LỜI MỞ ĐẦU của Đức ĐẠT LAI LẠT MA

Tôi sung sướng biết rằng bản dịch này về một giải thích ứng khẩu sâu xa do Kyabje Khyentse Dorje Chang về tác phẩm Thog mtha bar gsum du dge ba’i tam của Za Patrul Rinpoche đã được ấn hành dưới tiêu đề : Kho Tàng Tâm của các Bậc Giác Ngộ. Kyabje Khyentse Dorje Chang là vị trưởng phái của dòng phái Cổ Truyền.

Za Patrul Rinpoche, Jigme Chokyi Wangpo, là một Đại Bồ tát đã đến Xứ Tuyết nhiều lần gần đây. Vị đại hành giả cao cả và học rộng ấy đã ban cho lời dạy này, được biết với tên Giáo Huấn về Cái Gì là Tốt trong lúc Bắt Đầu, lúc Giữa và lúc Kết Thúc – Viên Ngọc Tâm của sự Thực Hành Thiêng Liêng về Cái Thấy, Thiền Định và Đức Hạnh, cho lợi lạc của những ai mong ước sự giải thoát. Nó bao gồm tất cả những giáo huấn chính yếu, và bởi vì ý nghĩa sâu xa mà nó chứa đựng và ngôn ngữ đẹp đẽ trong đó nó được tỏ bày, nó thực sự giống như một phương thuốc trường sanh làm sống lại người chết.

Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng qua sự xuất bản lời dạy này và phần giải thích của nó, người của cả Đông phương và Tây phương sẽ có thể tìm thấy sự an bình của tâm thức trong hạnh phúc không gì hơn của tình thương và bi mẫn.

DALAI LAMA

8 tháng 2, 1991
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
LỜI NÓI ĐẦU CỦA NHỮNG DỊCH GIẢ

Trong cuốn sách này, hai đại sư của thế kỷ mười chín và thế kỷ hai mươi trình bày toàn bộ con đường Phật giáo, bắt đầu từ động lực căn bản nhất và kết thúc trong kinh nghiệm trực tiếp về thực tại tuyệt đối vượt khỏi sự nắm bắt của tâm thức ý niệm.

Bản văn gốc là một bài thơ dài viết vào cuối thế kỷ mười chín bởi Patrul Rinpoche, một trong những vị thầy Phật giáo lỗi lạc nhất vào thời ngài. Patrul Rinpoche đã không nhân nhượng trong sự giải thích của ngài về những giáo lý và đã sống đúng như ngài dạy, lang thang khắp miền đông Tây Tạng, tìm chỗ ở trong những hang núi hay dưới cây rừng, thoát khỏi mọi giàu có, địa vị và sự tự xem là quan trọng. Ngài là một người thô lỗ không chịu nổi thói bịp bợm và đạo đức giả, những người mới gặp ngài lần đầu đôi khi bực bội ; nhưng không ai biết khá nhiều về ngài lại không bị xúc động bởi trí huệ của ngài, sự học rộng, tính khôi hài và lòng tốt sâu xa của ngài.

Ngài viết bài thơ này cho một trong những đệ tử thân thiết khi đang sống trong một hang hẻo lánh gần biên giới Hoa-Tạng. Trong đó, trước tiên ngài trình bày một diễn tả tàn phá và không thương xót về sự lừa bịp và giả dối rất thịnh hành trong đời sống bình thường hàng ngày. Ngài kết luận rằng giải pháp duy nhất là từ chối tham dự vào bãi lầy của sự không chân thật này, và tiếp tục cho một giải thích súc tích về những thực hành chính yếu của con đường Phật giáo, bắt đầu với sự nhận ra cái gì là sai lầm trong thế giới bình thường của vọng tưởng và vô minh. Ngài diễn tả những thực hành sơ khởi, những giai đoạn phát triển và thành tựu, và sự thiền định không ý niệm hóa của Mahamudra và Đại Toàn Thiện. Cuối cùng, ngài trở lại với chủ đề ban đầu, thúc dục chúng ta khảo sát một cách phê phán những mối bận tâm vật chất của chính chúng ta và suy nghĩ cẩn thận chúng ta muốn tiêu dùng phần đời còn lại của chúng ta như thế nào.

Ngôn ngữ của bản văn là oai vệ. Lấp lánh thông tuệ, sự lập lại, và thiên tài đích thực về thi ca, nó không hề mất sự súc tích và sáng sủa bộc trực. Chúng tôi đã làm hết sức để truyền đạt thành Anh ngữ vài chỗ mơ hồ về văn phong của nguyên bản, nhưng không có sự chuyển dịch nào có thể làm điều đó hoàn toàn thích đáng (Với những người có căn bản tiếng Tây Tạng, chúng tôi in bản văn gốc bằng tiếng Tây Tạng trong phần phụ lục).

Tuy nhiên, có cái gì hơn cả sự điêu luyện thi ca đàng sau những vần thơ sáng chói của Patrul Rinpoche. Điểm chủ yếu của bản văn là cung cấp một hệ thống súc tích và trên tất cả là dễ nhớ, đầy ắp sự chỉ dạy cá nhân, được dùng để truyền đạt phần bao la của kinh nghiệm, hiểu biết và trí huệ tích chứa được, để trao truyền toàn bộ từ thầy xuống trò trải qua nhiều thế hệ bằng sự chỉ dạy bằng lời, sự thực hành được giám sát, và sự tiếp xúc cá nhân. Chính vì để đáp ứng yêu cầu này mà Patrul Rinpoche đã viết tám mươi hai đoạn kệ súc tích và rất đáng nhớ này tổng kết những giáo lý, rồi ngài truyền cho những đệ tử với một sự giải thích chi tiết bằng lời.

Khi nhiều đoạn kệ này đã trở nên nổi tiếng như những trích dẫn trong các tác phẩm của những tác giả sau đó, nó như là một toàn bộ và một phần của truyền thống truyền miệng mà chúng giữ lại đầy đủ giá trị. May mắn thay, những đệ tử của Patrul Rinpoche đã thực hành, chứng ngộ, và truyền lại truyền thống một cách cẩn thận như những vị tiền bối của họ. Ngày nay, sau hai thế hệ, Dilgo Khyentse Rinpopche đã có thể truyền lại cho chúng ta di sản của kinh nghiệm và trí huệ này.

Bởi thế sự bình giải của Khyentse Rinpoche không phải chỉ là một mở rộng mang tính giải thích những đoạn kệ của bản văn gốc. Nó chứa đựng chính giáo lý nhận được bởi Patrul Rinpoche từ những vị thầy của ngài, đi ngược lại đến Jigme Lingpa, đến Longchenpa, đến những guru vĩ đại Padmasam-bhava và Vimalamitra.
Dù lời bình giảng được trình bày ở đây trong hình thức một cuốn sách, không nên quên rằng nó không phải là một bản văn mà Khyentse viết ra trong một khoảng thời gian và rồi có suy nghĩ, sửa chữa, xem lại, chỉnh đốn, thêm vào và xóa bỏ. Ngài chỉ nói nó ra, đúng như nó là, không có một chút ngừng nghỉ, hay ngắt đoạn của tư tưởng. Bất kỳ ai có mặt trong một buổi giảng dạy của Khyentse Rinpoche sẽ quen với phong cách đặc biệt này. Hiếm khi liếc nhìn vào bản gốc, Rinpoche nói không cố gắng với một nhịp độ đều đặn, bằng phẳng và không có nhấn mạnh, như đang đọc từ một cuốn sách vô hình trong trí nhớ của ngài. Mỗi câu, dầu dài và phức tạp, đều đầy đủ và văn phạm hoàn hảo. Bằng cách nào đó, chủ đề luôn luôn được bao trùm đều đặn từ đầu cho đến cuối, đúng trong thời gian được phân phối, nâng lên chính xác với mức độ thấu hiểu của thính chúng. Hơn nữa, khả năng phi thường này không bị bó hẹp trong những giáo lý của một truyền thống riêng biệt nào ; tính cách chiết trung của Khyentse Rinpoche đến nỗi, dù ngài đi đâu, ngài cũng có thể ngồi xuống trong một trung tâm tu viện thuộc bất kỳ truyền thống nào và giảng dạy chính xác theo dòng phái riêng biệt đó.

Tháng Chín năm 1991, khi bản dịch này ở vào những giai đoạn sửa soạn cuối cùng, cuộc đời phi thường của Dilgo Khyentse đến chỗ kết thúc. Ngài thọ tám mươi mốt tuổi (Giờ đây, ngài đã tái sanh trở lại vào ngày 30 tháng 6 năm 1993, ngày sinh nhật của đức Liên Hoa Sanh và hiện ở tại Dharam-sala – chú thích thêm của bản dịch Việt ngữ). Từ tuổi nhỏ, toàn bộ cuộc đời của ngài đã được tiêu dùng trong nghiên cứu, thực hành và giảng dạy. Bất kỳ lúc nào, ngày hay đêm, ngài cũng ở trong một dòng không đứt đoạn và như nhau của lòng tốt, hài hước, trí huệ và nghiêm trang, mọi cố gắng của ngài đều hướng đến sự giữ gìn và diễn đạt tất cả những hình thức của giáo lý Phật giáo, về điều này, không nghi ngờ gì, ngài là một trong những vị xiển dương vĩ đại nhất của thời hiện đại.

Trong thời trẻ, Khyentse Rinpoche đã sống và đã thực hành nhiều giống như Patrul Rinpoche, trong những núi non và nơi hoang dã. Cuộc đời về sau của ngài được đóng vai để chống lại một số lớn những giả dối phù phiếm, nhưng ngài không bao giờ mất đi phong cách giản dị rốt ráo của mình. Cả hai bậc thầy lỗi lạc này rõ ràng chia xẻ với nhau đường lối không khoan nhượng trong đó các ngài sống và thở những giáo lý. Vượt khỏi mọi bối cảnh văn hóa riêng biệt, cả hai có khả năng truyền đạt cảm hứng cho mọi người để tự vấn nạn một cách sâu xa những chọn lựa của họ trong cuộc sống, và rồi kinh nghiệm thực hành phong phú và trí huệ bao la để hướng dẫn họ tìm thấy con đường thực hành chân chính những giáo lý của chính họ.

Những vấn đề mà chúng ta chạm mặt trong cuốn sách này cũng tươi mới và hiện đại như bao giờ. Chính Khyentse Rinpoche đã chọn bài dạy này để xuất bản như là một bản văn nó có thể gây cảm hứng cho bất kỳ ai để suy nghĩ về cuộc đời mình và nó đồng thời trao tặng một cái nhìn toàn bộ về quan điểm và thực hành của ba thừa vĩ đại của Phật pháp. Những câu kệ tươi mát và xuyên thấu của Patrul Rinpoche, cùng với những bình giải rõ ràng và thực tế của Khyentse Rinpoche, tạo thành một toàn thể súc tích toàn vẹn một cách lạ lùng.

Chính trong tinh thần kiên cường của hai vị thầy này mà giáo lý được luận giải như một cái gì để được sống trọn vẹn, một hơi thở không dứt không khí tươi mát và mới mẻ, một đường lối để chứng nghiệm sự vật như chúng thực là, mà chúng tôi vui mừng đem cho xuất bản với hy vọng rằng những độc giả sẽ tìm thấy trong đó sự liên quan và cảm hứng – và thực sự đặt nó trong lòng.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
LỜI CÁM ƠN CỦA NHỮNG DỊCH GIẢ​

Thuận theo mệnh lệnh tôn quý của Đức Dalai Lama thứ mười bốn và của Thượng Tọa Doboom Rinpoche, đức Dilgo Khyentse Rinpoche đã ban cho những lời dạy này ở Nhà Tây Tạng, Tân Delhi, vào tháng Hai năm 1984. Về sau, trong dịp trì tụng một trăm triệu thần chú manÏi vào tháng Tư năm 1986 ở Tu viện Shechen Tennyi Dangyeling xứ Nepal, và lại nữa vào tháng Bảy năm 1986 trong sửa soạn cho cuộc ẩn tu ba năm lần thứ ba ở Dordogne, Pháp, đức ngài ban thêm những lời chỉ dạy về cùng bản văn ấy, chúng cũng được gồm trong cuốn sách này.
Những thành viên của Nhóm Dịch Thuật Padmakara làm việc cho bản văn này gồm Košnchog Tenzin và John Canti, những dịch giả ; và Micheal Friedman, Charles Hastings, Mari-lyn Silverstone, Daniel Staffler và Phyllis Taylor, những người biên tập.

Chúng tôi rất biết ơn Thượng Tọa Doboom Rinpoche đã cho phép sử dụng nguyên bản của những lời dạy này, xuất hiện trong Tinh Túy của Phật giáo (Tân Delhi : Nhà Tây Tạng, 1986).

Chúng tôi cũng muốn mở rộng sự cám ơn chân thành nhất của chúng tôi đến Košnchog Lhadrepa, người lo về bìa, và đến những người đã tốt lòng đóng góp vào việc ghi chép và đánh máy bản văn này : Christine Fondecave, Suzan Foster đã quá cố, John Petit, Anne Munk và S. Lhamo.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
DẪN NHẬP​

Động Cơ Chân Chánh để Nhận Lãnh
và Nghiên Cứu những Lời Dạy


Tất cả vô số chúng sanh khắp pháp giới, mỗi một ai, dầu xuống đến con côn trùng bé nhất, đều chỉ muốn được hạnh phúc và không khổ đau. Nhưng không ai trong họ hiểu rằng trong cuộc tìm cầu hạnh phúc của họ, hạnh phúc chỉ đến từ hành động tốt ; và không ai trong họ có thể thấy rằng trong những cố gắng để trốn thoát khổ đau của mình, cái đem lại khổ đau cho họ là những hành động xấu. Bởi thế, một cách vô ý thức, họ xoay lưng lại với hạnh phúc và phóng mình vào khổ đau.

Mong mỏi hạnh phúc mà không từ bỏ hành động xấu thì cũng giống như đưa tay vào lửa mà hy vọng không bị cháy bỏng. Dĩ nhiên, không ai thực sự muốn khổ đau, bệnh tật, lạnh hay đói – nhưng chừng nào chúng ta còn buông thả trong ác hạnh chúng ta sẽ không bao giờ chấm dứt được khổ. Tương tự, chúng ta sẽ không bao giờ thành tựu hạnh phúc trừ phi qua những hành vi, lời nói và tư tưởng tốt. Hành động tốt là cái gì chúng ta cần tự trau dồi ; nó không thể mua hay lấy trộm, và không ai ngẫu nhiên may mắn gặp nó.

Bất cứ cái gì chúng ta làm đều là sự sử dụng của thân, ngữ và tâm thức. Trong ba cái này, nếu chỉ có thân và ngữ thì không thể phát động ra hoạt động nào ; chính ¬tâm thức quyết định mọi thứ chúng ta làm và nói. Tâm thức, nếu chúng ta thả lỏng nó, sẽ tiếp tục làm khởi sanh càng nhiều hành động xấu, và đấy là vì sao tất cả chúng ta cứ lang thang vô số đời kiếp trong sanh tử.(1)

Trong mỗi đời trong vô số đời sanh tử từ vô thủy này chúng ta phải có cha mẹ. Thật vậy, chúng sanh đã sanh từ thời này qua thời khác nhiều đến nỗi mỗi một chúng sanh(2) phải đã từng là mẹ hay cha của chúng ta. Khi chúng ta nghĩ đến tất cả những chúng sanh này, họ đã là cha mẹ của chúng ta đang lang thang không ai giúp đỡ đã lâu trong sanh tử, như một người mù lạc mất đường, chúng ta chỉ có thể cảm thấy thương xót họ vô vàn. Tuy nhiên lòng bi mẫn tự nó thì không đủ ; họ cần được giúp đỡ thật sự. Nhưng chừng nào tâm thức chúng ta còn bị giới hạn bởi tham chấp, thì sự việc cho họ thức ăn, áo quần, tiền bạc hay thương mến chỉ đem đến cho họ một hạnh phúc giới hạn tạm thời. Điều chúng ta phải làm là tìm kiếm một cách thức nào để giải thoát họ khỏi khổ đau. Việc này chỉ có thể xảy ra bằng cách đem những lời dạy của Pháp(3) vào thực hành.

Bởi thế, trước khi nhận lãnh những giáo lý quý báu, trước tiên chúng ta làm sanh khởi động lực thích đáng, đó là nghiên cứu và thực hành không chỉ vì chúng ta mà trước hết để giải thoát tất cả chúng sanh khỏi biển cả sanh tử và đưa họ đến giác ngộ hoàn toàn. Đây là thái độ rộng lớn và hoàn hảo của Bồ đề tâm.

Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.

Phương diện thứ nhất là lòng bi bình đẳng hướng đến tất cả chúng sanh, không phân biệt giữa những ai là bạn, những ai là thù. Với lòng bi này thường trực trong tâm, chúng ta nên thực hiện mọi hành động tốt, dù chỉ dâng một ngọn đèn hay trì tụng chỉ một thần chú, với ước nguyện nó có thể làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh không sót một ai.

Tuy nhiên, để thực sự giúp đỡ tất cả chúng sanh, thì cảm thấy bi mẫn với họ là không đủ. Một câu chuyện thường được kể để minh họa điều này nói rằng một người mẹ hai cánh tay bị tê liệt không làm gì được khi trông chừng đứa con bà khỏi bị dòng sông cuốn trôi ; dầu lòng thương xót tràn ngập, bà không thể nào cứu con bà khỏi bị chết đuối. Bất cứ cái gì phải làm để cứu thoát chúng sanh khỏi khổ và đưa họ đến giác ngộ, chúng ta phải thực sự làm. Chúng ta cần hiểu rằng chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một đức Phật đến và dạy Pháp, và chúng ta đã gặp một vị thầy tâm linh và nhận những giáo huấn của ngài. Bây giờ là lúc chúng ta phải dùng cuộc đời làm người quý báu này để tiến bộ trên con đường giải thoát.

Có nói, “Đời người có thể dẫn bạn đến giác ngộ ; đời người có thể đưa bạn đến địa ngục.” Dựa vào động lực và hướng đi của chúng ta, chúng ta có thể thành những thánh nhân vĩ đại và đạt đến Phật tánh, hay chúng ta cũng có thể trở nên rất xấu xa và khi chết thì đi thẳng vào địa ngục. Những giáo lý của Pháp cho phép chúng ta phân biệt hai hướng đi này, chỉ rõ cho chúng ta điều cần làm và điều cần tránh.

Hiện giờ chúng ta thiếu rất nhiều khả năng giúp đỡ những người khác. Nhưng nếu việc gì chúng ta làm đều được điều động bởi ý muốn làm giảm nhẹ sự khổ đau của họ, ước vọng thường trực này cuối cùng sẽ thành tựu. Động lực dẫn vào kinh những năng lực của những hành động của chúng ta, như là một kinh dẫn nước đem nước đi đến nơi nào cần. Mọi sự đều tùy thuộc vào động lực của chúng ta. Nếu tất cả điều chúng ta muốn là một đời sống thọ và giàu, thì cùng lắm chúng ta chỉ thành tựu được tương tự như thế ; nhưng nếu chúng ta khát khao giải thoát tất cả chúng sanh thoát hẳn sanh tử, cuối cùng chúng ta sẽ có thể hoàn thành ý định cao cả nhất đó. Bởi thế rất quan trọng là không hướng nguyện vọng của mình vào những mục tiêu thấp hơn.

Một lần, một người mẹ và đứa con nhỏ vượt qua một dòng sông rộng và chảy mạnh trong một chiếc thuyền nhỏ. Giữa dòng, sức chảy mạnh đến nỗi thuyền sắp lật úp. Cảm thấy tai họa sắp đến, người mẹ nghĩ “Mong cho con tôi được cứu thoát !” trong khi ấy, đứa con cũng nghĩ “Mong cho mẹ tôi được cứu thoát !” Dù thuyền chìm và cả hai chết đuối, năng lực và sự trong sạch của những mong muốn của họ khiến cho cả mẹ và con đều được tức thì tái sanh trong cõi Phật.(4)

Phương diện thứ hai của Bồ đề tâm, phương diện nhắm vào trí huệ, là sự chứng ngộ tánh Không để thành tựu giác ngộ vì lợi lạc cho những người khác. Hai Bồ đề tâm này – phương diện thiện xảo của đại bi và trí huệ của tánh Không – không bao giờ tách rời nhau. Chúng giống như hai cánh của một con chim, cả hai đều cần thiết để chim bay ; các bạn không thể thành tựu giác ngộ chỉ bằng đại bi, cũng không thể bằng chỉ sự chứng ngộ tánh Không.

Làm một điều gì đức hạnh với một động cơ tầm thường chắc chắn sẽ đem lại cho chúng ta một số hạnh phúc, nhưng chỉ là nhất thời. Hạnh phúc ấy sớm qua đi, và cuộc lạc lõng vô vọng trong sanh tử của chúng ta sẽ tiếp tục. Nếu mặt khác, mọi thứ chúng ta làm, nói và nghĩ được chuyển hóa bởi Bồ đề tâm, hạnh phúc của chúng ta sẽ tiếp tục và tăng trưởng không hề cạn kiệt. Kết quả của những hành động được vận hành bởi Bồ đề tâm, khác với những hành động tốt được làm do những động lực kém cao cả, không bao giờ có thể bị hủy diệt bởi sân hận hay những tình thức tiêu cực khác.

Bởi thế, bất cứ việc gì chúng ta làm, chính tâm thức là cái quan trọng nhất. Đấy là tại sao những giáo lý Phật giáo tập trung vào sự hoàn thiện hóa tâm thức. Tâm là vua, còn thân và ngữ là những hầu cận phải làm theo mệnh lệnh của nó. Chính cái tâm nảy sinh ra niềm tin và cái tâm sinh ra nghi ngờ ; chính cái tâm khởi phát tình thương và cái tâm tạo ra thù hận.

Thế nên hãy nhìn vào bên trong và xét nghiệm động cơ của các bạn, vì nó là cái định đoạt điều bạn làm là tốt hay xấu. Tâm thức giống như một viên pha lê trong suốt nhận lấy màu của tấm vải nào nó đặt lên – vàng trên vải màu vàng, xanh trên vải màu xanh... Cũng thế, thái độ của các bạn nhuộm màu cho tâm thức, và thái độ đó xác định tính chất thật sự của những hành động của các bạn, bất kể chúng có vẻ như thế nào. Bản chất của tâm thức này không phải là cái gì xa xôi và không thể hiểu ; nó luôn luôn trực tiếp hiện diện. Tuy nhiên, nếu các bạn nhìn vào xem nó là gì, các bạn không tìm thấy cái gì là đỏ, vàng, xanh, trắng hay lục ; nó không vuông hay tròn, cũng không có hình dáng như một con chim hay một con khỉ, hay cái gì khác. Tâm chỉ đơn giản là cái tưởng ra và ghi nhớ vô số tư tưởng. Nếu dòng những tư tưởng là đức hạnh, tức là các bạn đã thuần hóa tâm thức ; nếu nó là xấu, tức là bạn đã không thuần hóa.

Thuần hóa tâm thức và làm cho nó thành tốt, tích cực cần phải có sự kiên trì. Chớ có nghĩ, “Phật đã giác ngộ hoàn toàn, và Quán Thế Âm(5) là hiện thân thực sự của đại bi ; nhưng làm sao một người tầm thường như tôi có thể giúp đỡ những người khác ?” Chớ ngã lòng. Khi động lực của các bạn càng ngày càng rộng lớn, khả năng của các bạn cho hành động tốt cũng sẽ lớn rộng theo. Các bạn có thể không có khả năng như Quán Thế Âm ngay bây giờ, nhưng cách phát triển nó là sự thực hành Pháp. Nếu các bạn duy trì ý muốn thường trực làm lợi lạc cho những người khác, năng lực để hiện thực hóa điều đó sẽ tự đến, cũng tự nhiên như nước chảy xuống chỗ thấp.

Mọi sự khó khăn đến từ việc không nghĩ đến những người khác. Bất cứ điều gì bạn làm, hãy thường trực nhìn vào tấm gương của tâm bạn và xem xét động lực của các bạn là vì mình hay vì người khác. Dần dần các bạn sẽ phát triển khả năng làm chủ tâm thức các bạn trong mọi trường hợp ; và bằng cách đi theo những bước chân của những bậc thầy đã thành tựu của quá khứ, các bạn sẽ đạt đến giác ngộ trong chỉ một đời. Một tâm thức tốt giống như một miếng đất có nhiều vàng lấp lánh, chiếu sáng cả bầu trời với ánh sáng vàng chói. Nhưng nếu thân, ngữ và tâm thức không được tu hành, rất ít cơ may bạn có thể thành tựu được bất cứ chứng ngộ nào. Hãy tỉnh giác với những tư tưởng, lời nói và hành động của các bạn trong mọi lúc. Nếu chúng đi lạc hướng, sự nghiên cứu và thực hành Pháp của các bạn sẽ không ích lợi gì.

Sanh tử là hoàn cảnh của những chúng sanh kéo dài nỗi khổ của mình do hành động dưới ảnh hưởng của những thức tình che ám ; niết bàn là trạng thái vượt khỏi mọi khổ não, hay nói cách khác, là Phật tánh. Nếu chúng ta để cho tâm thức theo mọi vọng tưởng tiêu cực của nó, dĩ nhiên nó sẽ đi vào con đường sanh tử. Giờ đây chúng ta đang ở ngã tư đường. Chúng ta đã có phước được sanh làm một con người trong một thế giới nơi có một vị Phật đã đến và dạy Pháp ; chúng ta đã gặp một vị thầy có thể truyền Pháp cho chúng ta, và chúng ta đã nhận sự chỉ dạy của vị thầy ; và về thể chất và tinh thần, chúng ta có khả năng đưa những lời dạy ấy vào thực hành. Bởi thế giờ đây là lúc chúng ta quyết định : Chúng ta có bước lên con đường giải thoát với sự cương quyết đưa tất cả chúng sanh đến mức độ tối thượng của giác ngộ không ? Hay chúng ta sẽ đi xuống sâu hơn vào mê cung của sanh tử rất khó thoát ra khỏi ?
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
Làm thế nào để Nghiên Cứu những Lời Dạy này ?

Nhờ những lời dạy của Pháp chúng ta có thể đem tất cả chúng sanh đến Phật tánh viên mãn. Bởi thế, khi chúng ta nhận những lời dạy này, cần yếu là chúng ta thoát khỏi những hậu quả của thói quen chúng ngăn chặn chúng ta không hiểu được rõ ràng – ba khuyết điểm, sáu cái dơ nhiễm, và năm cách sai lầm khi giữ lại những lời dạy.(6) Nếu khác đi, nghiên cứu bản văn này chỉ là mất thì giờ. Xin hãy chuyên tâm vào lời dạy ở sau với một chánh niệm hoàn hảo và áp dụng sáu cái hoàn thiện.(7)

Những Lời Dạy này chứa đựng điều gì ?

Lời dạy chúng ta sẽ nghiên cứu ở đây có tên là Bài Giảng Đức Hạnh trong lúc Bắt Đầu, lúc Giữa, và lúc Kết Thúc. Nó cũng có tên phụ thêm là Sự Thực Hành Cái Thấy, Thiền Định và Hành Động, Là Kho Tàng Tâm của các Bậc Giác Ngộ. Bản văn này được Dza Patrul Rinpoche, Orgyen Jigme Choškyi Wangpo viết ra, ngài là một hóa thân của Đại Bồ tát Shanti-deva.(8) Suốt đời, Patrul Rinpoche biểu lộ một giới hạnh không lỗi lầm, lòng bi không giới hạn, hiểu biết sâu xa và một sự từ bỏ toàn triệt những quan tâm thường tục của thế gian.

Tất cả những giáo huấn sâu và rộng do đức Phật dạy với sự khéo léo hoàn hảo và lòng bi bao la của ngài, được kết tập trong Ba Tạng.(9) Những lời dạy này được giải thích trong Luận,(10) những bản văn không do chính đức Phật tạo ra mà do những thế hệ đạo sư Phật giáo kế tiếp nhau sau đó – những pandita của Ấn Độ và những hiền triết bác học và thành tựu của Tây Tạng. Bản văn này của Patrul Rinpoche là một kiểu mẫu của một luận, hay bình giải.

Tất cả những giáo lý Phật giáo khác nhau đều cuối cùng dẫn đến giải thoát. Sự khác biệt và con số lớn lao của chúng phản ánh những khả năng và khuynh hướng sai biệt đa thù của những hành giả. Bài Giảng Đức Hạnh trong lúc Bắt Đầu, lúc Giữa và lúc Kết Thúc được tạo theo một cách dễ dàng đặc biệt để hiểu và thực hành ; tuy nhiên nó chứa đựng tinh yếu của những giáo lý Tiểu thừa và Đại thừa(11) trong toàn bộ.

Như truyền thống, lời dạy này được chia làm ba phần : nhập đề, phần chính và phần kết luận. Mỗi phần tập trung vào một chủ đề đặc biệt. Phần thứ nhất nói đến những đường lối hư hỏng và sự khổ sở mãnh liệt của chúng sanh trong thời đại tối tăm ; phần hai đến cái thấy (tri kiến), thiền định và hành động (hạnh) của Kinh thừa và Mật thừa(12) ; và phần ba đến giải thoát khỏi những mối bận tâm thế gian.

Phần thứ nhất cổ vũ chúng ta suy nghĩ về những khuyết điểm của chúng ta và những hậu quả của cuộc đời trong sanh tử. Qua phần này chúng ta sẽ nhận ra sự tự lừa dối của mình và sự tự lừa dối của những người khác, chúng là tính cách của những nỗ lực của chúng ta trong công việc và là tính cách của những hoạt động vị kỷ của những người khác, cũng như chúng ta họ bị giam nhốt trong thích và không thích, luyến ái với bạn bè và ghét bỏ với kẻ thù. Thấy ra sự vô nghĩa biết bao trong mọi thứ đó, tự nhiên chúng ta mệt mỏi chán ngán và bắt đầu cảm thấy một ước ao giải thoát khỏi tất cả chúng. Quyết tâm này để giải thoát là nền tảng của mọi sự thực hành Pháp, bởi vì chỉ khi chúng ta hoàn toàn nhận ra cái gì là sai lầm trong sanh tử chúng ta mới cảm thấy sự khẩn thiết không cưỡng lại nổi hiến mình trọn vẹn cho sự thực hành.

Trong lần chuyển bánh xe Pháp thứ nhất, đức Phật dạy rằng không có gì ngoài khổ đau trong sanh tử. Đây là cái đầu tiên của Bốn Chân Lý Cao Cả.(13) Mọi chúng sanh đang cố gắng tìm cầu hạnh phúc, nhưng vì vô minh của họ, cái họ đang làm là ngược lại với cái thực sự đưa lại hạnh phúc cho họ. Họ không hiểu rằng hạnh phúc thực sự chỉ đến từ sự thực hiện Pháp, và họ bị lọt vào những tham đắm và ghét bỏ tạo ra từ tâm thức của họ. Vướng mắc vào mạng lưới lầm lẫn vọng tưởng, họ lần mò từ khổ này đến khổ khác không ngừng nghỉ.

Thời đại này được biết như là thời thoái hóa,(14) hay là thời đại cặn bã, vì nó chỉ chứa những cặn bã của những phẩm tính và những hoàn thiện của thời hoàng kim vĩ đại của quá khứ xa xôi. Người của ngày nay quay lưng với những lời dạy của đức Phật, và chỉ có một số rất ít những người vĩ đại thực sự sống tùy thuận với Pháp. Ai ai cũng khao khát một cách tuyệt vọng hạnh phúc, nhưng những quan kiến và lối sống đang thịnh hành của thời đại chúng ta chỉ dẫn đến nhiều khổ đau hơn nữa.

Sự thống khổ của ba cõi thấp thì quá lớn lao đến nỗi chúng ta cũng khó tưởng tượng ra. Trong những cõi địa ngục, chúng sanh bị hành hạ bởi nóng và lạnh làm cho hấp hối ; trong những cõi quỷ đói, bởi đói và khát không thể hình dung. Những thú vật, trong sự ngu dốt mù lòa, bị bắt làm nô lệ và khai thác hay hành hạ bởi sợ hãi. Dầu chúng ta không thể hiểu trọn vẹn những gì chúng sanh trong những cõi ấy trải nghiệm, ít ra tại sao chúng ta không nghĩ về khổ mà những hành động của chúng ta gây ra trong cuộc đời đang sống này ?

Như những vị thầy vĩ đại phái Kadam thường nói, “Lời dạy tốt nhất trong tất cả là lời dạy soi sáng vào những lỗi lầm còn chưa thấy của chúng ta.” Trước tiên chúng ta phải nhận thức rằng sanh tử luân hồi này không có gì ngoài khổ đau. Bấy giờ, nhận ra những sai lầm của chúng ta, chúng ta có thể tìm kiếm đâu là nguyên nhân. Nguyên nhân gốc rễ của khổ là vô minh, và nguyên nhân gốc rễ của vô minh là sự tin tưởng sai lầm vào một cái “tôi”. Như Chandrakirti(15) vinh quang đã nói :

Đầu tiên tưởng tượng ra một cái Tôi, chúng ta bám vào một bản ngã.
Rồi vọng tưởng ra một cái của tôi, chúng ta bám vào một thế giới bên ngoài.
Như nước trong guồng bánh xe quay nước, chúng ta quay vòng một cách vô vọng ;
Con kính lạy lòng đại bi khởi ra cho tất cả chúng sanh.

Bám chấp vào thân tôi, tâm tôi, và tên tuổi tôi, chúng ta cố gắng xua đuổi cái gì không thích và chụp bắt cái gì mình thích. Đây là tiến trình căn bản của bám chấp, và cái ta là gốc rễ thực sự của khổ đau.

Bằng cách làm cho chúng ta suy nghĩ con người cư xử như thế nào trong thời đại suy thoái này, phần đầu có ý định làm rõ sự hiểu biết của chúng ta về sanh tử và gợi ra trong chúng ta một sự buồn chán sâu xa với nó. Điều này cho chúng ta một động lực mạnh mẽ để giải thoát chúng ta khỏi những khuôn khổ thói quen và vô minh chúng kéo dài nỗi khổ. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ, tự bản thân động lực thì không đủ. Bấy giờ điều chúng ta cần là biết làm thế nào để chúng ta có thể thực sự thoát khỏi sanh tử – nói cách khác, làm sao chúng ta có thể thực hành Pháp.

Phần hai giải thích Pháp, cái đối trị với mọi sai lầm của sanh tử, được đưa vào thực hành như thế nào. Nó giải thích cái thấy, thiền định và hành động của Đại thừa, cái này tạo thành cốt lõi của những lời dạy của đức Phật. Qua thực hành những lời chỉ dạy này, những che chướng và nghiệp tạo ra từ những hành động sai lầm của chúng ta trong quá khứ sẽ được tịnh hóa, và mọi phẩm tính của giải thoát và giác ngộ tiềm ẩn nội tại trong chúng ta sẽ hiển lộ. Trong bản văn này, những chỉ dạy được đưa ra trong bối cảnh đặc biệt của thiền định về Quán Thế Âm, vị Phật của lòng Đại Bi.

Trước hết, tuyệt đối cần thiết là thiết lập cái thấy đúng. Thiết lập cái thấy nghĩa là nắm được sự chắc chắn hoàn toàn về chân lý tuyệt đối, đó là thế giới hiện tượng, dù rõ ràng có xuất hiện và đang vận hành, thì không có một thực tại tối hậu nào. Cái thấy tất cả những hiện tượng tuy xuất hiện nhưng trống không là hạt giống từ đó quả trọn vẹn của giác ngộ sẽ lớn lên. Bước đầu tiên trong thiết lập cái thấy là nắm được sự hiểu biết đúng về những lời dạy về cái thấy ấy. Bây giờ, đem cái thấy vào kinh nghiệm bên trong của chúng ta, chúng ta đưa nó vào thực hành trở đi trở lại càng lúc càng hơn ; đây là thiền định. Duy trì kinh nghiệm chúng ta về cái thấy trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh là hành động (hạnh). Qua sự kết hợp thường trực của ba cái này – cái thấy, thiền định và hành động – quả của sự thực hành Pháp sẽ chín trọn vẹn. Như câu nói, “Khi sữa được quậy cẩn thận, bơ được tạo thành.”

Những kết quả của thực hành là gì ? Hòa nhã và tự chế là những chỉ dẫn của sự thông hiểu ; thoát khỏi những cảm xúc tối tăm, là dấu hiệu của thiền định. Những cái này và mọi phẩm tính tâm linh của giải thoát sẽ bắt rễ trong hiện thể của chúng ta và sẽ được hiển lộ không phải cố gắng trong những hoạt động của chúng ta. Thiết lập cái thấy thì giống như nhận ra những phẩm tính và sự ích dụng của một dụng cụ đặc biệt. Thiền định giống như mua dụng cụ ấy, sở đắc nó và học cách sử dụng nó. Hành động giống như đưa nó vào sự sử dụng khéo léo trong tất cả mọi thời. Quả tương đương với những công việc được hoàn thành hay những sản phẩm hoàn tất đến từ sự sử dụng nó.

Phần ba của bản văn chỉ ra những kết quả của thực hành biểu lộ như thế nào trong đời sống hàng ngày thoát khỏi sự bận tâm với những chuyện thế gian và trong sự hòa hợp với những giáo lý. Khi chúng ta khai triển một cảm giác ghê sợ đối với sanh tử, vượt qua vọng tưởng rằng sanh tử sẽ đem lại hạnh phúc, và trầm mình vào sự thực hành Pháp, một cảm thức lớn dần của tự do sẽ tự nhiên sanh ra : chúng ta không còn bị lôi kéo đến những sự vật gây ra khổ đau. Chỉ bằng xoay tâm thức khỏi những mục tiêu thế gian và khai triển một quyết định chân thật phải giải thoát mà mục tiêu giải thoát có thể được đạt đến.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
NHỮNG BÀI KỆ MỞ ĐẦU​

Kính lễ

Bản văn mở đầu với sự kính lễ :

NAMO LOKESHVARAYA

Câu tiếng Sanskrit này nghĩa là “Con kính lễ Bậc Tối Cao của Vũ Trụ”, chỉ Đại Bồ tát Quán Thế Âm, hay Chenrezi.

Đại bi khắp vũ trụ của Quán Thế Âm bao trùm mọi chúng sanh, từ người bình thường đến vua chúa, từ Thanh Văn và Bích Chi Phật đến Bồ tát trong mười địa.(16) Quán Thế Âm hiện thân của lòng đại bi không tách lìa với cảnh giới bao la của tâm Phật. Lòng bi có một vị trí trung tâm trong giáo lý Phật bởi vì chính từ lòng bi mà tất cả sự rộng lớn và sâu xa của con đường Bồ tát sanh khởi ; lòng bi là bản thân tâm giác ngộ. Trong phương diện tương đối, Quán Thế Âm xuất hiện trong vũ trụ vì tất cả chúng sanh trong hình thể một Đại Bồ tát của địa thứ mười, một người con ruột của tất cả chư Phật. Trong phương diện tuyệt đối, ngài chính là nền tảng từ đó xuất sanh tất cả chư Phật và các cõi Phật của chư Phật, cũng như tất cả chuyển luân vương của kiếp này. Bởi thế ngài được biết như là Bậc Tối Cao của Vũ Trụ, nghĩa là ngài không chỉ là một vị vua trong nghĩa thông thường mà là Vua của Pháp, bậc tối cao của trí huệ và đại bi, hoàn toàn giải thoát khỏi ba cõi sanh tử,(17) vĩnh viễn vượt ngoài sự chạm đến của sanh, già, bệnh, chết. Để gặp gỡ mọi nhu cầu của chúng sanh, ngài biểu lộ trong vô số hình thể, từ những bậc cai trị thế giới đến người dân thường và thú vật. Ngài tiêu biểu cho sự giải thoát hoàn hảo hồi hướng về phúc lợi của tất cả.

Đây là tại sao dòng mở đầu để dành cho sự kính lễ Quán Thế Âm, với sự sùng mộ không bờ. Rồi tiếp theo một sự kính lễ mở rộng hơn :

1. Nếu như chỉ một giọt cam lồ của danh hiệu ngài lọt vào tai tôi,
Chúng sẽ ngập đầy âm thanh của Pháp cho vô số kiếp.
Tam Bảo thần diệu, nguyện sự sáng chói của danh ngài
Đem đến hạnh phúc hoàn hảo cho khắp cả !

Ở đây, sự kính lễ mở rộng đến Tam Bảo : Phật, Pháp và Tăng. Những danh hiệu của Tam Bảo, cực kỳ dễ nói lên, tuy nhiên có năng lực vô biên để ban phước cho chúng sanh và giải thoát họ khỏi sanh tử. Những danh hiệu này giống như nước cam lồ của sự bất tử, amrita, chỉ một giọt cũng có thể làm dịu những thống khổ của sanh tử. Chỉ nghe được chúng là đã gieo trồng trong chúng ta hạt giống của giải thoát và bảo đảm một sự tái sanh vào một nơi có Phật pháp được chỉ dạy và ở đó sự tiến bộ đến giác ngộ là khả thi.

Chúng ta phải xem Phật là vị thầy, Pháp là con đường, và Tăng là những bạn đồng hành trên con đường.

Ở cấp độ tuyệt đối, Pháp thân, tâm của Phật là cảnh giới bao la của toàn trí, nó biết mọi sự đúng như chúng là. Ở cấp độ Báo thân, siêu vượt khỏi sanh tử, lời của Phật tương tục thuyết pháp. Ở cấp độ Hóa thân, có thể thấy biết được cho những người bình thường như chúng ta, thân của Phật mang hình tướng là Phật Thích Ca Mâu Ni, vị thứ tư trong một ngàn vị Phật xuất hiện trong kiếp này.

Phật Thích Ca Mâu Ni sinh tại Ấn Độ như là hoàng tử Siddhartha của Vua Shuddhodana và hoàng hậu Mahamaya thuộc giai cấp Shakya. Khi còn trẻ, ngài hưởng những thú vui của cuộc đời một hoàng tử, nhưng về sau ngài từ bỏ những quan tâm thế gian và hiến mình thực hành khổ hạnh trong sáu năm. Cuối cùng, từ bỏ ngay cả những khổ hạnh này, ngài thành tựu giác ngộ trọn vẹn dưới cội cây bồ đề ở Vajrasana.(18) Trong bốn mươi năm ngài dạy Pháp cho sự lợi lạc của chúng sanh. Sau chót, khi phước lành của họ đã cạn kiệt, ngài đi vào đại thanh bình của đại niết bàn.(19)

Qua năng lực của toàn giác, đức Phật thấy rõ những tính khí và khuynh hướng khác biệt nơi những người ngài chỉ dạy. Để cho mỗi người một phương cách đạt đến giác ngộ, ngài chỉ bày tám mươi bốn ngàn phần khác nhau của Pháp. Giáo lý này, Pháp, là Viên Ngọc Quý thứ hai.

Ba chu kỳ chỉ dạy của ngài được biết như là ba lần chuyển bánh xe Pháp. Trong lần chuyển bánh xe Pháp thứ nhất, ngài dạy Bốn Chân Lý Cao Cả chung cho cả Tiểu thừa và Đại thừa. Trong lần thứ hai ở Rajagriha hay Núi Linh Thứu, ngài trình bày những giáo lý Đại thừa về chân lý tuyệt đối – chân lý không có những tính chất và vượt khỏi phạm trù ý niệm. Những giáo lý này được chứa đựng trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật trong Một Trăm Ngàn Bài Kệ. Lần chuyển bánh xe Pháp thứ ba, ở những thời điểm và nơi chốn khác biệt, được dành cho những giáo lý tối hậu của Kim Cương thừa.

Pháp gồm có Pháp Trao Truyền và Pháp Thực Chứng. Pháp Trao Truyền là lời của Phật được kết tập thành Ba Tạng : Luật, Kinh và Luận. Pháp Thực Chứng là sự chứng ngộ thực sự những giáo lý này, được tu hành qua giới, định và huệ.

Viên Ngọc Quý thứ ba là Tăng, dịch ra tiếng Tây Tạng là Gendun có nghĩa đen là “cộng đồng đức hạnh”. Theo truyền thống những Bồ tát là Tăng già của Đại thừa, và những Thanh Văn và Bích Chi Phật là Tăng già của Tiểu thừa. Tuy nhiên, nói chung, tất cả những người nghe Pháp, suy nghĩ về nó, và thiền định về nó tạo nên Tăng già.

Tam Bảo là chỗ quy y tối thượng và tạo thành nền tảng của mọi thực hành Pháp. Kính lễ Tam Bảo là đồng thời kính lễ tất cả các bậc thầy, chư Phật và chư Bồ tát.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
Động lực của Tác Giả trong việc Biên Soạn Bản Văn Này​

Bởi vì chính Patrul Rinpoche xem Tam Bảo là vị thầy tối thượng của mình, tâm ngài hoàn toàn thấm nhuần Pháp, và ngài sống một cuộc đời hoàn toàn thanh tịnh. Bởi thế những lời dạy của ngài hoàn toàn thanh tịnh và xác thực, và bản văn này ngài tạo ra từ lòng bi tròn đầy, không chút kiêu căng hay ngạo mạn. Tuy nhiên ngài nói với sự khiêm hạ lớn lao :

2. Giống như vài quả hồng vàng trong mùa thu
Chúng dù bên trong chưa chín, mà bên ngoài thấy chín vàng,
Bản thân tôi chỉ có vẻ giống như một người thực hành Pháp,
Và bởi vì tâm tôi và Pháp chưa hòa lẫn, sự giảng dạy Pháp của tôi chẳng đáng gì nhiều.

Khi hè chuyển sang thu, những quả hồng vàng có những độ chín khác nhau. Một số quả hồng vàng thấy đã chín, nhưng bên trong chúng còn xanh. Chúng giống như những người làm ra vẻ những hành giả kiểu mẫu nhưng đầy những tư tưởng độc hại, thật ra họ bận tâm với việc tích tập giàu có, thực hiện những lễ lạc thôn làng và gây danh tiếng cho bản thân mình.

Ngược lại, những quả khác trông thì xanh ở bên ngoài, nhưng bên trong đã chín. Chúng giống như những người, dù có vẻ như ngu dốt, những người khất thực tầm thường, nhưng hoàn toàn thoát khỏi những bận tâm của sanh tử, đầy đức tin, và đã thành tựu kinh nghiệm định và chứng ngộ chân thật.

Những quả hồng vàng khác, cả ngoài lẫn trong đều xanh và chưa chín. Chúng giống như những người chưa từng đi vào Pháp, không biết gì về nó và không có niềm tin vào nó.

Cuối cùng, có vài trái hồng vàng trông đã chín và cũng thực sự chín. Chúng giống như những Đại Bồ tát, bên trong tràn đầy trí huệ và đại bi và bên ngoài trình diễn vô số cách thức để cứu giúp chúng sanh. Thật ra, không nghi ngờ gì, Patrul Rinpoche là một trong những Bồ tát hoàn hảo này. Jamyang Khyentse Wangpo(20) đã nói về ngài như thế này :

Tôi cầu nguyện ngài Jigme Choškyi Wangpo, bậc Vô Úy của Pháp ;
Bên ngoài ngài là Bồ tát Shantideva,
Bên trong ngài là đại thành tựu giả Shavaripa,
Và trong bản tánh tuyệt đối ngài là Giải Thoát Tự Nhiên Khỏi Khổ.(21)

Đây không phải là xưng tán chiếu lệ. Như câu chuyện cuộc đời ngài đã chứng tỏ, mọi sự Patrul Rinpoche nghĩ, nói và làm đều hoàn toàn tương ưng với Pháp. Thật vậy chính từ quan điểm này mà ngài có một lời từ chối khiêm nhường như thế.

Bất cứ ai muốn giảng dạy Pháp trước tiên phải biến nó thành một phần toàn vẹn của cuộc sống mình ; không tốt nếu chỉ lập lại những lời, giống như một người điếc đàn những âm điệu dầu đẹp đẽ du dương, nhưng chính người ấy lại không nghe. Để nhận những giáo lý, động lực của chúng ta phải là một nguyện vọng thành thật muốn áp dụng chúng cho chính chúng ta ; nếu chúng ta chỉ cố gắng có được một cái gì mà chúng ta có thể dạy lại cho người khác, như bài nhạc một người ăn xin chơi để xin tiền, thì sự nhận lãnh những lời dạy sẽ không ích lợi cho bản thân chúng ta cũng như cho những người khác. Cũng sai lầm khi góp nhặt kiến thức về Pháp vì danh tiếng và thế lực cho chúng ta. Như có nói, “Càng lớn kiến thức, càng nhiều kiêu mạn ; càng xa khỏi nhà, càng xa trung thực.” Làm sao chúng ta có thể giúp đỡ những người khác trước khi chúng ta đã thuần hóa những năng lực tiêu cực ẩn nấp trong bản thân chúng ta ? Đấy chỉ là một chuyện đùa, giống như một người ăn xin không có xu teng nói đến việc nuôi cả làng. Để bảo trợ cho phúc lợi thật sự của những người khác, trước tiên chúng ta phải tự hoàn thiện mình cho đến khi chúng ta có thể thi đua với Patrul Rinpoche, ngài khiêm hạ tuyên bố rằng mình chẳng có chứng ngộ nào, tuy nhiên toàn thể hiện sinh ngài thấm đẫm ý nghĩa của Pháp.

3. Nhưng vì con, người bạn xứng đáng, khăng khăng nài nỉ ta,
Ta không thể từ chối – Ta sẽ nói thẳng thắn.
Nhất là trong thời đại suy đồi này,
Ta trao tặng con những lời không lừa dối, thế nên hãy cẩn thận lắng nghe.

Nếu các bạn chỉ ra những lỗi lầm của một ai, nó sẽ trở nên hoàn toàn đảo lộn – ngay cả với con bạn hay học trò bạn. Nhưng nếu các bạn tâng bốc nó, gán cho nó những phẩm tính nó không có, thì nó sẽ thích thú. Nhưng như một châm ngôn nói, “Dù gây chấn động, tiếng sấm sét thực là âm thanh chân chánh.” Nếu người ta luôn luôn đồng ý và tâng bốc chúng ta điều ấy làm cho chúng ta cảm thấy tốt đẹp nhưng sẽ chẳng giúp gì cho chúng ta để khai triển những phẩm tính của một người thực hành Pháp. Cái thực sự giúp chúng ta nhiều nhất là chỉ ra những lỗi lầm của chúng ta và chỉ bày cách thức đúng để chúng ta xử lý với chúng. Vàng nhờ đập và nấu chảy liên tục, trở nên càng ngày càng tinh sáng. Cùng cách đó, nhờ nhận ra liên tục những lỗi lầm của chúng ta và áp dụng những giáo huấn của thầy, chúng ta sẽ có thể chuyển hóa những phẩm tính tiêu cực, xấu xa của chúng ta thành con đường giải thoát.

Khi một kẻ phá rối được nhận ra và tóm lấy, bình an trở lại trong làng ; tương tự, khi những lỗi lầm của chúng ta được một vị thầy từ ái khai quật, cho phép chúng ta nhận ra và nhổ gốc chúng, bình an trở lại thân tâm chúng ta. Ở đây, như trong tác phẩm Kunzang La-me Shelung(22) nổi tiếng của mình, Patrul Rinpoche nói một cách thẳng thắn, đánh vào cốt lõi của những khuyết điểm của chúng ta để dẫn dắt chúng ta vào đường chánh. Ngài chỉ khai thị cái tinh yếu của Pháp, vì chúng ta không cần biết nhiều chi tiết ; điều tất cả chúng ta cần là tâm của những lời dạy dẫn đến giác ngộ.

Trong những bài kệ này, Patrul Rinpoche nói rằng dù ngài không có một đại chứng ngộ nào, ít nhất nếu ngài có thể khiêu gợi trong chúng ta quyết tâm giải thoát khỏi sanh tử và kích thích một thái độ của lòng bi, thì viết ra bản văn này không phải là điều vô ích.

 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
PHẦN MỘT

NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM CỦA THỜI ĐẠI SUY THOÁI CỦA CHÚNG TA

Đã kính lễ Tam Bảo, Patrul Rinpoche bắt đầu phần thứ nhất của bản văn :

4. Bậc Rishi Chân Thật, Munindra, trời của những loài trời,
Đã đạt đến cái chân thật qua con đường chân thật,
Và chỉ bày con đường chân thật và tuyệt hảo này cho người khác.
Đấy không phải là lý do Ngài được biết như là bậc Rishi Chân Thật sao ?


Trong thời cổ ở Ấn Độ, rishi là những nhà khổ hạnh tóc dài sống ẩn cư trong rừng, tự nuôi sống bằng bất kỳ món bố thí nào, và lìa bỏ đời sống gia đình, buôn bán, trồng trọt và những hành động đời thường khác. Họ được gọi là rishi, Tây Tạng là trangsong, nghĩa là “thẳng” hay “thật”, bởi vì hạnh kiểm các ngài thì đứng thẳng và chân thật, khiến các ngài xứng đáng để kính trọng và tôn sùng.

Những rishi này, có một số là Phật giáo và một số không, khác biệt lớn lao trong mức độ thành tựu và chứng ngộ. Có một số đã thành tựu những năng lực thần thông nhờ tập trung và thiền định và được biết sống trọn vẹn một kiếp,(23) thấu thị, có thể bay dễ dàng. Nhưng ngay cả những rishi thành tựu như vậy cũng chưa cắt đứt được những phiền não che ám, và bởi thế họ còn bị thương tổn với kiêu mạn và luyến bám với lời khen và công nhận. Đức Phật, hoàng tử không ai sánh của dòng Shakya, mặt khác hoàn toàn trừ sạch chấp ngã tận gốc rễ của nó từ giây phút ngài phát khởi Bồ đề tâm.(24) Làm thế nào ngài có thể làm điều ấy ? Bởi vì ngài tìm kiếm giác ngộ chỉ vì những chúng sanh khác. Thế nên tại sao ngài được gọi là Rishi Chân Thật.

Khi một ngàn lẻ hai đức Phật cầu nguyện ước vọng làm lợi lạc cho chúng sanh, Phật Thích Ca Mâu Ni thệ nguyện cứu giúp những người của thời đại đen tối hiện tại của chúng ta. Ngài không nản lòng trước sự kiện rằng đây là thời đại của năm sự suy thoái(25) và rằng những tâm thức của chúng sanh, tối tăm bởi những phiền não thô nặng và lắc lư bởi những cơn gió mạnh của tham dục, hoang dã và khó thuần hóa. Tính cao cả của nguyện vọng này khiến trong tất cả những đức Phật của kiếp này, Phật Thích Ca Mâu Ni trổi bật như một hoa sen trắng chói sáng.

Từ giây phút Bồ đề tâm khởi lên trong tâm ngài, ngài thoát bỏ mọi dấu vết của chấp ngã và chỉ nhìn thấy sự lợi lạc của những người khác. Trong ba đại kiếp và trải qua hàng trăm đời, ngài đã tích tập công đức và giúp đỡ chúng sanh trong mọi cách có thể được với một quyết tâm và nguồn lực vô tận. Ví dụ, một lần khi còn là hoàng tử trẻ, khi đi trong rừng, ngài thấy một con cọp cái yếu vì đói đến nỗi không thể nuôi mấy cọp con. Tràn ngập bởi lòng đại bi, ngài cho nó chính thịt của mình, nhưng nó cũng không đủ sức lê đến để ăn. Ngài bèn cắt cổ tay và nuôi nó bằng chính máu của ngài ; và khi nó đã phục hồi, ngài cho nó tất cả thân thể mình để nuôi sống nó.

Qua lòng bi mẫn phi thường và sự chuyên cần không thối chuyển, cuối cùng ngài đạt được quả, giác ngộ hoàn toàn. Đi theo con đường chân thật cho đến hết đường, sự chấp ngã của ngài rốt ráo tận diệt, đức Phật giống như một mặt trời vĩ đại soi sáng toàn bộ vũ trụ cho lợi lạc của tất cả chúng sanh.

Tất cả mọi điều này ngài thực hiện chỉ vì sự tốt đẹp của những người khác, và chính qua gương mẫu toàn hảo và lời dạy không tỳ vết của ngài mà bây giờ chúng ta có dịp hòa lẫn tâm thức chúng ta với Pháp chân thật và đạt đến Phật tánh. Bằng cách đảm nhận thái độ đúng đắn và theo đuổi con đường chân thật, chúng ta có thể thành tựu kết quả chân thật ; giống như đức Phật, chúng ta sẽ không tự lừa dối bản thân chúng ta hay những người khác nữa. Bởi vì đức Phật là chân thật, ngài nói lên chân lý như thật. Với những người có lỗi lầm, ngài chỉ ra cái sai lầm cho họ. Với những người muốn dâng hiến đời mình cho Pháp, ngài nói, “Hãy đi khỏi nhà đến chỗ không nhà, mang lấy ba y, và trầm mình trong nghiên cứu, suy nghĩ và thiền định.” Với người tại gia ngài giải thích làm sao bỏ mười hành động tiêu cực(26) và trau dồi mười hành động tích cực. Theo những cách này, ngài làm cho những người có khả năng khác nhau sống cuộc đời họ trong đường lối đúng đắn và thực hành Pháp một cách đúng đắn.

Những người theo Phật – dầu là những bậc thánh hiểu rộng, những thiền giả thành tựu, hay chỉ là những người bình thường như chúng ta – phải theo con đường một cách thích đáng. Ngay trong đời thường, người ta kính trọng những ai tâm thức và cách cư xử thẳng thắn và chân thật ; còn một người không thành thật thì chẳng ai tin.

Chúng ta cầu nguyện rằng vị thầy của chúng ta sẽ chỉ rõ cho chúng ta những lỗi lầm và khuyết điểm của chúng ta. Khi ngài làm thế chúng ta phải chấp nhận sự phê phán của ngài một cách biết ơn và dùng nó để xa lìa chúng. Ở đây những lời dạy của Patrul Rinpoche truyền xuống từ một dòng trực tiếp từ những lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni – đó chính là những lời của bản thân đức Phật.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
5. Thương thay cho con người trong thời đại cặn bã này ! Cốt lõi lành mạnh của tâm chân thật đã khô héo, và người ta sống một cách giả dối,Tư tưởng họ lệch lạc, lời nói họ khúc khuỷu Họ làm lầm lạc những người khác một cách xảo quyệt – ai có thể tin cậy họ ?

Trong thời đại hoàng kim, thời của sự hoàn thiện, không cần có ánh sáng mặt trời hay mặt trăng, vì chúng sanh tỏa ánh sáng từ thân thể họ. Họ có thể di chuyển qua không gian một cách kỳ diệu, và họ sống không cần thực phẩm cứng đặc. Mọi tạo vật tự nhiên sống trong mười điều thiện. Nhưng thời gian trôi đi, họ bắt đầu làm hại lẫn nhau, bị cai trị bởi những dục vọng của họ, trộm cướp và nói dối. Họ mất đi sự tỏa sáng tự nhiên và phải dựa vào mặt trời mặt trăng để có ánh sáng ; họ mất khả năng bay ; họ bắt đầu cần thực phẩm cứng đặc, và cuối cùng mùa màng tự nhiên và con bò sung túc(27) biến mất, họ phải quần quật để sản xuất thực phẩm. Bây giờ trong thời này của chúng ta, tất cả còn lại từ những phẩm tính của thời đại hoàng kim chỉ là nhưng cặn bã, như những thức ăn thừa không hấp dẫn của một bữa tiệc thịnh soạn. Bất kỳ ai có cặp mắt trí huệ nhìn thấy hoàn cảnh đáng thương của con người trong thời đại suy đồi này chỉ đành cảm thấy rất bi mẫn mà thôi.

Trong thời đại xung đột này, con người có những ý định xấu và đầy dối trá. Họ đặt mình lên trước tiên và chẳng ngó ngàng gì đến những nhu cầu của những người khác. Ai cũng tâng bốc những người được xem là bạn và chống đối những người được xem là thù. Vì những thái độ này dần dà làm méo mó những hành động, lời nói, tư tưởng của họ, con người trở nên càng ngày càng lệch lạc và khúc khuỷu, giống như cây già xoắn cong gồ ghề, cho đến cuối cùng tâm hồn họ hư hỏng đến độ ý niệm về đúng sai, thiện ác hoàn toàn biến mất.

Chúng ta đang ở trong một thời đại khi mà sân hận, khao khát, tham lam, ngu si, kiêu mạn và đố kỵ là phép tắc cho cuộc đời. Đó là thời đại khi mặt trời Pháp đã chìm xa sau những dãy núi phía tây, khi hầu hết những bậc thầy vĩ đại đã bỏ qua những cõi khác, khi những hành giả lạc đường trong thiền định của họ, và khi người tại gia cũng như xuất gia không sống tương ưng với Pháp. Người ta có thể thu hoạch vài điều lợi phù du từ những giá trị sai đường của thời đại này, nhưng cuối cùng họ không lừa dối được ai ngoài chính họ.

Những thức tình độc hại đầy ắp tâm trí con người trong thời đại đen tối này là nguyên nhân chánh của việc họ vẫn lang thang trong vòng bất tận của sanh tử. Để đối xử với những thức tình này chúng ta cần giữ gìn một thận trọng thường trực, theo gương những đạo sư Kadam, các ngài thường nói :

Tôi sẽ cầm ngọn giáo của chánh niệm ở nơi cổng của tâm thức,
Và khi những thức tình hăm dọa,
Tôi cũng sẽ hăm dọa lại chúng ;
Chỉ khi nào chúng buông thả sự siết chặt của chúng, bấy giờ tôi mới buông thả vũ khí của tôi.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
6. Than ôi ! Thất vọng biết bao khi nhìn những chúng sanh của thời đại suy đồi này !Than ôi ! Có ai có thể tin vào điều người ta nói ? Đấy cũng như sống trong một xứ sở quỷ ma dữ tợn ăn thịt người –Hãy nghĩ về điều đó, và tự làm cho mình một đặc ân lớn lao.

Nếu các bạn thấy mình ở trong một xứ sở quỷ ăn thịt người, các bạn khó mà cảm thấy thư thả, biết rằng dù chúng làm ra vẻ thân thiện và lễ độ, nhưng chúng sẽ tấn công và ăn thịt các bạn bất cứ lúc nào. Cũng thế, dù người thường có vẻ dễ mến, các bạn chắc chắn kết thúc trong rối rắm khổ đau nếu các bạn nghe lời khuyên họ nói với bạn. Và nếu bạn cố gắng cho họ lời khuyên, điều ấy cũng chỉ dẫn tới rối rắm và khổ đau. Khôn ngoan hơn nhiều là tập trung vào những khuyết điểm của chính các bạn. Dầu chúng có vẻ nhiều, chúng cũng không thể thường hằng, và luôn luôn bạn có thể chuyển hóa chúng. Hãy thay chỗ tư tưởng xấu bằng niềm tin và tình thương, chuyện tầm phào thường ngày bằng những lời cầu nguyện, những hoạt động vô bổ bằng lễ lạy và đi nhiễu, và các bạn sẽ tự làm cho mình một đặc ân. Nhận lấy những lời nguyện tu sĩ, tôn kính vị thầy của các bạn, làm nhiều cố gắng nghiêm túc trong nghiên cứu, suy nghĩ và thiền định, tác động đến mọi khuyết điểm của các bạn, là tự phục vụ mình một cách vô giá. Cũng như dùng một giọt vàng có thể chuyển hóa toàn bộ bức tranh, sự áp dụng những giáo lý cũng sẽ chuyển hóa hoàn toàn tâm thức các bạn.

Làm cho các bạn một đặc ân theo nghĩa này không có nghĩa là ích kỷ. Hơn là kéo dài sự khổ đau của chính các bạn và những người khác do để cho mình đi theo những đường lối của sanh tử đặt nền trên những thương ghét hư vọng, thay vào đó hãy quan sát cẩn thận cái gì là đường lối tốt nhất để sử dụng cuộc đời mình. Mục tiêu chân thật của Bồ tát là giải thoát tất cả chúng sanh khỏi sanh tử, nhưng để có thể làm điều ấy nó phải tự giải thoát chính nó ; và để giải thoát chính nó khỏi sanh tử, trước tiên nó phải hiểu rõ ràng cái gì là sai lầm của sanh tử. Như có nói :

Bất cứ cái gì sanh ra sẽ phải chết đi,
Bất cứ cái gì gom tụ sẽ phải tan tác,
Bất cứ cái gì hội họp sẽ phải chia lìa,
Bất cứ cái gì bốc lên sẽ phải rớt xuống.


Giống như một hố than cháy đỏ, một ổ rắn độc, hay một thành phố của quỷ ma, đời sống thế gian bình thường không tránh khỏi đem lại những khổ đau to tát. Hãy tưởng tượng 360 lỗ khoét vào thân thể bạn, trong mỗi lỗ có một tim bấc đốt cháy được đặt vào đó ; sự đau đớn kinh khủng bạn cảm thấy là không gì cả so với sự khổ đau không thể quan niệm được gây ra chỉ bởi một tia lửa của cõi địa ngục. Bất cứ khổ đau nào chúng ta đang chịu đựng, chúng ta nên dùng nó để nhắc chúng ta nhớ đến bi mẫn và tình thương, để quét sạch những nghiệp xấu và những ngăn chướng và để thúc đẩy chúng ta trên con đường giải thoát. Chúng ta phải hiểu bản chất của sanh tử và thấy rõ rằng cái đối trị độc nhất của nó là sự thực hành Pháp.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
7. Trước đây không lâu, thức của con đã lang thang một mình.
Cuốn trôi theo nghiệp, nó mang lấy sự tái sanh bây giờ.
Rồi như một sợi tóc bị rút ra khỏi miếng bơ,
Sớm bỏ lại mọi sự đàng sau, con sẽ lại ra đi một mình.


Hãy cẩn thận – một kẻ thù mạnh mẽ đang đến gần. Không phải là một kẻ thù bình thường, mà là một kẻ thù vô địch : cái chết. Không có lời năn nỉ nào dầu hùng biện bao nhiêu có thể thuyết phục cái chết hoãn lại vài năm – hay chỉ một giây. Ngay cả một chiến sĩ mạnh mẽ nhất cầm đầu mọi đạo quân trên trái đất này cũng không thể làm cái chết rung động một sợi tóc. Cái chết không thể hối lộ được bởi giàu có, dù lớn lao bao nhiêu, cũng không hề xúc động bởi một vẻ đẹp dù quyến rũ nhất.

Cách hay nhất, các bạn có thể nghĩ thế, là dùng khoảng mười năm để cố gắng có một chỗ nào đó trong thế giới, rồi sau đó bắt đầu mười năm khác để thực hành Pháp. Nhưng có ai có thể nói chắc mình sẽ sống thêm hai mươi năm nữa ? Ai có thể nói rằng chắc chắn tôi sẽ thấy mặt trời mọc ngày mai ? Ai có thể bảo đảm rằng nó sẽ hít vào được một hơi thở kế tiếp ? Khi các bạn thắp lên ngọn lửa nơi chỗ ẩn cư trong núi, hãy tự nghĩ, “Không biết tôi có sẽ thắp một ngọn lửa như thế này vào ngày mai chăng ?” Một số người chết trong khi ngủ, một số khi đang đi, một số khi đang ăn, và một số trong chiến tranh ; một số người chết trẻ và một số người chết già. Bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống cũng có thể biến thành nguyên nhân của cái chết. Trong thời gian trăm năm nữa, có bao nhiêu người hiện đang sống trên trái đất này sẽ còn sống ?

Chúng ta sinh ra một mình và sẽ chết một mình. Nhưng ngay cả một mình, chúng ta cũng còn cái bóng của chúng ta ; và một mình sau khi chết, thức của chúng ta sẽ còn với nó cái bóng của những hành động đã làm của chúng ta, tốt và xấu. Khi chúng ta sắp vào trung ấm, trạng thái trung gian giữa cái chết và sự sanh ra, đã quá trễ để bắt đầu sự thực hành Pháp của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đã tự sửa soạn, nếu chúng ta cảm thấy tự tin vào sự thực hành của chúng ta và biết làm sao để đi đến một cõi Phật, bấy giờ sẽ không còn khổ đau trong cái chết.

Hôm nay các bạn đang còn sống và thoải mái ở trong một nơi mà các bạn có tự do để tu hành Pháp. Không ai nói với các bạn rằng tôn giáo của các bạn bị cấm, hay các bạn không được phép trì tụng manÏi, thần chú sáu chữ của Quán Thế Âm. Thế nên bây giờ là lúc để chuẩn bị cho cái chết. Nói chung, chúng ta luôn luôn rất bận rộn về tương lai. Chúng ta làm những cố gắng hăm hở để bảo đảm rằng trong tương lai chúng ta không hết tiền, hết thức ăn hay không có quần áo. Nhưng trong tất cả những biến cố tương lai, có phải cái chết là cái cốt tử nhất không ? Vì sợ những kẻ ám sát, những vua chúa và tổng thống bao quanh họ với những người bảo vệ ; nhưng đối với kẻ ám sát chí tử nhất của mọi kẻ ám sát, nó có thể xuất hiện bất cứ lúc nào mà không có ai ngăn cản được thì sao ?

Chúng ta đến trong thế giới này không với chồng, vợ, bạn bè. Có thể lúc này chúng ta có nhiều bạn và nhiều mối quen biết, và cũng có thể có cả nhiều kẻ thù, nhưng khi cái chết rơi xuống chúng ta, chúng ta sẽ bỏ tất cả họ lại đàng sau, như một sợi tóc được rút ra khỏi một khối bơ. Không có ai trong bạn bè và thân thuộc có thể giúp đỡ cho chúng ta ; chúng ta không có sự lựa chọn nào ngoài việc đối mặt hoàn toàn một mình với cái chết. Thân thể này của chúng ta, ngay cả một chút tê dại hay một tàn lửa cũng đã là đau đớn khó chịu đựng đối với nó, sắp phải kinh nghiệm, cảm giác cái chết. Thân thể này của chúng ta, mà chúng ta cưng quý thân thiết quá chừng, sẽ biến thành một cái xác mà bạn bè thân thuộc chỉ muốn tống khứ càng nhanh càng tốt.

Trong trung ấm chúng ta sẽ lang thang, trần truồng sợ hãi, không biết đi đâu, và chỉ một mình mang vác gánh nặng những hành vi (nghiệp) quá khứ. Trước mặt chúng ta, chúng ta sẽ đối diện với bóng tối không cùng ; đàng sau ngọn gió đỏ của nghiệp chúng ta cuốn chúng ta đi ; và mọi phía, chúng ta sẽ bị bao quanh bởi những sứ giả của Thần Chết, Yama, chúng hét lên, “Bắt nó, giết nó !” Nếu vào lúc đó chúng ta có thể nhớ lại thầy của chúng ta trong chỉ một khoảnh khắc, những kinh nghiệm đáng sợ của trung ấm sẽ biến mất và chúng ta sẽ tái sanh trong một cõi Phật. Có tệ nhất, chúng ta cũng lại có được một đời sống làm người. Nhưng nếu tâm thức chúng ta bị chất quá nặng bởi những hành động xấu đến nỗi chúng ta không thể áp dụng một thứ gì của giáo pháp, cuối cùng mọi hy vọng tái sanh trong các cõi cao sẽ vụt thoát. Như một tảng đá rớt từ đỉnh núi Tu Di, chúng ta sẽ rơi thẳng xuống những cõi thấp một cách vô vọng. Chúng ta, kẻ trong cuộc đời này cảm thấy rất khó khăn có thể chịu nổi một sự đau đớn nhỏ nhất, bấy giờ bị phóng vào sự hành hạ không hề dứt.

Người có quyền lực có thể thu được sự thịnh vượng của họ nhờ sức mạnh, và người tham nhũng có thể làm giàu bằng cách đặt ra những thứ thuế má không cần thiết hay làm lợi từ những phí tổn của những người khác. Nhưng vào lúc chết, khi mọi thứ thịnh vượng, quyền lực và ảnh hưởng này cùng với những thỏa mãn ngắn ngủi trong cuộc đời bị để lại đàng sau, kết quả của những hành động xấu qua đó họ đã thu được những thứ kia sẽ tồn tại và gây ra thống khổ tương lai. Lúc chết chỉ có kết quả của những hành động của chúng ta, tốt và xấu, ở lại cùng chúng ta, và chỉ có Pháp có thể bảo vệ chúng ta. Nếu bây giờ chúng ta không biết Pháp và rơi vào ảnh hưởng của những mối quan tâm hạn hẹp của cuộc sống hàng ngày, chắc chắn chúng ta bị cuốn đi bởi những phiền não độc hại và tích tập những món nợ của nghiệp. Không có Pháp chúng ta sẽ hoàn toàn vô vọng. Thay vì tập trung vào những bận tâm thế gian, sao chúng ta không làm mọi thứ chúng ta có thể làm để thực hành nó ngay bây giờ ?

Đây là công việc quan trọng nhất trong cuộc đời các bạn, và các bạn không nên không dứt khoát về nó. Nếu các bạn nghĩ các bạn sẽ thực hành sau này khi có nhiều thời gian hơn, khi các bạn đã già hơn, hay khi các bạn đã tìm được một chỗ thích hợp hơn, các bạn có thể chẳng bao giờ bắt đầu được nữa cả, như Padampa Sangye nói :

Nếu các bạn chờ đến khi không còn bận rộn, các bạn sẽ không bao giờ tìm ra thời gian cho Pháp ;
Khoảnh khắc nào các bạn nghĩ đến nó, hãy nhanh chóng làm nó, hỡi dân chúng Tingri !

Thế nên, để làm điều gì thực sự hữu ích trong bất cứ thời gian nào trước khi chết, chúng ta phải bắt đầu với Pháp, như câu kệ gốc tiếp theo giải thích.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
8. Dĩ nhiên điều chúng ta muốn là sự tốt đẹp của chính chúng ta,
Thế nên chúng ta phải thành thật với chính mình :
Nếu chúng ta không thành tựu tinh túy của Pháp cho chính chúng ta,
Thì chẳng phải chúng ta đang hủy hoại chính cuộc đời mình sao ?


Không có ai có ý định xấu với mình. Người ta không bao giờ nghĩ đến chính mình tốt đẹp biết bao nhiêu nếu mắc bệnh, cũng không mong mỏi bị tàn tật hay nghèo khó hay mong cho bị trộm cướp ; điều họ nghĩ là họ muốn được hạnh phúc biết bao nhiêu, và cả một sự thích thú nếu giàu có và tiện nghi. Nhưng những ý tưởng này đến từ đâu ? Chúng đến từ sự tin tưởng vào một cái “tôi”. Chính vì sự tin tưởng bắt rễ sâu xa này mà chúng ta bận bịu trước hết với hạnh phúc của chính chúng ta. Trong khuôn khổ này của tâm thức, chúng ta sẽ không bao giờ thỏa mãn. Ngay dù chúng ta có lên ngôi hoàng đế của toàn thể vũ trụ, chúng ta cũng còn tham muốn nhiều quyền lực, sung túc và lạc thú hơn nữa.

Tiến trình tương tự cũng vận hành trong những cảm giác của chúng ta về những người thân thiết với chúng ta : chồng, vợ, con cái và bạn bè. Vì chúng ta yêu họ, chúng ta đặc ân họ trên tất cả những người khác, và có ai khen ngợi hay giúp đỡ họ, chúng ta cảm thấy rất vui thích. Nhưng đây không phải là tình thương chân thật ; nó đặt nền trên việc nghĩ họ là của chúng ta.

Dù cho chúng ta rất tự thương mình, chúng ta không biết chút nào phải tìm hạnh phúc thật sự ở đâu. Hầu như chúng ta tự chăm sóc mình như một kẻ điên rồ. Chúng ta tìm kiếm hạnh phúc trong lạc thú, danh vọng và giàu có, quên đi sự kiện cái chết sẽ sớm lấy đi tất cả mọi thứ đó. Khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa của cái chết, chúng ta sẽ không mang theo với mình một món nào trong những sở hữu mà chúng ta đã cật lực làm việc để có được. Cùng lắm, mọi cố gắng hăm hở của chúng ta tạo ra vài khoảnh khắc hài lòng ngắn ngủi – một kết quả nhỏ xíu từ một khối khổng lồ lao lực.

Cách chắc chắn duy nhất để có được hạnh phúc thực sự và bền vững chỉ là cầu nguyện từ đáy lòng chúng ta đến vị thầy chúng ta và thực hành Pháp một cách thích đáng. Qua luật tự nhiên của nhân quả và qua những ban phước của Tam Bảo, trong mọi đời tương lai chúng ta sẽ được sanh nơi nào Pháp nở rộ, chúng ta luôn luôn gặp những vị thầy tâm linh và chúng ta sẽ tiếp tục tiến bộ về hướng giác ngộ – một kết quả khổng lồ từ một khối nhỏ xíu cố gắng.

Nếu ngược lại, chúng ta nghĩ rằng thực hành và những hành động tốt là vô nghĩa, không có trở ngại gì khi làm bậy, nếu chúng ta nghĩ rằng cái chính là hưởng thụ cuộc đời này càng nhiều càng tốt, thì chắc chắn chúng ta sẽ tái sanh vào những cõi thấp hay vào một nơi mà ngay chữ “Pháp” cũng chẳng hề được nghe.

Quy ước bình thường của cuộc đời làm cho chúng ta tin rằng điều đáng khâm phục nhất chúng ta có thể làm là chăm nom cho những người thân của chúng ta và cố gắng đánh bại những người mà chúng ta không thích. Điều ấy sai lầm. Nếu các bạn thật sự muốn làm điều gì xứng đáng với cuộc đời bạn, các bạn hãy hiến mình vào Pháp.

Trong những giai đoạn đầu của con đường Pháp, cần yếu là đặt năng lực và quyết tâm của chúng ta vào sự làm việc trên chính chúng ta hơn là cố gắng quá sớm để giúp đỡ những người khác. Hiện giờ chúng ta còn xa với việc nhổ sạch chấp ngã ; cho đến khi đã thuần hóa được tâm thức mình, cố gắng giúp đỡ những người khác là việc lố lăng. Đó là tại sao những lời dạy nói “chứng ngộ cho chính mình, lòng bi cho người khác.” Qua tu hành cái thấy, thiền định và hành động, chúng ta có thể trừ sạch chấp ngã và những tình thức tiêu cực và như thế trở nên thật sự có khả năng giúp đỡ những người khác. Khi chúng ta thuần hóa sự hoang dã của tâm chúng ta với kỷ luật thích hợp, mọi khuyết điểm của chúng ta sẽ dần dần biến mất và mọi phẩm tính của Bồ tát sẽ nở hoa. Như Nagarjuna nói :

Người nào hành động không cẩn trọng,
Nhưng về sau trở nên cẩn thận và chú ý
Thì đẹp đẽ như mặt trăng sáng ra khỏi những đám mây.


Dầu chấp ngã có vẻ khó trị bao nhiêu, vẫn có thể giải thoát chúng ta ra khỏi nó và khai triển lòng bi.

Nhận lấy bất kỳ những lời nguyện tùy thuận giải thoát (pratimoksha) nào(28) đều cung cấp một nền tảng vững chắc cho việc thuần hóa tâm thức. Qua giới thanh tịnh của Luật học, chúng ta khai triển khả năng phân biệt giữa cái bao hàm trong con đường và cái cần từ khước. Ở điểm này khó mà thông thạo toàn bộ tổng thể những giáo lý Phật giáo, nhưng nếu chúng ta có thể tìm ra một vị thầy đích thực ; chăm sóc và phục vụ ngài theo cách đúng đắn ; nhận những lời dạy của ngài về cái thấy, thiền định và hành động ; và đưa chúng vào thực hành, chắc chắn chúng ta sẽ có thể thành tựu tinh túy của Pháp.

Nếu các bạn hoàn toàn tin tưởng vào vị thầy của các bạn, tất cả những phẩm tính tâm linh của ngài sẽ phát triển vững chắc trong các bạn, theo cách ngay những cây bình thường trong khu rừng trầm của núi Malaya, sau những năm được thấm nhuần bởi những giọt hương rơi từ lá của cây trầm, cuối cùng sẽ tỏa mùi hương kỳ diệu của gỗ trầm. Tuy nhiên, nếu thay vì tìm ra một người hướng dẫn tâm linh chân chánh, các bạn lại dựa vào những người bạn lầm lạc họ chỉ chỉ bày cho các bạn làm sao tích tập thêm những hành động xấu, các bạn sẽ khó tẩy sạch như một nắm cỏ kusha(29) rơi vào một máy dệt. Bởi thế có nói rằng :

Trước hết, đúng đắn trong việc tìm ra một vị thầy ;
Bấy giờ, đúng đắn trong khi chăm sóc ngài ;
Cuối cùng, đúng đắn trong thực hành những lời dạy của ngài.
Bất cứ ai đúng đắn trong ba cách ấy sẽ tiến bộ không lạc lối trên con đường giải thoát.


Trong thời đại suy đồi này, vì trí hạn hẹp và thiếu quyết tâm, người ta cần thực hành Pháp trong một hình thức được tinh chế. Sự thực hành phối hợp sự sùng mộ vị thầy như không khác với Quán Thế Âm kết hợp với sự trì tụng thần chú sáu chữ đáp ứng cho nhu cầu ấy. Thần chú sáu chữ (Lục tự đại minh chân ngôn), thần chú manÏi, là rất dễ trì tụng, tuy nhiên nó tập trung trong nó bản chất của mọi kinh điển Phật giáo. Nó là tinh túy của tâm đức Quán Thế Âm và những ban phước nó đem lại thì vô cùng. Nếu các bạn lấy nó làm sự thực hành chính cho mình, thì người, trời và ngay cả những ma gây tác hại sẽ tự nguyện giúp đỡ các bạn, và các bạn sẽ có một đời sống lâu dài, thoát khỏi bệnh tật và chướng ngại. Trong đời sau các bạn sẽ được sanh vào cõi Cực Lạc của núi Potala, hay tệ nhất là vào một nơi chốn có Pháp đang thịnh hành. Đấy là bởi vì thần chú Quán Thế Âm chứa đựng sự ban phước và lòng bi vô biên của chư Phật.

Chìa khóa cho thành công trong mọi nỗ lực là quyết tâm bên trong. Nếu bạn quyết tâm được giàu có, bắt đầu với chỉ một số tiền nhỏ, cuối cùng bạn có thể là một triệu phú. Nếu bạn quyết định học, rồi bạn sẽ trở thành rất uyên bác. Nếu bạn quyết định thiền định, rồi bạn sẽ tìm ra phương thức giải phóng bạn hoàn toàn để cho việc thực hành Pháp. Tùy bạn chọn mục đích đúng đắn. Qua thực hành Pháp, giống như một nhà vua vô địch thu phục những đối thủ truyền kiếp của mình, các bạn sẽ đánh bại một lần cho tất cả mai sau sự chấp ngã nó đã hành hạ các bạn quá nhiều trong vô số đời.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
9. Trong thời đại đen tối này, điều người ta nghĩ và làm là xấu xa.
Không ai trong số họ giúp đỡ con được, họ chỉ lừa dối và gạt gẫm con ;
Và với con một giúp đỡ nào cho họ cũng sẽ khó khăn ;
Tốt nhất sao không từ bỏ tất cả cuộc bon chen giành giật đó ?


Trong thời đại này, ngay cả cha mẹ cũng không thể nương tựa vào để chỉ cho chúng ta sống thế nào cho hợp với Pháp. Với hầu hết, cái mà gia đình và bạn bè chúng ta xem như đáng quý – dù với ý định tốt nhất – thì chỉ là gom góp giàu có, áp đảo kẻ thù và bảo vệ tài sản ; theo đuổi trường kỳ những giá trị này, tư tưởng họ là một dòng tương tục tham đắm và xung khắc. Họ luôn luôn nghĩ về cha mẹ mình bệnh như thế nào, con cái họ vô ơn như thế nào, ngôi nhà cần sửa sang như thế nào v.v... Nhưng nếu tâm thức chúng ta liên tục xoay quanh những tư tưởng như vậy, chúng ta đã mất sự trì giữ Pháp. Dĩ nhiên, chúng ta nên chăm lo cha mẹ và thân thuộc và giúp đỡ họ bất cứ cái gì chúng ta có thể là điều tự nhiên, nhưng quan trọng là chúng ta giữ được thân, ngữ và tâm thức chúng ta phù hợp với đức hạnh và cố gắng thực hành Pháp càng nhiều càng tốt.

Chạm mặt với cơ may của một số kinh nghiệm thích thú, dầu là một cái gì nhỏ như nếm một muỗng thức ăn, chúng ta cũng khó mà mong ước có ai khác cũng có thể hưởng được như vậy. Chúng ta muốn giữ riêng nó cho mình. Thật ra, những tham muốn ích kỷ như vậy chẳng có ý nghĩa gì cả ; chúng không những làm cho những người khác khổ đau, mà về lâu về dài cũng đem lại cho chúng ta khổ đau nữa. Chỉ nghĩ đến mình tức là từ bỏ những hoạt động siêu việt của Bồ tát. Không tốt hơn cho chúng ta sao khi chúng ta đặt niềm tin vào một vị hướng dẫn tâm linh và vất bỏ hết cái ám ảnh quy ngã về giàu có, thức ăn, quần áo và bè nhóm ?

Nếu các bạn theo gương của đa số người trong thời đại suy đồi này, rồi các bạn sẽ giống như họ – một kẻ lừa đảo hữu hạng. Các bạn sẽ hoang phí đời mình để săn bắt cái không thể nào nắm bắt. Các bạn sẽ giống như những đứa con nít quá bận rộn ham chơi đến nỗi chúng không biết đói lạnh và không nhận ra ngày đã trôi qua – cho đến khi trời tối và chúng thình lình nhớ lại mẹ chúng và bắt đầu kêu khóc. Nếu các bạn thật sự muốn giúp đỡ chúng sanh, trước tiên các bạn phải hoàn thiện chính mình. Nếu các bạn hoạch định những chương trình đầy tham vọng, lo làm ăn, thu thập đệ tử, và tự nhận mình là một vị thầy, các bạn sẽ giống như một con nhện bị mắc trong chính cái lưới của nó. Tiêu pha đời các bạn xoay quanh những tấm lưới đó, các bạn không nhận ra thời gian qua nhanh như thế nào cho đến khi các bạn thình lình hiểu rằng cái chết đã đến trước mặt. Các bạn đã dùng tất cả năng lực của mình và đã vượt qua mọi loại gian nan khó nhọc, nhưng những khó nhọc đó, khác với những thử thách trong sự thực hành tâm linh, sẽ chẳng giúp chút gì cho các bạn để cải thiện chính mình.

Những vị thầy thiêng liêng Kadampa thường thực hành trong một cách rất thấp kém, hoàn toàn không kể gì đến tiện nghi và giải khuây. Và đạo sư của chúng ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, bỏ những lạc thú của cung điện ngài lại đàng sau và thực hành khổ hạnh trong sáu năm. Bởi vì chúng ta là những kẻ theo Ngài, chúng ta há cũng chẳng nên thanh toán hết thảy những quan tâm thế gian, quên đi những phóng dật không cùng về bạn bè và thân thuộc, và hoàn toàn nhất trí theo những giáo huấn của một đạo sư đích thực ?

Có gì tốt đẹp khi đi vào những vấn đề của sanh tử ? Mọi thứ trong sanh tử đều chịu những biến động thường hằng. Những triệu phú trở thành những người ăn xin, và những người ăn xin trở thành những triệu phú. Có gì xảy ra đi nữa, thì người ta không bao giờ bằng lòng – nếu làm được một triệu, họ muốn làm ra hai triệu, và nếu làm ra hai triệu họ muốn làm ra ba. Có bao giờ các bạn được thỏa mãn đâu ? Chỉ có một thứ mà các bạn không nên bao giờ cảm thấy đủ – đó là sự thực hành Pháp của các bạn. Như một con trâu yak đói gặm cỏ, người giống như nó chỉ luôn luôn nhìn đàng trước mặt để thấy nhiều cỏ hơn nữa. Nếu các bạn thực hành theo cách này, các bạn sẽ không thất vọng.

Nếu các bạn thực sự cố gắng hoàn thành mọi thứ bạn muốn trong cuộc đời này, sẽ không bao giờ có đủ thời giờ. Có nói rằng, “Mọi chương trình kế hoạch này cũng giống như những trò chơi của trẻ con. Nếu chúng ta bật lên cho chúng vận hành, chúng sẽ không bao giờ chấm dứt, nhưng nếu chúng ta dẹp phứt chúng đi, chúng sẽ chấm dứt tất cả tức thời !”
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
10. Dầu con phục vụ cho những người cao hơn mình, họ sẽ không bao giờ bằng lòng ;Dầu con chăm lo cho những người thấp hơn mình, họ sẽ không bao giờ thỏa mãn ;Dầu con săn sóc cho những người khác, họ sẽ chẳng hề quan tâm đến con.Hãy nghĩ đến điều đó, và lập một quyết định vững chắc.

Bất kể các bạn làm điều gì, các bạn sẽ không bao giờ có thể thỏa mãn cho một ai. Người có quyền lực của thế giới này không khác gì với người bình thường – dầu các bạn có cố hết sức làm vừa lòng và phục vụ họ, họ sẽ không cảm thấy thực sự vừa lòng. Hơn nữa, họ dễ dàng trở nên giận dữ với một vài lỗi nhỏ và trừng phạt, đánh đập hay ném các bạn vào tù. Còn những người nhờ vào các bạn, dầu các bạn có chăm lo cho họ nhiều bao nhiêu đi nữa, các bạn không thể nào cho họ thỏa mãn trọn vẹn. Dầu các bạn bè có ý tốt bao nhiêu, trong hầu hết trường hợp nếu các bạn nghe theo lời khuyên của họ, các bạn sẽ chỉ càng rối rắm hơn trong mạng lưới của sanh tử. Không có sự chấm dứt trong việc đánh bại đối thủ và chăm lo cho người thân. Tất cả chỉ là một sự phung phí thời giờ. Để giúp đỡ những người khác, các bạn phải trước tiên hoàn thiện chính mình, và để hoàn thiện chính mình các bạn trước hết phải cắt đứt ba sự ràng buộc này : vâng lời người có thế lực, bị vướng mắc vào những cố gắng phù phiếm và vô hiệu để giúp đỡ những người khác, và nghe những gì người ta nói.

Cố gắng chiều theo những người có thế lực chỉ dẫn đến những biến động xúc cảm. Cố gắng giúp đỡ những người khác bằng những vật của cuộc đời này chỉ tiếp thêm nhiên liệu cho ngọn lửa sanh tử. May mắn lắm, bất cứ sự thỏa mãn nào mà các bạn có thể đem lại theo những cách này chỉ là nhất thời ; nó không giúp đỡ cho một ai vào lúc chết. Thật vậy, những cái ấy là những quan niệm sai lầm về lòng bi. Lòng bi chân thật là đặt để chúng sanh vào trong phúc lạc bất tử của Phật tánh toàn hảo.

Mắc bẫy trong sanh tử, các bạn nên cảm thấy như một tù nhân trong ngục nó không nghĩ gì khác ngoài chuyện làm sao thoát ra. Nhận ra sự phù phiếm của những bận rộn thường tục, những đạo sư Kadampa thường nói :

Tâm bạn hãy đặt nền trên Pháp,
Pháp của bạn hãy đặt nền trên một cuộc đời hèn mọn,
Cuộc đời hèn mọn của bạn hãy đặt nền trên tư tưởng về cái chết,
Cái chết của bạn hãy đặt nền trên một hang động đơn độc.

Ở trong những chốn ẩn cư hoang vắng, thoát khỏi những phóng dật, là cách tốt nhất để bảo đảm rằng các bạn sẽ thực sự thực hành Pháp.

Chúng ta không nên nhớ mọi điều này trong tâm trí và làm việc cho sự tự hoàn thiện sao ? Đó là bước đầu tiên hướng đến sự giúp đỡ thực sự cho những người khác.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
11. Biết rằng ngày nay bất lợi cho những lời dạy – nó chỉ đưa đến tranh cãi thêm Hiểu rằng ngày nay không thuận lợi cho những người khác – nó chỉ dẫn đến thêm nhiều phê phán ;Ở một địa vị có trách nhiệm ngày nay không giúp cho sự cai trị tốt xứ sở – nó chỉ làm lan rộng sự nổi loạn.
Hãy nghĩ về thời đại này với buồn rầu và ghê sợ.


Dầu những vị thầy vĩ đại và chứng ngộ cao có xuất hiện trong dân chúng vô minh của thời đại suy đồi này, các ngài cũng như những giọt thủy ngân rơi vào trong cát bụi. Các ngài đã thông thạo hoàn toàn năm ngành của hiểu biết(30) và dạy Pháp một cách rộng lượng, nhưng hầu hết con người có những tà kiến và nghiêng về phê phán hay tỏ ra không quan tâm chút nào đến Pháp. Ngay số ít người chịu khó lắng nghe cũng trở nên mệt mỏi sau một hai ngày, không biết rằng hiếm hoi và quý giá bao nhiêu khi nhận được những lời dạy ấy.

Nếu những người nhận được những lời dạy không thực hành chúng, thì họ chỉ sở đắc một kiến thức bề ngoài, nó chỉ làm tăng thêm sự kiêu mạn của họ. Họ có thể khai triển một mức độ nào đó về giới luật, nhưng điều ấy chỉ làm tăng thêm sự si mê vào những đức hạnh riêng của họ. Họ có thể đạt đến một địa vị cao, nhưng điều đó chỉ làm lan truyền lòng tham lam, sự lợi dụng và nổi loạn. Những đệ tử như vậy không hơn gì người thường ; họ không phụng sự Pháp cũng chẳng giúp đỡ những người khác.

Trong quá khứ, những vị thầy xuất sắc đã khai thị những lời dạy không chút lỗi lầm, hướng dẫn những tranh luận để sửa chữa những trệch hướng trong ý nghĩa, và họ tạo ra những bình giải để giải thích nghĩa ấy. Ba hoạt động này, như những bước khác nhau trong việc tinh luyện vàng, sẽ bảo tồn và quảng bá giáo lý, đưa người ta vào sự thực hành tâm linh đích thật, kết thúc trong đỉnh cao của giác ngộ. Nhưng ngày nay những hoạt động này chỉ đưa dẫn những truyền thống khác nhau đến chót đỉnh của kiêu mạn và đố kỵ, nơi đó chúng cháy bùng với cạnh tranh, phê phán và ác ý, làm nhiễm độc bầu không khí thanh bình của sự thực hành tâm linh chân chính bởi những vi phạm samaya.(31)

Ngay cả trường hợp những con người đã thành tựu viên mãn như Guru Rinpoche và Vimalamitra,(32) các ngài có năng lực hiển bày những phép lạ, đã đạt được năm loại hiểu biết siêu nhiên,(33) và có khả năng đưa vào con đường giải thoát người nào thấy, nghe hay nghĩ về các ngài, thì cũng vẫn có những người chủ tâm tìm kiếm lầm lỗi, nghi ngờ sự thực về những thành tựu của các ngài và nghĩ, “Đó đều là dối trá và những trò lừa bịp của phù thủy.”

Trong thời đại suy đồi này, những đệ tử có những đường lối tà vạy đến độ chúng chỉ tạo ra những vi phạm samaya. Vì điều này, những con người vĩ đại không thể làm lợi lạc cho những người khác một cách trọn vẹn, thế nên Pháp không thể truyền rộng và nở hoa.

Ngay cả những người cai trị những thành phố và xứ sở một cách khôn ngoan và với thiện tâm cũng thấy rằng người ta nổi lên chống lại và đôi khi còn giết họ nữa. Như châm ngôn, “Bạn càng được xếp ở cao, thì sự khổ đau của bạn càng lớn.”

Tại sao quá đỗi khó khăn, ngay cả đối với những người chứng ngộ cao, khi giúp đỡ con người ? Câu tiếp theo của bản văn giải thích.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83


12. Dù con giải thích, người ta cũng hiểu sai vấn đề hay không tin con ;
Dù động lực của con là thật sự vị tha, người ta không nghĩ thế.
Ngày nay khi người cong quẹo nhìn người ngay thẳng như là cong quẹo,
Con không thể giúp một ai – hãy vất bỏ mọi hy vọng về điều đó.


Khi các bạn giải thích Pháp trong những ngày hôm nay, người ta nói, “Thật là một kẻ ngu ! Hắn ta biết một chút về Pháp nhưng chẳng biết gì về đời thường.” Nếu các bạn giải thích làm sao để thành tựu chân hạnh phúc và làm sao thoát khỏi sự tái sanh trong các cõi thấp, người ta hoàn toàn không tin các bạn. Do những quan kiến đầy hằn học của họ, họ hiểu sai mọi thứ bạn nói. Khi giữa ban ngày một nhóm người bị bịt mắt đồng ý là trời tối, vấn đề rõ ràng là do tri giác sai lầm của họ. Những thái độ thịnh hành ngày nay cắt lìa con người với sự lành mạnh nội tại của họ.

Nếu với những động lực trong sạch nhất, các bạn cho người ta những khuyên bảo lành mạnh, họ sẽ nghĩ các bạn lợi dụng họ theo một cách khôn ngoan nào đó. Nếu các bạn kêu gọi người ta thực hành Pháp, họ nghĩ, “Đây sẽ là sự chấm dứt công việc và đời sống gia đình của tôi, và cuối cùng tôi sẽ chẳng còn lại cái gì cả !” Ngay cả họ không thể nhận biết các bạn đang cố gắng giúp họ. Nếu các bạn dạy cho một ít điều, người ta chỉ nói, “Ồ, hắn ta quả là hùng biện !”, nhưng họ không xem xét thực nghĩa của những lời bạn nói. Không thể thấy cái gì là tốt nhất cho mình về lâu về dài, họ nghĩ các bạn đang cố gắng làm hại họ. Họ bị xoắn vặn như những cây già cong queo, nên bất cứ cái gì tâm thức họ thấy biết cũng trở thành méo mó.

Trong thời hoàng kim của quá khứ, khi cha mẹ chỉ bảo, những đứa con của họ nghe theo. Ngày nay không thế, do đó tốt hơn là giữ im lặng. Ai cũng không cố gắng đem những lời dạy của guru của mình vào thực hành. Những nỗ lực của phần đông là kiếm tiền, làm ăn tốt đẹp, và cố gắng đạt đến một địa vị thành công. Bị điều động bởi những mục tiêu này, người ta thành cong vạy do tham luyến và tham vọng ác tâm. Để tiến lên hàng đầu họ lừa gạt và chỉ thấy những mục tiêu ích kỷ của họ. Làm sao những người cong vạy như vậy giúp đỡ cho nhau nổi ?

Nếu các bạn khảo sát cẩn thận tình trạng buồn rầu này, sẽ trở nên rõ ràng hơn cho các bạn rằng tất cả hoạt động điên rồ của sanh tử quả thực là trống rỗng và vô nghĩa biết bao. Các bạn sẽ cảm thấy chắc chắn nhiều hơn rằng chỉ có sự theo đuổi xứng đáng là dấn thân vào thực hành tâm linh. Chẳng phải tốt nhất là theo gương Jetsun Milarepa, ngài đã cắt đứt mọi phóng dật thế gian và một mực hiến mình cho thực hành Pháp trong những nơi ẩn cư hoang vắng ? Nếu các bạn làm như vậy, điều gì các bạn thành tựu thì không ai có thể lấy mất của các bạn.

Chúng ta thực hành Pháp như thế nào ? Những vị thầy vĩ đại Kadampa xem giáo lý quý báu nhất là sự không tách lìa của tánh Không và đại bi. Hơn nữa và hơn nữa, các ngài trau dồi từ, bi, hỷ và xả – bốn tâm vô lượng từ đó khả năng giúp đỡ những người khác sanh ra và lớn mạnh một cách không cần cố gắng. Nổi danh vì sự thực hành trong sự gắn bó với những giáo lý một cách không khoan nhượng, những đạo sư này trước hết tu hành bằng sự nghiên cứu cẩn thận Pháp và rồi bằng kinh nghiệm trực tiếp trong thiền định. Đó là đường lối đúng để tiến bộ trên con đường dẫn đến đại lạc của Phật tánh tối hậu.

Pháp sư Atisha vinh quang, người sáng lập dòng Kadampa và nổi danh như là “Đức Phật Thứ Hai”, đã đem những giáo lý về Bồ đề tâm và tu hành tâm thức đến Xứ Tuyết. Trong sự thực hành của riêng mình, ngài thường trực trau dồi từ và bi một cách sâu sắc. Nếu giống như ngài, được thúc đẩy bởi lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sanh, chúng ta thiết lập vững chắc trong lòng mình ý định đạt đến giác ngộ vì lợi lạc cho những người khác, bấy giờ không có cái gì chúng ta không thể hoàn thành. Nhưng nếu không có ý định này, lòng bi mẫn của chúng ta sẽ chỉ là một bắt chước nhợt nhạt giả tạo của đồ vật thật. Có nói rằng, “Mong muốn hạnh phúc cho những người khác, ngay cả đối với những người muốn làm hại chúng ta, là nguồn của hạnh phúc hoàn hảo.” Cuối cùng khi chúng ta đến mức độ này, lòng bi cho tất cả chúng sanh tự khởi lên một cách hoàn toàn chân thật.

Khi đức Phật ở cung trời Đâu Suất (Tushita), sắp trở thành vị Phật thứ tư của kiếp này, ngài loan báo rằng đã đến lúc cho ngài hiện thân trong cõi Diêm Phù Đề và hiển bày công hạnh của một vị Phật. Những Bồ tát và chư thiên cố gắng thuyết phục ngài từ bỏ ý định ; bây giờ là thời đen tối, họ nói, với những quan kiến tà đạo thống trị khắp nơi. Nhưng đức Phật trả lời rằng ngài chắc chắn có thể thành tựu nguyện vọng làm lợi lạc cho chúng sanh của ngài. Làm sao ngài có thể tự tin như thế ? Bởi vì lòng bi của ngài thì không bờ bến, và ngài biết rằng với năng lực của lòng bi thì không có cái gì không thể hoàn thành. Bấy giờ, như để xác nhận cho những lời nói của mình, ngài thổi một tiếng tù và, âm thanh đẹp đẽ và rực rỡ hơn mọi âm nhạc của tất cả chư thiên cộng lại.

Để khai triển tầm lớn rộng của lòng bi, chúng ta phải từ bỏ những cách thức bình thường thế tục và làm việc thuần hóa tâm thức ngoan cố, hoang dã của chúng ta. Nếu chúng ta cố gắng trộn lẫn thực hành Pháp với những theo đuổi bình thường, sự chứng ngộ của chúng ta sẽ không hoàn hảo, như một thỏi vàng còn cáu bẩn và nhiễm ô. Hơn là lao mình vào những công việc chúng thật ra chỉ là những tư tưởng yếu đuối của hoạt động Bồ tát chân thật, trước tiên chúng ta cần làm việc trên chính tâm thức mình. Bấy giờ, khi chúng ta đã chứng ngộ sự không thể phân chia của tánh Không và đại bi, chúng ta sẽ có thể theo một cách không cố gắng bước chân của chư Phật và Bồ tát.

Nếu các bạn khảo sát chặt chẽ những giá trị bình thường nằm dưới sự thúc dục theo đuổi những mục tiêu thế gian và cố gắng khám phá chúng đến từ nơi đâu, các bạn thấy rằng nguồn gốc của chúng là một thiếu sót trong truy tìm bản chất của sự vật một cách đúng đắn. Bình thường chúng ta làm việc dưới giả định sai lầm rằng mọi sự có một thứ chân thật nào đó, có thực tại bản chất. Nhưng khi các bạn nhìn cẩn thận hơn, các bạn thấy rằng thế giới hiện tượng như là một cầu vồng – sống động và rực rỡ, nhưng không có hiện hữu cứng đặc nào.

Những cách thức chúng ta tự huyễn hoặc mình về bản chất của thế giới hiện tượng có thể phân chia tùy theo những loại khác nhau của hiện tượng : vật chất, ngôn ngữ và tâm thức. Về sự huyễn hoặc của những hiện tượng vật chất, bản văn có nói như vầy :
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
Về sự huyễn hoặc của những hiện tượng vật chất, bản văn có nói như vầy :

13. “Tất cả hiện tượng là giống như những ảo tưởng huyễn thuật”, chư Phật nói thế ;Nhưng ngày nay những ảo tưởng còn ảo huyễn hơn bao giờ,
Những lừa dối được biến hóa ra bởi những nhà ảo thuật gạt gẫm –
Hãy cảnh giác về những vọng tưởng của những đường lối của thời đại suy vi này.


Tất cả những hiện tượng vô cùng của sanh tử và niết bàn đều giống như ảo ảnh huyễn thuật. Không chỗ nào trong toàn bộ vũ trụ có được thường còn, có được thực thể hiện hữu nội tại có thể được tìm thấy. Không có một vị vua nào đã gìn giữ vương quốc mình mãi mãi ; không có người nào đã sinh ra mà không chết ; không có một hội họp nào mà không phân tán. Mọi sự giống như một vở kịch trong đó những diễn viên trình diễn chiến tranh, đam mê và cái chết. Mọi sự giống như một giấc mơ, đôi khi tốt đẹp và đôi khi là một ác mộng.

Nhưng chính trong thời đại suy vi này mà chúng ta đi đến đỉnh của ảo huyễn. Người ta đã quên lâu rồi sự trong sạch của thời hoàng kim. Họ chẳng ngó ngàng gì đến những đời tương lai của họ và chỉ lo toan với sự thỏa mãn tức thời của họ ; không vững chắc và thất thường, họ chôn vùi Pháp dưới đống khổng lồ của những hành động tai hại và tiêu cực. Thế giới và chúng sanh đổi hướng mỗi lúc như những cọng rơm dật dờ qua lại theo gió, và điều đúng buổi sáng nay là không đúng trong buổi chiều nay. Mưa, tuyết, mưa đá, nóng và lạnh không đúng thời làm đảo lộn chu kỳ tự nhiên của các mùa. Thấy tất cả điều này, chúng ta phải hiểu rằng không có cái gì là đặc biệt vui sướng khi điều tốt đẹp đến với chúng ta, bởi vì nó chuyển thành đối cực của nó bất kỳ lúc nào ; và chúng ta phải hiểu rằng không có cái gì là quá thất vọng trong những hoàn cảnh xấu, và những gian khổ của chúng ta chỉ là chút xíu so với những gian khổ mà vô số chúng sanh chịu đựng trong những cõi thấp.

Một nhà ảo thuật không bao giờ bị huyễn hoặc bởi trò gạt gẫm của mình. Khi người ấy tạo ra sự huyễn hóa là những con ngựa, bò, xe cộ hay cái gì khác, dầu chúng có vẻ thực, người ấy biết rằng chúng không thực sự hiện hữu. Như một nhà ảo thuật không thể bị mê muội của những ảo ảnh mà người ấy biết là chính y tạo ra, một Bồ tát đã chứng ngộ tánh Không của tất cả hiện tượng và nhận ra mọi theo đuổi thế gian là huyễn ảo, ngay dù vị ấy sống như là một ông chủ gia đình, vị ấy cũng không bị ảnh hưởng bởi những phiền não hay chấp ngã. Hiểu được bản chất trống không của những hoạt động bình thường thế gian, vị ấy không bị hấp dẫn cũng không sợ hãi chúng. Vị ấy không hy vọng thành công cũng không sợ hãi thất bại ; và thật tin vào sự nghiên cứu, thiền định và thực hành của mình, nên bất cứ điều gì vị ấy làm đều đưa vị ấy càng ngày càng gần hơn với giải thoát trọn vẹn.

Tuy nhiên, ngày nay sự hiểu như vậy là hiếm hoi. Vọng tưởng chồng lên vọng tưởng và sinh sôi nảy nở như những trò hề của các con khỉ bắt chước lẫn nhau ; nó đã đi xa đến độ rất khó cho chúng ta tìm thấy một lối thoát ra khỏi tất cả những thứ đó. Chúng ta đã mất đi cái thấy về thật tánh của những sự vật, bởi thế thật khó khăn cho chúng ta không phung phí cuộc đời mình. Nhưng như chư Phật quá khứ đã nói, “Tất cả hiện tượng đều hợp tạo ; mọi cái hợp tạo là vô thường ; vô thường là khổ.” Bởi thế chúng ta cần nhận ra những giá trị thế gian thực sự là gì ; buông bỏ mọi lưu ý đến giàu có, thức ăn và quần áo ; thôi lợi dụng những người khác ; và nỗ lực hòa lẫn tâm thức chúng ta với Pháp. Nếu chúng ta có thể từ bỏ mọi hoạt động bận rộn của đời thường, sự thực hành Pháp của chúng ta sẽ tiến bộ thẳng đến đích của nó. Thực hành Pháp và những hành động tốt cũng không thực hơn gì những ảo ảnh và giấc mộng, nhưng qua những công đức như mộng ấy, chúng ta sẽ đạt đến quả như mộng của giác ngộ.

Chúng ta phải hiểu bản chất của mọi sự trong ánh sáng của hai loại chân lý, tương đối và tuyệt đối. Tóm tắt, chân lý tương đối là lãnh vực của những hiện tượng biểu lộ, chúng khởi lên qua một sự phối hợp của những nhân và duyên trong một chuỗi những biến cố liên lập, tương thuộc. Bây giờ, bởi vì mọi hiện tượng đều liên kết với nhau trong cách này, theo đó là trong lãnh vực chân lý tương đối luật nhân quả là không tránh được : những hành động tốt và xấu sẽ tựu thành một cách không tránh được hạnh phúc và đau khổ. Một khi những nhân và duyên hiện diện, không có gì có thể ngăn cản kết quả khỏi được sanh ra, như trong mùa xuân nếu có những hạt giống trong đất và nếu có mặt trời ấm áp và mưa ẩm ướt, hoa và trái sẽ xuất hiện. Đấy là tại sao chúng ta cần luôn luôn tỉnh giác về tiềm năng của ngay cả một hành động nhỏ nhất của chúng ta. Chúng ta cũng cần thấu hiểu cơ hội có thể thực hành Pháp là quý báu và hiếm hoi biết bao nhiêu. Chúng ta có may mắn này trong tay lúc bây giờ, nhưng trong mọi lúc nó có thể bị lấy khỏi chúng ta vì cái chết ; chúng ta phải không để mất thì giờ. Tư tưởng thường trực về vô thường phải kích động chúng ta thực hành. Như đức Phật nói, “Trong mọi dấu chân, cái lớn nhất là dấu chân voi ; trong mọi quan tâm, cái tối cao là nhớ đến vô thường.”

Hiểu được tính vô thường của mọi sự vật cũng là chìa khóa để thấu hiểu bản chất trống không của tất cả hiện tượng. Đây là chân lý tuyệt đối, và nó chỉ có thể thông hiểu được bởi những người đã hoàn thành chứng ngộ trọn vẹn. Rốt ráo, hai chân lý được hiểu là một trong sự thống nhất của hình tướng và tánh Không.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
Về sự huyễn hoặc của hiện tượng lời nói, bản văn nói rằng :

14. “Mọi lời nói giống như tiếng vang”, chư Phật nói thế,
Nhưng ngày nay nó còn hơn là tiếng vang lại của một tiếng vang.
Cái những tiếng vang nói và cái chúng có nghĩa gì là không như nhau,
Thế nên chớ lưu tâm gì đến những lời nói-tiếng vang.


Mọi lời nói và thái độ của cuộc đời sanh tử, dù dễ chịu hay khó chịu, tử tế hay chỉ trích, chỉ là những tiếng vang của tánh Không. Nếu các bạn hét to những lời lăng mạ hay tán dương ở nơi một vách núi rồi những lời ấy vang vọng lại cho các bạn, có lý do gì để cảm thấy thất vọng hay vui mừng ? Những âm thanh của vũ trụ – lửa, gió, nước, tiếng kêu của thú, lời nói của người – tất cả đều không có bản tánh thực sự nào. Chúng chỉ là những tiếng vang trống không không thể nắm bắt.

Những câu chuyện về những biến cố quá khứ, nói về hiện tại, và bàn luận về những dự định tương lai hầu hết là những biểu lộ vô nghĩa của bám luyến hay ghét bỏ. Các bạn có thể nghe ai đó được khen ngợi vào buổi sáng và bị chê bai vào buổi chiều. Người ta nói những điều ngọt ngào trong khi những ý nghĩ của họ thì không tốt ; và ngược lại, khi những ý định họ thì tốt đẹp, lời nói của họ có thể dữ dằn. Nếu các bạn lưu tâm đến mọi thứ ấy, các bạn sẽ bị lạc lối. Thế nên hãy ngu dốt với lời nói bình thường thế gian, và thay vào đó hãy trì tụng những cầu nguyện và thần chú, và tụng đọc kinh điển.

Hạnh phúc và khổ đau tạo ra do khen và chê thì phù du chóng vánh. Khi các bạn được tán dương, thay vì cảm thấy kiêu hãnh, hãy xem lời ca tụng như một cái gì được nghe trong một giấc mộng hay trong một câu chuyện tưởng tượng. Hãy tự nhủ rằng chẳng phải bản thân bạn được khen mà chính là những phẩm tính tốt bạn đã khai triển qua thực hành tâm linh. Thực ra, sự thật là chỉ những ai đã đạt được giải thoát mới là người đáng được ca ngợi.

Khi các bạn bị chỉ trích, hãy chấp nhận nó như một cơ hội để biết những lỗi lầm còn ẩn kín của các bạn và làm tăng thêm đức khiêm hạ. Như có nói, “Chê trách và đối xử xấu là những gốc rễ của đóa hoa thiền định.” Họ là thầy của các bạn, phá hủy bám luyến và khao khát. Nếu được đem vào con đường, những lời nói thô nặng và chê trách sẽ gây cảm hứng cho sự thực hành của bạn và làm mạnh mẽ giới luật của bạn. Có bao giờ các bạn có thể đền đáp lại lòng tốt như thế ?

Đối với một Bồ tát đã chứng nghiệm bản chất như mộng của lời nói, chỉ trích và sỉ nhục chỉ có thể nâng cấp sự thực hành thiền định của vị ấy. Bất kể vị ấy gặp hoàn cảnh tốt hay xấu, cả hai đều giúp tăng thêm công đức và trí huệ của ngài. Vị ấy không bao giờ bị cuốn trôi bởi những lo lắng và tham muốn bởi vì tâm của ngài đã an trụ không nhiễu loạn trong cái thấy hoàn hảo. Đã buông bỏ mọi giá trị thế gian, vị ấy có được sự quý trọng của những người khác mà không bao giờ tìm kiếm nó.

Với chúng ta, dù cho chúng ta toàn tâm đưa mọi sự chúng ta có vào việc hoàn thành sự nổi danh khắp cả thế giới, thì cũng luôn luôn có một số người chê bai chúng ta. Và ngay cả chúng ta thành công, bất cứ danh tiếng nào chúng ta hoàn thành, hoặc do can đảm, sắc đẹp hay quyền lực, cũng chỉ là nhất thời.

Bởi thế khi các bạn được khen ngợi, hãy nghĩ rằng ấy độc nhất chỉ vì các bạn đã làm điều mà Pháp đã chỉ dạy. Khi các bạn bị chỉ trích, hãy để nó nhắc nhở các bạn tăng trưởng lòng bi của các bạn đối với những người khác và từ bỏ những cách thức thuộc sanh tử của các bạn.
 

hoangtri

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 3 2012
Bài viết
1,216
Điểm tương tác
403
Điểm
83
15. Bất cứ ai con thấy không phải là con người đích thực, mà chỉ là một kẻ lừa đảo ; bất cứ điều gì người ta nói là không đúng, mà chỉ là lời dối trá.
Bởi vì ngày nay không có ai để con có thể tin, nên tốt hơn là con sống một mình và không vướng mắc.

Sống trong thời này giống như bị kẹt trong một hòn đảo đông đúc những quỷ ăn thịt người – chúng ta không bao giờ có thể buông lỏng sự canh phòng. Bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta trải qua cũng có thể dễ dàng biến thành một nguồn của thống khổ, và bất kỳ ai chúng ta gặp cũng có thể dẫn chúng ta đi lạc đường. Một điều chắc chắn : chỉ có một vị thầy tâm linh có thể cho chúng ta sự khuyên bảo chắc thật. Điều này phải rõ ràng trong tâm thức của chúng ta.

Bởi vì tâm thức thì quá dễ dàng ngu muội bởi tri giác sai lầm của nó về những hiện tượng vật chất, và quá dễ dàng mắc vào những trò chuyện huyễn hoặc thế gian, chẳng phải tốt hơn là bỏ đi đến một nơi đơn độc và thiền định ? Cách tốt nhất là khai triển tình thương và lòng bi mẫn với tất cả chúng sanh. Nếu các bạn tiếp tục thực hành trong đường lối này, ngày lại qua ngày, cuối cùng các bạn sẽ có thể hành động với lòng bi không hề vơi cạn của một Bồ tát.

Rất quan trọng là thiền định với toàn bộ thân tâm các bạn về Bồ đề tâm cho đến khi trở nên rõ ràng rằng những hoạt động của cuộc đời này thật sự vô nghĩa và lừa dối biết bao nhiêu. Các bạn sẽ cảm xúc và buồn rầu bởi thân phận cùng kiệt của chúng sanh trong thời đen tối này, và một cảm giác quyết tâm mạnh mẽ được giải thoát khỏi sanh tử bùng nổ. Nếu những thái độ này thực sự bắt rễ, những phẩm tính và thành tựu của Đại thừa chắc chắn sẽ lớn lên từ chúng. Nhưng nếu quyết tâm đích thực này muốn giải thoát khỏi sanh tử không được trồng vững chắc trong tâm thức các bạn, sự thực hành Pháp của các bạn sẽ không bao giờ có thể phát triển đầy đủ.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên